Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 179

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA

HỒ CHÍ MINH


HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGÔ THỊ HƯƠNG

GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA CÁC DÂN
TỘC THIỂU SỐ VÙNG ĐÔNG BẮC
VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGÔ THỊ HƯƠNG

GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA CÁC DÂN
TỘC THIỂU SỐ VÙNG ĐÔNG BẮC
VIỆT NAM HIỆN NAY
CHUYÊN NGÀNH: TRIẾT HỌC
MÃ SỐ: 9229001

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


1. GS, TS. Nguyễn Văn Huyên
2. PGS, TS. Bùi Thị Thanh Hương

HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc
xuất xứ rõ ràng và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công
trình khoa học nào.

Tác giả luận án

Ngô Thị Hương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.....................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài........................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án...................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.........................................................3
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu...........................................3
5. Đóng góp mới của luận án....................................................................5
6. Ý nghĩa của luận án...............................................................................5
7. Kết cấu của luận án...............................................................................5
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI LUẬN ÁN......6
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.........................6
1.1.1. Nghiên cứu về văn hóa, bản sắc văn hóa, bản sắc văn hóa các
dân tộc thiểu số......................................................................................6
1.1.2. Nghiên cứu về giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc
thiểu số vùng Đông Bắc.......................................................................22
1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra đối với luận án...26
Tiểu kết chương 1....................................................................................30
Chương 2: LÝ LUẬN VỀ GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN
HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VÙNG ĐÔNG BẮC VIỆT NAM....31
2.1. Bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số..............................................31
2.1.1. Văn hóa và bản sắc văn hóa......................................................31
2.1.2. Những vấn đề cơ bản của bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số....41
2.2. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số vùng
Đông Bắc..................................................................................................44
2.2.1. Bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc.............44
2.2.2. Thực chất của việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu
số vùng Đông Bắc...................................................................................66
2.3. Những yếu tố tác động đến việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa
các dân tộc thiểu số..................................................................................76
Tiểu kết chương 2....................................................................................80
Chương 3: THỰC TRẠNG GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN
HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VÙNG ĐÔNG BẮC VIỆT NAM........81
3.1. Thành tựu của giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc
thiểu số vùng Đông Bắc...........................................................................81
3.1.1. Thành tựu của việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa vật thể....82
3.1.2. Thành tựu của việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa phi
vật thể...................................................................................................87
3.2. Hạn chế của giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số
vùng Đông Bắc..........................................................................................94
3.2.1. Hạn chế của việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa vật thể...94
3.2.2. Hạn chế của việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa phi vật
thể..........................................................................................................98
3.3. Nguyên nhân và một số vấn đề đặt ra đối với việc giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc..................104
3.3.1. Nguyên nhân của thực trạng giữ gìn, phát huy bản sắc văn
hóa các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc..........................................104
3.3.2. Một số vấn đề đặt ra.................................................................119
Tiểu kết chương 3....................................................................................124
Chương 4: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC
THIỂU SỐ VÙNG ĐÔNG BẮC VIỆT NAM.......................................125
4.1. Một số quan điểm nâng cao hiệu quả giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc.......................................125
4.1.1. Giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số theo nguyên
tắc thống nhất trong đa dạng và tiên tiến hóa nền văn hóa Việt Nam...125
4.1.2. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số gắn với
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào..........................128
4.1.3. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số bằng
việc phát huy vai trò chủ thể của đồng bào dân tộc thiểu số...........130
4.2. Những giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc.........................133
4.2.1. Nâng cao chất lượng và đa dạng hóa hình thức, nội dung giáo dục,
tuyên truyền về việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu
số.........................................................................................................133
4.2.2. Xây dựng đội ngũ làm công tác văn hóa đáp ứng yêu cầu giữ
gìn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số.........................139
4.2.3. Đầu tư một cách cân xứng, hài hòa giữa nguồn lực kinh tế và
nguồn lực phát triển văn hóa............................................................141
4.2.4. Nâng cao trình độ, năng lực của đồng bào các dân tộc thiểu số với
tư cách là chủ thể của giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc
mình....................................................................................................144
Tiểu kết chương 4....................................................................................148
KẾT LUẬN.............................................................................................149
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................152
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT

VH : Văn hóa
VHDT : Văn hóa dân tộc
BSVH : Bản sắc văn hóa
BSVHDT : Bản sắc văn hóa dân tộc
DT : Dân tộc
BSDT : Bản sắc dân tộc
DTTS : Dân tộc thiểu số
1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
VH tạo nên diện mạo đặc thù của mỗi một DT. Khi nhắc đến một DT
nào người ta thường nghĩ đến nền VH của DT đó, cũng như muốn tìm hiểu một
DT nào, cách tốt nhất là tìm hiểu nền VH của họ, vì nó là hồn cốt của DT, là nét đặc
trưng căn bản để phân biệt DT này với DT khác. BSVH của mỗi DT chính là cái
cốt lõi, đặc trưng, bản chất nhất của VHDT, nó là bản chất, linh hồn, cốt cách, bản
lĩnh của một DT. Do đó, giữ được BSVH thì DT còn, mất BSVH thì có thể DT đó
mất vĩnh viễn.
Chính vì vậy Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chủ trương xây dựng nền VH
Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc DT - thực chất, đó là xây dựng, phát triển, giữ
gìn BSDT Việt Nam, trong đó có BSVH các DT.
Ngày nay, xã hội hiện đại với toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, phát triển khoa
học - công nghệ, kinh tế thị trường... đang tác động nhiều tới BSVHDT nói chung,
BSVH tộc người nói riêng. BSVH các DTTS cũng đang đứng trước những thách
thức, có nguy cơ mai một, lệch lạc, mờ nhạt... Nhiều yếu tố không lành mạnh thâm
nhập vào nhận thức và cuộc sống vốn trong lành của đồng bào các DTTS, tạo nên
sự lai tạp trong cách nghĩ, lối sống của đồng bào, có xu hướng làm mờ nhạt và mất
đi BSVH truyền thống vốn có của các DTTS.
Vùng Đông Bắc Việt Nam là vùng đất sinh sống của hơn hai mươi DT, chủ
yếu là các DTTS không nằm ngoài xu thế chung của cả nước. BSVH của đồng bào
các DTTS nơi đây vô cùng phong phú, đa dạng về các sắc thái biểu hiện thông qua
các giá trị VH vật thể và VH phi vật thể nhưng đều chứa đựng những giá trị VH đặc
trưng, cốt lõi tồn tại lâu đời trong lịch sử như tinh thần đoàn kết, gắn bó, giúp đỡ lẫn
nhau; lối sống giản dị, mộc mạc, chân tình, hài hòa với con người, với thiên nhiên
núi rừng Đông Bắc; sự sáng tạo, cần cù, chịu khó trong lao động, sự thích ứng cao
với thiên nhiên có phần khắc nghiệt và luôn biết cách đảm bảo sự cân bằng tâm lý...
Những giá trị VH này đã tạo nên cốt cách, bản lĩnh của cả cộng đồng các DTTS
vùng Đông Bắc, giúp cho đồng bào tồn tại, phát triển bền vững trong lịch sử. Bối
2

cảnh và các điều kiện của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, nhất là quá trình phát
triển kinh tế thị trường và xây dựng xã hội hiện đại ở nước ta hiện nay, một mặt đã
tạo ra những điều kiện thuận lợi cho đồng bào các DTTS tiếp tục duy trì, tồn tại,
phát triển các giá trị VH theo hướng hiện đại, mặt khác cũng làm cho các giá
trị VH đó bị pha tạp, biến đổi thậm chí mai một, mất dần BSVHDT như một
thách thức lớn.
Tình hình đó đang đặt ra vấn đề bức xúc hiện nay là làm thế nào để hội nhập
quốc tế và phát triển kinh tế thị trường, xây dựng xã hội hiện đại để phát triển nhanh
mà vẫn giữ gìn và phát huy được BSVH các DTTS; làm thế nào để giữ gìn, phát huy
BSVH các DTTS vùng Đông Bắc một cách hiệu quả để biến sức mạnh VH vùng
Đông Bắc vào sức mạnh chung của sự phát triển đất nước; giải pháp nào để có thể
nâng cao hiệu quả việc giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc góp
phần đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới? Vấn đề này có ý nghĩa thiết thực đối
với sự phát triển vùng Đông Bắc nói riêng và cả nước nói chung, bởi “VH thực sự là
nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng đảm bảo sự
phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc”[34]. Với lý do đó, nghiên cứu
sinh chọn vấn đề “Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số vùng
Đông Bắc Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án Tiến sĩ triết học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
- Mục đích của luận án
Trên cơ sở lý luận về giữ gìn và phát huy BSVH, luận án phân tích để làm rõ
thực trạng của việc giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc Việt Nam
hiện nay; từ đó đưa ra một số quan điểm và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
của việc giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS ở đây.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Khái quát tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài và xác định
những vấn đề luận án cần tiếp tục giải quyết.
+ Phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về BSVH các DTTS và việc
giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc Việt Nam.
3

+ Phân tích làm rõ thực trạng của việc giữ gìn, phát huy BSVH các
DTTS vùng Đông Bắc Việt Nam hiện nay, chỉ ra nguyên nhân của thực trạng
đó và xác định những vấn đề đặt ra đối với việc giữ gìn và phát huy BSVH
các DTTS vùng Đông Bắc Việt Nam hiện nay.
+ Đề xuất quan điểm và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả
của việc giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc Việt Nam trong thời
gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS
vùng Đông Bắc Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Luận án nghiên cứu việc giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS vùng
Đông Bắc nước ta trong thời kỳ đổi mới, khi Việt Nam đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
+ Vùng Đông Bắc theo sự phân chia của Tổng cục Thống kê gồm 10
tỉnh: Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Bắc Kạn,
Yên Bái, Lào Cai, Bắc Giang, Phú Thọ. Tuy nhiên, luận án chỉ nghiên cứu BSVH
các DTTS ở 6 tỉnh: Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên,
Bắc Kạn vì ở đó đậm nét các BSVH vùng này.
+ BSVH các DTTS vùng Đông Bắc được thể hiện hết sức đa dạng.
Trong khuôn khổ một luận án tiến sĩ, luận án chỉ tập trung nghiên cứu BSVH
đó ở một số khía cạnh của VH vật thể và VH phi vật thể; chủ thể, nội dung,
cách thức giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS.
+ Trong các Văn kiện của Đảng và Nhà nước ta, thuật ngữ “dân tộc”
được sử dụng với cả nghĩa rộng để chỉ DT quốc gia (nation) và cả nghĩa hẹp
để chỉ tộc người (ethnic). Trong luận án này, thuật ngữ các DTTS được sử
dụng đồng nghĩa với khái niệm tộc người (ethnic) - tức là theo cách gọi chung
ở nước ta hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận.
4

Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước về việc giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS trong chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước nói chung, DTTS vùng Đông Bắc
nói riêng. Luận án kế thừa kết quả nghiên cứu của một số công trình khoa
học, tài liệu tổng kết thực tiễn của cơ quan Đảng, Nhà nước và địa phương
liên quan đến đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu.
Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử
và các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: lịch sử và logic, phân tích
và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, so sánh, lý luận gắn với thực tiễn, tham quan,
quan sát thực tế…, cụ thể:
Luận án sử dụng phương pháp luận biện chứng duy vật để nhìn nhận sự
vật, hiện tượng VH, BSVH vùng Đông Bắc ở trạng thái vận động, phát triển;
giữa các hiện tượng VH có mối quan hệ biện chứng với nhau; các sự vật, hiện
vật VH đều phải rất cụ thể và chúng tồn tại trong điều kiện lịch sử nhất định.
Phương pháp duy vật lịch sử được sử dụng để nghiên cứu các hiện tượng
VH, BSVH trong mối quan hệ với tồn tại xã hội và nó chịu sự tác động, quy
định bởi tồn tại xã hội.
Phương pháp kết hợp phân tích và tổng hợp được sử dụng để làm rõ các
khái niệm ở chương 2 như khái niệm VH, BSVH, BSVH các DTTS....
Các phương pháp phân tích - tổng hợp, lịch sử và logic, so sánh còn được
sử dụng trong việc đánh giá về thực trạng giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS
vùng Đông Bắc hiện nay.
Phương pháp tham quan, quan sát thực tế các bảo tàng, các lễ hội, một số
địa bàn vùng đồng bào các DTTS sinh sống.
Luận án sử dụng tư liệu thực tế, thu thập thông tin, số liệu của các địa
phương vùng Đông Bắc, cụ thể số liệu của 6 tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn,
5

Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang để phân tích, khái quát thực trạng giữ
gìn, phát huy BSVH các DTTS ở đây.
5. Đóng góp mới của luận án
- Từ góc độ triết học, luận án đã tiếp cận, nghiên cứu VH, BSVH,
BSVH các DTTS vùng Đông Bắc không chỉ dưới dạng hình thức biểu hiện,
mà ở các tầng lớp bên trong của chúng, như phương thức sống và phương
thức lao động sáng tạo ra các giá trị VH. Trên cơ sở lý luận về giữ gìn, phát
huy BSVH, luận án đã khái quát được những vấn đề và những nội dung đặc
thù về việc giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc nước ta.
- Luận án đã phân tích, làm rõ được trước sự phát triển của kinh tế - xã
hội, sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, sự nỗ lực của hệ thống chính trị ở cơ
sở cũng như sự chủ động, tích cực, tự giác của đồng bào các DTTS mà các
giá trị VH vật thể và các giá trị VH phi vật thể cơ bản vẫn tiếp tục được giữ
gìn, phát huy trong chính đời sống của đồng bào. Bên cạnh đó luận án cũng
phân tích, làm rõ được sự mai một, mất dần BSVH biểu hiện trong VH vật thể
và VH phi vật thể của đồng bào các DTTS trước tác động của kinh tế thị
trường, của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế cũng như sự hạn chế về nhận
thức, hoạt động kém hiệu quả của các chủ thể trong việc giữ gìn, phát huy
BSVH đó.
- Luận án đã đưa ra được một số quan điểm hợp lý cần được quán triệt sâu
sắc, đó là: Giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS theo nguyên tắc thống nhất trong đa
dạng và tiên tiến hóa nền VH Việt Nam; gắn với nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của đồng bào; phát huy vai trò chủ thể của đồng bào. Trên cơ sở đó, luận án đã
đưa ra những giải pháp cụ thể, khả thi để nâng cao hiệu quả giữ gìn, phát huy
BSVH các DTTS vùng Đông Bắc trong bối cảnh và điều kiện hiện nay như là:
Nâng cao chất lượng và đa dạng hóa hình thức, nội dung giáo dục, tuyên truyền;
Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa đáp ứng yêu cầu giữ gìn, phát huy
bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số; Đầu tư một cách hài hòa, cân xứng giữa mục
tiêu phát triển kinh tế với mục tiêu phát triển văn hóa; Nâng cao trình độ, năng lực
của đồng bào các dân tộc thiểu số với tư cách là chủ thể giữ gìn, phát huy bản sắc
6

văn hóa của dân tộc mình.


6. Ý nghĩa của luận án
- Ý nghĩa lý luận:
+ Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm phong phú và sâu hơn
lý luận về giữ gìn, phát huy BSVHDT, đặc biệt là của các DTTS vùng Đông
Bắc Việt Nam.
+ Cung cấp cơ sở khoa học cho công tác hoạch định chiến lược, chính
sách phát triển VH ở đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc nước ta.
- Ý nghĩa thực tiễn:
Luận án là tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và
học tập trong các cơ quan nghiên cứu chuyên ngành và các trường Đại học,
Cao đẳng ở nước ta.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận án
được kết cấu thành 4 chương với 10 tiết.
7

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
1.1.1. Nghiên cứu về văn hóa, bản sắc văn hóa, bản sắc văn hóa các
dân tộc thiểu số
* Tình hình nghiên cứu về VH
VH là lĩnh vực rộng lớn của xã hội, nó cũng là lĩnh vực khoa học cơ
bản của khoa học xã hội và nhân văn. Nghiên cứu về VH đã được đề cập từ
xa xưa trong lịch sử khoa học nhân loại. Cho đến ngày nay, VH vẫn là đề tài
vừa cơ bản vừa cấp thiết tiếp tục được các nhà khoa học, các nhà hoạt động
VH, các tổ chức quốc tế nghiên cứu, mổ xẻ dưới nhiều góc độ khác nhau.
Trước hết, nghiên cứu VH là nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản, chung
nhất, xác định bản chất, cấu trúc và đặc điểm của VH. Có thể kể đến một số
công trình tiêu biểu sau:
Công trình “Văn hóa nguyên thủy” của E.B.Tylor [151] đã quan niệm
VH là tổng thể phức hợp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức,
luật pháp, phong tục và bất cứ năng lực và tập quán nào được lĩnh hội bởi con
người với tư cách thành viên của xã hội.
Quan niệm về VH của Tylor như trên, thực chất chỉ đi vào một khía
cạnh của VH đó là các giá trị tinh thần, còn các giá trị vật chất không được
ông đề cập đến và nó nằm ngoài khái niệm VH.
Hội nghị thế giới về chính sách văn hóa do UNESCO tổ chức tại
Mexico từ ngày 26-7 đến ngày 6-8-1982 đã thông qua Tuyên bố chung, trong
đó nêu rõ bản chất của VH là tổng thể những nét nổi bật về tinh thần, vật chất,
trí tuệ và tình cảm đặc trưng cho một xã hội hay một nhóm xã hội. Nó không
chỉ gồm nghệ thuật và văn học mà còn cả lối sống, các quyền cơ bản của con
người, các hệ thống giá trị, truyền thống và tín ngưỡng.
8

Định nghĩa về VH của UNESCO năm 1982 đã trình bày một cách có hệ
thống và toàn diện các thành tố của VH theo nghĩa rộng nhất của nó. Quán
triệt tinh thần cơ bản trên, nhân dịp phát động Thập kỷ thế giới phát triển văn
hóa (1988-1997) trên phạm vi toàn cầu, ngài Tổng giám đốc UNESCO
Federico Mayor đã nhấn mạnh thêm rằng: “VH là tổng thể sống động các
hoạt động sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động
sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và các thị
hiếu -những yếu tố xác định đặc tính riêng của DT....”[90; 33,34]. Quan điểm của
ngài Mayor thể hiện rõ bản chất của VH là hoạt động sáng tạo của con người tạo ra
các giá trị, và nó làm nên đặc tính riêng của các DT để phân biệt DT này với DT
khác.
Như vậy, các nhà khoa học, các nhà hoạt động VH, các tổ chức quốc tế
đã nhận diện VH ở các góc độ khác nhau, qua đó vấn đề bản chất của VH
được bộc lộ. Có công trình tiếp cận VH theo nghĩa hẹp, chỉ bao gồm các giá
trị tinh thần, có công trình tiếp cận VH theo nghĩa rộng, bao gồm cả các hoạt
động sáng tạo của con người và kết quả của hoạt động sáng tạo đó là các giá
trị vật chất và tinh thần.
Trong định nghĩa VH của mình, Hồ Chí Minh cũng đã chỉ ra các thành tố
chủ yếu tạo nên VH đó là ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các
phương thức sử dụng. Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh đặc trưng sáng tạo
và phát minh của VH và chỉ ra mục tiêu của VH là vì sự sinh tồn và mục đích của
cuộc sống con người. Mặc dầu Người không bàn sâu về VH, song hoàn toàn có thể
khẳng định đó là những quan điểm có giá trị khoa học về VH.
Trong Tuyển tập “Khái niệm và quan niệm về văn hóa”[41], tác giả Trần Độ
đã tiếp cận VH dưới góc độ hoạt động sáng tạo của con người theo hướng chân,
thiện, mỹ. Tác giả cho rằng: “VH là những quá trình hoạt động sáng tạo của con
người theo hướng chân, thiện, mỹ và các sản phẩm của hoạt động đó được lưu
9

truyền từ đời này qua đời khác. Những cái đó có tác dụng phát triển các lực lượng
bản chất của con người, bao gồm cả lực lượng thể chất và lực lượng tinh thần (ý
thức, khả năng sáng tạo) do đó, làm cho xã hội tiến bộ”[41;16].
Công trình “Văn hóa và đổi mới”[42] của Phạm Văn Đồng đã tiếp cận
VH theo nghĩa rộng nhất, theo đó VH là tất cả những gì không phải thiên
nhiên, nghĩa là tất cả những gì do con người, ở trong con người và liên quan
trực tiếp nhất đến con người. VH theo tác giả đó chính là những gì do con
người sáng tạo ra, tất cả những gì có trong con người như tâm tư, tình cảm, tư
tưởng, lý tưởng... và cả những gì có trong mối quan hệ với con người. Đồng
thời, tác giả đã khu biệt VH với thiên nhiên.
Công trình “Đại cương văn hóa phương Đông”[139] do Lương Duy
Thứ (chủ biên) đã tiếp cận VH theo nghĩa rộng, đó là hệ thống các giá trị vật chất
và tinh thần được hình thành, lưu truyền và phát triển qua quá trình sáng tạo của con
người trong sự tương tác với môi trường VH với hình thái ý thức xã hội, mặc dù
hình thái ý thức xã hội (chính trị, triết học, VH, nghệ thuật...) là một thành tố của
VH. VH không chỉ bao gồm văn minh tinh thần mà còn bao gồm cả văn minh vật
chất (văn vật, cảnh quan, kiến trúc...). Trong công trình này, tác giả cũng đề cập đến
nội dung của VH được xác định trong VH nhận thức (nhân sinh quan, thế giới
quan, triết học, mỹ học, văn học, nghệ thuật...) các thành tựu của VH ứng xử (bao
gồm các thang giá trị trong cách ứng xử với thiên nhiên và ứng xử với con người,
với gia đình, với xã hội...) các thành tựu của VH tổ chức đời sống (bao gồm các
thang giá trị trong cách tổ chức đời sống gia đình, cộng đồng, xã hội...). Như vậy,
không thể coi VH là tất cả mà VH chỉ là những thành tựu được thăng hoa thành vẻ
đẹp. Cũng không thể hiểu VH quá hẹp, ví dụ như nâng cao trình độ VH, thường chỉ
dùng để chỉ học vấn, kiến thức ...
Công trình “Văn hóa, một số vấn đề lý luận”[88] của tác giả Trường
Lưu, trong phần tiếp cận khái niệm, bản chất VH, tác giả đã cho rằng VH là
sản phẩm cụ thể gắn với cái DT, những thành tựu và tinh hoa của nó góp vào
10

