Professional Documents
Culture Documents
BTL CNXHKH
BTL CNXHKH
---***---
HÀ NỘI, 2024
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .....................................................................................................................4
PHẦN NỘI DUNG ..................................................................................................................5
QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ SỨ
MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN ...................................................................5
I. Khái niệm và đặc điểm của giai cấp công nhân .................................................. 5
1. Khái niệm giai cấp công nhân .......................................................................... 5
2. Đặc điểm của giai cấp công nhân .................................................................... 7
II. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân ............................................. 8
1. Nội dung kinh tế ............................................................................................... 9
2. Nội dung chính trị - xã hội ................................................................................9
3. Nội dung văn hóa tư tưởng ........................................................................... 10
III. Những điều kiện quy định và thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân 10
1. Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân ........................................................................................................................ 10
2. Những điều kiện chủ quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân ........................................................................................................................ 12
GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ VIỆC THỰC HIỆN SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG
NHÂN HIỆN NAY ............................................................................................................. 16
I. Giai cấp công nhân hiện nay ..............................................................................16
1. Về những điểm tương đối ổn định so với thế kỷ XIX ....................................16
2. Những biến đổi và khác biệt của giai cấp công nhân hiện đại .................... 17
II. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư ....................................................................................................... 17
1. Nội dung kinh tế - kỹ thuật của sứ mệnh lịch sử trong Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư ................................................................................................... 17
2. Nội dung chính trị - xã hội của sứ mệnh lịch sử trong Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư ................................................................................................... 19
3. Nội dung văn hóa - xã hội của sứ mệnh lịch sử trong Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư ................................................................................................... 21
SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ
CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN CỦA ĐẢNG TA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............................23
I. Nội dung vận dụng của Đảng .............................................................................23
1. Đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam ................................................. 23
2. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay ....... 26
II. Những đóng góp và thành tựu đạt được ..........................................................28
1. Phong trào công nhân và hoạt động Công đoàn trong thực hiện đường lối
đổi mới của Đảng (1986 - 2021) ............................................................................28
2. Những thành tựu của giai cấp công nhân Việt Nam trên các lĩnh vực ........29
3. Những thành tựu phát triển nhận thức lý luận về giai cấp công nhân Việt
Nam của Đảng ta ....................................................................................................31
4. Thành tựu phát triển nhận thức lý luận về thực hiện sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân Việt Nam .................................................................................35
III. Hạn chế ........................................................................................................... 38
IV. Giải pháp .............................................................................................................39
1. Xây dựng và phát triển giai cấp công nhân lớn mạnh, hiện đại, thích ứng với
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. .............................................................39
2. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về mọi mặt .................................... 40
PHẦN KẾT LUẬN .................................................................................................................44
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................................ 45
PHẦN MỞ ĐẦU
Chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời với mục đích để nghiên cứu, làm sáng tỏ
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, luận chứng những điều kiện, những con
đường để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử đó của mình. Trong
công cuộc chuyển biến hình thái xã hội mang tính lịch sử đó, giai cấp công nhân
chính là người nắm vai trò chủ chốt. Sứ mệnh lịch sử vĩ đại của giai cấp công
nhân được chủ nghĩa xã hội khoa học khẳng định: họ chính là giai cấp duy nhất
có khả năng lãnh đạo các tầng lớp nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột trong
cuộc đấu tranh từng bước xóa bỏ chủ nghĩa tư bản và xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội.
Trước sự khủng hoảng và sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông
Âu từ đầu những năm 90 của thế kỉ trước, nhiều người đã bộc lộ dao động và
hoài nghi về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Trong bối cảnh đó, việc làm
sáng tỏ và nhận thức một cách đúng đắn hơn về giai cấp công nhân, về vai trò
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không chỉ có ý nghĩa lý luận sâu sắc, mà
còn có ý nghĩa thực tiễn hết sức to lớn. Trong giai đoạn mới hiện nay, trong thời
kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới,
vấn đề làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được đặt ra trở nên
bức thiết hơn bao giờ hết, cả trên hai phương diện lý luận và thực tiễn.
Xuất phát từ lí do trên, em đã chọn đề tài Phân tích sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân và sự vận dụng của Đảng ta ở Việt Nam hiện nay. Đối với Việt
Nam, vấn đề này được Đảng ta rất chú trọng. Việc nghiên cứu về giai cấp công
nhân và sứ mệnh lịch sử vĩ đại của giai cấp này góp phần nâng cao nhận thức
của bản thân sinh viên về đời sống chính trị - xã hội hiện tại, từ đó củng cố niềm
tin vào xã hội chủ nghĩa, cũng như niềm tin vào Đảng và Nhà nước pháp quyền
của dân, do dân, vì dân. Hơn thế nữa, việc hiểu rõ về sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân còn khơi gợi lên lòng yêu nước và tự hào dân tộc, đồng thời thắp
lên ngọn lửa nhiệt huyết và đam mê được học hỏi, được tiến bộ, được cống
hiến hết mình cho đất nước, quốc gia, dân tộc.
2. Những thành tựu của giai cấp công nhân Việt Nam trên các lĩnh vực
Một là, trên lĩnh vực kinh tế
Gần 40 năm qua, kể từ khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới đến nay,
cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giai cấp công nhân nước ta đã
có những chuyển biến quan trọng. Hiện nay, giai cấp công nhân Việt Nam là lực
lượng xã hội to lớn với khoảng 14,8 triệu người, chiếm hơn 14% dân số và hơn
29% lực lượng lao động toàn xã hội.
