Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 21

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT MÔN HỌC


KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN

ĐỀ TÀI: ĐẶC TRƯNG CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG


ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Quốc Toàn


Mã lớp học phần: 225EC0320
Nhóm thực hiện: nhóm 03

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 7 năm 2023


MỤC LỤC
I. Các khái niệm............................................................................................................ 2
II. Các đặc trưng của nền kinh tế thị trường............................................................. 2
1. Gồm những đặc trưng vốn có của kinh tế thị trường nói chung........................... 2
2. Gồm những đặc trưng cơ bản riêng của Việt Nam................................................3
III. Biện pháp điều tiết và can thiệp của nhà nước đối với nền kinh tế thị trường 9
IV. Thành tựu và những thách thức đặt ra đối với nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam.......................................................................................... 11
1. Thành tựu.............................................................................................................11
1.1 Thị trường hàng hóa, dịch vụ.......................................................................11
1.2 Kinh tế nhà nước, hệ thống doanh nghiệp nhà nước................................... 12
2. Thách thức...........................................................................................................14
V. Bàn luận và mở rộng.............................................................................................. 17
1. Góc nhìn về lịch sử..............................................................................................17
1.1 Giai đoạn cải cách kinh tế (1986-1991):.....................................................17
1.2 Giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế (1991-2000):........................................ 17
1.3 Giai đoạn đẩy mạnh đổi mới và phát triển bền vững (2000-nay):...............18
2. So sánh nền KTTT định hướng XHCN và nền KTTT TBCN............................ 18

1
I. Các khái niệm

Mỗi nền kinh tế thị trường vừa có những đặc trưng tất yếu không thể thiếu của nền
kinh tế thị trường nói chung vừa có những đặc trưng phản ánh điều kiện lịch sử, chính
trị, kinh tế - xã hội của quốc gia đó.

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phải bao hàm đầy đủ các đặc
trưng chung vốn có của kinh tế thị trường nói chung, vừa có những đặc trưng riêng
của Việt Nam. Đây là kiểu mô hình kinh tế thị trường phù hợp với đặc trưng lịch sử,
trình độ phát triển, hoàn cảnh chính trị - xã hội của Việt Nam.

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nền kinh tế này vận hành đầy đủ, đồng bộ
theo các quy luật của thị trường đồng thời góp phần hướng tới từng bước xác lập một
xã hội mà ở đó dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và có sự điều tiết
của Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

II. Các đặc trưng của nền kinh tế thị trường


1. Gồm những đặc trưng vốn có của kinh tế thị trường nói chung
Về chủ thể kinh tế: Các chủ thể kinh tế được tự do sản xuất kinh doanh theo luật
pháp và được bình đẳng không phân biệt đối xử. Các chủ thể kinh tế đều có cơ hội để
tiếp cận các nguồn lực phát triển có hiệu quả.
Về thị trường: Thực hiện các giải pháp để tạo lập và phát triển các yếu tố thị trường
cơ bản như thị trường hàng hóa và dịch vụ; thị trường vốn, tiền tệ; thị trường khoa
học, công nghệ; thị trường lao động, thị trường bất động sản và lành mạnh hóa các yếu
tố thị trường đó nhằm tạo điều kiện cho nền kinh tế thị trường phát triển ổn định, bền
vững và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về cơ chế vận hành: Tôn trọng tính khách quan của các quy luật kinh tế thị trường;
tính năng động của cơ chế thị trường.
- Về vai trò của Nhà nước: Nhà nước điều tiết nền kinh tế thị trường trên cơ sở vận
dụng các quy luật kinh tế của nền kinh tế thị trường vào điều kiện Việt Nam trong bối

2
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế để định hướng phát triển nền kinh tế, tạo lập môi trường
cho nền kinh tế phát triển ổn định, bền vững và hạn chế mặt trái của cơ chế thị trường.
2. Gồm những đặc trưng cơ bản riêng của Việt Nam
Đại hội toàn quốc XII đã có những bước phát triển rõ nét, đã xác định được những đặc
trưng riêng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, là nền
kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ với các quy luật của kinh tế thị trường nhưng vẫn
đảm bảo phát triển chủ nghĩa xã hội phù hợp với từng giai đoạn của đất nước. Đó là
nền kinh tế hiện đại, phù hợp, giao thương và hội nhập quốc tế, dưới sự lãnh đạo của
Đảng và Nhà nước. Các đặc trưng riêng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt nam là:
Về mục tiêu kinh tế - xã hội - văn hoá: Đảng ta đã xác định rõ mục đích của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát
triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời
sống nhân dân. Nghĩa là thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”.
Về cơ bản, thực hiện dân giàu chính là thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo trong xã hội,
đồng thời nâng cao thu nhập cho người dân, nâng cao mức GDP bình quân đầu người
trong thời gian ngắn. Dân giàu còn thể hiện ở những lợi ích, phúc lợi xã hội mà nhân
dân được hưởng, cải thiện đời sống nhân dân.
Nước mạnh thể hiện ở mức đóng góp to lớn của nền kinh tế thị trường cho ngân sách
quốc gia. Điều chỉnh gia tăng các ngành kinh tế mũi nhọn, trọng điểm. Đồng thời
phải sử dụng tiết kiệm, khai thác hợp lí và hiệu quả các nguồn tài nguyên quốc gia,
bảo vệ môi trường sinh thái, bảo mật các tiềm lực quốc gia trong các lĩnh vực an ninh
- quốc phòng, kinh tế, khoa học - công nghệ. Nước mạnh là khi đất nước thuộc về
nhân dân, của nhân dân, do dân làm chủ, là điều kiện để nhân dân được hưởng hòa
bình, tự do, ấm no, hạnh phúc.
Về xã hội công bằng, văn minh, thể hiện ở việc xử lý các quan hệ lợi ích ngay trong
nội bộ nền kinh tế thị trường, góp phần to lớn vào giải quyết các vấn đề xã hội, khi mà
chuỗi cung ứng hàng hóa và dịch vụ có giá trị không chỉ về kinh tế mà còn có giá trị
cao về văn hóa, xã hội. Công bằng trong quan hệ sở hữu, công bằng trong tổ chức,
quản lý hoạt động sản xuất và hoạt động kinh tế nói chung, công bằng trong phân phối