kho tàng sáng tạo của loài người. Ngoài tính DT, VH còn có tính nhân loại
phổ quát mang đậm dấu ấn nhân tính tạo nên giá trị nhân văn. Bất cứ sáng tạo
của lĩnh vực nào mang tính giá trị, gắn với lợi ích con người đều bao hàm ý
nghĩa nhân văn ở cấp độ khác nhau, trực tiếp hoặc gián tiếp theo đặc thù của
mỗi lĩnh vực. Như vậy, tác giả đã tiếp cận VH ở góc độ hoạt động sáng tạo ra
các giá trị và đồng thời tác giả cũng chỉ ra tính chất của VH đó là tính DT
(gắn với các điều kiện đặc thù của DT) và tính nhân loại (hướng tới các giá trị
chung mang tính phổ quát).
Công trình “Văn hóa và phát triển”[59] của tác giả Đỗ Huy đã lược
khảo các quan niệm về VH ở phương Đông và phương Tây theo dòng lịch sử,
quan niệm Mácxít và quan niệm của Hồ Chí Minh về bản chất của VH. Trên
cơ sở đó, tác giả đưa ra quan niệm của mình về VH, nó chính là tổng thể các
giá trị do con người tạo ra, đó là các giá trị vật chất, các giá trị tinh thần và
bản thân sự phát triển của con người. Tác giả cho rằng, trong VH, cả ba giá trị
này đều tương tác và gắn bó với nhau. Trong các giá trị vật chất có các giá trị tinh
thần và trong các giá trị tinh thần đều hàm chứa các giá trị vật chất. Trong hai giá trị
đó cũng hàm chứa sự phát triển năng lực bản chất của con người.
Tóm lại, các nhà nghiên cứu, các nhà hoạt động VH trên thế giới cũng
như ở Việt Nam đã có sự nhận diện VH là khác nhau về độ rộng hẹp của vấn
đề, về giới hạn phạm trù của các hệ thống, lĩnh vực VH; về thành tố, cấu trúc,
đặc trưng của VH, về mối quan hệ giữa VH học với các khoa học khác, chứ
không phải khác nhau về cái gốc, cái nền, cái tổng quát, cái đại thể của VH.
* Tình hình nghiên cứu về BSVH
Công trình “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam”[130] của tác giả Trần
Ngọc Thêm đã vận dụng cách tiếp cận hệ thống - cấu trúc kết hợp với phương
pháp so sánh - loại hình để tiến hành khảo sát VH Việt Nam trong một bức
tranh toàn cảnh, trên cơ sở so sánh nó với những nền VH xa (của thế giới) là
VH các DT phương Tây và một nền VH gần (của khu vực) có liên hệ mật
11

thiết là VH Trung Hoa, đồng thời chỉ ra được những mối liên hệ mang tính
quy luật chặt chẽ giữa các thành tố (trên bình diện đồng đại) và giữa các thời
kỳ phát triển (trên bình diện lịch đại) của VH Việt Nam. Công trình đi tìm
những nét bản sắc - đó là những đặc trưng cơ bản cần thiết cho việc hiểu VH
Việt Nam cùng những quy luật hình thành và phát triển của chúng. Những
đặc trưng đó được biểu hiện trong VH nhận thức, VH tổ chức cộng đồng, VH
ứng xử với môi trường tự nhiên, VH ứng xử với môi trường xã hội.
Công trình “Bản sắc văn hóa Việt Nam”[101] của Phan Ngọc, sau khi
giới thiệu định nghĩa sơ bộ về VH, tác giả đã sử dụng định nghĩa này để tìm
hiểu BSVH Việt Nam. Trên cơ sở tiếp cận VH không phải ở những vật mà là
hệ thống những quan hệ, tác giả đã khảo sát các yếu tố Tổ Quốc, Gia đình,
Thân phận, Diện mạo một cách sơ lược trong sự khu biệt với một số VH khác
để nêu bật BSVH Việt Nam.
Bài viết “Văn hóa, phát huy bản sắc và hội nhập”[61] của tác giả
Nguyễn Văn Huyên đã quan niệm BSVH như một tụ điểm chói sáng, chiết
xuất và hội kết muôn vàn vòng sáng đa sắc của toàn bộ tinh hoa VH các sắc
tộc của toàn DT. Trên cơ sở đó, tác giả cũng đưa ra quan niệm về BSVHDT,
đó chính là bộ gen, là nhân lõi của bản chất VH của mỗi DT, là cái cốt lõi bên
trong tựa như tấm căn cước của mỗi DT.
Công trình nghiên cứu“Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc -
vai trò của nghiên cứu và giáo dục”[120] bao gồm nhiều bài viết của nhiều
tác giả đề cập đến vấn đề VH và BSVHDT. Bài viết “Về tính bền vững và
biến đổi trong bản sắc văn hóa dân tộc”[120;178] của tác giả Hồ Anh Dũng
đã đề cập đến quan niệm, đặc trưng, kết cấu của VH và BSVHDT, làm cơ sở
để tìm hiểu tính bền vững và biến đổi trong BSVHDT. Từ đó, tác giả đi đến
khẳng định: Trong công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường, mở
cửa, giao lưu, hợp tác với các nước có chế độ chính trị khác nhau thì chỉ có
dựa trên cơ sở giữ gìn và phát huy tốt BSVHDT, chúng ta mới có nội lực để
12

tiếp thu được những tinh hoa VH của thời đại, làm tăng nguồn lực để phát
triển nhanh và bền vững. “Bản sắc văn hóa dân tộc bắt nguồn từ bản lĩnh dân
tộc”[120;52] của tác giả Hồ Lê đã xem xét vấn đề BSVHDT theo hai bình
diện: BSVH của DT Việt Nam và BSVH của từng DT trong nước Việt Nam.
Đồng thời, tác giả cũng khẳng định bản lĩnh DT là cội nguồn của bản sắc DT,
BSVHDT cũng có tác động ngược lại củng cố bản lĩnh DT, giúp cho DT tự
tin, phát huy tốt hơn bản lĩnh của mình để vượt qua các thử thách của lịch sử.
Công trình “Giá trị truyền thống trước những thách thức của toàn cầu
hóa”[64] do tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn và tác giả Nguyễn Văn Huyên (đồng
chủ biên) gồm nhiều bài viết về vấn đề BSVH như: “Toàn cầu hóa và một số
vấn đề đặt ra đối với bản sắc văn hóa Việt Nam”[64;223] của tác giả Nguyễn
Văn Huyên; “Bản sắc văn hóa dân tộc trong xu thế toàn cầu hóa”[64;236] của
tác giả Trần Văn Bính. Tác giả bài viết cho rằng, BSVH không chỉ biểu hiện rõ
rệt trong đạo đức, trong lối sống, trong các hoạt động nghệ thuật mà còn tiềm ẩn
trong phong tục tập quán, những cách cảm nhận riêng về thế giới về không gian
và thời gian.
Công trình “Bản sắc văn hóa dân tộc”[129] của tác giả Hồ Bá Thâm đã
chỉ ra bản chất của BSVHDT, tác giả cho rằng BSVHDT đó là một kiểu tổ hợp,
kết hợp những phẩm chất, những giá trị VH nội sinh và ngoại sinh tạo thành linh
hồn, sức sống bền vững của DT, có những nét ưu trội hơn một số DT khác,
mang tính ổn định trong quá trình lịch sử đấu tranh và xây dựng của DT đó.
Trong bài viết “Bản sắc và giao lưu văn hóa - từ góc nhìn Triết
học”[113], tác giả Bùi Thanh Quất cũng đưa ra quan niệm về BSVH, tác giả cho
rằng, BSVH không phải là cái trừu tượng khó thấy mà được hiển lộ ra trong đời
sống hàng ngày của mỗi người và cả cộng đồng. Đó là những nét riêng để phân
biệt được người Việt Nam với các cộng đồng DT khác trên thế giới. Nét riêng đó
được thể hiện từ nếp sống của mỗi thành viên trong gia đình với nhau đến cách
ứng xử của cả DT với các DT khác.
13

Cuốn sách “Bản sắc dân tộc và hiện đại hóa văn hóa Việt Nam, mấy
vấn đề lý luận và thực tiễn”[21], tác giả Thành Duy cho rằng, tất cả những
yếu tố tạo nên BSDT của VH, đó là điều kiện tồn tại và phát triển của mỗi
DT. Cho nên, giữa lịch sử phát triển của DT với lịch sử hình thành BSVHDT
có mối quan hệ hữu cơ, biện chứng, không thể tách rời. Tác giả chỉ ra sự
thống nhất giữa tính DT của VH với BSVHDT: “Tính chất DT thể hiện trong
cộng đồng người hình thành trong lịch sử, trong ngôn ngữ, trong ý thức cộng
đồng, trong tâm lý DT, trong phong tục, tập quán, lối sống, trong sinh hoạt
kinh tế và nói chung là biểu hiện VH trong mỗi cộng đồng. Tính chất DT ấy,
chính là BSVH của mỗi DT”[21;17].
Tác giả cũng khẳng định BSDT cũng như BSVHDT không phải là bất
biến, cố hữu, không bao giờ thay đổi, mặc dù nó hình thành trong truyền
thống và gắn với truyền thống VH lâu đời của DT mà nó phát triển trong sự
vận động của môi trường tự nhiên và điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, gắn
với thể chế chính trị của một xã hội cụ thể.
Cuốn sách “Giá trị văn hóa Việt Nam - truyền thống và biến đổi”[134]
do tác giả Ngô Đức Thịnh (chủ biên) đã quan niệm BSVH là một tổng thể các
đặc trưng của VH, được hình thành, tồn tại và phát triển suốt quá trình lịch sử
lâu dài của DT. Các đặc trưng VH ấy mang tính bền vững, trường tồn, trừu
tượng và tiềm ẩn, muốn nhận biết được BSVH phải thông qua vô vàn những
sắc thái VH, với tư cách là sự biểu hiện của BSVH ấy. Tác giả cũng cho rằng,
nhiều khi hiểu BSVH chính là các giá trị VH khi coi đó như là cái căn cước,
cái đặc thù của mỗi cộng đồng, phân biệt nó với cộng đồng khác.
Tất cả các bài viết, các công trình khoa học này đã phân tích sâu sắc và
toàn diện về bản chất, nội dung, vai trò, vị trí của BSVHDT những vấn đề
phải đối mặt của BSVHDT trong bối cảnh toàn cầu hóa, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Qua đó, cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định và tổ chức
triển khai các nội dung trong quan điểm, đường lối, chính sách phát triển VH
14

của Đảng và Nhà nước ta.


Có thể nói, các sách, các bài viết, các công trình nghiên cứu đã tiếp cận
vấn đề BSVH, BSVHDT từ nhiều góc độ khác nhau nhưng đều có điểm
chung là chỉ ra bản chất của VH chính là quá trình hoạt động sáng tạo của con
người. Kết quả của quá trình hoạt động sáng tạo đó chính là hệ thống các giá
trị vật chất và tinh thần. Trong hệ thống các giá trị đó, có những giá trị đặc
trưng, cốt lõi, tinh túy nhất và là cái để phân biệt DT này với DT khác và
được gọi là BSVHDT. Các nhà nghiên cứu cũng đều khẳng định BSVHDT
chính là sức mạnh nội sinh để đưa đất nước phát triển bền vững trong thời kỳ
mở cửa, hội nhập quốc tế. Từ đó, đi đến kết luận cần thiết phải giữ gìn và phát
huy BSVHDT và đưa ra một số định hướng và giải pháp nhằm giữ gìn, phát
huy BSVHDT trong bối cảnh mở cửa, hội nhập quốc tế sâu rộng.
Tuy nhiên, thực tiễn đất nước và thời đại luôn vận động, do đó đặt ra
yêu cầu cho công tác nghiên cứu lý luận là phải tiếp tục làm rõ hơn nhiều vấn
đề đã, đang và sẽ nảy sinh trong quá trình giữ gìn và phát huy BSVHDT để có
những giải pháp kịp thời nhằm nâng cao hiệu quả của việc giữ gìn và phát
huy BSVHDT.
* Tình hình nghiên cứu về BSVH các DTTS
Việt Nam có 54 DT anh em, mỗi DT đều góp vào sự hình thành sắc thái VH
chung của cả nước bằng những đặc trưng VH riêng độc đáo, tạo nên một nền
VH Việt Nam thống nhất trong đa dạng. Ngoài DT Kinh chiếm đa số, 53
DTTS còn lại cư trú đan xen, rải rác khắp các vùng miền trong cả nước,
nhưng tập trung chủ yếu ở các vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới,
có đời sống vật chất kém phát triển hơn so với DT Kinh. Tuy vậy, nhưng
chính ở DTTS lại là nơi chứa đựng nhiều giá trị VH độc đáo thu hút sự quan
tâm, chú ý của nhiều nhà nghiên cứu, nhà khoa học trong và ngoài nước,
trong đó có công trình nghiên cứu từ rất sớm như: “Thai, kadai và
indonesiens” (Những tộc người nói ngôn ngữ Thái, Kađai và Inđônêxia)[5]
15

của P.K.Benedct. Công trình này đã đề cập đến phong tục, tập quán, ngôn
ngữ, đặc điểm DT học của một số tộc người nói ngôn ngữ Thái, Kađai và
Inđônêxia ở Việt Nam. Thông qua các hoạt động nghiên cứu đào tạo, trao đổi,
hợp tác khoa học, các học giả nước ngoài cũng tìm hiểu, nhận xét, đánh giá về
VH các DTTS vùng miền núi phía Bắc như công trình nghiên cứu: “Mấy
nhận xét về lý luận và thực tiễn một chuyến đi thăm các dân tộc thiểu số ở
Tây Bắc và Việt Bắc”[49] của A.G.Haudricourt. Ngoài ra, còn có công trình
nghiên cứu “Những xu hướng phát triển ở vùng núi phía Bắc Việt Nam”[16]
của Donovan, qua công trình này đã góp phần giới thiệu về VH các DTTS ở
miền núi phía Bắc với bạn bè quốc tế, để họ có cái nhìn rõ hơn về sự thống
nhất trong đa dạng của nền VH Việt Nam. Ngoài sự hợp tác trong lĩnh vực
nghiên cứu đào tạo, còn có sự hợp tác trong lĩnh vực xóa đói giảm nghèo, bảo
vệ môi trường sinh thái, do đó, các học giả nước ngoài cũng có những nghiên
cứu trong lĩnh vực này như: “Socio-economic Overview of the Northern
Mountain Region and the Project and poverty reduction in the Northern
Mountain Region of Vietnam” (Tổng quan tình hình kinh tế - xã hội khu vực
miền núi phía Bắc và dự án xóa đói giảm nghèo ở khu vực miền núi phía Bắc
Việt Nam)[74] của Neil Jamieson; “Rethinking Approaches to Ethenic
Minority Develoment, the case of Vietnam” (Nghĩ lại cách tiếp cận chương
trình phát triển DTTS, trường hợp Việt Nam)[75] ….
Trên cơ sở tình hình kinh tế - xã hội của khu vực miền núi phía Bắc,
những nghiên cứu, báo cáo này đã đưa ra một số khuyến nghị về việc bổ
sung, hoàn thiện đường lối, chính sách cho phù hợp với tình hình thực tiễn
của các DTTS, qua đó, góp phần phát huy vai tṛò của VH với tư cách là năng
lực nội sinh của người DTTS trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Ở trong nước cũng có nhiều công trình nghiên cứu về VH các DTTS
như: “Một số vấn đề về phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số”[121] của tập
thể các tác giả. Cuốn sách gồm nhiều bài viết của các tác giả về vấn đề cái
16

chung, cái riêng trong sự phát triển nền VH Việt Nam. Cái riêng đó chính là
VH tộc người, VH của từng DT cụ thể sinh sống trong lãnh thổ Việt Nam,
góp vào nền VH chung thống nhất những nét VH độc đáo, đặc sắc, đặc trưng
của từng DT. Cũng trong cuốn sách này, tác giả Ngô Đức Thịnh có bài viết
“Về sự thâm nhập và xuất hiện cái mới trong văn hóa các dân tộc thiểu
số”[121], tác giả đã phân tích, làm rõ trong VH các DTTS, các hiện tượng VH
mới dần dần xuất hiện và nảy sinh do sự phát triển nội tại của nền VH mỗi
DT, là sản phẩm của quá trình giao lưu, ảnh hưởng VH giữa các DT, giữa các
nước đang diễn ra hết sức sống động hiện nay. Tác giả đã đưa ra những chỉ
dẫn về sự xuất hiện các hiện tượng VH mới trong cả VH vật chất lẫn VH tinh
thần. Qua đó, giúp chúng ta nhận diện được xu hướng biến đổi của VH các
DTTS trong bối cảnh kinh tế - xã hội mới hiện nay. Từ đó, cung cấp những cơ
sở khoa học cho việc hoạch định các chiến lược phát triển VH ở vùng các
DTTS nước ta.
Trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, VH có thể
là động lực phát triển kinh tế - xã hội, ngược lại cũng có thể là áp lực kìm hãm sự
phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, việc quản lý xã hội trên cơ sở những lý luận và
thực tiễn về VH tộc người, về VH vùng là hết sức cần thiết. Do đó, các công trình
“Tìm hiểu văn hóa vùng các dân tộc thiểu số”[110] của tác giả Lò Giàng Páo; “Sắc
thái văn hóa địa phương và tộc người trong chiến lược phát triển đất nước ”[108]
của nhà xuất bản Khoa học xã hội; “Xu hướng biến đổi cấu trúc văn hóa vùng ở các
tỉnh phía Bắc Việt Nam”[58] của tác giả Lại Phi Hùng.... đã gợi lên những vấn đề
chung như: Sắc thái VH tộc người, sắc thái VH địa phương (VH vùng), sự thống
nhất trong đa dạng của nền VH Việt Nam, những xu hướng biến đổi cơ bản về VH
ở các tỉnh phía Bắc trong những năm đổi mới... để các nhà làm công tác quản lí VH
tham khảo trong khi làm quy hoạch và chỉ đạo cụ thể VH vùng các DTTS. Đặc
biệt, trong cuốn “Văn hóa các dân tộc Tây Bắc”[7] của tập thể các tác giả nhóm đề
tài khoa học cấp nhà nước do tác giả Trần Văn Bính (chủ biên) đã đánh giá, phân
17

tích tương đối toàn diện, khách quan về thực trạng đời sống VH của một số DTTS
vùng Tây Bắc trong công cuộc đổi mới, đồng thời dự báo xu hướng, đề xuất những
giải pháp vừa cơ bản, vừa cấp bách nhằm tiếp tục phát triển đời sống VH các DT
trên địa bàn dưới tác động của sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Cuốn sách là tài liệu tham khảo hữu ích đối với các nhà nghiên cứu và
hoạt động trên lĩnh vực VH, giáo dục, VH nghệ thuật có liên quan đến chủ đề
DTTS ở nước ta.
Việc nghiên cứu để xây dựng VH vùng các DTTS nhằm bảo vệ, phát
huy những giá trị VHDT không những về mặt tinh thần, các tri thức truyền
thống, văn học nghệ thuật, những tình cảm, thuần phong mỹ tục mà còn cả về
mặt vật chất như các mặt VH đảm bảo cuộc sống như ăn, mặc, ở, đi lại, môi
trường VH....Tiêu biểu cho lĩnh vực nghiên cứu này là các công trình: “Văn
hóa các dân tộc thiểu số từ một góc nhìn”[102] của tác giả Vi Hồng Nhân;
“Đời sống văn hóa các dân tộc thiểu số trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa”[9] do Trần Văn Bính (chủ biên)... Những công trình này đã trình bày
một cách tổng quát một số giá trị độc đáo, cơ bản nhất trong VH các tộc
người. Những giá trị đó không những bảo đảm cho sự tồn tại của các tộc
người trong lịch sử mà nếu biết phát huy tốt sẽ tạo điều kiện để các tộc người
phát triển trong điều kiện hiện nay.
Trong công trình “Văn hóa, văn hóa tộc người và văn hóa Việt
Nam”[133], tác giả Ngô Đức Thịnh cũng bàn đến VH tộc người, thực trạng và
sự biến đổi VH các tộc người thiểu số. Dựa trên góc độ tiếp cận VH và phát
triển, tác giả chỉ ra thực trạng VH các DTTS ở các khía cạnh: cơ cấu xã hội cổ
truyền của các DTTS, về VH vật chất, về VH tinh thần, các khuynh hướng
biến đổi đời sống VH các DTTS. Trên cơ sở đó, tác giả chỉ ra những vấn đề
đặt ra trong phát triển VH các DTTS. Những vấn đề vừa thuộc các khía cạnh
nhận thức của con người, nhất là của những người quản lý, lại vừa thuộc khía
cạnh cơ chế, tổ chức thực hiện. Từ đó cung cấp cho bạn đọc bức tranh tổng
18