“Tập đoàn người” đó hiện đang có mặt ở hầu hết các lĩnh vực, các thành
phần kinh tế, trực tiếp tham gia vận hành và sản xuất vật chất chủ yếu của xã
hội. Họ không chỉ là những người lao động sản xuất vật chất trực tiếp, mà còn cả
lao động gián tiếp; không chỉ trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, mà còn cả lĩnh
vực dịch vụ công nghiệp và dịch vụ có tính chất công nghiệp, đặc biệt là bộ phận
công nhân trong những lĩnh vực này ngày càng phát triển nhanh chóng cùng với
quá trình phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Hiện cơ cấu giai cấp công nhân
nước ta trong các ngành kinh tế là: ngành công nghiệp, chế tạo chiếm 51,33%;
ngành xây dựng chiếm 9,24%; thương mại, dịch vụ chiếm 27,92%; vận tải chiếm
4,63%; các ngành khác chiếm 6,88%. Trong đó, công nhân tập trung chủ yếu ở
khối doanh nghiệp ngoài nhà nước, với 58,14% thuộc doanh nghiệp tư nhân
trong nước, 35,25% trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và chỉ
6,61% thuộc doanh nghiệp nhà nước.
Kinh tế - xã hội càng phát triển, đặc biệt là sự ra đời và phát triển của kinh
tế tri thức, sẽ làm cho bộ phận công nhân trình độ thấp, lao động giản đơn ngày
càng giảm, thay vào đó là bộ phận công nhân trí thức với trình độ học vấn và
chuyên môn cao sẽ ngày càng tăng. Những chuyển biến tích cực của giai cấp
công nhân có ý nghĩa rất to lớn, là điều kiện bảo đảm cho việc thực hiện ngày
một tốt hơn sứ mệnh lịch sử của mình trong thời kỳ đổi mới. Không ai khác, họ
chính là lực lượng đi đầu, chủ đạo trong thực hiện chuyển đổi mô hình tăng
trưởng kinh tế từ chiều rộng (chủ yếu dựa vào tăng vốn, lao động giá rẻ, khai
thác tài nguyên thiên nhiên) dần sang chiều sâu (chủ yếu dựa vào sử dụng hiệu
quả các nguồn lực, tiến bộ khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo), tăng
trưởng dựa nhiều hơn vào gia tăng năng suất lao động và vượt mục tiêu đề ra;
trong thúc đẩy và quyết định sự thành công của tiến trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; đóng góp nhiều nhất trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội của cả nước với mức đóng góp hơn 70%
nguồn thu ngân sách quốc gia, tạo ra hơn 65% sản phẩm và các dịch vụ tiện ích
cho xã hội hằng năm.
Hai là, trên lĩnh vực chính trị - xã hội
Việt Nam từ một đất nước nghèo nàn, có cơ sở vật chất - kỹ thuật, kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội lạc hậu, trình độ thấp, đến nay đã vươn lên trở thành
nước đang phát triển và có thu nhập trung bình. Công tác an sinh xã hội cơ bản
được bảo đảm, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được
cải thiện. Nếu như năm 1985, bình quân thu nhập đầu người mới đạt 159
USD/năm thì đến năm 2022 đạt khoảng 4.100 USD/năm, xếp thứ 6/11 nước
trong khu vực Đông Nam Á và thứ 117 trên thế giới. Công tác giảm nghèo đạt
được những thành tựu ấn tượng, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều
giảm còn dưới 3% năm 2020. Diện bao phủ bảo hiểm xã hội được mở rộng với
hơn 16,1 triệu người tham gia, chiếm trên 33% lực lượng lao động trong độ tuổi.
Chất lượng dịch vụ y tế, giáo dục, đào tạo và dạy nghề được nâng lên. Việt Nam
là một trong số ít quốc gia có hệ thống y tế hoàn chỉnh, tổ chức rộng khắp tới
thôn, bản; làm chủ được nhiều kỹ thuật công nghệ cao mang tầm thế giới; kiểm
soát được nhiều dịch bệnh nguy hiểm, trong đó có COVID-19... Quy mô giáo dục
tiếp tục được phát triển, cơ sở vật chất được nâng cao, chất lượng đào tạo từng
bước đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực.
Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; quan hệ
đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đạt nhiều thành tựu nổi bật.
Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế, là thành
viên chủ động, tích cực và có trách nhiệm cao trong các tổ chức quốc tế. Từ một
quốc gia bị bao vây, cấm vận, đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao
với 193 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, xây dựng quan hệ đối tác chiến
lược, đối tác toàn diện với 30 nước, trong đó có tất cả 05 nước thường trực Hội
đồng Bảo an Liên hợp quốc. Năm 2020, Việt Nam đảm nhận các trọng trách
quốc tế quan trọng là Chủ tịch ASEAN, Chủ tịch AIPA-41 và trúng cử Ủy viên
không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021 với số
phiếu cao kỷ lục 192/193 phiếu. Điều này cho thấy sự tín nhiệm và tình cảm của
cộng đồng quốc tế đối với Việt Nam.
Chính vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam luôn được nhân dân tin yêu, đồng
tình ủng hộ, tự nguyện suy tôn là lực lượng giữ địa vị lãnh đạo Nhà nước và xã
hội. Giai cấp công nhân thật sự trở thành lực lượng nòng cốt của khối đại đoàn
kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng trong công cuộc xây dựng một xã
hội tiến bộ, tốt đẹp với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”.
Ba là, trên lĩnh vực văn hóa – tư tưởng
Hệ tư tưởng của giai cấp công nhân Việt Nam là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, được hình thành trên cơ sở kế thừa có chọn lọc thành tựu
văn minh nhân loại; bổ sung, phát triển lý luận và tổng kết thực tiễn, cùng
những dự báo khoa học. Ngay từ Đại hội lần thứ VII của Đảng (năm 1991), trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng
đã khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Mọi đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng đều trên cơ sở vận dụng sáng tạo hệ tư tưởng đó vào thực
tiễn Việt Nam.