3
kết quả lao động, của cải vật chất, văn hóa. Xây dựng một xã hội hiện đại, công bằng,
văn minh, giàu bản sắc dân tộc có quan hệ mật thiết, gắn liền với “Dân chủ”, đòi hỏi
phải có dân chủ để thực hiện.
Xã hội dân chủ được thể hiện ở dân chủ hóa nền kinh tế, tất cả mọi người, mọi thành
phần kinh tế có quyền tham gia vào hoạt động kinh tế, vào sản xuất kinh doanh, có
quyền nghỉ ngơi và quyền hưởng thụ các thành quả lao động, có quyền sở hữu hợp
pháp về tài sản của mình; quyền của người sản xuất và người tiêu dùng được bảo vệ
trên cơ sở pháp luật của nhà nước. Nhân dân có quyền mưu cầu cầu hạnh phúc, được
ấm no. Dân chủ cũng chính là mục tiêu chính trị được đề ra, trong việc xây dựng,
hoàn thiện hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, khâu quan trọng nhất là xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là những mục tiêu không
tách rời nhau, bổ sung cho nhau, mục tiêu này làm cơ sở, điều kiện, tiền đề cho mục
tiêu kia. Đó là những mục tiêu lâu dài, những giá trị bền vững, từng bước được hiện
thực hóa trong quá trình đổi mới đất nước trên con đường xã hội chủ nghĩa.
Ví dụ: Chương trình phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2016-2020.
Chương trình này đặt ra các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội và bảo đảm an ninh
quốc phòng, trong đó có sự kết hợp giữa nền kinh tế thị trường và yếu tố xã hội chủ
nghĩa. Một số mục tiêu chính của chương trình này bao gồm:
Tăng trưởng kinh tế: Xác định mục tiêu tăng trưởng GDP hàng năm với mức tăng
trung bình khoảng 6,5-7%. Mục tiêu này nhằm đảm bảo sự phát triển kinh tế bền
vững, cải thiện đời sống người dân và nâng cao vị thế kinh tế của Việt Nam trên thị
trường quốc tế.
Phát triển công nghiệp và công nghệ: Đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa, tăng
cường năng lực sản xuất và cải thiện chất lượng các ngành công nghiệp. Đồng thời,
đầu tư vào nghiên cứu và phát triển công nghệ để nâng cao năng suất và sự cạnh tranh
quốc gia.
Phát triển hạ tầng: Xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng về giao thông, điện lực, viễn
thông, nước sạch, và xử lý môi trường. Mục tiêu này nhằm cải thiện môi trường kinh
doanh, thu hút đầu tư và tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế và xã hội.

4
Phát triển nhân lực: Nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực và phẩm chất đạo đức
của lao động. Tổ chức đào tạo, công tác giáo dục và phát triển nguồn nhân lực nhằm
đáp ứng yêu cầu của phát triển kinh tế và quốc phòng-an ninh.
Bảo đảm an ninh xã hội: Tăng cường hệ thống pháp luật, đảm bảo an ninh trật tự và an
toàn xã hội. Đồng thời, đảm bảo đủ nguồn lực để cung cấp các dịch vụ công cộng như
giáo dục, y tế, an sinh xã hội và bảo vệ môi trường.
Với việc kết hợp giữa các yếu tố kinh tế thị trường và xã hội chủ nghĩa trong mục tiêu
phát triển, chương trình này nhằm đảm bảo sự công bằng, cân đối và bền vững của
phát triển kinh tế và xã hội ở Việt Nam.
Về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế, đây là nền kinh tế có nhiều thành
phần, với nhiều hình thức sở hữu, tất cả đều là những bộ phận cấu thành quan trọng
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hợp tác và cạnh tranh lành
mạnh, cùng phát triển lâu dài trên cơ sở pháp luật của nhà nước. Trong đó, kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể trở thành nền tảng vững chắc của
nền kinh tế quốc dân. Tư liệu sản xuất chủ yếu, từng bước được công hữu trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Ví dụ: Về chế độ sở hữu:
Sở hữu tư nhân: là các công ty gia đình, nhà máy nhỏ, cửa hàng và quán café thuộc sở
hữu của các cá nhân.
Sở hữu nhà nước: bao gồm các công ty lớn như Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN),
Tổng công ty Điện lực Việt Nam (EVN), Tập Đoàn Viễn Thông Quân Đội (Viettel),
Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT),...
Liên doanh và hợp tác: các khu công nghiệp liên doanh, các công ty sản xuất chung
với công ty nước ngoài.
Sở hữu cộng đồng: các cộng đồng dân tộc thiểu số ở miền núi hoặc ngư dân sở hữu và
khai thác các vùng biển ven bờ.
Về thành phần kinh tế
Lao động: Lực lượng lao động là một yếu tố quan trọng trong sản xuất và phát triển
kinh tế, bao gồm cả người nông dân, công nhân và nhân viên văn phòng.
Vốn: có thể bao gồm tiền mặt, vay mượn từ ngân hàng và đầu tư từ các cá nhân và tổ
chức.

5
Đất đai và tài nguyên tự nhiên: Việt Nam có diện tích đất đai rộng lớn và các tài
nguyên tự nhiên như dầu khí, khoáng sản, năng lượng tái tạo và đất canh tác
Công nghệ: chú trọng phát triển công nghệ thông tin, công nghệ nông nghiệp và các
ngành công nghiệp chế biến.
Quản lý: Sự quản lý hiệu quả của doanh nghiệp, tổ chức và chính phủ cũng là một
thành phần quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việt
Nam đã tăng cường cải cách hành chính và nâng cao khả năng quản lý để thu hút đầu
tư và phát triển kinh tế.
Thị trường: Thị trường là nơi tiếp xúc giữa người mua và người bán, hàng hóa và dịch
vụ. Việt Nam đã phát triển các thị trường nguồn cung ứng và tiêu thụ trong nước và
mở cửa cho thị trường quốc tế.
Về hệ thống phân phối: Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
của nước ta, phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và lợi ích kinh tế, đồng thời còn
có các hình thức phân phối khác (phân phối theo nguồn lực như vốn, năng lực, đóng
góp vào sản xuất). không chỉ khuyến khích lao động mà còn bảo đảm phúc lợi xã hội
cơ bản và an sinh xã hội, bảo đảm phân phối phù hợp, công bằng, hạn chế bất bình
đẳng trong xã hội.
Ví dụ:
Mua bán hàng hóa thông qua các cửa hàng, siêu thị và trang web thương mại điện tử.
Khi người tiêu dùng mua một sản phẩm, giá cả được xác định theo quy luật cung - cầu
và sự cạnh tranh giữa các nhà cung cấp. ( phân phối dựa trên giá cả)
Ví dụ: Một công ty tuyển dụng người lao động và cung cấp các dịch vụ cho khách
hàng. Lợi nhuận sau khi trừ chi phí sẽ được chia sẻ giữa công ty và người lao động
dựa trên mức đóng góp của họ vào hoạt động. ( chia sẻ lợi nhuận)
Ví dụ: Chính sách giảm nghèo như chính sách bảo hiểm y tế, chính sách chăm sóc xã
hội, chính sách ưu đãi thuế cho các khu vực kinh tế khó khăn. (phân phối xã hội)
Về vai trò quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa: Nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, dưới sự quản lý và điều tiết của nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, sự quản lý của nhà nước
trong nền kinh tế thị trường phải phù hợp , có hiệu quả, đảm bảo lợi ích của quốc gia,
của nhân dân lao động thông qua hệ thống pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,