quát về thực trạng VH các DTTS ở nước ta, là cơ sở để các nhà hoạch định
chính sách, các nhà nghiên cứu đưa ra những chính sách, biện pháp nhằm
phát triển VH ở vùng các DTTS.
Nghiên cứu cơ bản về VH từng DT là một hướng nghiên cứu lâu dài
của DT học và nhiều bộ môn khoa học xã hội và nhân văn. Qua các công trình
nghiên cứu, những đặc trưng cơ bản về lịch sử, kinh tế, xã hội, VH của các
DT được làm sáng tỏ, tiêu biểu là các tác phẩm: “Sơ lược giới thiệu các nhóm
Tày - Nùng - Thái ở Việt Nam”[83] của nhóm tác giả Lã Văn Lô, Đặng
Nghiêm Vạn; “Người Dao ở Việt Nam”[35] của Bế Viết Đẳng và nhiều tác
giả; “Văn hóa Tày - Nùng”[82] của Lã Văn Lô, Hà Văn Thư; “Văn hóa tín
ngưỡng Tày, Nùng” [76] do tác giả Vũ Ngọc Khánh chủ biên; “Các dân tộc
thiểu số ở Việt Nam thế kỷ XX”[119] của tập thể các tác giả; “Tín ngưỡng dân
gian Tày, Nùng”[172] của tác giả Nguyễn Thị Yên; “Văn hóa dân gian Tày,
Nùng ở Việt Nam”[126] của tác giả Hà Đình Thành. Nhìn chung, các công
trình kể trên một mặt đã làm sáng rõ một phần về thực trạng kinh tế, xã hội và
VH của các DT, mặt khác đã từng bước đi sâu tìm hiểu, khám phá các đặc
trưng, BSVH từng DT, nhất là các DTTS đông, trình độ phát triển xã hội
tương đối cao, có ảnh hưởng đối với các DT láng giềng như DT Tày, Nùng cư
trú ở vùng thung lũng Đông Bắc, DT Mông, Dao cư trú ở vùng rẻo cao Đông
Bắc, từ đó đặt ra những vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu lý giải.
Vùng Đông Bắc nước ta là nơi tập trung nhiều thành phần DTTS và có
nền VH đa dạng, đậm đà bản sắc của các DTTS nên từ lâu đã thu hút sự quan
tâm chú ý nghiên cứu của nhiều nhà khoa học ở nhiều góc độ và mức độ
nghiên cứu khác nhau. Có những cuốn sách được viết trên cơ sở sưu tầm, biên
soạn thông qua đó giới thiệu cho người đọc những nét khát quát, cơ bản nhất
các nền VH đa dạng, độc đáo của các DTTS ở vùng này. Tiêu biểu là cuốn
sách “Văn hóa các dân tộc vùng Đông Bắc Việt Nam”[96] của tác giả Hoàng
Nam. Tác giả đã nghiên cứu môi trường địa lý tự nhiên và môi trường lịch sử
19

nhân văn cho sự hình thành và phát triển VH truyền thống của các DT vùng
Đông Bắc; nghiên cứu những đặc trưng VH truyền thống, thể hiện qua VH
vật thể, VH phi vật thể và nghiên cứu những nhân tố VH mới, cùng xu hướng
phát triển của VH vùng Đông Bắc trong những thập kỷ tới.
Cuốn sách này phân tích những nét khái quát nhưng tiêu biểu về VH
các DT ở vùng Đông Bắc, đặc biệt là những nét VH độc đáo, đa dạng của các
DTTS ở vùng này. Điều đó cũng phản ánh những tiềm năng về thiên nhiên, về
con người và đặc biệt là về VH của các DTTS trên con đường phát triển.
Cuốn sách “Đông Bắc - vùng đất, con người”[107] nằm trong bộ sách
“Văn hóa các vùng miền” của nhà xuất bản Quân đội nhân dân, cung cấp
thông tin tổng quát về khu vực Đông Bắc của nước ta với sự đa dạng của VH
truyền thống các DT, với nhiều danh lam thắng cảnh phong phú mà thiên
nhiên ban tặng và với sự đổi thay vươn dạy mạnh mẽ của một vùng kinh tế
mới. Đặc biệt, những di tích thắng cảnh nổi tiếng, những nét đẹp trong VH
dân gian được đề cập tới giúp cho bạn đọc hiểu thêm về vùng đất và con
người vùng Đông Bắc - khu vực đang hòa mình vào sự chuyển nhịp sôi động
mà vẫn giữ được nhiều giá trị bản sắc truyền thống của DT.
Song song với việc giới thiệu VH các DTTS, nhiều nhà khoa học đã đi
sâu vào phân tích những giá trị VH đậm đà bản sắc của các DTTS vùng Đông
Bắc như: “Văn hóa ẩm thực các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc”[116] của
Dương Sách - Dương Thị Đào - Lã Vinh. Thông qua cuốn sách này, BSVH
các DTTS vùng Đông Bắc được biểu hiện ra qua sắc thái VH cụ thể, đó là VH
ẩm thực. Đây là giá trị VH vật chất vô cùng độc đáo, đa dạng. Đặc biệt, qua
VH ẩm thực, ta thấy được sự đa dạng thông qua những món ăn theo phong
tục gắn với những ngày lễ, tết với kỹ thuật chế biến tỉ mỉ, khéo léo và những
món ăn hàng ngày của đồng bào các DTTS nơi đây. Những nét VH này phần
nào phản ánh nguồn gốc lịch sử, điều kiện tự nhiên, đời sống vật chất của
đồng bào các DTTS ở vùng này.
Thực tiễn cho thấy, xã hội luôn vận động, thay đổi và phát triển. Trong xã
20

hội ngày nay, vận động, thay đổi và phát triển của xã hội càng ngày càng diễn ra
nhanh hơn, mạnh hơn, sâu sắc và toàn diện hơn. Trong bối cảnh đó, VH của tộc
người nói chung và VH mưu sinh nói riêng cũng thay đổi để thích ứng. Cùng với
nghiên cứu VH các cộng đồng tộc người, việc điều tra, nghiên cứu về VH mưu sinh
của các cộng đồng ấy ở những thời điểm nhất định là công việc cần thiết. Do đó,
cuốn sách “Văn hóa mưu sinh của các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc Việt
Nam”[10] của tác giả Trần Bình chẳng những góp phần hiểu biết toàn diện hơn về
VH tộc người, mà còn thu thập được các dữ liệu cần thiết cho việc tìm hiểu sự thay
đổi, thích ứng của các cộng đồng trong các giai đoạn của lịch sử. Cũng như các
thành tố khác của VH tộc người, VH mưu sinh có thể cung cấp các dữ liệu quan
trọng trong việc tìm hiểu nguồn gốc, quá trình tộc người, quá trình thiên di, ảnh
hưởng VH … của các tộc người cụ thể. Từ đó có thể giúp các nhà hoạch định và
thực thi các chính sách hỗ trợ, phát triển, cụ thể là các chương trình, dự án phát triển
kinh tế - xã hội có tính chiến lược cho từng tộc người, từng khu vực lãnh thổ cụ thể.
Ngoài các công trình nghiên cứu về VH các DTTS vùng Đông Bắc nói
chung, còn có các cuốn sách, luận án đi sâu vào giới thiệu các giá trị VH độc
đáo của một tộc người cụ thể trong phạm vi toàn vùng. Đặc biệt, ở vùng thung
lũng Đông Bắc, VH các DT Tày, Nùng nổi lên như là VH tiêu biểu của vùng
nên hai DT này từ lâu đã thu hút sự quan tâm, chú ý của nhiều nhà nghiên
cứu. Tiêu biểu là luận án tiến sĩ Lịch sử “Trang phục cổ truyền của người
Nùng ở Đông Bắc Việt Nam”[4] của Lê Văn Bé; luận án tiến sĩ Nhân học
“Truyền thống và biến đổi trong tập quán ăn uống của người Tày vùng Đông
Bắc Việt Nam”[17] của Ma Ngọc Dung; cuốn sách “Nhà sàn truyền thống của
người Tày vùng Đông Bắc Việt Nam”[18] của tác giả Ma Ngọc Dung. Các
công trình này đã nghiên cứu VH vật chất của các DTTS, trước hết thể hiện
trên các phương diện ăn uống, nhà ở, trang phục, dụng cụ sinh hoạt, công cụ
sản xuất.... Trong VH vật chất, thường được các nhà DT học gọi là “VH đảm
bảo đời sống”, ta thấy ở đây vừa là sự thể hiện của trình độ phát triển sức sản
21

xuất của xã hội, vừa là kết tinh những nét đặc thù của mỗi DT trong điều kiện
môi trường và xã hội nhất định. Bên cạnh những giá trị truyền thống trong
trang phục, kiến trúc nhà ở, trong tập quán ăn uống, tác giả luận án, cuốn sách
đã chỉ ra sự biến đổi trong các giá trị ấy dưới tác động của kinh tế thị trường
và hội nhập quốc tế.
Trong đời sống tinh thần, các hình thức tín ngưỡng, nghi lễ, phong tục
và lễ hội cũng được các nhà nghiên cứu quan tâm, chú ý. Đặc biệt là những
thập kỷ gần đây, cùng với sự đổi mới của đất nước, các hình thức trên có
chiều hướng phục hồi và phát triển. Do vậy, bên cạnh những mặt tích cực,
nhiều truyền thống tốt đẹp và sắc thái VH độc đáo được phục hồi, làm phong
phú đời sống VH cơ sở, BSVH các DT được giữ gìn và phát huy thì cũng có
không ít các tệ nạn và tiêu cực có cơ hội trỗi dậy làm phương hại đến thuần
phong mỹ tục của các DT. Hơn thế nữa, đây là lĩnh vực nghiên cứu rất nhạy
cảm, chứa đựng nhiều truyền thống VH lâu đời, BSVH của DT lại biến đổi
không ngừng, luôn cập nhật với đời sống hiện đại. Thí dụ, các hình thức tôn
giáo, tín ngưỡng, các nghi lễ cưới xin, ma chay, lễ hội của các DTTS không
chỉ riêng các nhà khoa học mà cả các nhà quản lý xã hội từ trung ương đến
địa phương cũng quan tâm để tìm ra các giải pháp hữu hiệu. Có thể kể đến
một số công trình nghiên cứu theo hướng này như: “Văn hóa truyền thống
người Dao ở Hà Giang”[52] do Phạm Quang Hoan, Đào Đình Quý (chủ
biên), “Các dân tộc ở Hà Giang”[23] do Lê Duy Đại, Triệu Đức Thanh (chủ
biên), “Lễ hội Lồng Tồng của dân tộc Tày ở Lạng Sơn”[109], luận án tiến sĩ
Lịch sử của Hoàng Văn Páo; “Tang ma của người Nùng Phàn Slình ở tỉnh
Thái Nguyên”[100], luận án tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử của Nguyễn Thị
Ngân; “Nét đẹp văn hóa xứ Lạng ”[1] của tác giả Đặng Thế Anh; “Ứng xử
của người Dao đỏ ở Sa Pa trong việc cư trú, khai thác và bảo vệ rừng, nguồn
nước”[53] của tác giả Phạm Công Hoan; “Văn hóa truyền thống dân tộc Tày
ở Tuyên Quang”[124] do Nguyễn Ngọc Thanh (chủ biên).
22

Những cuốn sách, luận án trên đã khái quát bức tranh VH, tín ngưỡng
đậm đà BSVH của các tộc người Dao, Tày, Nùng ở một địa phương cụ thể
thuộc vùng Đông Bắc. Với đặc điểm điều kiện tự nhiên, điều kiện cư trú và
lịch sử hình thành, các DTTS đã xây dựng hệ thống VH tinh thần độc đáo,
đậm đà BSVHDT, đó là một kho tàng văn học và nghệ thuật dân gian phong
phú, những hình thức lễ hội, tín ngưỡng phong phú, đa dạng, cách ứng xử
biểu hiện mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên trong quá trình mưu
sinh của đồng bào các DTTS. Điều đó giúp cho các nhà quản lý ở địa phương có
căn cứ khoa học cho việc đề xuất những giải pháp nhằm khắc phục những ảnh
hưởng tiêu cực, phát huy những mặt tích cực trong VH truyền thống của các DT ở
địa phương mình, góp phần xây dựng đời sống VH mới ở cơ sở.
Các công trình nghiên cứu trên đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề về VH các
DTTS, đặc trưng VH vùng các DTTS thông qua các sắc thái biểu hiện của nó
như ngôn ngữ, tín ngưỡng tôn giáo, phong tục tập quán, VH nghệ thuật, tri
thức bản địa đến việc ăn, mặc, ở, đi lại.... Dưới tác động của quá trình toàn
cầu hóa, hội nhập quốc tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì các sắc thái VH này đang có xu
hướng biến đổi theo cả chiều hướng tích cực và tiêu cực. Do đó, không chỉ
riêng các nhà khoa học mà cả các nhà quản lý xã hội từ trung ương đến địa
phương cũng quan tâm để tìm ra các giải pháp hữu hiệu nhằm khắc phục
những biểu hiện tiêu cực, phát huy mặt tích cực trong VH các DTTS.
Các sách, bài viết, luận án, luận văn đã đi sâu nghiên cứu, phân tích,
đánh giá BSVH các DTTS vùng Đông Bắc từ rất nhiều góc tiếp cận khác
nhau làm cho kho tàng VH của các DTTS vùng Đông Bắc trở nên ngày càng
phong phú, có giá trị hơn. Bên cạnh những cuốn sách có tính chất sưu tầm,
biên soạn, ghi chép lại một cách hệ thống các giá trị VH của các DTTS ở mức
độ khái quát ở phạm vi rộng hơn như VH vùng, miền thì còn có những cuốn
sách, luận án nghiên cứu chuyên sâu, phân tích những giá trị VH đậm đà bản
23

sắc của một DTTS thuộc phạm vi một tỉnh. Đặc biệt, có những công trình
nghiên cứu đã đề cập đến sự biến đổi của BSVH các DTTS dưới tác động của
quá trình hội nhập. Chúng cung cấp cơ sở khoa học cho việc khẳng định tầm
quan trọng và sự cần thiết phải đề ra những giải pháp giữ gìn, phát huy
BSVH các DTTS trong quá trình phát triển hiện nay.
1.1.2. Nghiên cứu về giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc
thiểu số vùng Đông Bắc
Từ việc nhận thức đúng đắn vai trò, vị trí của VH, BSVH trong quá
trình phát triển, các nhà lãnh đạo, nhà nghiên cứu, nhà khoa học đã đi đến
khẳng định cần thiết phải giữ gìn và phát huy BSVHDT trước yêu cầu của sự
nghiệp đổi mới, hội nhập quốc tế. Điều này đã được phản ánh rõ trong các bài
viết được tập hợp lại trong cuốn “Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc - vai trò của nghiên cứu và giáo dục”[120]. Cụ thể đó là các bài viết
sau:“Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa”[120;13] của tác giả Nguyễn Thế Nghĩa; “Bảo tồn và phát huy các
giá trị văn hóa truyền thống trong bối cảnh kinh tế hàng hóa và thị
trường”[120;69] của tác giả Cao Tự Thanh; “Nghĩ về cơ sở thực tiễn cho việc
giáo dục ý thức bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc hiện
nay”[120;125] của tác giả Trần Thị Thu Lương; “Công tác nghiên cứu và
giáo dục trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc”[120;140]
của tác giả Phạm Hữu Mý; “Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
trong sự nghiệp bảo vệ di sản văn hóa”[120;152] của tác giả Nguyễn Quốc
Hùng; “Vài suy nghĩ về hiện trạng bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc”[120;172] của tác giả Truyện Thị Thùy Trang; “Mấy suy nghĩ về vấn đề
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong lĩnh vực giáo dục”[120;191] của tác
giả Nguyễn Văn Thức; “Vài suy nghĩ về bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc”[120;209] của tác giả Trần Bình Minh; “Nghiên cứu để bảo tồn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc”[120;221] của tác giả Đặng Văn Thắng.
24

Các bài viết trên đều đưa ra những quan điểm riêng về VH, BSVH và lý luận
tại sao cần phải giữ gìn và phát huy BSVHDT trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Từ đó, các tác giả đã đưa ra những giải pháp
mang tính tổng quát nhằm giữ gìn và phát huy BSVHDT trong điều kiện mới.
Cuốn sách “Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc”[112] do Trần Quang
Phúc biên soạn trên cơ sở tập hợp, chọn lọc từ các nguồn tài liệu khác nhau.
Cuốn sách tập trung giải quyết các vấn đề lý luận về VH, BSVHDT, tầm quan
trọng của việc giữ gìn và phát huy BSVHDT, những giá trị VH cần phải giữ
gìn. Từ đó, cung cấp cho độc giả bức tranh toàn cảnh về nền VH Việt Nam
với những giá trị đậm đà BSDT.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu, các sách viết về VH các DTTS,
đặc biệt VH các DTTS vùng miền núi phía Bắc, còn có luận án, bài báo nghiên
cứu về VH và việc giữ gìn và phát huy BSVH ở vùng này như: Luận án tiến sĩ
triết học “Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa các dân tộc thiểu số ở Miền núi phía Bắc nước ta hiện nay”[73] của
Hoàng Thị Hương. Luận án góp phần làm rõ hơn quan niệm về BSVHDT từ
cách tiếp cận của triết học thông qua phân tích một số vấn đề phương pháp luận,
khái niệm, cấu trúc phương thức biểu hiện. Luận án cũng có những đánh giá,
phân tích về BSVH của các DTTS ở miền núi phía Bắc thông qua các phương
thức biểu hiện của nó trong đời sống xã hội như: phong tục tập quán, ngôn ngữ,
trang phục, kiến trúc nhà ở, VH ẩm thực, tri thức bản địa, kho tàng văn học nghệ
thuật dân gian… biểu hiện cách thức tư duy, lối sống, lý tưởng thẩm mỹ và phản
ánh chiều sâu thế giới quan, nhân sinh quan của các DTTS ở miền núi phía Bắc
nước ta. Trên cơ sở phân tích thực trạng giải quyết mối quan hệ giữa phát triển
kinh tế với giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS ở miền núi phía Bắc hiện nay,
luận án đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải
quyết mối quan hệ này ở miền núi phía Bắc. Đây là nguồn tài liệu hữu ích cung
cấp cơ sở lý luận và thực tiễn để tác giả nghiên cứu sâu hơn việc giữ gìn và phát
25

huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc.