Thông qua các tổ chức của mình và bằng nhiều hình thức khác nhau, giai
cấp công nhân không ngừng truyền bá, phổ biến, giáo dục, nâng cao tinh thần
đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng lý luận cho cán bộ, đảng viên, công nhân và các
tầng lớp nhân dân lao động để bảo vệ giá trị khoa học và cách mạng của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; chống lại và phản bác những luận
điểm sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch; kiên định mục tiêu, lý tưởng
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
3. Những thành tựu phát triển nhận thức lý luận về giai cấp công nhân Việt
Nam của Đảng ta
Đã đưa ra quan niệm khá đầy đủ về giai cấp công nhân hiện nay
Nghị quyết 20-NQ/TW ngày 28-1-2008 của Hội nghị Trung ương 6 khóa X
“Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” đã xác định: “Giai cấp công nhân Việt Nam
là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động
chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh
và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công
nghiệp”.
Quan niệm trên đã khẳng định lý luận mácxít về đặc điểm của giai cấp
công nhân là tập đoàn người gắn liền với phương thức lao động công nghiệp,
khẳng định “tính chất công nghiệp” là tính chất nổi bật trong lao động của giai
cấp công nhân nước ta.
Điểm mới trong nhận thức lý luận này là thừa nhận sự tồn tại của giai cấp
công nhân nước ta trong nhiều loại hình - thành phần kinh tế; họ bao gồm cả lực
lượng lao động chân tay và trí óc hoặc gồm cả 2 phương diện đó. Họ là người lao
động, cho nên thu nhập từ “làm công hưởng lương” là lợi ích cơ bản được họ
quan tâm và chế độ phải cùng quan tâm. Họ lao động trong nhiều lĩnh vực bao
gồm cả lao động trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất và cả trong lĩnh vực dịch
vụ, “gián tiếp”. Giai cấp công nhân nước ta được xác định là luôn vận động,
“đang phát triển”, vì vậy quan niệm này chấp nhận sự bổ sung, điều chỉnh.
Quan niệm này cũng có tính chất cập nhật với thế giới. Trong các nghiên
cứu về giai cấp công nhân hiện đại, có thể thấy một xu hướng là phân tách công
nhân thành nhiều nhóm khác nhau tùy theo lĩnh vực (công nghiệp - dịch vụ -
nông nghiệp) hay vị trí của họ trong dây truyền sản xuất (điều hành sản xuất,
trực tiếp sản xuất, sửa chữa bảo trì máy móc,…). Lần đầu tiên, trong quan niệm
về giai cấp công nhân nước ta đã có khái niệm “dịch vụ có tính chất công nghiệp”
với hàm ý là lực lượng lao động dịch vụ có tính xã hội hóa cao. Chuyển dịch cơ
cấu lao động cũng góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam trên thị
trường quốc tế. Thị phần xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam năm 2005
chỉ chiếm 0,28% thị trường Thế giới. Năm 2021 thị phần của Việt Nam đã tăng
gấp 5 lần chiếm 1,2% thị trường thế giới.
Đã phân định rõ sự phát triển của giai cấp công nhân với chủ động xây
dựng giai cấp công nhân trong môi trường mới.
Đặc trưng thứ nhất là môi trường kinh tế có nhiều thành phần hoạt động
theo cơ chế thị trường định hướng XHCN (cách diễn đạt này tuy dài và hiện nay
ít dùng nhưng lại lột tả rõ hiện trạng). So với giai đoạn trước 1986, cơ chế kinh
tế thị trường làm cho công nhân phải linh hoạt hơn, quan tâm đến hiệu quả sản
xuất, hiệu quả kinh tế hơn so với thời bao cấp. Kinh tế nhiều thành phần cũng
làm sinh động hơn, phức tạp hơn cơ cấu của giai cấp công nhân nước ta. Bộ
phận lớn nhất của giai cấp công nhân nước ta hiện đang lao động trong những
thành phần kinh tế ngoài Nhà nước, công nhân đang chịu tác động hàng ngày
của quy luật sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư.
Đặc trưng thứ hai của môi trường phát triển giai cấp công nhân là quá
trình đẩy mạnh CNH, HĐH. Đặc trưng này lại phản ánh hai quá trình đồng thời:
công nghiệp hóa đang ở giai đoạn “tiếp tục đẩy mạnh” và giai cấp công nhân
đang “tiếp tục xây dựng, phát triển”. Cả hai đều đang vận động, phát triển để
hoàn thiện. Chúng vừa hỗ trợ nhau (theo nguyên lý công nhân vừa là sản phẩm
vừa là chủ thể của CNH, HĐH); vừa có những tác động kiềm chế (theo nguyên lý
“hoàn cảnh tạo ra con người ở chừng mức con người tạo ra hoàn cảnh”). Có thể
thấy rõ điều này trên thực tế: nguồn nhân lực cho CNH, HĐH mà không đáp ứng
yêu cầu thì quá trình này phải kéo dài; công nghiệp hóa mà không hiện đại hóa
thì số lượng công nhân tăng nhưng chất lượng về công nghệ không đồng đều.
Chủ động xây dựng giai cấp công nhân trong bối cảnh hiện nay liên quan
đến nhiều chủ thể.
Nghị quyết Trung ương 6 khóa X đã xác định vai trò quyết định là Đảng
Cộng sản Việt Nam trong việc “nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, về giai cấp công nhân và với rèn luyện phẩm chất đạo đức,
tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động”. Theo đó, sự phát triển của giai cấp
công nhân trong Đổi mới khác với giai đoạn trước 1986 ở chỗ: nó liên quan đến
hành động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của giai cấp công nhân,
nâng cao giác ngộ chính trị, văn hóa, quan tâm đời sống vật chất và tinh thần
của công nhân lao động. Đây là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị,
trong đó Nhà nước là nhân tố quan trọng nhất và có trách nhiệm nặng nề nhất.