6
chính sách phát triển kinh tế, xã hội. Đồng thời, có sử dụng cơ chế thị trường để kích
thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực
của cơ chế thị trường.
Quản lý đất nước xã hội chủ nghĩa trong điều kiện kinh tế thị trường nhằm giải quyết
mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao mức
sống của nhân dân. Nhà nước thực hiện các chính sách xã hội, một mặt khuyến khích
làm giàu theo pháp luật, mặt khác phải thực hiện xóa đói, giảm nghèo.
Ví dụ:
Quản lý chính sách kinh tế: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (SBV) quản lý chính sách
tiền tệ và lãi suất để duy trì sự ổn định của nguyên tệ và kiểm soát lạm phát.
Quản lý doanh nghiệp nhà nước: Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) là một doanh
nghiệp nhà nước có vai trò quan trọng trong việc quản lý và khai thác tài nguyên dầu
khí của Việt Nam.
Quản lý các nguồn tài nguyên tự nhiên: Cục Kiểm lâm và Cục Đánh bắt cá thuộc Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có vai trò quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng và
nguồn lợi thủy sản.
Quản lý chất lượng và tiêu chuẩn sản phẩm: Bộ Công Thương đảm nhận việc thiết lập
và quản lý các tiêu chuẩn chất lượng, an toàn và vệ sinh trong sản xuất và kinh doanh
hàng hóa.
Về nguyên tắc giải quyết các mối quan hệ chủ yếu: Kết hợp ngay từ đầu giữa lực
lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, bảo đảm giải phóng sức sản xuất. Đồng thời xây
dựng lực lượng sản xuất kết hợp với củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa , nhằm phục vụ cho phát triển sản xuất công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Kết hợp phát triển sản xuất với cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, giải
quyết các vấn đề xã hội, ngăn chặn các tệ nạn xã hội; giải quyết tốt các nhiệm vụ
chính trị, xã hội, văn hóa, môi trường và an ninh, quốc phòng.
Ví dụ:
Nguyên tắc cạnh tranh: Các công ty cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ phải tuân thủ các
quy tắc cạnh tranh, không áp đặt giá cả không công bằng hoặc tham gia vào hành vi
độc quyền gây hại đến sự cạnh tranh.

7
Nguyên tắc bảo vệ người tiêu dùng: Quy định về quyền và bảo vệ người tiêu dùng,
như quy định về đổi/trả hàng, thông tin sản phẩm, và quy tắc về quảng cáo để đảm bảo
sự công bằng và an toàn cho người tiêu dùng.
Nguyên tắc trách nhiệm xã hội: Các công ty thực hiện các chương trình giáo dục, tài
trợ cho cộng đồng, tham gia vào các hoạt động từ thiện và bảo vệ môi trường.
Về tính cộng đồng và tính dân tộc: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta mang tính cộng đồng cao theo truyền thống của xã hội Việt Nam, phát triển
kinh tế thị trường có sự tham gia của cộng đồng và vì lợi ích của cộng đồng, hướng tới
xây dựng một cộng đồng xã hội Việt Nam giàu mạnh, đầy đủ về vật chất, phong phú
về tinh thần, dân chủ, công bằng, văn minh, đảm bảo cuộc sống ấm no và hạnh phúc
cho nhân dân.
Ví dụ:
Tính cộng đồng trong việc khuyến khích hợp tác doanh nghiệp: Việc thành lập các
khu công nghiệp hay khu kinh tế trong cộng đồng là một hình thức hợp tác giữa các
doanh nghiệp. Những khu vực này không chỉ tạo việc làm mà còn đóng góp vào phát
triển kinh tế và cộng đồng bằng việc thu hút đầu tư, phát triển hạ tầng và cung cấp
dịch vụ công.
Tính dân tộc trong việc bảo tồn và phát triển các ngành nghề truyền thống: Bảo tồn và
phát triển các ngành nghề dệt may, làm gốm, thêu thùa của các dân tộc thiểu số như
dân tộc H'Mông, Thái, và Chăm. Những sản phẩm này không chỉ mang giá trị văn hóa
mà còn tạo ra thu nhập cho cộng đồng và giúp duy trì cuộc sống truyền thống của dân
tộc.
Tính cộng đồng và tính dân tộc trong việc phát triển kinh tế nông nghiệp: Các chương
trình tín dụng vốn, đào tạo kỹ năng và chia sẻ công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp
như canh tác, nuôi trồng có tính cộng đồng và tính dân tộc cao giúp nâng cao thu nhập
và đời sống của người nông dân.
Về quan hệ quốc tế: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta phát
huy tối đa nguồn lực trong nước đồng thời tranh thủ triệt để nguồn lực nước ngoài
theo phương châm “Kết hợp sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời đại” và sử
dụng các nguồn lực đó một cách hợp lý, hiệu quả cao để phát triển kinh tế đất nước