Bài báo “Một số giải pháp nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở miền núi - dân tộc
thiểu số”[147] của Bùi Xuân Trường, trên cơ sở phân tích những biến đổi
trong các sắc thái biểu hiện của BSVHDT dưới tác động của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở miền núi, tác giả đã nêu ra một số giải pháp nhằm
giữ gìn và phát huy BSVHDT ở vùng này.
Ngoài ra, còn có một số bài được đăng trên các tạp chí như: “Giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, một nhu cầu phát triển của xã hội hiện
đại”[80] của tác giả Lương Quỳnh Khuê, “Gắn phát triển con người Việt Nam
hiện đại với giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc”[143] của tác giả
Đặng Hữu Toàn, “Việc giữ gìn và phát huy “bản sắc dân tộc”, “bản sắc văn
hóa””[81] của Đỗ Nam Liên, “Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền
thống ở Việt Nam trước tác động của toàn cầu hóa”[150] của tác giả Nguyễn
Đình Tường, “Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình
phát triển kinh tế thời kỳ hội nhập quốc tế”[72] của Hoàng Thị Hương. Các
bài viết này đã đề cập đến BSVHDT ở các góc độ khác nhau như: VH học,
DT học, triết học... nhưng đều có điểm chung là chỉ ra những tác động tiêu
cực của toàn cầu hóa, của hội nhập quốc tế đến BSVHDT. Qua đó, các tác giả
cũng đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần xây dựng chiến lược giữ gìn và
phát huy BSVHDT Việt Nam hiện nay.
Giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc cũng được các
nhà khoa học đề cập đến ở những mức độ khác nhau. Có công trình nghiên
cứu nhằm bảo tồn, giữ gìn và phát huy một sắc thái biểu hiện nào đó của
BSVHDT. Có công trình nghiên cứu nhằm giữ gìn và phát huy BSVH của
một DTTS cụ thể ở một tỉnh thuộc vùng Ðông Bắc. Tiêu biểu là công trình
“Nghiên cứu, bảo tồn và phát triển ngôn ngữ văn hóa một số dân tộc thiểu số
ở Việt Bắc”[84] do Nguyễn Văn Lộc (chủ biên) đã trình bày cơ sở lí luận của
26

việc bảo tồn và phát triển VH, ngôn ngữ một số DTTS ở Việt Bắc. Đánh giá
thực trạng VH, ngôn ngữ của một số DTTS vùng Việt Bắc trong giai đoạn
hiện nay và công tác bảo tồn, phát triển ở các địa phương. Đồng thời chỉ ra
phương hướng và điều kiện bảo tồn, phát triển VH, ngôn ngữ các dân DTTS.
Cuốn sách góp phần quan trọng vào việc bảo tồn và phát triển ngôn ngữ -
công cụ lưu giữ và thể hiện BSVH tộc người. Ngoài ra, cuốn sách còn cung
cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoạch định và thực hiện các chính sách
phát triển VH DTTS ở Việt Bắc.
Cuốn sách “Phát triển bền vững văn hóa tộc người trong quá trình hội
nhập ở vùng Ðông Bắc”[140] do Vương Xuân Tình - Trần Hồng Hạnh (chủ
biên) đã đánh giá tính bền vững của VH tộc người vùng Đông Bắc dựa vào
năm chỉ báo đó là: Chấp nhận đa dạng VH, giữ gìn ngôn ngữ tộc người, giữ
gìn BSVH tộc người, ý thức tự giác tộc người và VH góp phần phát triển kinh
tế - xã hội. Việc đánh giá đó được thực hiện ở cộng đồng làng bản, khu dân
cư của các tộc người - nơi lưu giữ và là môi trường tốt nhất cho thực hành VH
của họ. Đồng thời, trong công trình nghiên cứu này, tác giả c̣òn đi sâu phân
tích tác động của hội nhập đến sự bền vững của tộc người ở nơi đây ra sao.
Việc xem xét tác động của hội nhập chủ yếu trên ba phương diện: xu hướng
tác động, phương thức tác động và hệ quả của tác động ấy đến sự bền vững VH và
đời sống các tộc người vùng Đông Bắc. Kết quả của nghiên cứu đó góp phần cung
cấp những căn cứ khoa học cho việc hoạch định, bổ sung, phát triển đường lối,
chính sách phát triển VH - xã hội vùng Đông Bắc nước ta.
Trên cơ sở các giá trị VH và BSVH các DTTS được các nhà nghiên
cứu VH dân gian, DT học và nghiên cứu tôn giáo sưu tầm, biên soạn, phân
tích, mổ xẻ, một số luận án chuyên ngành triết học trong những năm gần đây
đã hướng vào nghiên cứu thực trạng giữ gìn và phát huy BSVH của một tộc
người trong phạm vi địa bàn một tỉnh, hay BSVH của một tộc người ở một số
tỉnh vùng Đông Bắc qua đó cũng đề xuất một số giải pháp nhằm giữ gìn và phát
huy BSVH của DT đó trong giai đoạn hiện nay. Tiêu biểu là một số luận án sau:
27

“Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống tộc người Tày ở Thái
Nguyên hiện nay”[105] của Nguyễn Thị Nội, “Giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc Tày trong điều kiện kinh tế thị trường ở một số tỉnh Đông
Bắc Việt Nam hiện nay”[70] của Lê Thị Kim Hưng… Tiếp cận từ góc độ triết
học, tác giả của các luận án này đã nghiên cứu giá trị VH truyền thống hay
BSVH của tộc người Tày ở khía cạnh VH vật chất và VH tinh thần. Từ đó,
các tác giả cũng có sự đánh giá, phân tích thực trạng giữ gìn, phát huy BSVH
ở cả hai khía cạnh đó. Trên cở sở xác định nguyên nhân và những vấn đề đặt
ra đối với việc giữ gìn, phát huy BSVH tộc người Tày, các tác giả đã vạch ra
phương hướng và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc giữ gìn,
phát huy BSVH dân tộc Tày trong điều kiện kinh tế thị trường ở một số tỉnh
Đông Bắc hiện nay.
Các sách, bài viết, luận án, đã đi sâu nghiên cứu, phân tích, đánh giá
thực trạng giữ gìn và phát huy BSVHDT ở các góc độ khác nhau như: DT
học, triết học, VH học. Từ đó, cung cấp cơ sở khoa học cho việc khẳng định
tầm quan trọng và sự cần thiết phải đề ra những giải pháp giữ gìn, phát huy
BSVH các DTTS trong quá trình phát triển hiện nay.
Đối với vùng Đông Bắc, các công trình nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở
nghiên cứu thực trạng giữ gìn và phát huy BSVHDT thông qua một sắc thái cụ thể
nào đó hoặc nghiên cứu thực trạng giữ gìn và phát huy BSVH của một tộc người ở
một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc như Tày, Mông, Dao. Đồng thời các tác giả cũng đã
đưa ra những giải pháp cho việc giữ gìn và phát huy BSVH của các DT này trong
điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay.
1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra đối với luận án
- Đánh giá tình hình nghiên cứu.
VH và BSVHDT ngày càng được các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh
vực nghiên cứu, phân tích, mổ xẻ trên nhiều phương diện. Thông qua nhiều
công trình nghiên cứu từ nhiều góc độ tiếp cận khác nhau đó, vấn đề bản chất,
nội dung, vai trò, vị trí của VH và BSVHDT được làm rõ và sâu sắc hơn.
28

Các công trình nghiên cứu dù ở góc độ tiếp cận nào cũng đều thống nhất
khẳng định vai trò của VH chính là nền tảng tinh thần, là mục tiêu, động lực của sự
phát triển; khẳng định BSVHDT chính là sức mạnh nội sinh trong sự phát triển bền
vững của đất nước. Những công trình nghiên cứu đó đã góp phần cung cấp cơ sở
khoa học cho việc hoạch định và tổ chức triển khai các nội dung trong quan điểm,
đường lối, chính sách phát triển VH của Đảng và Nhà nước ta.
Điểm chung của các công trình nghiên cứu trên đều khẳng định bản chất của
VH chính là các giá trị vật chất và giá trị tinh thần (theo nghĩa rộng) hoặc chỉ là các
giá trị tinh thần (theo nghĩa hẹp). Nghiên cứu, tiếp thu các quan điểm của các tác giả
trong các công trình nghiên cứu trên, tác giả luận án đã tiếp cận VH dưới dạng VH
vật thể và VH phi vật thể.
Bàn về BSVH, trong các công trình nghiên cứu được tổng quan, các tác giả
cũng có điểm chung là chỉ ra BSVH chính là những giá trị đặc trưng, cốt lõi, tinh
túy nhất của mỗi một nền VH, thể hiện hồn cốt của một DT, phân biệt DT này với
DT khác. Tác giả luận án cũng đã tiếp thu cách tiếp cận này để làm rõ BSVH các
DTTS vùng Đông Bắc.
VH và BSVH các DTTS ở nước ta nói chung và ở vùng Đông Bắc nói
riêng đã được đề cập nhiều trong những công trình của các nhà khoa học, các
đề tài, các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, …. Có những cuốn sách được viết
trên cơ sở sưu tầm, biên soạn thông qua đó giới thiệu cho người đọc những
nét khái quát, cơ bản nhất các nền VH đa dạng, độc đáo của các DTTS ở nước
ta, có công trình nghiên cứu VH của các DTTS trong phạm vi một vùng
nhưng cũng có công trình nghiên cứu một tộc người cụ thể ở một địa bàn nhất
định (một vùng, một tỉnh); cũng có công trình nghiên cứu đề cập đến sự biến
đổi của BSVH các DTTS trong quá trình phát triển. Các công trình đó cung
cấp cơ sở khoa học cho việc khẳng định tầm quan trọng và sự cần thiết phải
đề ra những giải pháp nhằm giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS trong quá
trình phát triển hiện nay.
29

Giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS nói chung và BSVH các DTTS
vùng Đông Bắc nói riêng cũng đã được đề cập đến trong nhiều công trình khoa
học, những luận án tiến sĩ. Tuy nhiên, có công trình nghiên cứu việc giữ gìn và
phát huy BSVHDT trong mối quan hệ với phát triển kinh tế, các công trình khác
nghiên cứu việc giữ gìn và phát huy BSVH trong một phạm vi hẹp, đó là của
một tộc người cụ thể hoặc một sắc thái nào đó trong BSVH của các DTTS ở
vùng Đông Bắc nước ta. Các công trình nghiên cứu trên cũng đã phân tích thực
trạng cũng như xu hướng biến đổi BSVH của một tộc người cụ thể của một tỉnh
hay trong phạm vi toàn vùng Đông Bắc. Kết quả của các công trình nghiên cứu
đó chính là những chất liệu quan trọng giúp cho tác giả luận án có thể khái quát,
tổng hợp để bổ sung chất liệu cho luận án của mình. Mặc dù vậy, việc nghiên
cứu giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS ở vùng Đông Bắc nước ta chưa có
công trình nào đề cập một cách trực tiếp, hệ thống, chuyên sâu, nhất là nghiên
cứu từ chuyên ngành Triết học.
- Những vấn đề đặt ra đối với luận án.
Tình hình nghiên cứu trên đã đặt ra cho luận án một số vấn đề cần tiếp
tục và giải quyết sau:
Thứ nhất, nghiên cứu lý luận về VH, BSVH, BSVH các DTTS trên cơ
sở thực tiễn mới. Cụ thể, luận án sẽ phải làm sáng tỏ quan niệm về BSVHDT
nói chung, BSVH các DTTS nói riêng; quan niệm về giữ gìn, phát huy BSVH
các DTTS nhằm làm cơ sở lý luận cho việc giải quyết những nhiệm vụ nghiên
cứu của luận án.
Thứ hai, tác giả nghiên cứu những đặc điểm tự nhiên, dân cư, kinh tế -
xã hội truyền thống góp phần tạo nên BSVH của đồng bào các DTTS vùng
Đông Bắc, nghiên cứu sự đa dạng trong BSVH của đồng bào các DTTS thông
qua các giá trị VH vật thể và các giá trị VH phi vật thể. Từ đó chỉ ra những
đặc trưng cơ bản trong BSVH các DTTS vùng Đông Bắc. Tác giả cũng
nghiên cứu, làm rõ quan niệm về giữ gìn, phát huy và sự thống nhất giữa giữ
30

gìn, phát huy BSVH các DTTS trên cả ba phương diện: chủ thể, nội dung,
cách thức giữ gìn và phát huy. Tác giả chỉ ra các yếu tố tác động đến việc giữ
gìn, phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc, đặc biệt là các yếu tố khách
quan như sự phát triển kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Thứ ba, phân tích thực trạng giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS vùng
Đông Bắc nước ta hiện nay theo hai hướng thành tựu và hạn chế. Đánh giá
thành tựu và hạn chế tập trung chủ yếu vào các giá trị VH vật thể và các giá
trị VH phi vật thể. Từ đó, tác giả chỉ ra nguyên nhân của thực trạng và những
vẫn đề đặt ra đối với việc giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS vùng Đông
Bắc nước ta.
Thứ tư, luận án đưa ra một số quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả việc giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS ở vùng này trong quá
trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập khu vực và quốc tế.
31

Tiểu kết chương 1


VH đã và đang thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nó giữ
một vị trí, vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển. Điều đó từ lâu đã
được các nhà nghiên cứu khoa học nhận thức đến. Đặc biệt, ngày nay, trong
xu thế mở cửa và hội nhập quốc tế thì vấn đề VH, BSVHDT càng được sự thu
hút, quan tâm, chú ý của các nhà lãnh đạo, nhà quản lý, nhà khoa học ở các
lĩnh vực khác nhau.
Luận án đã khái quát được một số công trình nghiên cứu của các tác giả
thuộc các lĩnh vực khác nhau về bản chất, đặc trưng của VH, BSVH. Tuy có
sự nhận diện VH là khác nhau về độ rộng hẹp của vấn đề, về thành tố, cấu
trúc, đặc trưng của VH nhưng không có sự khác nhau về cái gốc, cái nền, cái
tổng quát, cái đại thể của VH.
VH các DTTS nói chung và VH các DTTS vùng Đông Bắc nói riêng vô
cùng phong phú và đa dạng, góp phần tạo nên một nền VH Việt Nam thống nhất
trong đa dạng. Do nhu cầu tồn tại và phát triển, từ lâu các DTTS đã xây dựng được
nhiều giá trị VH truyền thống tạo nên BSVHDT. Trong số các giá trị đó, có những
giá trị đã lỗi thời lạc hậu, nhưng cũng có nhiều giá trị tốt đẹp, đã phát huy tác động
tích cực trong đời sống và tồn tại mãi với thời gian, nó đã tạo nên sức sống, giúp các
DT vượt qua những thử thách cam go của lịch sử đề tồn tại và phát triển. Những giá
trị đó đều được phản ánh trong những thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa học
trên các lĩnh vực, đặc biệt trên lĩnh vực VH, VH dân gian và VH các DT, DT
học, ... mà luận án đã khái quát và trình bày.
Luận án cũng đã trình bày được một số công trình của các tác giả đi sâu vào
phân tích, mổ xẻ những biến động trong BSVH dưới tác động của quá trình mở của
và hội nhập. Qua đó, các tác giả cũng đề xuất những giải pháp nhằm giữ gìn, phát
huy BSVH các DTTS - sức mạnh nội sinh để các DTTS tồn tại và phát triển.
Thực tiễn luôn biến đổi, mặt khác trong lĩnh vực VH các DTTS nói chung và
các DTTS vùng Đông Bắc nói riêng còn nhiều vấn đề cần được lý giải, đặc biệt
dưới góc độ triết học. Do đó, luận án tiếp tục nghiên cứu vấn đề giữ gìn và phát huy
BSVH các DTTS vùng Đông Bắc Việt Nam hiện nay dưới góc độ triết học.
32

Chương 2
LÝ LUẬN VỀ GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA CÁC
DÂN TỘC THIỂU SỐ VÙNG ĐÔNG BẮC VIỆT NAM

2.1. Bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số


2.1.1. Văn hóa và bản sắc văn hóa
VH là một hiện tượng xã hội, nó bao trùm, lan tỏa, thâm nhập, đan xen
vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Việc tìm hiểu, nhận diện về VH diễn ra
từ nhiều thế kỷ nay.
Ở phương Đông, một trong những trung tâm VH lớn là Trung Quốc, từ
thời cổ đại, “văn hóa” có nghĩa ban đầu là những nét xăm mình nhằm nhận ra
và phân biệt người này với người khác hay còn có ý nghĩa tôn giáo, chiếm
lĩnh quyền lực siêu nhiên. Theo Hán Tự, “văn” là đẹp, “hóa” là trở thành, cải
biến; VH với nghĩa chung là làm cho cái gì đó, việc gì đó trở nên có ý nghĩa
và có giá trị đối với con người. Sau đó, VH được hiểu là cách biểu thị chung
của hai khái niệm “Văn trị” và “Giáo hóa”, tức là “VH ở đây là giáo hóa đối
lập với vũ lực”[48;15]. Dùng “Văn trị” tức là dùng “cái đẹp” để giáo dục, cảm
hóa con người.
Ở phương Tây, “VH là một từ gốc Latinh Colère với nghĩa khai khẩn,
vỡ hoang đất đai..., sau trở thành cultura nghĩa là cày cấy, gieo trồng, chăm
sóc.... Từ nghĩa vun trồng gắn với nghề nông, ngôn ngữ cultura dần thêm
những nghĩa mới là vun trồng tinh thần, được hiểu là có học vấn, có giáo dục,
sự mở mang trí tuệ tinh thần con người”[48; 15-16].
Đến thế kỷ XV - XVI, với sự xuất hiện và phát triển của khoa học, kỹ
thuật, nhất là sáng tạo nghệ thuật, VH được quan tâm nhiều hơn đến các yếu
tố sáng tạo, phát minh. Trong phát minh, sáng chế, sáng tạo nghệ thuật, bản
chất, vai trò của VH thể hiện đậm nét.
Mặc dù có mặt sớm trong đời sống ngôn ngữ ở cả phương Đông và
phương Tây, tuy thế phải đến thế kỷ XVIII từ VH mới được sử dụng như
thuật ngữ khoa học. Và từ đây, VH đã trở thành một khái niệm được nhiều
nhà nghiên cứu, phân tích đề cập trong các ngành khoa học nhân văn: DT
33

học, xã hội học, sử học.... Khái niệm VH vì vậy cũng trở nên đa nghĩa, phong
phú hơn. Tuy mấy thập kỷ vừa qua, do vị trí, vai trò của VH càng ngày càng
được khẳng định trong đời sống nhân loại cũng như sự phát triển bền vững của các
quốc gia, khái niệm VH ngày càng được nhắc đến nhiều hơn, trở nên phổ biến và
thâm nhập vào trong mọi hoạt động của con người và không thể tách rời trong tất cả
lĩnh vực của đời sống xã hội như: VH lao động, VH học đường, VH lãnh đạo, VH
kinh doanh, VH giao thông, VH mạng, VH tiêu dùng....
Từ các góc độ tiếp cận khác nhau, các chuyên gia trong mỗi lĩnh vực đều
muốn đưa ra định nghĩa của chính mình về khái niệm này. Do đó mà đến nay đã có
hàng trăm định nghĩa về VH. Những định nghĩa này bổ sung cho nhau góp phần
làm giàu thêm tri thức của nhân loại về VH.
Qua rất nhiều định nghĩa về VH, khái quát lại khái niệm “văn hóa”
được quy về hai cách hiểu chính: theo nghĩa rộng và theo nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, VH là toàn bộ các giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra trong lịch sử thông qua quá trình hoạt động của con người
nhằm thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần của con người.
Theo nghĩa hẹp, VH chỉ một mặt, một lĩnh vực của đời sống xã hội, đó là đời
sống tinh thần của xã hội, phân biệt đời sống VH với đời sống vật chất như kinh tế.
Các lĩnh vực hoạt động cụ thể của đời sống con người như VH trong lĩnh vực sinh
hoạt, trong đời sống tôn giáo, tâm linh, trong lễ hội, phong tục, tập quán, trong đạo
đức, lối sống của cá nhân, cộng đồng, của một dân tộc….
VH được hiểu theo nghĩa hẹp, cũng thể hiện rõ trong cách khu biệt các
lĩnh vực trong một xã hội như: Lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực chính trị, lĩnh vực
xã hội, lĩnh vực VH.
Mỗi định nghĩa VH đều có tính hợp lý bởi đó là phạm trù rộng lớn, mà
nhà khoa học khai thác nó trong các góc độ khác nhau nhưng nó giúp người ta
hình dung được thế nào là VH, VH gồm những gì. Sự khác biệt là do cách
tiếp cận, mục tiêu nghiên cứu. Nhưng tất cả đều thống nhất trên những vấn đề
chung nhất, căn bản nhất được thể hiện ở các đặc trưng sau:
Thứ nhất, VH là đặc trưng riêng có của con người, là sản phẩm do con
người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử lâu dài của mình, do đó, VH mang
34

đậm “tính người”. Những sản phẩm VH được tạo ra thông qua hoạt động sáng
tạo của con người. Hoạt động đó diễn ra cả ở ba lĩnh vực cơ bản: con người
không ngừng học tập, rèn luyện, phát triển mọi năng lực vốn có để hoàn thiện
chính mình, tạo cho mình một nhân cách VH đáp ứng yêu cầu của xã hội;
Con người không ngừng hoạt động đấu tranh, cải tạo để hoàn thiện xã hội của
mình, làm cho mỗi cá nhân, cộng đồng có cuộc sống ngày càng hạnh phúc,
vươn tới những lý tưởng cao đẹp; con người không ngừng hoạt động khám
phá tự nhiên, cải tạo, chinh phục, thích ứng với tự nhiên để trên cái nền đại tự
nhiên, xây dựng thiên nhiên VH hoàn thiện, hoàn mỹ. Chính nhờ các hoạt
động sáng tạo này mà xã hội cũng không ngừng phát triển.
Thứ hai, VH là những gì có giá trị. Không phải mọi cái con người làm
ra đều là VH, mà chỉ những gì con người làm ra mang giá trị mới là VH. Tất
cả những gì hướng đến chân, thiện, mỹ là VH.
VH còn là phương thức hoạt động sống của con người. Đó là phương
thức hoạt động cải tạo thế giới để sáng tạo ra những giá trị chiếm hữu, sử
dụng những giá trị đã có nhằm tạo ra những giá trị mới của VH. Bản thân
hoạt động của con người cũng chứa đựng những giá trị. Chúng được thể hiện
ra ở mọi lĩnh vực hoạt động, biểu hiện trong hành vi ứng xử của con người
với tự nhiên, với xã hội và với bản thân. Tuy nhiên, chỉ những hoạt động nào
là tích cực hướng tới sự nảy nở và phát triển, có ích cho cuộc sống của con
người, nâng cao trí tuệ và đạo đức của con người thì hoạt động ấy mới được
xem là VH. Những hoạt động nào đối lập với tính chất và mục đích ấy đều xa
lạ với VH, thậm chí phản VH. Thực tế cho thấy, chiến tranh xâm lược tàn bạo
và phi nhân tính, khủng bố dưới mọi hình thức, sự tàn phá môi trường sinh
thái, lối sống trụy lạc, thác loạn, tội phạm và tội ác... cho đến những biến dạng
trong quan hệ xã hội của con người bởi ma lực của đồng tiền, trong cơ chế thị
trường như chủ nghĩa cá nhân cực đoan, thói giả dối và chủ nghĩa cơ hội, tệ
quan liêu và tham nhũng... đều là những hành vi phản VH. Khu biệt những
hoạt động VH và những hoạt động phản VH để thấy rõ khái niệm VH chỉ
dung nạp những cái gì tốt đẹp, tích cực, tiến bộ, phát triển, bồi dưỡng và phát
huy nhân tính, xứng đáng với con người.
35