Tác động trực tiếp và có khả năng mang lại lợi ích gần gũi và thường xuyên nhất
cho công nhân là Công đoàn. Cộng hưởng vào quá trình này là trách nhiệm xã
hội của doanh nghiệp, là ý thức chấp hành pháp luật về lao động của người sử
dụng lao động.
Sự tự giác rèn luyện, tu dưỡng của mỗi người công nhân và cũng là công
dân đóng vai trò trực tiếp trong nâng cao “trình độ chính trị, ý thức giai cấp và
bản lĩnh chính trị, ý thức công dân, tinh thần dân tộc, gắn bó thiết tha với sự
nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, với chế độ xã hội chủ nghĩa, ý chí
vươn lên thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, tinh thần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
tinh thần phấn đấu vươn lên ngang tầm thời đại trong điều kiện phát triển kinh
tế tri thức và hội nhập kinh tế quốc tế, quyết tâm chiến thắng trong cạnh
tranh...”.
Đã phân định rõ công nhân với tư cách là một giai cấp có sứ mệnh lịch sử
với dân tộc và công nhân với tư cách là người lao động trong bối cảnh hiện nay.
Với tư cách là một giai cấp có sứ mệnh lịch sử với dân tộc
Giai cấp công nhân nước ta cũng phải được xây dựng và tự phấn đấu
vươn lên để nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, trau
dồi bản lĩnh chính trị vững vàng và nghị lực lớn, mới có thể thực hiện được sứ
mệnh lịch sử trong thời kỳ mới, đóng góp xứng đáng vào thực hiện mục tiêu xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp...”. Theo đó, cùng
với việc xây dựng những phẩm chất kinh tế - kỹ thuật thì xây dựng những phẩm
chất chính trị - xã hội của công nhân như “ý thức công dân, yêu nước, yêu chủ
nghĩa xã hội, tiêu biểu cho tinh hoa văn hóa của dân tộc” cũng phải được quan
tâm đầy đủ. Hệ thống chính trị trong các doanh nghiệp (các tổ chức Đảng, Công
đoàn, Đoàn thanh niên, Nữ công) là người trực tiếp đảm nhận sứ mệnh này. Và
như vậy, cần phải “tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của tổ
chức công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội khác trong xây dựng giai cấp
công nhân”.
Với tư cách là người lao động
Một đặc điểm nổi bật của công nhân - lao động nước ta hiện nay là khá
đa dạng về thành phần kinh tế, về lợi ích và trình độ công nghệ. Họ cũng buộc
phải làm quen với tư duy kinh tế, hiệu quả sản xuất kinh doanh, biết tính toán
lựa chọn việc làm trong thị trường sức lao động. Cũng cần nói thêm rằng, kết
cấu đa dạng của giai cấp công nhân nước ta hiện nay là một biểu hiện có nhiều ý
nghĩa trong quá trình phát triển của nó. Đa dạng về cơ cấu giai cấp là sự thể
hiện tính sinh động, tự nhiên và hợp lý của sự vận động của công nhân trong
nền kinh tế mang tính “đan xen”, phức hợp của kinh tế trong thời kỳ quá độ.
Công nhân nước ta hiện nay đang lao động trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh những quan tâm về việc làm, thu nhập, mức
sống thì giai cấp công nhân Việt Nam còn là giai cấp có sứ mệnh đi đầu trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Đây là vinh dự và cũng là trọng trách của công nhân nước ta. Theo đó, xây dựng
giai cấp công nhân Việt Nam cần phải chú ý về chính sách trên các hai phương
diện: lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, vị thế người lao động và vị thế người
làm chủ đất nước...
4. Thành tựu phát triển nhận thức lý luận về thực hiện sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân Việt Nam
Đã bước đầu làm rõ nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt
Nam với dân tộc hiện nay.
Việc xác định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam trước hết
là sự vận dụng những tư tưởng căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về giai cấp
công nhân vào thực tiễn nước ta. Đó là vị trí của giai cấp đại diện cho lực lượng
sản xuất hiện đại, “đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến”, gắn liền với
công nghiệp hóa, “là giai cấp lãnh đạo thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng
sản” và “tiên phong trong xây dựng chủ nghĩa xã hội”... Tất cả đều là sự phản
ánh trung thành những nguyên lý mácxít về giai cấp công nhân.
Điểm mới và cũng là điểm sáng tạo so với chủ nghĩa Mác là ở vai trò chủ
động, chủ thể, đi đầu của giai cấp công nhân trong sự nghiệp công nghiệp hóa ở
nước ta. Trong quá trình đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa (tư bản chủ nghĩa)
cách đây hơn 2 thế kỷ và hiện nay ở các nước tư bản chủ nghĩa cũng vậy, giai cấp
tư sản là giai cấp chủ động và là chủ thể của công nghiệp hóa. Vai trò đó sở dĩ có
được do giai cấp tư sản là giai cấp nắm giữ quyền sở hữu và định đoạt quá trình
sử dụng tư bản. Ở Việt Nam hiện nay, giai cấp công nhân cùng nhân dân là chủ
thể quyền lực tối cao, thông qua Đảng và định hướng đường lối công nghiệp hóa
thông qua Nhà nước để quản lý phát triển xã hội. Vừa là người sở hữu xã hội tư
liệu sản xuất vừa là quản lý, sử dụng tư liệu sản xuất của xã hội, giai cấp công
nhân Việt Nam đang góp phần quyết định cho việc xây dựng cơ sở vật chất cho
chủ nghĩa xã hội , giải quyết vấn đề “lao động bị tha hóa” thông qua thực hiện
nội dung kinh tế của sứ mệnh lịch sử. Đó là một sứ mệnh vĩ đại đang được bắt
đầu ở Việt Nam.