8
với tốc độ nhanh, hiện đại và bền vững. Thực hiện mở cửa cải cách, hội nhập kinh tế
nhưng cũng đồng thời giữ vững bản sắc dân tộc.
Ví dụ:
Hội nhập kinh tế toàn cầu: Việt Nam tham gia Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ
xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định EVFTA với Liên minh châu EU, và
tham gia Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Những hiệp định này giúp mở cửa thị
trường, tăng cường xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài.
Quan hệ đối tác kinh tế với các quốc gia khác: Việt Nam có quan hệ đối tác vững
mạnh với các quốc gia như Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và ASEAN. Các
quan hệ này được xây dựng trên cơ sở cùng có lợi, bao gồm việc hợp tác trong lĩnh
vực thương mại, đầu tư, công nghệ, giáo dục, du lịch và văn hóa.
Hợp tác kỹ thuật và khoa học công nghệ: Việt Nam hợp tác với các quốc gia như Nhật
Bản, Hàn Quốc và Đức trong việc chuyển giao công nghệ, đào tạo kỹ thuật viên, phát
triển các ngành công nghiệp hiện đại như ô tô, điện tử và năng lượng tái tạo.
III. Biện pháp điều tiết và can thiệp của nhà nước đối với nền kinh tế thị
trường
Thực tế phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta trong những năm qua cho thấy “nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý
của Nhà nước” là một mô hình phát triển hợp lý, vì nó có sự kết hợp giữa "Thị
trường" với "Nhà nước". Vấn đề cần nghiên cứu, trao đổi ở đây là vai trò quản lý của
Nhà nước trong nền kinh tế theo cơ chế thị trường hiện nay được thể hiện như thế nào,
Nhà nước cần và không cần can thiệp vào lĩnh vực nào của thị trường? Đây là một vấn
đề còn có nhiều cách giải đáp theo những cách tiếp cận khác nhau. Nhưng, từ thực tế
quản lý đã rút ra được trong những năm qua, kết hợp với những bài học kinh nghiệm
của các nước trên thế giới đã cho thấy vai trò quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế
thị trường được thể hiện ở những nội dung cơ bản sau
Tạo môi trường pháp lý ổn định cho thị trường phát triển và tạo lập lòng tin với
các chủ thể kinh tế: Nhà nước tạo lập khuôn khổ pháp lý cho hoạt động sản xuất,
kinh doanh diễn ra hiệu quả. Chỉ duy nhất nhà nước có được chức năng này. Hệ thống
pháp luật kinh tế của nhà nước càng được xây dựng đồng bộ, đúng đắn, nhất quán và
kịp thời bao nhiêu, càng có tác động tích cực tới sự vận hành của nền kinh tế bấy

9
nhiêu. Để thực hiện đúng đắn chức năng phân phối của mình, nền kinh tế thị trường
đòi hỏi một loạt thể chế phát triển cao, trong đó có hệ thống pháp luật để chống lại bạo
lực và gian lận bao gồm: hệ thống các quy định có liên quan tới những quyền sở hữu,
những điều luật về phá sản và khả năng thanh toán, hệ thống các quy định về tài chính
với ngân hàng trung ương và các ngân hàng thương mại để bảo đảm việc cung cấp
tiền mặt được thực hiện một cách nghiêm ngặt…
Định hướng cho sự phát triển của thị trường: Sự can thiệp của nhà nước thể hiện ở
chỗ là “bàn tay vô hình” của thị trường được định hướng bởi “bàn tay hữu hình”,
mạnh mẽ của chính phủ. Tuy nhiên, sự can thiệp của nhà nước phải có chọn lọc
(hướng dẫn đầu tư thông qua các ưu đãi thuế, xây dựng hệ thống thể chế tạo điều kiện
thuận lợi cho việc phát triển các mục tiêu ưu tiên...).

Tuy nhiên, khi khẳng định sự cần thiết phải có sự can thiệp của nhà nước thì cũng cần
cân nhắc kỹ lưỡng tới cái được - cái mất của sự can thiệp ấy, cần xác định được mức
độ can thiệp của nhà nước đến đâu thì đem lại hiệu quả. Trong các nền kinh tế hiện
đại, vai trò đó của nhà nước đặc biệt thể hiện rõ rệt ở việc xác định “các quy tắc trò
chơi” để can thiệp vào những khu vực cần có sự lựa chọn, thể hiện những khuyết tật
của thị trường, để bảo đảm tính chỉnh thể của nền kinh tế và cung cấp những dịch vụ
phúc lợi.

Hỗ trợ thị trường: Nếu nhà nước muốn thu hút vốn đầu tư thì phải tạo lập được
những chuẩn mực (thể chế) mà các nhà đầu tư mong muốn. Và theo nghĩa đó, các thị
trường (cụ thể là các chủ thể tham gia thị trường) đòi hỏi phải có thể chế hỗ trợ cho
nó.

Thị trường phát triển cho phép các tác nhân tiếp cận đầy đủ hơn, tốt hơn với các cơ
hội và sự lựa chọn. Thị trường ở các nước có thu nhập thấp thường bị phân khúc, chứa
đựng nhiều rủi ro do hoạt động dựa vào các thể chế phi chính thức, và có chi phí giao
dịch cao do thiếu thông tin, quyền sở hữu không rõ ràng và thiếu quyền tự do kinh
doanh. Thể chế có thể giúp quản lý rủi ro giao dịch thị trường, nâng cao hiệu quả và
khả năng sinh lời thông qua ba kênh chính là: 1- Truyền dẫn thông tin về các điều kiện

10
thị trường, hàng hóa và các bên tham gia; 2- Xác định và thực thi quyền sở hữu cũng
như các hợp đồng; 3- Tăng áp lực cạnh tranh trên thị trường.

Thị trường hoạt động dựa trên nền móng của các thể chế. Khi không có các nguyên
tắc cơ bản của trật tự xã hội với các thể chế làm trụ đỡ thì thị trường không thể hoạt
động được. Một minh chứng điển hình là các thị trường sẽ không thể phát triển tốt nếu
như không có sự thừa nhận và tôn trọng quyền sở hữu từ phía nhà nước.