Thứ ba, VH vừa có tính ổn định bền vững vừa có tính biến đổi, phát
triển vì VH luôn được giữ gìn, kế thừa và sáng tạo. VH kết tinh những giá trị
do con người sáng tạo ra, được con người gìn giữ, bảo tồn và lưu truyền từ thế
hệ này sang thế hệ khác, hình thành những giá trị VH truyền thống tương đối
ổn định, bền vững. Cùng với dòng chảy của thời gian, những giá trị VH
truyền thống này thường xuyên được giữ gìn, lọc bỏ và kế thừa những hạt
nhân hợp lý, phù hợp với từng giai đoạn lịch sử. Đồng thời đó cũng là quá
trình thường xuyên sáng tạo, bổ sung những giá trị VH mới. Thực chất đây
chính là quá trình đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, giữa cái tiên tiến và cái lạc
hậu để tiếp nối cái truyền thống trong cuộc sống hiện đại. Do đó, VH là một
quá trình luôn tích lũy, kế thừa, lọc bỏ, nâng cao diễn ra như một dòng chảy
liên tục, điều đó làm cho VH luôn biến đổi và phát triển.
Thứ tư, VH có tính giai cấp, có tính DT và nhân loại. Tính giai cấp của VH được
thể hiện ở sự quy định của hệ tư tưởng của giai cấp cầm quyền đối với phương hướng
phát triển VH, nội dung, ý thức hệ của VH. VH phát triển theo chiều hướng tiến bộ,
tích cực hay bảo thủ, lạc hậu là phụ thuộc vào bản chất giai cấp của VH định hướng.
Ngoài ra, mỗi một nền VH đều gắn với một DT nhất định, do con người của DT đó sáng
tạo ra, do đó, nó mang đậm bản lĩnh, cốt cách của DT. Mặt khác, những giá trị VH có
thể vượt qua không gian của một DT để vươn tới giá trị chung mang tính phổ quát được
nhân loại thừa nhận và nó trở thành tài sản chung của nhân loại. Do vậy, VH còn mang
tính nhân loại. Chẳng hạn, nhiều nhà nghiên cứu và hoạt động VH đã xem chân, thiện,
mỹ (cái thật, cái tốt, cái đẹp) là hệ giá trị phổ quát của VH, vấn đề khác nhau là ở chỗ hệ
giá trị phổ quát này được cụ thể hóa và được lựa chọn như thế nào đối với từng DT, từng
giai tầng xã hội trong các thời gian và không gian khác nhau. Vì thế, VH luôn mang tính
giai cấp, tính DT và tính nhân loại.
Qua các định nghĩa về VH kể trên, có thể thấy VH được chia thành hai
lĩnh vực chính là VH vật chất và VH tinh thần. Tuy nhiên, trong VH vật chất
lại hàm chứa lượng tinh thần trong đó. Ví dụ như: Những bộ trang phục,
những ngôi nhà, những dụng cụ sinh hoạt… tuy nó là vật chất nhưng chứa đựng
tâm tư, tình cảm, thẩm mỹ, sự sáng tạo của chủ thể tạo ra nó, mà những yếu tố đó
36

lại thuộc giá trị tinh thần. Còn VH tinh thần cũng hàm chứa VH vật chất, bởi nếu
không được vật chất hóa thì không ai nhìn thấy được. Ví dụ như tín ngưỡng, lễ nghi
hay hội họa, điêu khắc, âm nhạc… thuộc về VH tinh thần nhưng nó được vật chất
hóa để tồn tại, đó là những cử chỉ, hoạt động thực hiện, những bức tranh, những
nhạc cụ, những điệu múa…. Do đó, để tránh sự lẫn lộn trên, nên căn cứ vào hình
thái biểu hiện của VH để chia VH thành VH vật thể và VH phi vật thể.
VH vật thể là dạng VH biểu hiện dưới dạng vật thể hữu hình mà ta có
thể nhận biết được bằng xúc giác. Bao gồm các sản phẩm vật chất do con
người làm ra nhằm phục vụ nhu cầu vật chất của con người.
Theo nghĩa đó, VH vật thể bao gồm: Nhà ở; trang phục; ẩm thực; công
cụ lao động, sản xuất, sinh hoạt.
VH phi vật thể là dạng VH biểu hiện dưới dạng phi vật thể, vô hình.
Bao gồm các sản phẩm do con người làm ra thỏa mãn nhu cầu tinh thần của
con người.
Theo nghĩa này, VH phi vật thể bao gồm: Ngôn ngữ; tôn giáo; phong
tục tập quán; lễ hội; nghệ thuật (âm nhạc, hội họa, vũ điệu, văn chương, sân
khấu…); tri thức dân gian; lối tư duy, suy nghĩ, hành vi (ứng xử).
VH như phân tích ở trên là phạm trù rộng lớn, phức tạp, có nhiều cách
định nghĩa khác nhau. Mỗi định nghĩa đều có lý của nó. Trong luận án này, để
thuận lợi cho việc nghiên cứu, giải quyết các nhiệm vụ, thực hiện mục đích
luận án đề ra, Nghiên cứu sinh lựa chọn cách hiểu VH theo cách chia VH vật
thể và VH phi vật thể.
Bản sắc văn hóa
Theo Từ điển Tiếng Việt do viện Ngôn ngữ thuộc Viện khoa học xã hội
Việt Nam ấn hành thì bản sắc chỉ “màu sắc, tính chất riêng tạo thành đặc điểm
chính”[106;31]. Như vậy, với cách hiểu đó, bản sắc chính là dấu hiệu để phân
biệt sự vật này với sự vật khác. Thuật ngữ bản sắc thường được gắn với VH.
Do có nhiều cách tiếp cận khác nhau mà các nhà khoa học cũng có nhiều ý
kiến khác nhau về BSVH. Có người tiếp cận từ góc độ bản chất thì cho rằng
BSVH là cái ổn định, là cái hồn của đời sống VH hoặc tiếp cận theo góc đặc
thù thì cho rằng BSVH là những nét VH ưu trội, đặc thù, cái định hình làm
nên tính riêng biệt, độc đáo của một nền VH, so với nền VH khác.
37

Theo tác giả Nguyễn Văn Huyên, “BSVHDT là bộ gen, là nhân lõi của bản
chất VH của mỗi DT, nơi hội tụ các phẩm chất tinh túy đặc sắc nhất của DT, là cái
lõi bên trong tựa như tấm căn cước của mỗi DT”. “BSVH như vậy, có thể hình
dung như một tụ điểm chói sáng, chiết xuất và hội kết muôn vàn vòng sáng đa sắc
của toàn bộ tinh hoa VH các sắc tộc của toàn DT”[61;31-35].
Tác giả Huỳnh Khái Vinh thì cho rằng: “BSVH là một hệ thống giá trị VH
đã được định hình, phát triển trong suốt lịch sử của DT đến mức trở thành “thẻ căn
cước” mang đậm diện mạo trí tuệ, tâm hồn và phong cách VH trong hoạt động xã
hội và trong cả sinh hoạt cá nhân”[64;282].
Tác giả Nguyễn Đăng Duy quan niệm, “BSVH là nét riêng biệt biểu
hiện ra trong nếp sống của một quốc gia hay một cộng đồng người”[20;239].
Cũng như quan niệm trên, tác giả Bùi Thanh Quất nói rõ hơn, “BSVH không
phải là cái gì trừu tượng khó thấy, mà nó là điều được hiển lộ ra trong đời
sống hàng ngày của mỗi người và cả cộng đồng, theo cách làm cho chúng ta
có thể thấy và phân biệt được người Việt Nam với các cộng đồng DT khác trên thế
giới, từ nếp sống của mỗi thành viên trong gia đình với nhau đến cách ứng xử của
cả DT với các DT khác”[113;29]. Như vậy, tác giả đã quan niệm BSVH là những
nét riêng biệt, đặc thù, dấu hiệu để nhận diện một cộng đồng, một quốc gia.
Tác giả Ngô Đức Thịnh cũng đưa ra quan niệm về BSVH, “BSVH được
hiểu như là tổng thể các đặc trưng của VH, được hình thành, tồn tại và phát triển
suốt quá trình lịch sử lâu dài của DT. Các đặc trưng VH ấy mang tính bền vững,
trường tồn, trừu tượng và tiềm ẩn, do vậy muốn nhận biết bản sắc phải thông qua
vô vàn các sắc thái VH, với tư cách là sự biểu hiện của BSVH ấy. Nếu BSVH là cái
trừu tượng, tiềm ẩn, bền vững thì các sắc thái biểu hiện của nó lại tương đối cụ thể,
bộc lộ và khả biến hơn”[132;31].
Từ các quan điểm trên, có thể khái quát: BSVH là hệ thống các giá trị
đặc trưng, bản chất của một nền VH được hình thành, tồn tại, phát triển trong
lịch sử và được biểu hiện thông qua nhiều sắc thái VH, là những nét đặc thù,
độc đáo, dấu hiệu để nhận biết một nền VH và phân biệt với nền VH khác.
Cấu trúc của BSVH gồm các giá trị bản chất, đặc trưng tồn tại ở tầng
diện trong cùng, tầng diện sâu nhất của BSVH. Sự tồn tại của nó được biểu
38

hiện thông qua thế giới quan và nhân sinh quan. Tầng diện bên ngoài đó là
các sắc thái VH. Tầng diện này thể hiện sự phong phú, đa dạng, sự biến đổi
của BSVH trong đời sống xã hội. Các sắc thái VH này được thể hiện thông
qua các giá trị VH vật thể (nhà ở, trang phục, ẩm thực, tư liệu sinh hoạt, lao
động) và VH phi vật thể (ngôn ngữ, phong tục tập quán, lễ hội, tín ngưỡng tôn
giáo, nghệ thuật…).
Yếu tố cốt lõi tạo nên BSVH đó là hệ thống các giá trị, mà cụ thể đó là
các giá trị VH truyền thống. Các giá trị này vừa mang tính đặc trưng, bản chất
cho một nền VH vừa mang tính độc đáo, riêng biệt, đặc thù để phân biệt một
nền VH này với một nền VH khác.
Hệ thống các giá trị đặc trưng, bản chất là những giá trị tốt đẹp, tiêu biểu
cho một nền VH, được chắt lọc, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong
suốt chiều dài phát triển của lịch sử. Các giá trị đó tạo nên nền tảng vững chắc,
điểm tựa cho mỗi cộng đồng, DT trên hành trình phát triển cùng nhân loại. Các
giá trị đó kết tinh lại trong quan niệm, tư tưởng, triết lý, trong đạo đức và cách
ứng xử phản ánh diện mạo, tinh thần, tâm hồn và tình cảm của cả một cộng
đồng, một DT, có trong các sản phẩm vật thể và phi vật thể của VH.
BSVH là tinh hoa của DT, là tổng hợp những truyền thống quý báu của
DT. Nó là cái cốt lõi, là bộ khung, là giá đỡ toàn bộ nền VH, tạo nên cái hồn
của một nền VH. Chẳng hạn, đối với nền VH Việt Nam thì BSVH bao gồm
những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các DT Việt Nam được
vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước.
Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường DT, tinh thần đoàn kết, tính
cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, bao
dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự
tinh tế trong ứng xử, giản dị trong lối sống…. BSVHDT còn đậm nét cả trong
các hình thức biểu hiện mang tính DT đậm nét.
Tính độc đáo, riêng biệt, đặc thù là cái riêng có của một nền VH, gắn
liền với đặc tính của chủ thể, là cái tiêu biểu cho họ, là đặc điểm nhận biết và
phân biệt họ với những DT khác. Cái đặc thù (cái khác biệt) đó là do cốt cách
sống riêng của con người và cộng đồng người ở vùng đó có sự khác biệt với
39

các nơi khác mà nguồn gốc sâu xa là do điều kiện lịch sử, điều kiện địa lý và
phong tục tập quán lâu ngày ở vùng lãnh thổ đó quy định.
Một nền VH có vững mạnh, có khả năng tỏa sáng, ảnh hưởng ra bên
ngoài biên giới quốc gia hay không phải do bản sắc của VH đó có rõ nét hay không,
có độc đáo hay không. Do đó, một nền VH có bản sắc càng đậm nét, càng độc đáo
sẽ càng có bản lĩnh, càng bền vững và càng có điều kiện phát triển. Chính BSVH là
cái chống đỡ lại những tấn công từ bên ngoài.
Trong một nền VH, các giá trị đặc trưng, bản chất luôn mang tính ổn
định, bền vững, trừu tượng và tiềm ẩn. BSVH sở dĩ luôn mang tính ổn định,
bền vững vì nó được kết tinh, hun đúc thông qua quá trình lao động sản xuất
của con người và được lưu giữ, kế thừa theo chiều dài lịch sử. Nó được ví như
dòng phù sa ngày càng được bồi đắp và được hóa thân trong màu xanh của cỏ
cây, hoa lá. Nó không tồn tại một mình ở đâu đó do ta bắt gặp được như một
sự vật cụ thể mà nó tồn tại một cách trừu tượng, tiềm ẩn thông qua muôn vàn
các sắc thái biểu hiện khác nhau. Do đó các sắc thái VH là cái biểu hiện bên
ngoài của BSVH và nó có tính tương đối cụ thể, bộc lộ và biến đổi hơn.
Sự ổn định ở đây chính là sự ổn định của cái tinh túy, cái cốt lõi, cái
hồn cốt, còn sự biến đổi thuộc về hình thức biểu hiện. Ví dụ, chủ nghĩa yêu
nước là giá trị VH truyền thống mang đậm BSVH Việt Nam, nó được hình
thành, phát triển qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của toàn thể DT
Việt Nam. Cho tới ngày nay, nó không chỉ được gìn giữ ổn định mà còn được
bồi đắp thêm những nội dung mới, với những hình thức biểu hiện mới. Nếu
như trước đây, chủ nghĩa yêu nước biểu hiện qua sự đấu tranh kiên cường
chống giặc ngoại xâm, bảo vệ bờ cõi DT, cần cù lao động sản xuất để sinh tồn
và phát triển thì ngày nay chủ nghĩa yêu nước biểu hiện qua sự vươn lên
chống nghèo nàn và lạc hậu; phấn đấu học tập, rèn luyện, cần cù lao động,
vận dụng sáng tạo những thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ để
làm ra nhiều của cải, làm giàu cho đất nước…..
BSVH là cái ổn định, nhưng không có nghĩa là nó không thay đổi.
BSVH cũng không phải chỉ là cái khác biệt, chỉ có ở một nền VH. Sự khác
biệt chỉ là tương đối vì với tư cách là cái riêng, nó luôn bao hàm cái chung,
tức những đặc trưng chung của VH. Sự khác biệt giữa các nền VH là ở mức
40

độ ít nhiều, cao thấp hay kết cấu, quan hệ giữa các yếu tố cấu thành của một
nền VH. Chính điều này tạo nên “gen” VH hay “BSVH”.
BSVH không phải là một thực thể nhất thành, cố định, bất biến mà nó
vận động, biến đổi không ngừng. BSVH là những giá trị cô đọng nhất, tinh
túy nhất được hình thành, tồn tại, phát triển theo chiều dài lịch sử. Những giá
trị đó thông qua các nấc thang lịch sử mà không ngừng được kế thừa, lọc bỏ,
đổi mới, bổ sung và phát triển cho phù hợp với giai đoạn lịch sử mới. Con
đường vận động, phát triển của BSVH phức tạp hơn nhiều so với các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, điều kiện xã hội, lịch sử. Nó không phải đi theo đường
thẳng, không phải VH thời đại sau bao giờ cũng cao hơn thời đại trước, có
những yếu tố VH cổ mà văn minh ngày nay chưa thể vượt qua. BSVH vận
động, biến đổi theo trình độ dân trí, qua giao lưu VH thời đại, nhưng vận
động, tiếp biến rồi cũng xoay quanh cái gốc, trở về cái cội nguồn.
Nếu không có sự ổn định, bền vững thì nền VH không có bản sắc, trái
lại, nếu không có sự biến đổi, phát triển thì nền VH của các DT sẽ trở nên
nghèo nàn và không thể đứng vững trước sự lấn át của các nền VH khác. Điều
này giúp cho chúng ta có cái nhìn biện chứng hơn về sự biến đổi các giá trị
VH trong đời sống hiện đại. Dưới tác động của điều kiện kinh tế, chính trị,
VH, xã hội, những giá trị VH truyền thống đã có sự va đập, thử thách. Có giá
trị VH truyền thống được thay đổi diện mạo, sắc thái biểu hiện để phù hợp với
đời sống hiện đại. Tuy nhiên, dù biến đổi thế nào đi chăng nữa, cái căn bản,
cái gốc, cái cốt lõi cần được giữ gìn, bởi lẽ nó chính là cốt cách, linh hồn tạo
nên bản lĩnh của DT, là dưỡng chất tạo nên sức sống trường tồn của DT trong
mọi giai đoạn lịch sử. Do đó, một DT đánh mất BSVH thì thực chất DT đó đã
đánh mất chính mình. Và ngược lại, một DT giữ vững được BSVH của DT
mình thì đó chính là chìa khóa cho sự tồn tại và phát triển. Nhà thơ Huy Cận
từng viết: “Một DT qua các biến cố lịch sử một lúc nào đó, một thời đại nào
đó có thể mất độc lập, bị người ngoài đô hộ nhưng nếu DT ấy vẫn giữ được
tiếng nói của mình, vẫn giữ được vốn văn nghệ dân gian, vẫn giữ và phát
41

triển được BSVH của mình thì DT ấy vẫn nắm chắc trong tay chìa khóa của
sự giải phóng, chìa khóa của tự do, độc lập”[11;48].
Do đó, bên cạnh việc chấp nhận sự thay đổi về cách biểu hiện của
BSVH, chúng ta cần phải nâng cao bản lĩnh và đề ra những biện pháp hữu
hiệu để không làm mất đi cái cốt cách, linh hồn trong BSVHDT.
Trong BSVH luôn là thể thống nhất của hai mặt: tính tiên tiến và tính
đậm đà bản sắc; tính DT và tính nhân loại. Một nền VH vừa luôn chứa đựng
những giá trị đặc trưng cốt lõi, được hình thành trong lịch sử mang tính đậm
đà bản sắc nhưng đồng thời, qua thời gian với những biến cố của lịch sử, nó
có sự giao lưu, tiếp xúc với những nền VH khác nên đã chắt lọc được những
tinh hoa VH để làm mới nền VH của mình, tạo nên một nền VH vừa tiên tiến
vừa đậm đà bản sắc. Mặt khác, những giá trị VH được hình thành trong lịch
sử luôn được cải biến, lọc bỏ cho phù hợp với xã hội mới nên bản thân nó
cũng mang tính tiên tiến, còn các giá trị VH mới được tiếp thu, gia nhập vào BSVH
cũng được bản địa hóa để phù hợp với đặc trưng, tính cách của chủ thể nền VH nên
qua thử thách thời gian nó trở nên đậm đà bản sắc. Đây là tính biện chứng trong
quá trình hình thành, phát triển của BSVHDT.
BSVHDT cũng là sự thống nhất giữa tính DT và tính nhân loại. BSVH
luôn gắn với một chủ thể nhất định, đó là một cộng đồng người nhất định, một
DT nhất định, nên nó mang tính cách, cốt cách, bản lĩnh của DT sáng tạo ra
nó với những đặc thù về điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh lịch sử, điều kiện kinh
tế riêng, tạo nên BSVHDT. Bản thân BSVHDT cũng mang tính nhân loại
(tính chung của VH). Nếu không tính nhân loại ở đâu ra nếu không từ các nền
VH cụ thể. Cái chung luôn luôn tồn tại trong cái riêng và thông qua cái riêng
mà biểu hiện sự tồn tại của mình.
Tóm lại, trong bất cứ một nền VH nào đều có những giá trị đặc trưng, cốt lõi
(gọi là BSVH) được hình thành trong quá trình lịch sử, trải qua thời gian, những giá
trị đó vừa thể hiện sự đậm đà bản sắc vừa thể hiện sự tiên tiến, vừa mang đậm tính
cách của chủ thể sáng tạo ra nó vừa chứa đựng những giá trị chung của nhân loại.
BSVH khi gắn với chủ thể của nó (BSVHDT) thường được biểu hiện qua những
42

giá trị VH vật thể (nhà ở; trang phục; ẩm thực; công cụ lao động, sản xuất, sinh
hoạt) và VH phi vật thể (ngôn ngữ; tôn giáo; phong tục tập quán; lễ hội; nghệ thuật
(âm nhạc, hội họa, vũ điệu, văn chương, sân khấu…); tri thức dân gian; lối tư duy,
suy nghĩ, hành vi (ứng xử)).
2.1.2. Những vấn đề cơ bản của bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số
Mỗi một quốc gia, DT trong quá trình tồn tại, phát triển đã tạo nên một
nền VH với những giá trị đặc trưng, bản chất, cốt lõi và được biểu hiện ra
bằng những sắc thái, diện mạo mang dấu ấn của quốc gia, DT đó. Cái làm nên
sự khác biệt DT này với DT khác đó là BSVHDT.
“Dân tộc” ở đây được hiểu theo hai nghĩa chính là DT quốc gia (nation)
và tộc người (ethnic). DT quốc gia là “cộng đồng người ổn định làm thành
nhân dân một nước, có ý thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi
quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền thống VH và truyền thống đấu tranh
chung”[106;247]. Ví dụ như DT Việt Nam, DT Nhật Bản, DT Trung Hoa...
Một DT quốc gia gồm nhiều tộc người với nhiều ngôn ngữ, phong tục tập
quán, nếp sống VH khác nhau. Tộc người là “cộng đồng người có tên gọi, địa
vực cư trú, ngôn ngữ, đặc điểm sinh hoạt và VH riêng”[106;1008]. Ví dụ như
tộc người Mông, tộc người Dao, tộc người Tày. DT Việt Nam (national) có 54 tộc
người (ethnic): Tày, Mông, Êđê, Nùng, Thái….
Từ hai cấp độ của khái niệm DT, có thể hiểu VHDT theo hai cấp độ
khác nhau. Cấp độ thứ nhất, VHDT là VH của DT - quốc gia. Ví dụ: VH Việt
Nam, VH Trung Hoa, VH Nhật Bản.... Cấp độ thứ hai, VHDT là VH của DT
- tộc người. Ví dụ: VH Tày, VH Nùng, VH Dao.... Như vậy, VHDT là một bộ
phận của VH nhân loại, VH của DT - tộc người là bộ phận của VHDT - quốc
gia, của VH vùng, miền.
Dưới góc độ nghiên cứu của đề tài, luận án chủ yếu xem xét khái niệm
DT, VHDT ở phạm vi tộc người (ethnic) và VH tộc người nhưng luôn được
đặt trong mối quan hệ với DT - quốc gia (nation) vì giữa chúng có mối quan
hệ gắn bó chặt chẽ.
Trong đại gia đình các DT Việt Nam, ngoài DT Kinh chiếm đa số (87%
dân số), 53 DT còn lại chiếm 13% dân số cả nước nên được gọi là các DTTS.
43