Điểm mới thứ hai cũng là sự vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
vào thực tiễn Việt Nam: giai cấp công nhân có vai trò lãnh đạo cách mạng thông
qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam với những đặc trưng khái quát là “vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”. Đặc điểm của Việt Nam hiện nay là một nước
đang phát triển, tỷ lệ hộ nghèo còn cao, các tiêu chí chủ nghĩa xã hội về dân chủ,
công bằng, văn minh vẫn là mục tiêu phấn đấu. Vì vậy, trách nhiệm của giai cấp
công nhân, thông qua đội tiền phong của nó, phải khắc phục hiện trạng trên.
Những giá trị thặng dư mà người công nhân tạo ra, sau phần mà người lao động
được hưởng “bởi đóng góp của mình” và sau phân phối lại theo hiệu quả sản
xuất kinh doanh, mức góp vốn, thì sử dụng chủ yếu cho thực hiện phúc lợi xã
hội. Đó là sự khác nhau giữa chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với chế độ tư bản chủ
nghĩa.
Điểm mới thứ ba là vai trò “nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin nói về
liên minh công - nông, Hồ Chí Minh khẳng định vai trò của liên minh giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức trong cách mạng Việt
Nam. Trong sự nghiệp đổi mới, vấn đề này được Đảng nhận thức sâu hơn về giai
cấp công nhân với vai trò kép: làm nòng cốt cơ sở chính trị xã hội cho sự lãnh
đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và làm nòng cốt cho đại đoàn kết toàn dân
tộc. Cả hai vai trò của giai cấp công nhân là sự thể hiện trên hai phương diện:
đoàn kết giai cấp và đoàn kết dân tộc - một đặc sắc của cách mạng Việt Nam.
Đã có thêm nhiều phát hiện mới từ quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân
Trong bối cảnh kinh tế thị trường nhiều thành phần, thì Công đoàn là tổ
chức gần gũi nhất, tác động trực tiếp nhất đến quyền và lợi ích của giai cấp công
nhân, từ đó mà nâng cao giác ngộ chính trị. Việc làm và lợi ích được hưởng là
quan tâm hàng đầu của nhiều công nhân hiện nay chứ không phải sứ mệnh lịch
sử hay chủ nghĩa xã hội! C.Mác và Ph.Ăngghen từng viết: “Tiền đề đầu tiên của
mọi lịch sử, đó là người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể làm ra lịch sử.
Nhưng muốn sống được, thì trước hết con người phải có thức ăn, thức uống,
nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa...”. Theo đó, muốn nâng cao giác ngộ
chính trị cho công nhân thì Đảng “phải quan tâm đến đời sống vật chất và tinh
thần của người lao động”.
Vấn đề làm thuê và làm chủ, được và mất trong kinh tế thị trường cũng
đã được nhìn nhận rộng hơn, sâu hơn, biện chứng hơn. Chẳng hạn, bị bóc lột
cũng “được”, và đi bóc lột cũng “mất”! Người lao động “được” gì khi tham gia
vào quá trình sản xuất tư bản? Với những công nhân Việt Nam xuất thân từ
nông dân, họ có nghề nghiệp, kỹ năng lao động mới, thu nhập tăng hơn, được
tiếp cận môi trường lao động hiện đại với phương thức lao động và quản lý
mới... Từ đó, giai cấp công nhân có được những tri thức kỹ năng mới để mà
quản lý, làm chủ. Nhà nước thu được thuế, tiếp cận với công nghệ mới, kinh tế
thị trường và sản xuất hàng hóa hiện đại, qua đó mà phát triển sản xuất và “làm
bạn, là đối tác” và chủ động, tích cực hội nhập kinh tế thế giới... Người sử dụng
lao động cũng phải chia sẻ bí quyết công nghệ, chia sẻ thị trường, kinh nghiệm
quản lý, chấp nhận sự nguy hiểm của đồng vốn khi đầu tư, và có cả thất bại, phá
sản v.v. chứ không phải chỉ là và khi nào cũng đạt lợi nhuận. Nguyên tắc hai bên,
các bên cùng có lợi là một yêu cầu khách quan và đã diễn ra trên thực tế.
Tri thức hóa và trí thức hóa công nhân là một thực tế ở Việt Nam. Hiện
nay 9,7% công nhân nước ta có trình độ đại học. Nhiều doanh nghiệp, tập đoàn
đã ứng dụng các công nghệ của cách mạng công nghiệp 4.0. giai cấp công nhân
Việt Nam trong cơ chế thị trường định hướng XHCN, đẩy mạnh CNH, HĐH và
chủ động tích cực hội nhập với thế giới đã và đang “sản sinh ra một tầng lớp trí
thức cho riêng mình” (Ph.Ăngghen).
giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay, về kinh tế và xã hội, “là một lực lượng
xã hội to lớn, đang phát triển”, cho nên chưa đạt đến độ thống nhất cao và có
nhiều tầng lớp. Sự phân hóa, phân tầng đó là tự nhiên, có cơ sở từ thực tiễn
công nghệ và các thành phần kinh tế hiện nay. Theo đó, một mặt tôn trọng thực
tế để có những giải pháp phù hợp khi xây dựng giai cấp công nhân trong các
thành phần kinh tế khác nhau; mặt khác cũng phải luôn chú ý đến việc đoàn kết,
thống nhất giai cấp công nhân. Vị thế, lợi ích của giai cấp công nhân đã và ngày
càng được tìm ra nhiều hơn qua thực tiễn đổi mới. Đó là sự thống nhất giữa lợi
ích của giai cấp công nhân với lợi ích của toàn Dân tộc trong mục tiêu “Độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”; đó là sự thống nhất giữa 3 lợi ích: của cá
nhân người lao động, của tập thể và của xã hội; đó là lòng yêu nước và tinh thần
dân tộc, ý chí vươn lên thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, tinh thần xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc... của mỗi người công nhân.