IV. Thành tựu và những thách thức đặt ra đối với nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam
1. Thành tựu
Qua gần 30 năm xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từ Đại
hội VI (năm 1986) đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã chuyển đổi
thành công từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử,
đưa Việt Nam ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển
có thu nhập trung bình, đồng thời hình thành được hệ thống kết cấu hạ tầng thiết yếu
phục vụ đời sống kinh tế - xã hội và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước:
Việt Nam đã dần hình thành đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị
trường, vận hành cơ bản thông suốt, gắn kết với thị trường khu vực và quốc tế:
1.1 Thị trường hàng hóa, dịch vụ
Thị trường hàng hóa dịch vụ đã có bước phát triển và hoàn thiện về quy mô, cơ cấu
hàng hóa - thị trường trong và ngoài nước, kết cấu hạ tầng thương mại, dịch vụ, cơ chế
quản lý, mức độ cạnh tranh. Quy mô thị trường trong nước liên tục tăng. Tính chung
trong hơn 15 năm qua, tốc độ tăng trưởng bình quân của thương mại bán lẻ luôn cao
từ 2 -3 lần so với tốc độ tăng trưởng bình quân của GDP cùng kỳ.
Thị trường tài chính, tiền tệ phát triển khá mạnh và sôi động. Bên cạnh kênh huy động
vốn từ ngân hàng, thị trường chứng khoán đã bước đầu hình thành, góp phần đa dạng
hóa nguồn vốn đầu tư. Tỷ giá đồng tiền, giá ngoại tệ, giá vàng cơ bản giữ được ổn
định.
Thị trường bất động sản đã có bước phát triển nhất định, nhiều dự án khu nhà ở, khu
đô thị mới với hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội tương đối đồng bộ đã được

11
hình thành, góp phần đô thị hóa và dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Thị trường lao động đã được hình thành trên phạm vi cả nước. Nguồn cung lao động
khá dồi dào và gia tăng với tốc độ nhanh. Quy mô lực lượng lao động từ 15 tuổi trở
lên tăng từ 50,51 triệu người (cuối năm 2010) lên 53,65 triệu người (cuối năm 2013)
và 53,8 triệu người (năm 2014).
Thị trường khoa học - công nghệ đang hình thành và phát triển, số lượng và giá trị
giao dịch công nghệ có bước tiến đáng kể trong những năm gần đây.
Thị trường một số loại dịch vụ công cơ bản, nhất là về y tế, giáo dục có bước phát
triển mới, huy động được các nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước tham gia.
Khung khổ thể chế từng bước được hoàn thiện tạo điều kiện phát huy vai trò tích cực
của các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế quốc dân, trong tự do kinh doanh và cạnh
tranh theo quy định của pháp luật:
1.2 Kinh tế nhà nước, hệ thống doanh nghiệp nhà nước
Từng bước được cơ cấu lại, cổ phần hóa theo Luật Doanh nghiệp và đang giảm mạnh
về số lượng. Cổ phần hóa và thoái vốn đầu tư ngoài ngành theo cơ chế thị trường được
đẩy mạnh, trong đó tập trung vào các tập đoàn, tổng công ty nhà nước.Tính đến
30-9-2014 đã thực hiện sắp xếp lại 6.883 doanh nghiệp nhà nước, trong đó cổ phần
hóa 4.136 doanh nghiệp
Kinh tế tập thể bước đầu được đổi mới, các hình thức hợp tác kiểu mới được hình
thành phù hợp hơn với cơ chế thị trường, theo nguyên tắc hợp tác cùng có lợi.
Kinh tế tư nhân tăng nhanh về số lượng, từng bước nâng cao hiệu quả kinh doanh, giải
quyết việc làm, đóng góp ngày càng lớn vào GDP. Kinh tế tư nhân hiện đóng góp
khoảng 45,7% GDP, 86% số việc làm và 39% tổng đầu tư toàn xã hội. Đầu tư tư nhân
trong nước tiếp tục tăng lên. Năm 2011, tổng vốn đầu tư của doanh nghiệp tư nhân là
340 nghìn tỷ đồng, năm 2012 là 385 nghìn tỷ đồng, năm 2013 là 410,5 nghìn tỷ đồng,
năm 2014 khoảng 433 nghìn tỷ đồng và năm 2015 ước tính là 490 nghìn tỷ đồng.
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn liền với hội nhập
kinh tế quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, theo nguyên tắc và
chuẩn mực của thị trường toàn cầu:

12
Việt Nam đã thiết lập được các quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế ; tích cực xây
dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN và hoàn thiện thị trường trong nước đầy đủ hơn theo
cam kết WTO; đàm phán, ký kết và thực hiện nhiều Hiệp định thương mại tự do song
phương và đa phương thế hệ mới. Trên 90 Hiệp định thương mại song phương, gần 60
Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54 Hiệp định chống đánh thuế hai lần đã
được ký kết. Quan hệ hợp tác đa phương và khu vực tích cực hơn với nhiều tổ chức tài
chính quốc tế như Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và
Ngân hàng Thế giới (WB).
Từ đó ta có thể thấy rằng, việc tham gia ký kết và đàm phán tham gia các hiệp định
FTA có tác động tích cực tới phát triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia,
doanh nghiệp và sản phẩm, phát triển nông nghiệp, nông thôn, giải quyết lao động, tạo
công ăn việc làm, nâng cao tiền lương và thu nhập. Việc hội nhập kinh tế quốc tế sâu
rộng và đa dạng đã tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế nước ta. Thị trường xuất
khẩu của Việt Nam được mở rộng đến 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, kim ngạch xuất
khẩu giai đoạn 2011-2013 tăng bình quân 22,58%/năm. Môi trường kinh doanh ngày
càng được cải thiện, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp chủ động hơn trong việc tham
gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa cơ bản gắn kết hài hòa với phát triển văn hóa, xây dựng con người, tiến bộ và
công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường:
An sinh xã hội cơ bản được đảm bảo, hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội phát
triển khá đồng bộ, đặc biệt là trong vấn đề giảm nghèo, giải quyết việc làm, phát triển
hệ thống bảo hiểm xã hội, chính sách ưu đãi người có công với nước, trợ giúp xã hội,
chính sách bảo hiểm y tế toàn dân, tạo điều kiện để người dân được tiếp cận nhiều hơn
các dịch vụ về văn hóa, y tế và giáo dục.
Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam được tăng dần, đến năm 2013 xếp
hạng 127/186 quốc gia và vùng lãnh thổ, đạt mức trung bình trên thế giới.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng,
Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước:
Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm nông nghiệp, đã xây
dựng được cơ sở vật chất - kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước đáp ứng cho sự