Các DTTS mặc dù có số lượng dân cư ít nhưng trong quá trình hình thành,
tồn tại và phát triển, tộc người nào cũng có nền VH truyền thống với những
giá trị cốt lõi, ổn định, tinh túy nhất được hình thành trong những điều kiện tự
nhiên, xã hội - lịch sử, kinh tế, chính trị của riêng mình. Chính điều đó đã tạo
ra một tính hữu thể riêng tự phân biệt với các tộc người khác, trước hết về mặt
tự nhiên, sau đó là về diện mạo, phẩm chất, năng lực sáng tạo. Sự tự phân
biệt, tự xác định đó tạo ra những cái gọi là BSVH tộc người.
Khi tồn tại trong một quốc gia thống nhất thì BSVH các DTTS vẫn
mang những đặc trưng cơ bản của BSVH Việt Nam như: “Có lòng yêu nước
nồng nàn, ý chí tự cường DT, tinh thần đoàn kết, tính cộng đồng gắn kết cá
nhân, gia đình, làng nước, lòng nhân ái bao dung, trọng nghĩa tình đạo lý, đầu
óc thực tế, tinh thần cần cù, sáng tạo trong lao động, tế nhị trong ứng xử, giản
dị trong lối sống”[29;56]. Bên cạnh đó, do đặc thù về điều kiện tự nhiên, hoàn
cảnh lịch sử nên mỗi DTTS còn có những sắc thái VH riêng, độc đáo góp
phần tạo nên một nền VH Việt Nam phong phú, đa dạng. Đồng thời nó cũng
góp phần tạo nên bản sắc riêng, độc đáo của nền VH Việt Nam trong cộng
đồng VH khu vực và thế giới.
BSVH các DTTS là hệ thống các giá trị đặc trưng, bản chất, cô đọng
nhất, bền vững nhất, tinh túy nhất của DT - tộc người thiểu số cụ thể, được
DT sáng tạo ra trong lịch sử, là những nét độc đáo, riêng biệt của mỗi DT,
làm cho DT này không thể lẫn với DT khác và góp phần làm phong phú, đa
dạng nền VH của cả cộng đồng DT (quốc gia).
Quan niệm BSVH các DTTS là hệ thống các giá trị, cho thấy trong
BSVH các DTTS chỉ dung nạp những hiện tượng VH có ích, có ý nghĩa tích
cực góp phần vào sự phát triển đời sống vật chất và tinh thần của cộng đồng
các DTTS. Tuy nhiên, cũng cần có quan điểm lịch sử - cụ thể để xem xét vấn
đề này, bởi VH của mỗi tộc người được hình thành và tồn tại và phát triển
trong những điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị, lịch sử riêng nên có những
sắc thái, diện mạo riêng tạo nên tính DT của VH. Cho nên, có những hiện
tượng VH là có ích, có giá trị đối với tộc người này nhưng lại không được
đánh giá là như vậy đối với tộc người khác hoặc trong thời gian này nó có ích,
44

phát huy tác dụng và được coi là có giá trị nhưng thời gian khác với những điều
kiện khác thì nó lại không phù hợp và không phát huy được tác dụng nữa.
BSVH các DTTS bất biến hay biến đổi?. Thực tế cho thấy BSVH các
DTTS cũng tồn tại theo quy luật chung, nó vừa có tính ổn định bền vững vừa
có tính biến đổi, phát triển. Nó có tính ổn định, bền vững bởi vì BSVH các
DTTS bao gồm những giá trị VH chung đã được cá biệt hóa. Chúng ta biết
rằng cái chung không bao giờ tồn tại biệt lập ở bên ngoài mà tồn tại trong
từng cái riêng cụ thể. Mỗi sự vật, hiện tượng đều là một thể thống nhất bao
gồm những thuộc tính, những mối liên hệ chung giống những sự vật, hiện
tượng khác và những thuộc tính, những mối liên hệ đặc thù chỉ riêng nó có.
Tuy nhiên, khi tồn tại ở trong cái riêng, cái chung thường phải quan hệ, tác
động qua lại với cái đặc thù, đơn nhất nên nhiều khi nó bị cá biệt hóa và biểu
hiện ra không hoàn toàn giống cái chung ấy ở trong những cái riêng khác.
Mặt khác, BSVHDT gồm những giá trị VH độc đáo riêng của mỗi DT. Những
giá trị VH này được coi là riêng khi xét nó trong mối tương quan với những DT
khác, còn khi xét trong phạm vi một DT thì những nét VH độc đáo của DT ấy là
những giá trị chung của cả cộng đồng DT ấy sáng tạo nên và được kết tinh qua
nhiều thế hệ. Khi đó, những giá trị VH đó là chung cho cả cộng đồng DT đó và
mang tính ổn định, bền vững.
Tính biến đổi, phát triển của BSVH các DTTS cũng diễn ra theo sự vận
động, phát triển của xã hội. Những yếu tố mới trong sự phát triển của xã hội thường
xuyên tác động, va đập với những giá trị VH truyền thống của các DTTS làm cho
những sắc thái biểu hiện của nó có sự biến đổi để thích ứng. Ở đó, diễn ra quá trình
chọn lọc tự nhiên, những sắc thái VH còn giá trị được giữ lại và cải biến cho phù
hợp với xã hội mới, những yếu tố VH không còn phù hợp đã trở nên lỗi thời, lạc
hậu sẽ bị đào thải. Đồng thời là sự tiếp nhận các giá trị VH mới của xã hội hiện đại
trên nền tảng của giá trị truyền thống, tức các yếu tố VH mới được bản địa hóa để
gia nhập vào BSVH các DTTS.
Tóm lại, không có một nền VH nào hình thành và phát triển được nếu
không thể hiện được tâm hồn, trí tuệ, bản lĩnh, sức sáng tạo của DT. VH chỉ
tồn tại, phát triển khi chứa đựng và thể hiện đầy đủ bản sắc DT đã sáng tạo ra
45

nó. Mỗi DT hay tộc người trong quá trình hình thành phương thức sống và
hoạt động để ứng phó với hoàn cảnh, đã vừa tiếp thu, tiếp biến các giá trị để
nâng cao tinh thần tự chủ, tự cường, tạo nên các tố chất riêng biệt của từng
DT, cái riêng ấy chính là BSVH tộc người. Nó được thể hiện qua thế giới
quan, nhân sinh quan, cách thức tư duy, lối sống, lý tưởng thẩm mỹ và được
biểu hiện cụ thể thông qua các giá trị VH vật thể (nhà ở truyền thống, trang
phục truyền thống, ẩm thực truyền thống, công cụ lao động, sản xuất) và các
giá trị VH phi vật thể (ngôn ngữ, phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo, lễ
hội, nghệ thuật dân gian và tri thức bản địa). Những giá trị này luôn chịu sự
tác động của sự biến đổi kinh tế - xã hội và môi trường tự nhiên.
2.2. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số vùng
Đông Bắc
2.2.1. Bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc
2.2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, dân cư vùng Đông Bắc tạo nên bản sắc văn hóa
* Đặc điểm tự nhiên:
Đông Bắc nước ta là một vùng miền núi rộng lớn, kéo dài từ thung lũng sông
Hồng ra đến vịnh Bắc Bộ bao gồm các tỉnh: Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng,
Lạng Sơn, Lào Cai, Yên Bái, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang. Vùng
lãnh thổ này có tổng diện tích chiếm tới trên 1/6 diện tích cả nước. Phía Bắc và Tây
Bắc giáp các tỉnh Vân Nam, Quảng Tây và Quảng Đông của nước Trung Quốc;
phía Tây và Tây Nam giáp sông Hồng và phía Nam giáp các tỉnh đồng bằng Bắc
Bộ. Trong công trình này, chúng tôi chỉ đề cập đến các tỉnh vùng Việt Bắc cũ: Cao
Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang.
Vùng Đông Bắc Việt Nam còn được gọi là vùng miền núi phía Bắc Sông
Hồng. Đây là vùng núi thấp hoặc trung bình, xen giữa những vùng đồi rộng lớn, có
những đỉnh núi cao và một số cao nguyên đá vôi. Nhìn chung, địa hình vùng Đông
Bắc không mấy hiểm trở. Một đặc điểm nổi bật của địa lý nơi đây là sự kiến tạo các
cánh cung quay lưng ra biển, tạo nên những dải thung lũng rộng lớn với những con
sông, suối và những cánh đồng trù phú. Khí hậu ở đây hầu hết đều là nhiệt đới ẩm,
gió mùa, một phần á nhiệt đới. Đó chính là điều kiện cơ bản để tạo nên đặc trưng về
đời sống kinh tế, VH - xã hội của các DTTS nơi đây.
46

Là vùng đất á nhiệt đới, núi non trùng điệp, đây vốn là địa bàn tập trung
nhiều loại động vật, thực vật quý. Về động vật, vùng Đông Bắc có nhiều động
vật hoang dã lớn như: hổ, báo, gấu, sơn dương, lợn rừng, hươu, nai.... Thực
vật phát triển thành nhiều tầng, với những đặc điểm khác nhau, từ thân cao,
tán rộng đến cây vừa, cây thấp, dây leo, từ thân gỗ đến họ tre, nứa thân rỗng,
từ lá to đến lá vừa, lá kim..., tạo nên một thảm thực vật hết sức phong phú. Ở
vùng này có nhiều loại gỗ quý thuộc hàng tứ thiết như: đinh, lim, sến, táu,
nghiến.... Bên cạnh thực vật, vùng Đông Bắc còn có nhiều tài nguyên khoáng
sản như: mỏ than, mỏ thiếc, mỏ sắt, mỏ đồng, mỏ apatit, mỏ đá quý....
Với hệ thống sông ngòi phong phú như sông Lô, sông Gâm, sông Bằng,
sông Cầu, sông Kỳ Cùng và các chi lưu của chúng tạo nên nguồn nước dồi
dào cho việc phát triển nông nghiệp lúa nước và đánh bắt thủy sản. Ngoài các
sông suối ra, vùng Đông Bắc còn có một số hồ nước ngọt tự nhiên và hồ nhân
tạo như: hồ Ba Bể, hồ Núi Cốc, hồ Năm Cắt…. Đó là nguồn cung cấp nước
ngọt phục vụ cho đời sống đồng bào, vừa là nguồn thủy sản vô tận, lại là
đường giao thông quan trọng để giao lưu hàng hóa, tre, nứa, gỗ... tạo nên tổng
thể kinh tế - VH đầy tiềm năng.
Tóm lại, môi trường tự nhiên vùng Đông Bắc rất đa dạng, ở đây vừa có
núi cao, sông lớn, có vùng thấp, vùng cao, các cánh đồng, có thung lũng, có
biên giới quốc gia.... Do đó, vùng này gần như có đủ các yếu tố mang tính đại
diện cho cả nước. Sự đa dạng về địa hình cũng là một yếu tố tạo nên sự đa
dạng trong phân bố dân cư của vùng Đông Bắc.
* Đặc điểm dân cư, tộc người.
Đông Bắc là nơi cư trú của hơn 20 DTTS chủ yếu như: Tày, Nùng,
Mông, Dao, Sán Chay, Thái, Giáy, Lào, Bố Y, Pà Thẻn, Lô Lô, Ngái, Hoa,
Cơ lao, Pu Péo, Phù Lá....
Là địa bàn có nhiều DTTS cư trú (3.866.129 người) chiếm 46,4% dân
số toàn vùng và chiếm 31,5% dân số DTTS cả nước. Tuy nhiên, số lượng dân
số các DTTS không đều. Có DT đông dân cư như DT Tày (1.373.249 người)
chiếm 84,4%. Dưới 1 triệu người và trên 5 trăm nghìn người có DT Nùng,
Mông, Dao. Có DT có số dân ít như Pu Péo (634 người), Ngái (664 người)....
47

Ngoài ra, có sự phân bố dân cư không đều giữa các tỉnh trong vùng
Đông Bắc cụ thể: có 4 tỉnh có tỷ lệ % DTTS chiếm số đông như: Cao bằng
(94.2%), Hà Giang (86,7%), Bắc Kạn (86,6%), Lạng Sơn (83%). Tuyên
Quang là tỉnh có tỷ lệ % DTTS chiếm ở mức trung bình là (53,7%), Còn Thái
Nguyên có tỷ lệ % DTTS chiếm dưới 50% là (26,8%).
Các DTTS ở Đông Bắc phân bố xen kẽ lẫn nhau, tuy nhiên, bên cạnh
đó cũng có nơi có sự phân bố tập trung theo làng, bản. Có xã chủ yếu là người
Tày, hoặc người Nùng, người H’Mông, người Dao....
Một đặc điểm rất rõ nét đó là do hoàn cảnh lịch sử và hoàn cảnh sống
nên ở vùng Đông Bắc xuất hiện sự phân bố dân cư theo vùng. Cụ thể, vùng
thung lũng là địa vực cư trú chủ yếu của người Tày, người Nùng. Vùng rẻo
giữa và rẻo cao là địa vực cư trú chủ yếu của người H’Mông, người Dao. Còn
các DT khác thì xen kẽ nhau cả ở hai vùng. Chính đặc điểm này đã tạo nên
vùng Đông Bắc với hai vùng VH tiêu biểu đó là VH Tày - Nùng đặc trưng
cho VH vùng thung lũng, VH H’Mông - Dao đặc trưng cho VH vùng cao.
Mặc dù có hoàn cảnh lịch sử riêng với sự xuất hiện ở các thời điểm là
khác nhau, nhưng các DTTS vùng Đông Bắc sớm gắn bó đoàn kết với nhau
trong chống thiên tai và chống giặc ngoại xâm, cùng chung lưng đấu cật với
DT Kinh để dựng nước và giữ nước cho đến ngày nay.
2.2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội truyền thống
Đặc điểm kinh tế truyền thống của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc
chịu ảnh hưởng nhiều bởi địa hình cư trú và môi trường tự nhiên. Ở vùng thung
lũng, đồng bào khai phá đất đai, tạo dựng nên những cánh đồng ruộng để trồng cấy
lúa nước, khai phá thêm đất đồi để trồng ngô, lúa nương, các loại cây đậu, đỗ, bầu
bí…. Ở vùng cao, với đặc điểm núi dốc nhiều, nhiều núi đá, ít sông ngòi, khí hậu
lạnh, mùa đông khô mưa ít, mùa hè ẩm mưa nhiều…. Do đó, đồng bào làm nghề
trồng trọt chủ yếu ở trên cạn, khai phá đất dốc để làm nương, trồng các loại cây
lương thực, thực phẩm, cây dược liệu…, ngoài trồng trọt, bà con còn chăn nuôi,
làm nghề thủ công như dệt, mộc, đan lát, làm ngói, rèn….
Kinh tế truyền thống của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc là nền
kinh tế tự cấp, tự túc, nguồn sống chính là trồng trọt. Vùng thấp trồng lúa
48

nước, vùng cao trồng lúa nương và ngô. Chăn nuôi và nghề thủ công tương
đối phát triển nhưng chưa tách thành nghề riêng. Với môi trường tự nhiên là
rừng núi nên kinh tế hái lượm và săn bắn vẫn giữ vai trò quan trọng trong
cuộc sống của đồng bào.
Hệ thống công cụ lao động, sản xuất của đồng bào chủ yếu là công cụ
thủ công, thô sơ, giản đơn như công cụ chặt phá gồm có dao, rìu, búa… chủ
yếu để khai phá đất hoang thành ruộng và phát rừng làm nương; công cụ làm
đất như cày, bừa, cuốc, mai, gậy chọc lỗ; công cụ thu hoạch như hái (ruộng),
hép (nương); công cụ vận chuyển có gùi, đôi sọt cùng với chiếc đòn.
Với điều kiện tự nhiên miền núi có địa hình, khí hậu phức tạp cùng với
hệ thống công cụ lao động thủ công, thô sơ nên nền kinh tế của đồng bào kém
phát triển. Năng suất lao động thấp, chỉ đủ phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong
một mùa vụ nhất định. Có nơi vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn,
hiện tượng đói ăn vẫn thường xuyên diễn ra. Dẫn đến đời sống kinh tế - xã
hội của đồng bào còn gặp nhiều khó khăn.
Địa hình phức tạp, giao thông chia cắt, cộng với một nền kinh tế khép
kín, do đó đồng bào các DTTS nơi đây ít được tiếp xúc với môi trường bên
ngoài, ít có cơ hội được giao lưu, học hỏi với các vùng khác. Hệ thống giáo
dục chưa phát triển “Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, cả vùng Đông
Bắc chỉ có vài chục trường tiểu học ở các tỉnh. Có một trường Cao đẳng tiểu
học (tương đương với trung học cơ sở ngày nay) duy nhất đặt ở Lạng Sơn, do
đó, về cơ bản đồng bào các DT là mù chữ”[96;44]. Do đó, trình độ dân trí của
đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc còn thấp nên đã hình thành trong họ lối
tư duy chất phác, nguyên thủy.
Chính môi trường tự nhiên cũng như đặc điểm kinh tế - xã hội trên là
cơ sở để nảy sinh, tồn tại và phát triển một nền VH đa dạng giàu bản sắc của
đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc.
2.2.1.3. Những biểu hiện chủ yếu của bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số
vùng Đông Bắc
Cư trú trên một địa hình đa dạng với môi trường tự nhiên phong phú,
các DTTS vùng Đông Bắc đã sáng tạo nên nhiều giá trị VH độc đáo, giàu bản
49

sắc mang tính đặc trưng cho toàn vùng. Có thể nói, BSVH các DTTS vùng
Đông Bắc như một rừng hoa ngập tràn sắc hương. Mỗi một sắc hương biểu
trưng cho sắc đẹp của một DT và góp phần tạo nên sự đa dạng trong BSVH
các DTTS vùng Đông Bắc. Sự đa dạng đó được biểu hiện thông qua các giá
trị VH vật thể và VH phi vật thể.
* Những biểu hiện của BSVH trong VH vật thể.
VH vật thể của các DTTS vùng Đông Bắc được thể hiện thông qua nhà
ở truyền thống, trang phục truyền thống, ẩm thực truyền thống và công cụ lao
động, sản xuất, sinh hoạt. Những giá trị VH này chịu ảnh hưởng bởi các điều
kiện tự nhiên, truyền thống lịch sử của đồng bào các DTTS nơi đây. Một mặt
nó phản ánh thế giới quan với những quan niệm hết sức sơ khai, nguyên thủy
về vũ trụ, mặt khác nó phản ánh nhân sinh quan với những quan niệm về sự
sống, cái chết, về mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, giữa con người
với con người và với cộng đồng xã hội.
Nhà ở truyền thống: Các DTTS vùng Đông Bắc có những kiểu kiến
trúc nhà ở truyền thống phù hợp với điều kiện tự nhiên miền núi, biên giới,
điều kiện kinh tế và tập quán sinh sống của DT. Đối với các DT sống định cư,
ổn định ở vùng thung lũng như DT Tày, Nùng… thì kiến trúc nhà ở truyền
thống của họ là nhà sàn. Sàn nhà cao khoảng trên dưới 180cm, đủ chiều cao
để người có thể đi lại bình thường dưới gầm sàn. Thông thường bình diện nền
nhà có hình chữ nhật, với chiều rộng là 8m, chiều sâu là 12m. Nhà có hai mái,
mái trước và mái sau, với chiều dài của mái trước bằng 4/5 chiều dài của mái
sau, lợp ngói máng. Nhà có hai cửa ra vào: cửa trước mở ở phía trước, gian
giữa; còn cửa sau mở ở bên hông cuối gian đặt giường nam giới. Bên ngoài
của sau có một sàn nhỏ để nước. Ngôi nhà sàn của DT Tày, Nùng là sự thể
hiện một cách điển hình kiểu không gian ba tầng, đó là tầng đất, tầng sàn và
tầng gác. Nó phản ánh thế giới ba tầng tương ứng với ba mường: Mường trời,
Mường đất và Mường nước (mường dưới mặt đất). Trong đó, tầng đất là gầm
sàn - nơi dành cho công cụ sản xuất, gia súc, gia cầm; tầng sàn là sàn nhà
dành cho người ở và đồ gia dụng phục vụ nhu cầu hàng ngày của con người;
tầng gác dành làm kho chứa lương thực.
50