III. Hạn chế
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, việc thực hiện sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân còn có những hạn chế nhất định.
Vai trò lãnh đạo của một số cấp ủy, tổ chức đảng có lúc, có nơi bị buông
lỏng. Nhiều vấn đề quan trọng trong công cuộc đổi mới chưa được làm sáng tỏ
để phục vụ việc hoạch định chiến lược, chủ trương, chính sách của Đảng, tăng
cường sự nhất trí về chính trị, tư tưởng trong xã hội. Một bộ phận cán bộ, đảng
viên chưa tiên phong, gương mẫu; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” vẫn còn diễn biến
phức tạp…, ảnh hưởng không nhỏ đến năng lực, hiệu quả lãnh đạo, cầm quyền
của Đảng, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội, đến uy tín của Đảng,
niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
Trình độ của giai cấp công nhân còn thấp nên năng suất lao động chưa
cao, chưa hoàn thành được mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Theo kết quả khảo sát của Tổ chức Lao động quốc tế, năng suất lao động của
công nhân Việt Nam thuộc vào nhóm thấp nhất của khu vực, chỉ bằng 1/5
Malaysia, 2/5 Thái Lan, 1/15 Singapore, 1/11 Nhật Bản, 1/10 Hàn Quốc, dự báo
phải đến năm 2038 năng suất lao động của công nhân Việt Nam mới bắt kịp
Philippines, năm 2069 mới bắt kịp được Thái Lan(16). Nhiều công nhân chưa ý
thức được vị trí và vai trò, còn có tâm lý làm thuê, không thiết tha phấn đấu vào
Đảng và tham gia hoạt động trong các tổ chức chính trị - xã hội nên chưa phát
huy được vai trò, địa vị của mình trong sự nghiệp đổi mới. Đời sống và điều kiện
sinh hoạt của giai cấp công nhân còn khó khăn, quyền và lợi ích hợp pháp, chính
đáng của công nhân chưa được bảo vệ, bảo đảm, chưa xứng tầm là một lực
lượng lãnh đạo xã hội.
Sự phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo trong nội bộ ngày càng sâu sắc,
ảnh hưởng đến sự thống nhất, đoàn kết của giai cấp công nhân. Đoàn kết thống
nhất là một trong những đặc điểm chính trị cơ bản của giai cấp công nhân, giúp
công nhân tập hợp các tầng lớp giai cấp khác trong xã hội thực hiện sứ mệnh
lịch sử của mình. Tuy nhiên, hiện nay do sự biến đổi cơ cấu giai cấp công nhân
theo ngành nghề và theo trình độ đã làm phân hóa về thu nhập của giai cấp
công nhân. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, việc
ứng dụng khoa học vào sản xuất ngày càng được đẩy mạnh, dẫn đến sự phân
tầng giữa công nhân. Với xu hướng trí thức hóa công nhân do sự phát triển của
khoa học và công nghệ, thì sự phân tầng, phân hóa trong nội bộ giai cấp công
nhân nước ta sâu sắc hơn trong thời gian tới.
Lập trường giai cấp, bản lĩnh chính trị, lý tưởng cách mạng của một bộ
phận công nhân bị phai nhạt. Mặt trái của kinh tế thị trường, đã làm cho công
nhân có nhận thức không đồng đều về giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, ý
thức tổ chức và kỷ luật lao động. Không ít công nhân còn chưa nhận thức đầy đủ
về sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình. Ý chí phấn đấu, ý thức tổ chức kỷ luật, tính
tiên phong gương mẫu của một bộ phận công nhân giảm sút. Một bộ phận công
nhân trẻ còn bị ảnh hưởng bởi các tệ nạn xã hội, sống buông thả, phai nhạt lý
tưởng, suy thoái về đạo đức, lối sống, xa rời bản chất tốt đẹp của giai cấp công
nhân, gây ảnh hưởng đến doanh nghiệp và hình ảnh người công nhân Việt Nam
trong quá trình hội nhập quốc tế. Bộ phận công nhân chưa thiết tha phấn đấu
vào Đảng và tham gia hoạt động trong các tổ chức chính trị - xã hội điều này ảnh
hưởng đến vai trò tiên phong của giai cấp công nhân nước ta.
IV. Giải pháp
1. Xây dựng và phát triển giai cấp công nhân lớn mạnh, hiện đại, thích ứng
với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là sự nghiệp của bản
thân giai cấp công nhân. Do vậy, để giai cấp công nhân Việt Nam phát huy mạnh
mẽ vai trò của mình đối với sự phát triển của đất nước trong thời kỳ mới, Đảng
xác định: “Xây dựng giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh; nâng cao bản lĩnh
chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công
nghiệp, kỷ luật lao động thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”.
Theo đó, nhiệm vụ trung tâm trong việc xây dựng, phát triển giai cấp công nhân
hiện nay chính là “trí thức hóa công nhân”, nâng cao trình độ và năng lực ứng
dụng, sáng tạo công nghệ mới, tạo ra năng suất lao động ngày càng cao, tiến kịp
với các nước trong khu vực và trên thế giới, tiến tới hình thành ngày càng đông
đảo đội ngũ công nhân trí thức. Để làm tốt nhiệm vụ đó cần:
Thứ nhất, nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo nguồn nhân
lực có trình độ cao trên cơ sở đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo
dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, sử dụng công nghệ thông tin tiếp cận
với trình độ tiên tiến của khu vực và quốc tế, đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực
cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. Hình thành hệ thống
đào tạo kỹ thuật thực hành với nhiều cấp trình độ, củng cố mạng lưới các
trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp trong lĩnh vực kỹ thuật, công
nghệ. Tăng cường sự liên kết giữa các trường đại học, cao đẳng với các viện
nghiên cứu và các doanh nghiệp.