13
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo ra môi trường thu hút nguồn lực xã hội cho
phát triển. Diện mạo đất nước có nhiều thay đổi, kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng
khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên (đạt ngưỡng thu nhập trung bình thấp),
đời sống nhân dân từng bước được cải thiện; đồng thời tạo ra nhu cầu và động lực
phát triển cho tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Kinh tế đã đạt tốc độ tăng trưởng cao và được xếp vào nhóm tăng trưởng cao trên thế
giới. Quy mô nền kinh tế tăng nhanh, tổng sản phẩm quốc nội đến năm 2014 đã đạt
khoảng 184 tỷ USD. Từ năm 2008, với mức GDP bình quân đầu người đạt 1.047 USD
(giá thực tế), Việt Nam đã ra khỏi nhóm nước đang phát triển có thu nhập thấp, để gia
nhập nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp.
Tỷ lệ tăng trưởng bình quân 4 năm 2011-2014 đạt 5,82%, cao hơn mức tăng trưởng
bình quân của các nước ASEAN cùng thời kỳ(4). GDP bình quân đầu người năm 2011
là 1.517 USD, năm 2012 là 1.749 USD, năm 2013 là 1.908 USD, năm 2014 đạt 2.028
USD(5). Lạm phát được kiểm soát, tỷ lệ lạm phát đã giảm mạnh từ mức 18,13% (năm
2011) xuống 6,81% (năm 2012), còn 6,04% vào năm 2013 và chỉ còn khoảng 3% năm
2014.
Những thành tựu đạt được nêu trên là do nỗ lực, cố gắng của toàn Đảng, toàn dân, của
cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong đó có nguyên nhân từ nhận
thức, đổi mới về lý luận, nhận thức và chỉ đạo thực tiễn của Đảng Cộng sản Việt Nam
về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
2. Thách thức
Một là, hội nhập quốc tế, kinh tế Việt Nam đứng trước thách thức sẽ chịu tác động
trực tiếp, nhanh chóng từ những biến động kinh tế từ bên ngoài, từ những biến động
trên thị trường khu vực, thế giới về giá cả, lãi suất, tỷ giá của các đồng tiền, nhất là
những đồng tiền có ảnh hưởng lớn, từ những thay đổi của các luồng hàng hóa, tài
chính, đầu tư quốc tế và nghiêm trọng hơn là chịu sự tác động, ảnh hưởng rất nhanh
của các cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính khu vực và trên thế giới. Tác động với
nền kinh tế đất nước sẽ rất nghiêm trọng nếu Việt Nam không chủ động có biện pháp
ứng phó và nếu nội lực của nền kinh tế yếu. Đồng thời, các doanh nghiệp Việt Nam
còn đối mặt với những thách thức từ những cuộc tấn công mạng vào các hệ thống

14
quản lý, hệ thống dữ liệu để ăn cắp dữ liệu, ăn cắp công nghệ, kế hoạch, các bí quyết
kinh doanh, nhất là của những đối thủ cạnh tranh.

Hai là, cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư không phải chỉ tạo ra cơ hội cho kinh
tế Việt Nam phát triển, rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước tiên tiến, mà
cũng tạo cho Việt Nam nhiều thách thức lớn phải vượt qua. Thứ nhất là vấn đề tốc độ
phát triển rất nhanh của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, của những thay đổi,
phát triển công nghệ diễn ra nhanh chóng trên thế giới. Theo kịp tốc độ phát triển này
đối với Việt Nam là một thách thức lớn. Hơn nữa, trong khi ở Việt Nam, hệ thống thể
chế cho các hoạt động, các lĩnh vực, các mô hình kinh doanh mới, việc bảo vệ sở hữu
trí tuệ, bảo vệ người tiêu dùng, xử lý tranh chấp… việc quản lý các hoạt động kinh tế,
sinh hoạt xã hội trong thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ tư còn chưa hình thành;
việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, phát triển khoa học - công nghệ, xây dựng hệ
thống kết cấu hạ tầng… đáp ứng đòi hỏi phát triển kinh tế đất nước trong cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư cũng không phải là nhiệm vụ đơn giản, dễ dàng. Thứ hai
là với trình độ khoa học - công nghệ rất cao, rất mới, diễn ra trên diện rất rộng, hầu
như tất cả các lĩnh vực kinh tế, phạm vi tác động rất lớn. Để nắm bắt được cơ hội, đòi
hỏi phải đáp ứng được đồng thời tất cả các yêu cầu đặt ra, đòi hỏi đất nước cũng phải
có trình độ phát triển cao về khoa học - công nghệ, có nguồn nhân lực chất lượng cao,
từ cán bộ nghiên cứu khoa học, sáng tạo công nghệ, thiết kế sản phẩm đến những
người trực tiếp sản xuất; đòi hỏi cả những thay đổi tâm lý, nếp sống của các tầng lớp
xã hội, thay đổi tổ chức, quản lý của hệ thống chính quyền các cấp, các ngành, đây
không phải là vấn đề dễ dàng, mà thật sự là những thách thức. Không vượt qua được
những thách thức nhỏ, cụ thể này thì thách thức lớn nhất với Việt Nam sẽ là tụt hậu xa
hơn, so với các nước khác

Ba là, cơ hội mở rộng thị phần, gia tăng sản lượng hàng hóa tiêu thụ trong những năm
tới đồng thời cũng sẽ đặt doanh nghiệp Việt Nam, các sản phẩm hàng hóa của Việt
Nam trước thách thức phải cạnh tranh quyết liệt với các doanh nghiệp, các sản phẩm
hàng hóa của nước ngoài không chỉ ở thị trường nước ngoài mà ngay cả ở thị trường
trong nước của Việt Nam, trong khi các doanh nghiệp Việt Nam phổ biến là doanh
nghiệp nhỏ và vừa, trình độ công nghệ thấp, năng lực tài chính hạn chế, phải cạnh

15
tranh với những doanh nghiệp lớn, công nghệ cao, tiềm lực tài chính hùng hậu, có
những sản phẩm có thương hiệu nổi tiếng trên thế giới. Doanh nghiệp Việt Nam tham
gia vào chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu hiện nay phần lớn là ở những công đoạn có
trình độ công nghệ thấp, gia công, lắp ráp

Bốn là, thách thức từ việc giữ vững, củng cố nền kinh tế độc lập, tự chủ khi hội nhập
quốc tế bởi một tỷ lệ không nhỏ các yếu tố đầu vào cho hoạt động của nền kinh tế
(vốn, công nghệ, máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên liệu) là nhập khẩu từ nước ngoài và
thị trường bên ngoài có vai trò rất lớn, rất quan trọng đối với việc tiêu thụ sản phẩm,
hàng hóa mà nền kinh tế đất nước tạo ra. Hàng hóa nước ngoài nhập khẩu vào Việt
Nam sẽ góp phần làm phong phú hơn hàng hóa trên thị trường, đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng của nhân dân, nhưng sẽ trở thành thách thức nếu hàng hóa nước ngoài chiếm
lĩnh thị trường, loại hàng hóa Việt Nam ra khỏi thị trường, bóp chết sản xuất trong
nước.