Các DT sống ở vùng rẻo cao với lối sống du canh, du cư như DT
H’Mông, Dao thì kiến trúc nhà ở truyền thống của họ thường là những nhà ở
đơn giản, tạm bợ như nhà nền đất phên vách nứa, nhà sàn tre nứa lá. Ngôi nhà
thông thường của đồng bào là nhà ba gian hai mái. Mái nhà lợp bằng cỏ
gianh. Nhà có hai cửa ra vào: một cửa chính mở ở gian giữa, phía trước nhà; một
cửa phụ ở mở gian cạnh, phía sau nhà. Đối với các DT (H’Mông, Dao) đã định
canh, định cư thì họ làm nhà trình tường với kiến trúc độc đáo bởi hàng rào đá được
xếp bao quanh ngôi nhà.
Một đặc điểm chung trong kiến trúc ngôi nhà truyền thống của đồng
bào vùng thấp và đồng bào các DT vùng cao đều được xây dựng theo kết cấu
có bộ khung chịu đỡ toàn bộ trọng lực của ngôi nhà. Bộ khung này làm hoàn
toàn bằng nguyên liệu gỗ quý được lựa chọn cẩn thận, kỹ lưỡng. Cách thức sử
dụng không gian trong ngôi nhà của đồng bào các DTTS nơi đây phụ thuộc
vào tập quán của từng DT, tuy nhiên đều có những điểm chung nhất định bởi
chịu sự chi phối bởi các yếu tố tâm linh, tín ngưỡng. Kiến trúc nhà ở của các
DTTS vùng Đông Bắc cho thấy thế giới quan, nhân sinh quan, cách thức tư
duy, lối sống, lý tưởng thẩm mỹ của mỗi DT, điều đó được thể hiện qua cách
chọn đất, hướng đất để dựng nhà, hình thù mái nhà, cách bố trí không gian
trong ngôi nhà…. Cụ thể, xuất phát từ quan niệm về một thế giới đa thần, vạn
vật hữu linh mà ngay khi chọn đất, làm nhà, đồng bào các DTTS nơi đây đều
tiến hành các nghi lễ cúng thổ công nhằm chọn được chỗ đất đẹp để dựng
nhà; khi chọn được nguyên liệu cũng tiến hành cúng thần rừng để báo cáo vì e
sợ sự trừng phạt của các vị thần đối với gia chủ. Hướng nhà được đồng bào
chọn chủ yếu dựa vào núi, mặt hướng ra phía nam để đón ánh nắng mặt trời
ấm áp cũng như đón khí dương vào nhà để tiếp thêm năng lượng, sinh khí để
mọi thành viên trong gia đình luôn được khỏe mạnh. Vật liệu dựng nhà đều
được khai thác từ thiên nhiên và được lựa chọn cẩn thận: Chọn cây không
được cụt ngọn vì nếu dựng nhà phải cây cụt ngọn thì khác gì nhà không có
nóc (không có tôn ti trật tự), cây sâu gốc thì không vững bền cũng như gia
chủ không được khỏe mạnh. Lối tư duy, suy nghĩ chân thật, giản dị này cũng
chứa đựng nhiều tính triết lý nhân sinh. Bởi không đơn thuần chỉ dựng ngôi
nhà để ở, mà nó còn liên quan đến cả cuộc sống sau này của các thành viên
51

trong gia đình. Ngôi nhà với bộ khung chịu lực được đan kết bởi các cây
thẳng, không sâu gốc được ví như người đàn ông khỏe mạnh - trụ cột của gia
đình, tượng trưng cho khí dương; cầu thang đi lên ngôi nhà sàn của người
Tày, Nùng được kết cấu 9 bậc, tượng trưng cho 9 vía của người phụ nữ.
Trong nghi thức vào nhà mới của người Dao cũng biểu thị sự kết hợp của âm
và dương như nghi thức đốt lửa vào nhà mới phải do một người đàn ông và một
người đàn bà, một người mang mệnh thủy, một người mang mệnh hỏa là người đốt
lửa. Quan niệm này phải chăng chịu ảnh hưởng của Thuyết âm dương (vạn vật
trong trời đất được sản sinh nhờ sự kết hợp của hai khí âm và dương).
Trang phục truyền thống: Trang phục truyền thống của các DTTS
vùng Đông Bắc vô cùng phong phú và đa dạng, mỗi DT đều có trang phục
truyền thống với các loại màu sắc, kiểu dáng và trang sức đi kèm đặc trưng
riêng cho DT mình. Cũng như kiến trúc nhà ở truyền thống, trang phục truyền
thống của đồng bào các DTTS nơi đây phản ánh điều kiện tự nhiên và tập
quán sinh sống của từng DT. Đối với các DT sống ở vùng thung lũng như DT
Tày, Nùng, Giáy, trang phục tương đối giản dị, chân phương với màu sắc chủ
đạo là màu chàm, nguyên liệu từ bông do chính đồng bào tự trồng bông dệt
vải. Còn ngược lại, các DT sống ở vùng rẻo cao như DT H’Mông, Dao, Pà
Thẻn thì quần áo rực rỡ sắc màu, cắt may cầu kỳ, thêu thùa sặc sỡ, họa tiết
công phu và kèm theo nhiều vật trang trí, trang sức đa dạng.…
Những bộ trang phục truyền thống của đồng bào các DTTS vùng Đông
Bắc ngoài chức năng che chở cơ thể, bảo vệ cơ thể con người khỏi những tác
động bất lợi của tự nhiên, còn là phương tiện làm đẹp cho con người. Quần áo
với màu sắc, kiểu dáng và hoa văn trang trí là phương tiện thể hiện tài năng,
sự khéo léo và thị hiếu thẩm mỹ của mỗi DT, thể hiện BSVHDT đậm nét.
Ẩm thực truyền thống: Là cư dân miền núi làm nghề trồng trọt và chăn
nuôi theo lối tự cung, tự cấp nên đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc nước ta
sử dụng nguồn thực phẩm có nguồn gốc động vật và thực vật rất phong phú,
bao gồm động vật chăn nuôi trong gia đình và động vật do săn bắn được; các
loại rau trồng và cả các loại rau thu hái được trong tự nhiên. Nguồn thực
phẩm đa dạng nên đòi hỏi cách chế biến cũng rất đa dạng tạo nên nhiều món
ăn truyền thống đậm đà bản sắc DT, mang đậm nét đặc trưng của vùng.
52

Về lương thực, từ gạo tẻ, ngoài để nấu cơm các DT còn chế biến làm
bánh tẻ, làm bún, làm bánh cuốn hay nấu cháo loãng húp thay cho nước uống.
Gạo nếp được chế biến thành xôi với đủ các màu sắc: xanh, đỏ, vàng, đen,
ngoài ra còn để chế biến các loại bánh chưng, bánh dày, bánh gai, bánh chuối,
bánh rợm, bánh tro, bánh trôi, bánh khảo.
Các DT sống ở vùng rẻo cao với nguồn lương thực chủ yếu là lúa
nương và ngô thì đồng bào chế biến thành món mèn mén. Thực phẩm cũng vô
cùng phong phú và đa dạng cả về cách thức chế biến như món khau nhục (của
DT Nùng) được chế biến từ thịt lợn; thịt quay (lợn quay, vịt quay cả con);
canh thịt gà nấu với gừng, nghệ, món thắng cố của DT H’Mông; món thịt lợn
ướp chua, món cháo chua của người Dao…. Do hoàn cảnh sống ở miền núi,
tiện nghi sinh hoạt còn thiếu thốn, xa chợ búa nên đòi hỏi các DTTS phải có
cách thức bảo quản thực phẩm để ăn quanh năm, vì vậy đồng bào dù sống ở vùng
thung lũng hay vùng rẻo cao cũng đều có những cách thức bảo quản thực phẩm rất
độc đáo như ướp muối phơi khô, sấy khô hoặc ngâm trong nước muối hay trong
nước mỡ lợn. Sự đa dạng, độc đáo trong các món ăn truyền thống cũng như cách
bảo quản thực phẩm thể hiện sự đảm đang, khéo léo, tinh tế và sự thích ứng với
điều kiện vùng miền của đồng bào DTTS nơi đây.
Công cụ lao động, sản xuất, sinh hoạt: Chính sự đa dạng trong địa
hình vùng Đông Bắc mà đã quy định sự đa dạng trong các công cụ lao động,
sản xuất của các DTTS ở vùng này. Điều đó chứng tỏ sự thông minh, sáng
tạo, sự linh hoạt thích nghi với những hoàn cảnh tự nhiên khác nhau. Với
những vùng thung lũng - nơi của những cánh đồng lúa nước, để sản xuất đồng
bào sáng tạo ra những chiếc cày, bừa, cuốc, mai để làm đất, chiếc dao, chiếc
rìu để phát quang đồi núi trồng các cây họ đỗ, ngô, bí…. Với những vùng cao,
nhiều núi đá, để canh tác thuận lợi, họ cũng nghiên cứu rèn những chiếu cuốc,
chiếc thuổng, dao, dìu, búa phù hợp với canh tác nương rẫy. Đặc biệt, sự sáng
tạo ra chiếc thuổng và chiếc gậy chọc lỗ tra hạt được coi là sự phát minh sáng
tạo phù hợp với địa hình có nhiều núi đá vôi. Các phương tiện vận chuyển
như gùi để khoác sau lưng đã giúp đồng bào các DTTS vận chuyển dễ dàng
trong địa hình dốc đá.
Tóm lại, các giá trị VH vật thể của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc
53

được sáng tạo bắt nguồn từ cơ sở tồn tại xã hội, đó chính là điều kiện địa lý, môi
trường tự nhiên vùng Đông Bắc có những yếu tố đan xen, vừa có núi cao, sông dài,
vừa có những thung lũng với những cánh đồng màu mỡ…. Tất cả các giá trị VH
vật thể được tạo nên từ sự kết hợp giữa các nguyên vật liệu có sẵn trong thiên nhiên
với sự chăm chỉ, cần cù, khéo léo của đôi bàn tay và sự sáng tạo, giàu trí tưởng
tượng của khối óc để tạo nên những ngôi nhà với những nét kiến trúc độc đáo,
những bộ trang phục với kiểu dáng và những họa tiết hoa văn đặc sắc, những món
ăn với cách chế biến tinh xảo và đặc biệt là hệ thống công cụ lao động, sản xuất độc
đáo phù hợp với từng điều kiện địa hình khác nhau, thể hiện khả năng ứng phó với
môi trường tự nhiên một cách linh hoạt.
* Những biểu hiện của BSVH trong VH phi vật thể.
VH phi vật thể của các DTTS vùng Đông Bắc được thể hiện thông qua
ngôn ngữ, tín ngưỡng tôn giáo, phong tục tập quán, lễ hội, tri thức bản địa và
nghệ thuật dân gian.
Ngôn ngữ: Mỗi một DTTS vùng Đông Bắc nước ta đều có một ngôn
ngữ riêng - ngôn ngữ tộc người. Chính ngôn ngữ này là phương tiện giao tiếp
trong nội bộ của DT. Ngoài ra, đồng bào các DTTS nơi đây còn giao tiếp với
nhau bằng ngôn ngữ chung của cả vùng như: ở vùng thung lũng, do DT Tày,
Nùng chiếm số đông (88%) dân số toàn vùng, mặt khác tiếng Tày và tiếng
Nùng lại rất gần nhau cả về ngữ âm, từ vựng và cả cú pháp nên trong quá
trình giao tiếp ở trong vùng này, tiếng Tày và tiếng Nùng từ lâu đã trở thành
tiếng phổ thông trong vùng, được các DT khác sử dụng làm phương tiện giao
tiếp chung cho toàn vùng. Ở vùng cao, do số lượng dân cư DT H’Mông đông
và cư trú trải rộng hầu hết vùng rẻo cao Đông Bắc nên tiếng nói của DT này
đã được các DT khác sử dụng làm công cụ giao tiếp chung của cả vùng trong
việc mua bán, việc liện quan đến hành chính nhà nước, việc học hành.… Mặc
dù các DTTS vùng Đông Bắc giao tiếp với nhau bằng ngôn ngữ của DT mình
hay ngôn ngữ vùng nhưng vẫn có sự liên hệ chặt chẽ với ngôn ngữ quốc gia
(Tiếng Việt) điều đó góp phần tạo nên một nền VH thống nhất trong đa dạng.
Phong tục tập quán.
Đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc có hệ thống phong tục, tập quán
54

phong phú, đang dạng. Mỗi một DT đều có những phong tục, tập quán riêng
phản ánh đặc điểm lịch sử cũng như môi trường cư trú của tộc người. Đó là
những tập quán liên quan đến hoạt động sản xuất - biểu hiện mối quan hệ giữa
con người với thiên nhiên đậm nét thông qua các tri thức sản xuất nông
nghiệp như tập quán canh tác “thổ canh hốc đá” - một tập quán canh tác riêng
thích ứng với điều kiện tự nhiên vùng núi đá. Đây là kỹ thuật canh tác truyền
thống và khá độc đáo ở những nơi có diện tích đá nhiều hơn đất ở vùng cao
Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn…. Để có đất sản xuất, đồng bào đã gùi từng
gùi đất lấp đầy các hốc đá để trồng cây lương thực mà chủ yếu là ngô. Tập
quán sản xuất này thể hiện sức sống mạnh mẽ, tinh thần giữ đất, giữ làng, dù
khó khăn đến đâu, các DT vẫn tìm tòi sáng tạo, duy trì cuộc sống, từng bước
vươn lên xoá đói, giảm nghèo.
Phong tục tập quán liên quan đến chu kì đời người như sinh nở, cưới
xin, tang ma, … cũng hết sức đa dạng, phản ánh những giá trị nhân văn trong
ứng xử giữa con người với nhau trong xã hội.
Tập quán sinh đẻ và nuôi dậy con cái: Phụ nữ các DT Tày, Nùng,
Mông, Dao khi mang thai và sinh nở đều có những kiêng kị rất tốt cho thai
phụ như kiêng làm việc nặng, kiêng ăn những đồ lạ, kiêng sát sinh và tham
gia vào những hoạt động gây căng thẳng thần kinh.… Được người thân chăm
sóc cẩn thận, chu đáo, bồi bổ. Khi sinh nở cũng được gia đình nội ngoại hai
bên cùng chăm nom cho cả bà mẹ và đứa nhỏ. Đứa trẻ được đầy tháng cũng
được gia đình làm lễ cúng mụ. Trong quá trình nuôi dậy đứa trẻ, đồng bào
thường sử dụng phương pháp truyền khẩu thực hành, trực tiếp truyền dạy cho
đứa trẻ các phương pháp làm ăn ngay và những phong tục tập quán, những
cách ứng xử trong cộng đồng ngay từ khi còn nhỏ. Với trình độ dân trí thấp,
hạn chế nhiều khả năng mà trong tập quán sinh đẻ và nuôi dạy con cái của
đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc chứa đựng nhiều hạt nhân hợp lý, biểu
hiện mối quan hệ ứng xử rất nhân văn giữa mọi người với nhau.
Tục lệ cưới xin: Những đôi trai gái đồng bào DTTS được tự do tìm hiểu
và yêu thương nhau, quen nhau trong những ngày hội xuân, những ngày lễ tết,
họ ưng nhau thì về báo cáo với bố mẹ để chọn ngày lành tháng tốt cử hành lễ
55

cưới. Lễ cưới được tiến hành nhiều bước để có dịp để hai bên gia đình có cơ
hội giao lưu, hiểu nhau hơn. Trong đám cưới còn có sự tham gia của âm nhạc
rất vui nhộn, là sự đối đáp nhau giữa hai bên gia đình thông qua điệu hát Cỏ
lẩu (hát quan lang), đối với đồng bào Dao còn có nghi thức dạy bảo dâu khi
mới về nhà chồng….
Lễ sinh nhật: Khi cha mẹ lớn tuổi, đối với đồng bào Mông, Dao (trên
40 tuổi), Đồng bào Tày, Nùng (trên 50 tuổi) được con cái tổ chức sinh nhật
hay mừng thọ vào ngày sinh của cha mẹ. Đây là cách báo hiếu của con cái đối
với cha mẹ. Quan niệm của đồng bào đến tuổi ngoài 40, ngoài 50 mới tổ chức
sinh nhật hay mừng thọ vì khi đó con cái đã lớn và có điều kiện để báo hiếu
bố mẹ. Đây là phong tục rất tốt đẹp, nó giáo dưỡng con người từ ý thức đến
hành động đều hướng về cội nguồn, hướng đến các giá trị nhân văn.
Tang ma: Đạo hiếu của đồng bào các DTTS không chỉ biểu hiện thông
qua các mối quan hệ trong cuộc sống thường nhật, thông qua việc báo hiếu
trong lễ sinh nhật mà còn được biểu hiện đậm nét trong tang ma. Đó là những
nghi thức của người sống dành cho người quá cố để cầu mong linh hồn người
quá cố sớm trở về với tổ tiên. Đối với đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc,
thủ tục tang ma được tiến hành rất nghiêm ngặt và bắt buộc phải có sự tham
gia của đội ngũ các thầy Tào (thầy cúng) với những nghi thức mang đậm màu
sắc của Đạo giáo. Trong tang ma hội tụ đủ các yếu tố nghệ thuật diễn xướng,
âm nhạc, hội họa và bao trọn mối quan hệ giữa người sống với người sống,
giữa người sống với người đã mất thông qua các thủ tục trong tang ma.
Tóm lại, thông qua các phong tục tập quán của đồng bào các DTTS
vùng Đông Bắc, các giá trị nhân văn được biểu hiện đậm nét. Lối sống chân
thật, giản dị nhưng giàu lòng nhân ái, sự đoàn kết, giúp đỡ nhau trong đời
sống kinh tế cũng như đời sống tinh thần là những nét VH chủ đạo trong đời
sống của đồng bào tồn tại qua bao thế hệ đến nay.
Tín ngưỡng, tôn giáo: Do hoàn cảnh lịch sử thường xuyên phải thiên
di, do sự áp bức bóc lột của thế lực nhà Hán nên khi dư cư vào vùng Đông
Bắc Việt Nam và cư trú ở vùng rừng núi có địa thế khó khăn, hiểm trở cùng
với môi trường tự nhiên không thuận lợi, hoạt động kinh tế khó khăn…. Đó
56

chính là cơ sở để đồng bào tin vào số phận, tin vào lực lượng siêu nhiên dẫn
đến tín ngưỡng, tôn giáo.
Đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc đều thực hành tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên, tín ngưỡng liên quan đến cộng đồng, tín ngưỡng liên quan đến tự
nhiên, tín ngưỡng liên quan đến sản xuất và tín ngưỡng liên quan đến vòng
đời người… tạo nên hệ thống tín ngưỡng đa dạng, phong phú.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên: Thờ cúng tổ tiên là một tín ngưỡng, một
tập tục truyền thống có vị trí hết sức đặc biệt trong đời sống tinh thần của DT
Việt Nam nói chung và các DTTS vùng Đông Bắc nói riêng. Bàn thờ thường
được đặt trang trọng ở chính giữa ngôi nhà, trong đó phía cao nhất là thờ
Phật, thờ Khổng và thờ Đạo giáo. Đồng bào thường thờ cúng tổ tiên vào
những ngày mùng một và ngày rằm hàng tháng, ngoài ra còn được thờ cúng
vào các dịp lễ, tết. Một mặt, thể hiện sự tưởng nhớ về những người đã khuất,
mặt khác đó là thể hiện sự thành kính, cầu mong tổ tiên che chở, phù hộ độ trì
cho các thành viên trong gia đình bình an, may mắn.
Tín ngưỡng liên quan đến cộng đồng: Ngoài thờ cúng tổ tiên trong gia
đình, dòng họ, đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc còn có một số tín ngưỡng
chung của cộng đồng: Trong phạm vi thôn bản, người Tày thờ thổ công (Cốc
bản), thổ địa, thờ các vị thánh trong vùng mà họ gọi là thấn (thần), đây là các
vị thần chung của bản, mường, là người bảo vệ cho làng bản, mùa màng (có
nhiều cách gọi tên các vị thần bản, mường như: Mường Pha Hán, Man Phia
Tiên, Nàng tiên chúa Ngọc Cần...). Các vị thần chung của cộng đồng được
người Nùng cúng lễ vào dịp tết Nguyên đán và mùa xuân hàng năm. Người
Dao có tục thờ Bàn Hồ là nhân vật huyền thoại, được coi là thủy tổ của dân
tộc Dao, được nhắc tới trong truyện kể dân gian, thần tích và các truyện thơ.
Giống như thần núi Tản Viên của người Mường, Bàn Hồ hay Bàn Vương của
người Dao ngoài việc được thờ trong các gia đình, dòng họ còn được thờ
chung ở các đền thờ công cộng của bản, mường.
Tín ngưỡng liên quan đến tự nhiên: Đồng bào các DTTS ở khu vực
miền núi phía Bắc hiện vẫn còn tôn thờ rất nhiều các hiện tượng tự nhiên.
Người Mông, người Nùng, người Tày... ở một số địa phương trong khu vực
thờ thần rừng với những truyền thuyết cổ xưa về sự linh thiêng của những khu
57