Thứ hai, phát triển mạnh đào tạo nghề cho công nhân trên cơ sở gắn kết
giữa đào tạo và sử dụng. Chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí cho các
trường dạy nghề, ưu tiên xây dựng các trung tâm dạy nghề chất lượng cao theo
tiêu chí trình độ khoa học công nghệ hiện đại trên thế giới, xây dựng một số
trường dạy nghề chuẩn, chương trình chuẩn trong cả nước, để đào tạo những
ngành, nghề mũi nhọn và để công nhân tiếp cận được với sự thay đổi nhanh
chóng của khoa học - kỹ thuật, công nghệ. Thực hiện tốt chủ trương xã hội hóa
giáo dục, trong đó phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa chính quyền các cấp với
doanh nghiệp.
Thứ ba, thường xuyên giáo dục tư tưởng chính trị cho giai cấp công nhân,
nhất là công nhân trẻ, để mỗi công nhân nhận thức được vị trí và vai trò của giai
cấp mình đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh việc giáo dục ý
thức giai cấp, ý thức dân tộc, lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tính tổ chức kỷ luật
và tác phong lao động công nghiệp cho công nhân, cần kết hợp với tổ chức hành
động chính trị, đi đôi với việc “chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, nhà ở và
phúc lợi xã hội cho công nhân; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của
công nhân”. Giáo dục chính trị không tách rời việc giải quyết mâu thuẫn, vướng
mắc, các vấn đề bức xúc mà công nhân hiện nay quan tâm.
2. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về mọi mặt
Với ý nghĩa là nhân tố chủ quan cơ bản hàng đầu, quyết định nhất trong
thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, nên yêu cầu đặt ra là
phải xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về mọi mặt. Cụ thể:
Thứ nhất, xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện trên các mặt chính trị, tư
tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Về chính trị, đó là quá trình xây dựng cương
lĩnh, đường lối chính trị của Đảng đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan và
tổ chức thực hiện thắng lợi cương lĩnh, đường lối đó trong thực tiễn, bảo đảm
cho vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng không ngừng được củng cố và nâng cao. Về
tư tưởng, đó là giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng, nâng cao bản lĩnh chính
trị, lập trường tư tưởng, niềm tin của cán bộ, đảng viên đối với Đảng và chế độ
xã hội chủ nghĩa; tạo sự đoàn kết thống nhất về tư tưởng, ý chí và hành động
trong Đảng và toàn xã hội. Về đạo đức, đó là quá trình tạo lập uy tín và lòng tin
của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Về tổ chức và cán bộ, đó là quá
trình sàng lọc cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất; kiên quyết không để
những kẻ cơ hội núp bóng tổ chức để mưu lợi cho bản thân. Đây là bốn mặt và
cũng là những nội dung quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, có quan hệ
mật thiết với nhau và là tiền đề của nhau.
Thứ hai, giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng.
Đảng phải kiên định mục tiêu, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá
trình lãnh đạo phát triển đất nước; thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng lập
trường, quan điểm, ý thức tổ chức của giai cấp công nhân trong xây dựng đội
ngũ cán bộ và đảng viên; chú trọng phát triển đảng viên từ công nhân. Đảng
phải không ngừng thắt chặt mối quan hệ với giai cấp công nhân và nhân dân,
bảo đảm lợi ích và hài hòa lợi ích của các giai tầng trong xã hội; tăng cường công
tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng nhằm ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ Đảng.
Thứ ba, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng
và hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước. Đảng nâng cao năng lực lãnh đạo
trong định hướng đường lối, chiến lược; đề ra chủ trương, chính sách; tổ chức
và chỉ đạo thực hiện; kiểm tra, giám sát công việc của Đảng; tổng kết thực tiễn,
phát triển lý luận… Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã
hội nhằm xây dựng, phát triển đất nước theo con đường, mục tiêu đã chọn
chính là thể hiện năng lực cầm quyền của Đảng. Thông qua việc thực hiện lý
tưởng cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; kiên
quyết đấu tranh làm thất bại các quan điểm sai trái, hành động chống phá của
các thế lực thù địch; nâng cao bản lĩnh chính trị chiến đấu với những hiện tượng
tiêu cực, thoái hóa trong Đảng, trong xã hội, trong chính bản thân mỗi người của
các tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên là sự biểu hiện tập trung nhất sức
chiến đấu của Đảng.
Lịch sử xây dựng và trưởng thành của giai cấp công nhân Việt Nam luôn
gắn liền với vai trò lãnh đạo của Đảng. Do vậy, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, phát huy bản chất giai cấp công nhân của Đảng, nâng cao năng lực lãnh
đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng là vấn đề có ý nghĩa sâu sắc, bảo
đảm cho giai cấp công nhân thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử vẻ vang của
mình.
Tóm lại, mặc dù giai cấp công nhân Việt Nam còn có hạn chế nhất định
trong thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, nhưng nhìn lại chặng đường cách
mạng Việt Nam hơn 90 năm qua, giai cấp công nhân đã đạt được nhiều thành
tựu trong việc lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ
nghĩa xã hội, đưa nhân dân lao động từ thân phận bị áp bức, bóc lột trở thành
người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Ngày nay, bước vào giai đoạn phát triển
mới, giai cấp công nhân vẫn đang tiếp tục thực hiện và phát huy mạnh mẽ vai
trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, thực hiện mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đảng khẳng định: “giai
cấp công nhân nước ta… đang tiếp tục phát huy vai trò là giai cấp lãnh đạo cách
mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp tiên phong
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế; có nhiều cố
gắng để phát huy vai trò là lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giai cấp công nhân đã đóng góp trực tiếp to lớn
vào quá trình phát triển của đất nước, cùng với các giai cấp, tầng lớp và thành
phần xã hội khác, giai cấp công nhân nước ta là cơ sở chính trị - xã hội vững chắc
của Đảng và Nhà nước”.