Năm là, những điều kiện vay vốn nước ngoài (chính phủ các nước, các ngân hàng, tổ
chức tài chính quốc tế, phát hành trái phiếu quốc tế…) càng dễ dàng, thuận lợi thì nợ
nước ngoài cũng càng có khả năng, điều kiện tăng nhanh sẽ trở thành thách thức lớn
khi việc sử dụng vốn vay kém hiệu quả. Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ tăng
nhanh trong thời gian tới nhờ việc đón đầu các hiệp định thương mại góp phần tích
cực vào phát triển kinh tế đất nước, tạo việc làm cho người lao động, nguồn thu cho
ngân sách nhà nước, nguồn thu ngoại tệ, nhưng có thể trở thành thách thức lớn nếu
quản lý thiếu chặt chẽ, để gây ra ô nhiễm môi trường, biến nước ta trở thành bãi thải
công nghệ lạc hậu cho các nước phát triển, để các nhà đầu tư nước ngoài lợi dụng các
chính sách ưu đãi, khai thác tài nguyên, nguồn lao động giá rẻ của đất nước, khi hết
thời hạn ưu đãi, không còn có thể khai thác tài nguyên và tận dụng lao động rẻ, họ sẽ
bỏ đi, để lại nhiều gánh nặng mà đất nước phải giải quyết…

Sáu là, kinh tế Việt Nam phát triển chưa ổn định, bền vững. Nợ công, thâm hụt ngân
sách nhà nước cao, kéo dài. nợ xấu của nền kinh tế cũng đã chạm trần cho nên khả
năng cung ứng vốn từ ngân sách cho đầu tư phát triển từ năm 2020 trở đi sẽ hạn chế.
Nhà nước đang gặp nhiều khó khăn trong việc cân đối giữa tích lũy và tiêu dùng,
chính sách tài khóa, cân đối thu chi ngân sách. Nền kinh tế cơ bản còn phát triển theo

16
chiều rộng, dựa vào vốn đầu tư, tài nguyên thiên nhiên, lao động phổ thông, chuyển
dịch sang phát triển theo chiều sâu dựa trên khoa học - công nghệ và nguồn nhân lực
chất lượng cao còn chậm.

Có thể nói để thực hiện các mục tiêu kinh tế mà Đại hội XII của Đảng đã đề ra, chúng
ta không chỉ nhìn vào những lợi thế và trông chờ nguồn lợi từ các hiệp định mang lại
mà phải coi đó là một thử thách to lớn cần phải vượt qua, phải nhận dạng một cách
nghiêm túc tất cả những mặt hạn chế và yếu kém để khắc phục. Phải tiến hành đồng
bộ trong nhận thức và hành động của tất cả cộng đồng xã hội từ cơ quan quản lý nhà
nước đến các doanh nghiệp và mỗi công dân để từng bước tháo gỡ các nút thắt kìm
hãm sự phát triển, kìm hãm sự giao thương và hòa nhập kinh tế toàn cầu. Và muốn
vậy cần có những giải pháp cả tầm vĩ mô và vi mô trên phạm vi tất cả các ngành, các
lĩnh vực của hoạt động kinh tế xã hội.

V. Bàn luận và mở rộng


1. Góc nhìn về lịch sử
Quá trình hình thành kinh tế thị trường ở Việt Nam có một số giai đoạn quan trọng,
bao gồm:
1.1 Giai đoạn cải cách kinh tế (1986-1991):
Trước năm 1986, Việt Nam áp dụng mô hình kinh tế trọng điểm vào ngành công
nghiệp và định hướng quốc doanh. Tuy nhiên, mô hình này gặp nhiều hạn chế, gây ra
tình trạng lạm phát, khủng hoảng kinh tế và sụp đổ hệ thống kinh tế trung ương.
Tháng 12 năm 1986, Quyết định số 10 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã khởi
đầu quá trình cải cách kinh tế và Đổi mới. Quá trình này nhằm mục tiêu tăng cường
hiệu quả kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân và đẩy mạnh quốc tế hóa.
Trong giai đoạn này, các biện pháp cải cách bao gồm tách biệt chính sách tài chính của
Nhà nước và các doanh nghiệp, định giá cả dựa trên thị trường, khuyến khích đầu tư
tư nhân và mở cửa thị trường.
1.2 Giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế (1991-2000):
Từ năm 1991, Việt Nam bắt đầu tham gia quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thông qua
việc mở cửa thị trường, ký kết các hiệp định thương mại tự do và thu hút vốn đầu tư
nước ngoài.

17
Chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn này tập trung vào thu hút
vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, khuyến khích xuất khẩu, mở cửa thị trường và cải
cách thủ tục hành chính.
Việt Nam đã trở thành thành viên của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình
Dương (APEC) và vào năm 2000, Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO)
1.3 Giai đoạn đẩy mạnh đổi mới và phát triển bền vững (2000-nay):
Từ năm 2000 trở đi, Việt Nam tăng cường quá trình đổi mới và phát triển bền vững
thông qua việc thực hiện các chính sách kinh tế, xã hội và môi trường. Đặc biệt, trong
giai đoạn này, Việt Nam đã chuyển đổi từ một nền kinh tế dựa vào nguồn lao động giá
rẻ sang mô hình kinh tế công nghệ cao, đa dạng hóa kinh tế và tập trung vào phát triển
các ngành kinh tế hiệu quả và bền vững.
Tại Đại hội IX (năm 2001), Đảng ta chính thức đưa ra khái niệm kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, coi đó là mô hình tổng quát, là đường lối chiến lược
nhất quán của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Các chính sách và
cơ chế đã được triển khai để thu hút đầu tư nước ngoài, nâng cao năng lực cạnh tranh,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, nâng cao chất lượng và giá trị gia tăng của các sản phẩm
và dịch vụ.
Qua các giai đoạn trên, quá trình hình thành kinh tế thị trường ở Việt Nam đã đi qua
các bước cải cách, hội nhập và đổi mới, nhằm tạo ra một môi trường kinh doanh thuận
lợi, khuyến khích sự phát triển kinh tế và cải thiện chất lượng cuộc sống của người
dân.
2. So sánh nền KTTT định hướng XHCN và nền KTTT TBCN
Kinh tế thị trường định hướng XHCN có những điểm giống và khác với kinh tế thị
trường TBCN. Sự giống nhau biểu hiện ở chỗ, xuất phát từ tính khách quan của nó.
Cả hai kiểu kinh tế thị trường này đều chịu sự tác động của cơ chế thị trường với hệ
thống các qui luật: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu
thông tiền tệ… Đồng thời, cả nền kinh tế thị trường ở các nước TBCN và nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN đều là các nền kinh tế hỗn hợp, tức là nền kinh tế thị
trường có sự điều tiết (quản lý) của nhà nước. Tuy nhiên, sự can thiệp của nhà nước ở
các nền kinh tế là khác nhau. Không có nền kinh tế thị trường thuần túy (hoàn hảo) chỉ

18
vận hành theo cơ chế thị trường. Sự khác nhau giữa nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN và nền kinh tế thị trường TBCN là ở mục tiêu, phương thức, mức độ can thiệp
của nhà nước và sự can thiệp này là do bản chất của nhà nước quyết định. Được thể
hiện qua những điểm sau:
Về chế độ sở hữu: cơ chế thị trường trong nền kinh tế TBCN luôn hoạt động trên nền
tảng của chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất, trong đó các công ty tư bản độc quyền giữ
vai trò chi phối sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Còn cơ chế thị trường trong nền
kinh tế định hướng XHCN lại hoạt động trong môi trường của sự đa dạng các quan hệ
sở hữu. Trong đó chế độ công hữu giữ vai trò nền tảng của nền kinh tế quốc dân, với
vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Tính định hướng XHCN đòi hỏi trong khi phát
triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phải củng cố và phát triển kinh tế nhà
nước và kinh tế tập thể trở thành nền tảng của nền kinh tế có khả năng điều tiết. Kinh
tế nhà nước phải được củng cố và phát triển ở các vị trí then chốt của nền kinh tế, ở
lĩnh vực an ninh quốc phòng … mà các thành phần kinh tế khác không có điều kiện
thực hiện.
Về tính chất giai cấp của nhà nước và mục đích quản lý: trong nền kinh tế thị
trường TBCN, sự quản lý của nhà nước luôn mang tính chất tư sản và trong khuôn
khổ của chế độ tư sản với mục đích nhằm đảm bảo môi trường kinh tế – xã hội thuận
lợi cho sự thống trị của giai cấp tư sản, cho sự bền vững của chế độ bóc lột TBCN.
Còn trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, thì sự can thiệp của nhà nước
XHCN vào nền kinh tế lại nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của toàn thể nhân dân
lao động, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
Về cơ chế vận hành: nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Cơ
chế đó đảm bảo tính hướng dẫn điều khiển nền kinh tế nhiều thành phần hướng tới
đích XHCN theo phương châm nhà nước điều tiết vĩ mô.Ngược lại, kinh tế thị trường
TBCN hoạt động dưới sự quản lí của Đảng tư sản cầm quyền.
Về mối quan hệ tăng trưởng, phát triển kinh tế với công bằng xã hội: Vấn đề công
bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường TBCN chỉ được đặt ra khi mặt trái của cơ chế
thị trường đã làm gay gắt các vấn đề xã hội, tạo ra nguy cơ bùng nổ xã hội, đe dọa sự

19
tồn tại của CNTB. Trong kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhà nước chủ động
giải quyết ngay từ đầu mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Vấn
đề công bằng xã hội không chỉ là phương tiện phát triển nền kinh tế hàng hoá mà còn
là mục tiêu của chế độ xã hội mới.
Về phân phối thu nhập: sự thành công của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
không chỉ dừng lại ở mức độ tăng trưởng kinh tế mà còn phải không ngừng nâng cao
đời sống nhân dân, đảm bảo tốt các vấn đề xã hội và công bằng bình đẳng trong xã
hội. Tình hình đó đặt ra cho kinh tế thị trường định hướng XHCN phải kết hợp hài hoà
ba vấn đề sau : Một là, kết hợp vấn đề lợi nhuận và vấn đề xã hội, đảm bảo cho các
chủ thể kinh tế có được lợi nhuận cao, tạo điều kiện kinh tế chính trị – xã hội bình
thường cho sự phát triển kinh tế. Hai là, kết hợp chặt chẽ nguyên tắc phân phối của
chủ nghĩa xã hội và nguyên tắc kinh tế hàng hoá: phân phối theo lao động, theo vốn,
theo tài năng … trong đó nguyên tắc phân phối theo lao động là chính. Ba là, điều tiết
phân phối thu nhập : nhà nước cần có chính sách giảm khoảng cách chênh lệch giữa
lớp giàu và lớp nghèo.
Mặt khác, có biện pháp bảo vệ thu nhập chính đáng của toàn xã hội.Một xu hướng
đáng lưu ý là tuy nhà nước TBCN đã có ý thức tự điều chỉnh, dung hoà lợi ích của các
giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau để giảm bớt mâu thuẫn, ổn định chính trị, ổn định
xã hội, vì mục tiêu phát triển kinh tế. Song, do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhất là
do sự chi phối điều tiết của các quy luật kinh tế của CNTB,của lợi ích giai cấp nên sự
điều tiết của vẫn còn nhiều bất cập. Sự can thiệp của nhà nước nhằm đảm bảo mục
tiêu phát triển và công bằng chỉ có thể thực hiện được với một nhà nước của dân, do
dân, vì dân. Đó là nhà nước XHCN.

20

You might also like