PHẦN KẾT LUẬN
Qua các phân tích trên về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trên cả
hai phương diện lý luận và thực tiễn ta có thể khẳng định rằng: Sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân là xoá bỏ chế độ chủ nghĩa tư bản, xoá bỏ chế độ người
bóc lột con người, giải phóng mình, giải phóng nhân dân lao động và toàn thể
nhân loại thoát khỏi sự áp bức bóc lột, xây dựng thành công xã hội cộng sản chủ
nghĩa.
Là một bộ phận của giai cấp công nhân quốc tế, giai cấp công nhân Việt
Nam cũng mang trên mình sứ mệnh lịch sử ấy nhưng ngoài ra trong giai đoạn
hiện nay khi mà Đảng và Nhà nước ta đang đẩy nhanh quá trình công nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước thì giai cấp công nhân Việt Nam cần coi trọng việc
phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học
vấn và nghề nghiệp, nâng cao năng lực ứng dụng và sáng tạo công nghệ mới, lao
động đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao, xứng đáng là lực
lượng đi đầu trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước và vai trò
lãnh đạo cách mạng trong thời kì mới.
Hiểu đúng, hiểu rõ về giai cấp công nhân, đặc biệt là về sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân là một vấn đề hết sức quan trọng trong nhận thức của
mỗi người. Qua đó mỗi cá nhân trong xã hội cần không ngừng nâng cao ý thức
trách nhiệm về giai cấp, về nhận thức xã hội để nâng cao tri thức văn hóa của
mình. Mặt khác trước sự khủng hoảng và sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu
và Liên Xô, nhiều người đã bộc lộ sự dao động và hoài nghi về sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân. Các phần tử cơ hội và các thế lực thù địch đã lợi dụng để
tuyên truyền chống phá nhằm phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
và chủ nghĩa xã hội thì hơn bao giờ hết cần tăng cường công tác tuyên truyền,
giáo dục, nâng cao nhận thức của mọi người về vai trò và sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân. Với những ý nghĩa lớn lao đó, việc phát huy vai trò của giai
cấp công nhân để từ đó xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh luôn là lực
lượng đi đầu trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước là một nội dung
quan trọng trong hoạt động của Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị các cấp ở
nước ta.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Một số giải pháp xây dựng và phát triển giai cấp công nhân trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1995, tr.610
2. Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 2022, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2023,
tr.393, 415-418, 412, 179 và 541
3. Đại sứ quán Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Cộng hòa Áo, Những
thành tựu nổi bật của Việt Nam trong tiến trình đổi mới, hội nhập và phát
triển đất nước, https://vnembassy-vienna.mofa.gov.vn/vi-
vn/News/EmbassyNews/Trang/Những-thành-tựu-nổi-bật-của-Việt-Nam-
trong-tiến-trình-đổi-mới,-hội-nhập-và-phát-triển-đất-nước-.aspx
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.21
5. Nguyễn Linh Khiếu, Một số giải pháp xây dựng và phát triển giai cấp công
nhân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Tạp chí Cộng
sản, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-
/2018/3764/mot-so-giai-phap-xay-dung-va-phat-trien-giai-cap-cong-
nhan-trong-thoi-ky-day-manh-cong-nghiep-hoa%2C-hien-dai-hoa.aspx
6. TS. Trần Thị Như Quỳnh, Thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân việt nam thời kỳ đổi mới, Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị
Khu vực II, https://hcma2.hcma.vn/nghiencuukhoahoc/Pages/con-duong-
di-len-cnxh.aspx?CateID=345&ItemID=12633
7. PGS. TS. Nguyễn Duy Bắc, Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
về hoạt động công đoàn, Tạp chí điện tử Lao động và Công đoàn,
https://laodongcongdoan.vn/van-dung-quan-diem-cua-chu-nghia-mac-
lenin-ve-hoat-dong-cong-doan-76846.html
8. TS. Phạm Văn Giang, Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và bản chất
giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam, Tạp chí điện tử Lý luận
chính trị, http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/dien-, cap-cong-nhan-
cua-dang-cong-san-viet-nam.html
9. TS. Lê Thị Chiên, Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong “Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản” và ý nghĩa thời đại, Trang thông tin điện tử Ban
Tuyên giáo tỉnh ủy Kon Tum, https://www.tuyengiaokontum.org.vn/Lich-
su/su-menh-lich-su-cua-giai-cap-cong-nhan-trong-tuyen-ngon-cua-dang-
cong-san-va-y-nghia-thoi-dai-3122.html
10. Ban Chỉ đạo 35 Bộ Công Thương, Những thành tựu nổi bật trong phát
triển công nghiệp góp phần quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, Bộ Công thương Việt Nam,
https://moit.gov.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/nhung-thanh-
tuu-noi-bat-trong-phat-trien-cong-nghiep-gop-pha.html
11. PGS. TS. Nguyễn An Ninh, Giữ vững, phát huy bản chất giai cấp công
nhân của Đảng trong điều kiện hiện nay, Tạp chí Cộng sản,
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-
/2018/824500/view_content#
12. Sông Côn, Nhận thức sâu sắc hơn sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân, Báo Kon Tum, https://www.baokontum.com.vn/xay-dung-
dang/nhan-thuc-sau-sac-hon-su-menh-lich-su-cua-giai-cap-cong-nhan-
35217.html
13. TS. Lê Thị Chiên, Chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng,
Báo Nhân dân, https://nhandan.vn/chu-nghia-mac-lenin-la-nen-tang-tu-
tuong-cua-dang-post751080.html
14. C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995,
t. 19, tr. 38