rừng cấm, rừng thiêng và hiện vẫn còn những khu rừng cấm có địa thế đẹp
trong bản, mường với những quy định “bất khả xâm phạm” cùng lễ hội cúng
thần rừng độc đáo được tổ chức hàng năm.
Tín ngưỡng liên quan đến sản xuất: Đa phần các DTTS vùng Đông Bắc
đều sinh sống bằng nghề trồng trọt, chăn nuôi. Vì vậy các loại hình tín
ngưỡng liên quan đến sản xuất nông nghiệp có mặt trong đời sống tôn giáo,
tín ngưỡng của hầu hết đồng bào. Người Tày, người Nùng, người Dao... đều
tin vạn vật có linh hồn, tin có các vị thần hỗ trợ cho mùa màng sản xuất, vì
vậy, hàng năm, vào mùa xuân (trước vụ mùa sản xuất), đồng bào các DT nói
trên đều có những nghi lễ xuống đồng (còn gọi là lễ hội Lồng Tồng, lễ cầu
mùa) nhằm cầu xin thần linh phù hộ cho một mùa màng thuận lợi, bội thu,
vạn vật phong đăng, phồn thực.
Tín ngưỡng liên quan đến vòng đời: Nghi lễ vòng đời là những nghi lễ thể
hiện tín ngưỡng liên quan đến cá nhân con người từ khi sinh ra đến khi chết. Nghi
lễ vòng đời người là nghi lễ mà gia đình, tộc họ, cộng đồng thực hiện cho mỗi con
người qua các giai đoạn như sinh nở, trưởng thành, lễ hỏi, cưới, chữa bệnh, tang
ma…. Các DTTS vùng Đông Bắc có một hệ thống các nghi lễ vòng đời rất đa
dạng, phong phú. Mỗi DT đều có những kiêng kỵ và những lễ nghi nhất định xoay
quanh các mốc thời gian quan trọng trong chù kỳ của một đời người từ khi sinh ra
cho đến khi chết. Tất cả hệ thống tín ngưỡng trên đều phản ánh mối quan hệ giữa
con người với tự nhiên, con người với con người, con người với thế giới thần linh.
Thông qua quá trình thực hành tín ngưỡng là sự đoàn kết giữa các thành viên trong
cộng đồng để cùng thực hiện những nhiệm vụ chung của cộng đồng, đồng thời là
sự răn dạy, giáo dục đạo đức, cách ứng xử nhân văn giữa con người với tự nhiên và
giữa con người với xã hội.
Lễ hội: Lễ hội của đồng bào các DTTS số vùng Đông Bắc vô cùng đa
dạng, độc đáo, nó là một trong những thành tố quan trọng của VH, tạo nên
BSVH đậm nét. Có thể kể đến những lễ hội tiêu biểu như: Lễ hội Lồng Tồng -
quy tụ những sắc thái VH đặc trưng nhất của DT Tày, lễ hội cầu Mùa của DT
Dao, lễ hội Nhảy lửa của DT Pà Thẻn, lễ hội Gầu Tào của DT H’Mông.…
Các lễ hội dân gian này chính là tâm điểm của sinh hoạt cộng đồng, quy tụ
các thành viên trong cộng đồng thành một khối thống nhất để cùng đoàn kết
58

thực hiện những lễ nghi với thần linh, mong ước một năm mưa thuận gió hòa,
mùa màng bội thu, vạn vật sinh sôi nảy nở, phát triển; cầu mong sức khỏe,
cuộc sống an khang thịnh vượng, bản làng yên ấm.
Cùng với các nghi lễ đó là phần mọi thành viên cùng giao hòa trong
không khí vui tươi của phần hội. Phần này là điều kiện để các thành viên khoe
tài năng khiếu: múa, hát, thổi khèn, chơi nhạc cụ DT… và các môn thể thao
truyền thống. Đồng bào các DTTS đến với lễ hội như trút bỏ mọi nỗi lo
thường nhật để hòa mình vào không khí vừa linh thiêng vừa náo nhiệt. Đây
cũng là dịp để đồng bào được thư giãn nghỉ ngơi sau những tháng ngày làm
việc vất vả, có thời gian tâm tình, chia sẻ với nhau tạo nên mối liên kết bền
vững trong cộng đồng.
Ở lễ hội có sự quy tụ mọi sắc thái VH của đồng bào các DTTS như trang
phục, ngôn ngữ, VH nghệ thuật (ca, múa, biểu diễn nhạc cụ DT…), trò chơi dân
gian, ẩm thực.… Có thể nói việc tổ chức lễ hội thường xuyên một mặt đáp ứng nhu
cầu sinh hoạt VH, nâng cao đời sống tinh thần của các DT. Mặt khác, đó cũng là
cách để giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc.
Tri thức bản địa: Trải qua quá trình sinh tồn và phát triển lâu dài trong điều
kiện tự nhiên khắc nghiệt, các DTTS vùng Đông Bắc đã đúc kết nên kho tàng tri
thức riêng phong phú, chứa đựng nhiều giá trị, thể hiện rõ nét BSVH độc đáo. Kho
tàng tri thức bản địa của các DTTS không chỉ phản ánh khả năng chinh phục thiên
nhiên mà còn có giá trị nhất định về mặt khoa học, lịch sử và nhân văn.
Với tri thức về thiên nhiên (khí hậu, đất đai) của vùng miền núi Đông
Bắc, các DTTS vùng Đông Bắc đã hình thành được những kinh nghiệm quý
báu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác như kinh nghiệm bảo vệ rừng đầu
nguồn, nắm bắt khí hậu, thổ nhưỡng để có những cách thức làm ăn phù hợp,
nắm bắt được quy luật sinh học của những giống cây trồng phù hợp với khí
hậu, thổ nhưỡng vùng Đông Bắc. Tri thức trong việc dự đoán thời tiết căn cứ
vào sự thay đổi của các loài động vật, thực vật. Tri thức bản địa còn được thể
hiện ở kinh nghiệm chữa bệnh bằng các loại thuốc nam (được chế biến từ các
bộ phận của thực vật và động vật) - những sản vật có sẵn trong rừng. Đây là loại tri
59

thức cần thiết được giữ gìn và phát huy trong đời sống cộng đồng để bảo vệ sức
khỏe và chữa bệnh cho cộng đồng tộc người và cộng đồng khác tộc, là yếu tố tạo
nên nét đặc sắc, độc đáo trong BSVH các DTTS vùng Đông Bắc.
Nghệ thuật dân gian: Trong quá trình hình thành và phát triển, mỗi
DTTS vùng Đông Bắc tạo dựng nên một kho tàng VH văn nghệ đậm đà BSVHDT
và phong phú về các loại hình. Bao gồm truyện thần thoại, truyện cổ tích kể về
nguồn gốc vũ trụ, các hiện tượng tự nhiên và muôn vật; kể về nguồn gốc loài người
và các DT; kể về công cuộc chinh phục tự nhiên và sáng tạo VH.
Trong quá trình lý giải tự nhiên và khám phá nguồn gốc loài người, đồng
bào các DTTS vùng Đông Bắc cũng đã phản ánh khát vọng và niềm tin chinh phục
tự nhiên của mình. Mặc dù vẫn ẩn trong hình tượng các vị thần hoặc người khổng
lồ có sức mạnh phi thường song thực chất đó là khát vọng của con người, những
người đã ý thức được rằng mình chính là chủ nhân của vạn vật, của vũ trụ này.
Không chỉ phản ánh khát vọng chinh phục thiên nhiên, đồng bào DTTS
miền núi phía Bắc còn có những truyện phản ánh quá trình sáng tạo VH với những
sản phẩm VH quan trọng đầu tiên đánh dấu cuộc sống “văn minh” của họ. Con
người thời xưa đều hình dung giống lúa ban đầu là giống lúa quý, được trời và thần
linh ban phát cho con người. Hạt lúa ban đầu to như quả bầu, quả bí, tự mọc, tự lớn
và tự bò về nhà. Việc con người tìm ra và giữ gìn được lúa là một thành quả đáng
kể làm thay đổi căn bản phương thức lao động của con người thời đó. Vì thế, loài
người luôn coi trọng và thờ vị thần lúa rất chu đáo….
Một số DT có truyện kể về nguồn gốc nơi ở, nhà ở, tập tục như DT
H’Mông. Thần thoại DT Tày còn có truyện kể về nguồn gốc của cây bông,
nghề trồng bông, dệt vải, nguồn gốc của đàn tính, sáo và hát lượn….
Truyện Pựt Luông tạo ra vẻ đẹp trần gian của DT Tày là một sáng tạo đặc sắc
riêng có của tộc người này.
Vẫn là cách tư duy thần thoại, là kết quả của niềm tin thiêng liêng vào
sự hiện hữu của thần linh, người Tày đã hình dung rằng vẻ đẹp của thế gian,
những sáng tạo nghệ thuật tinh tế cũng là do đấng thần siêu phàm tạo nên. Dù
vậy, truyện kể này cũng cho thấy trí tưởng tượng phong phú cùng với ý thức
60

và tình yêu lao động, nghệ thuật của đồng bào được nảy nở từ rất sớm. Những
sản phẩm VH tinh thần ấy đã góp phần làm cho cuộc sống của đồng bào thêm
tươi vui, lạc quan.
Ngoài ra, trong kho tàng VH văn nghệ dân gian của đồng bào các DTTS
có vô số các làn điệu dân ca như: hát then, hát lượn của DT Tày, hát Sli của DT
Nùng, tiếng khèn của DT Mông, La Hủ…, những nhạc cụ độc đáo như: Đàn
tính của DT Tày, trống, thanh la, chũm chọe, chuông nhạc, tù và của DT Dao,
khèn trúc, kèn lá, nhị, đàn môi, sáo của DT Mông…, các trò chơi tập thể như:
ném còn, đánh quay, múa sư tử, múa võ, đua ngựa, bắn nỏ…..Sự phong phú,
đa dạng trong kho tàng VH, văn nghệ đã thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời và
có tâm hồn nghệ sĩ, yêu ca nhạc, hát múa của đồng bào các DTTS vùng Đông
Bắc mặc dù trong điều kiện tự nhiên có nhiều yếu tố khắc nghiệt.
Tóm lại, Đông Bắc - vùng đất giàu truyền thống cách mạng, nơi hội tụ
của hơn 20 DTTS, là khu vực đang hòa mình vào sự chuyển nhịp sôi động mà
vẫn giữ được nhiều sắc thái VH độc đáo. Những giá trị sáng tạo đó thể hiện
mối quan hệ của các DTTS vùng Đông Bắc với thiên nhiên thông qua các giá
trị VH vật thể, các tri thức sản xuất nông nghiệp; với xã hội thông qua các
phong tục tập quán, lễ hội; với nhân sinh quan thông qua các nghi lễ vòng đời
người; với vũ trụ và thế giới tự nhiên đã được siêu nhiên hóa thông qua các
loại hình tín ngưỡng, tôn giáo; với lý tưởng thẩm mỹ thông qua các sáng tạo
VH nghệ thuật….
2.2.1.4. Những đặc trưng cơ bản của bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số
vùng Đông Bắc
Bức tranh VH của các DTTS vùng Đông Bắc là vô cùng đa dạng,
phong phú. Sự đa dạng, phong phú đó được thể hiện qua các sắc thái VH.
Theo thời gian với những biến cố của lịch sử như sự phát triển kinh tế - XH,
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, sự nghiệp đổi mới, quá
trình hội nhập quốc tế và quá trình toàn cầu hóa đã và đang tác động một cách
sâu rộng vào đất nước ta, và nó cũng ảnh hưởng đến đời sống VH của các
DTTS nói chung và các DTTS vùng Đông Bắc nói riêng theo cả hai hướng:
tích cực và tiêu cực. Các sắc thái biểu hiện của BSVH các DTTS vùng Đông
61

Bắc cũng có sự biến đổi. Mặc dù, sự biến đổi đó diễn ra theo nhiều chiều
hướng khác nhau nhưng vẫn mang đậm những giá trị đặc trưng, bản chất, cốt
lõi vốn có. Thông qua các sắc thái biểu hiện của BSVH các DTTS vùng Đông
Bắc, chúng ta có thể chỉ ra những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, VH các DTTS vùng Đông Bắc thể hiện thế giới quan thần bí,
sơ khai, tín ngưỡng vạn vật hữu linh ăn sâu, bám rễ vào mọi khía cạnh của
đời sống.
Thế giới với tất cả những yếu tố vốn có của nó luôn lôi cuốn, thúc đẩy
con người tìm hiểu về nó. Có thể thấy đồng bào các dân DTTS vùng Đông
Bắc Việt Nam cũng có những quan niệm khá thú vị về thế giới xung quanh.
Thông qua các truyền thuyết dân gian, dân ca, truyện cổ, cho thấy đồng bào
DTTS vùng Đông Bắc quan niệm vũ trụ được tạo ra một cách huyền bí từ một
vị thần, mỗi DT lại gọi vị thần đó bằng các tên gọi khác nhau. Chẳng hạn, DT
Tày gọi vị thần tạo ra vũ trụ là Pụt Luông, DT H’Mông gọi là Ông chày.
Đồng bào quan niệm vũ trụ gồm ba tầng: tầng trên cao là trời, nơi trú
ngụ của Ngọc Hoàng và các vị thần, tổ tiên. Tầng giữa là mặt đất, là nơi cư
trú của con người. Tầng dưới mặt đất là âm phủ là nơi giam hãm của những
linh hồn con người sau khi chết. Các DTTS vùng Đông Bắc đều quan niệm, khi con
người sống làm được nhiều việc tốt, hữu ích, giúp đỡ mọi người thì sau khi chết đi,
linh hồn sẽ được lên trời, đoàn tụ với tổ tiên. Nếu khi sống làm nhiều việc ác thì sau
khi chết sẽ bị đầy xuống âm ti địa ngục và bị giam hãm ở đó. Quan niệm này đã
góp phần giáo dưỡng con người với những đức tính hướng thiện, ăn ở hiền lành,
phúc đức, làm ăn thật thà, lương thiện, chân thành giúp đỡ nhau trong những cơn
hoạn nạn, khó khăn, không mưu mô, tính toán thiệt hơn, dạy bảo nhau tránh xa điều
ác, tránh xa điều gây hại đến đồng bào. Chính những đức tính tốt đẹp đó đã tạo nên
bản chất con người DTTS Đông Bắc.
Ngoài ra, các DTTS nơi đây còn tin vào vạn vật hữu linh, coi tất cả mọi vật
xung quanh con người đều có hồn, coi núi, sông đều có thần. Do đó, ngoài thờ cúng
tổ tiên, họ còn thờ cả thổ công và các vị thần. Cầu xin thổ công và các vị thần diệt
trừ sâu bọ phá hoại mùa màng, cầu xin các vị thần phù hộ cho cây lúa, cây ngô phát
triển tươi tốt, cho gia súc, gia cầm phát triển đầy chuồng. Với niềm tin và mong
62

muốn như vậy, nên đã nảy sinh nghề cúng bái trong nhân gian để thực hiện các
nghi lễ đối với các vị thần nhằm cầu an, cầu tự, đuổi ma, trừ tà, giải hạn, chữa bệnh
cho người và cho gia súc. Quan niệm này cũng là nguyên nhân để đồng bào tổ chức
nhiều lễ hội: Lễ hội cầu mưa, các lễ hội cúng thần núi, thần sông, thần nông nghiệp
được tổ chức rộng rãi ở vùng này.
Như vậy, thế giới vô hình trong quan niệm và tưởng tượng của các DTTS
vùng Đông Bắc hết sức sinh động và cụ thể. Có thể hình dung trong quan niệm của
họ thì thế giới là một thể thống nhất của ba cõi: cõi trời, cõi người và cõi âm ti địa
ngục. Trong đó, cõi người là trung tâm mà ở đó bất kỳ sự vật nào từ cỏ cây, sông
núi, đất đai đều có linh hồn. Sự mô hình hóa một cõi trời, nơi yên nghỉ của những
gia đình, dòng họ, làng bản ... của những linh hồn con người đã từng trú ngụ trên
mặt đất chính là sự phản ánh khát vọng về một cuộc sống vĩnh hằng sau cái chết
của con người. Đồng thời giáo dục cho những người đang sống làm thật nhiều việc
tốt, tránh xa điều ác để sau khi chết đi linh hồn được sống sung sướng nơi cõi trời
mà không bị đày đọa, tra tấn nơi âm ti địa ngục. Ở đây, ta thấy tư tưởng của Phật
Giáo đã len lỏi vào tư tưởng, đời sống của các DTTS vùng Đông Bắc, mặc dù ở
vùng này rất ít thấy hệ thống chùa chiền.
Ngoài ra, theo quan niệm nơi đây, để linh hồn con người sau khi chết
được lên trời đoàn tụ với tổ tiên, thì cần sự giúp đỡ của hệ thống các thầy Tào,
thầy Mo với những nghi lễ mang đậm ảnh hưởng của Đạo giáo. Với vai trò
chủ đạo trong thực hành nghi lễ, các thầy Tào, thầy Mo đã thực hiện hành
trình đưa linh hồn người quá cố lên trời bằng những nghi lễ nhuốm màu sắc
thần bí. Con đường đến với tổ tiên của người quá cố cũng thần bí, thế giới
thần linh nơi tổ tiên trú ngụ cũng cực kỳ thần bí, chỉ có các thầy Tào, thầy Mo
mới có khả năng tiếp xúc và họ cũng là trung gian để kết nối thế giới người
sống với thế giới người chết. Điều này đã phản ánh rõ thế giới quan thần bí sơ
khai của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc.
Thứ hai, VH các DTTS vùng Đông Bắc đề cao đời sống tinh thần, sống
đoàn kết, hài hòa, tình nghĩa.
Các DTTS vùng Đông Bắc rất đề cao đời sống tinh thần, tâm linh, luôn
có cách giải tỏa những lo âu, phiền muộn, đảm bảo sự cân bằng tâm lý thông
63

qua các nghi lễ liên quan đến chu kỳ đời người. Các nghi lễ đều tập trung vào
việc chăm sóc phần đời sống tinh thần cho con người từ lúc sinh ra cho đến
khi mất đi. Chẳng hạn, có những đôi vợ chồng hiếm muộn thì luôn đặt niềm
tin vào lễ cầu tự để mong được có con cái. Trẻ sinh ra mong muốn được hay
ăn chóng lớn và được che chở, bảo vệ bởi các bà mụ thì có lễ cúng đầy tháng.
Đến khi trưởng thành để đảm bảo rằng người nam giới có khả năng tham gia
vào những việc hệ trọng trong gia đình, dòng họ thì thực hiện lễ cấp sắc
(người Dao). Đến lúc dựng vợ gả chồng thì có nghi lễ đám cưới, trong cuộc
sống chẳng may ốm đau, bệnh tật thì tiến hành lễ cúng đuổi tà ma, lễ kỳ yên
giải hạn, cầu mát. Khi cha mẹ có tuổi (thường ngoài 50 tuổi) thì con cái làm lễ
mừng sinh nhật, lễ mừng thọ. Sau khi mất lại thực hiện nghi lễ tang ma....
Việc chăm lo đến đời sống tinh thần của bản thân mình cũng là điều
kiện để chăm lo đời sống tinh thần cho cả cộng đồng. Tất cả các nghi lễ liên
quan đến chu kỳ đời người như trên đều được thực hiện cầu kỳ, nghiêm túc
theo những quy định của từng cộng đồng DT và có sự tham gia của các thành
viên trong gia đình, dòng họ, làng bản tạo nên sự cố kết bền chặt. Ngoài ra, sự
cố kết cộng đồng được thể hiện thông qua các nghi lễ trong phạm vi làng bản
như nghi lễ cúng thổ công - người cai quản một làng, một bản. Các nghi lễ
liên quan đến thiên nhiên như nghi lễ cúng thần sông, thần suối, thần rừng,
nghi lễ cầu mưa, nghi lễ xuống đồng... với những quy định chung của cả cộng
đồng, yêu cầu các thành viên trong cộng đồng cùng thực hiện đã tạo nên sợi
dây vô hình liên kết các thành viên lại với nhau, tạo nên sự cố kết bền chặt
trong phạm vi làng bản.
Như vậy, các nghi lễ liên quan đến chu kỳ đời người cũng như các nghi
lễ liên quan đến thiên nhiên không chỉ giúp con người giải tỏa và cân bằng
tâm lý mà còn tạo ra sợi dây vô hình cố kết gia đình, dòng họ, làng bản.
Trong cuộc sống cũng như trong nghi lễ, các DTTS vùng Đông Bắc ứng xử
với nhau chủ yếu bằng tình làng, nghĩa xóm, ít khi xảy ra tranh chấp, bon
chen. Đời sống tự cấp, tự túc tạo ra cho họ cuộc sống đùm bọc, giúp đỡ lẫn
nhau. Mối quan hệ cộng đồng còn được thể hiện rõ trong lao động sản xuất,
đó là hình thức đổi công giữa các nhóm gia đình, đáp ứng về mặt nhân lực
64

theo tinh thần tự nguyện. Các chuẩn mực đạo đức xã hội hầu như không cần
ghi chép, tự thân mỗi người trong bản được tiếp thu và thấm nhuần qua các
thế hệ. Từ đó tự mình biết cách ứng xử hài hòa với những người xung quanh
tạo nên nét VH đẹp của cộng đồng các DTTS vùng Đông Bắc.
Trong cách ứng xử với thiên nhiên, đồng bào các DTTS luôn sống hài
hòa với thiên nhiên, hòa mình vào thiên nhiên của núi rừng Đông Bắc. Coi
trọng thiên nhiên nên hàng năm đồng bào các DTTS nơi đây vẫn tiến hành
các nghi lễ biểu hiện sự tôn kính thiên nhiên như lễ cúng thần rừng, thần
sông, thần suối hay bất cứ một vật nào mà họ cho là có linh thiêng. Các nghi
lễ nông nghiệp cũng được thực hiện hàng năm trong phạm vi làng bản hay
liên bản cũng thể hiện sự coi trọng thiên nhiên nhằm cầu mong sự mưa thuận,
gió hòa, vạn vật sinh sôi, nảy nở. Đây là cách ứng xử nhằm hướng tới các giá
trị nhân văn.
Thứ ba, VH các DTTS vùng Đông Bắc đề cao đức tính cần cù, thông
minh, sáng tạo và khả năng thích ứng với môi trường tự nhiên khắc nghiệt.
Điều kiện tự nhiên của vùng Đông Bắc vô cùng khắc nghiệt, mùa hè
nóng bức, mùa đông thì lạnh buốt cộng với thiên tai như hạn hán, lũ quét; có
nơi lại quanh năm sương mù bao phủ khiến đất đai khô cằn, rửa trôi, bạc mầu
không thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Tuy vậy bà con các DTTS vùng
Đông Bắc vẫn cần cù lao động sản xuất để sinh tồn và phát triển. Từ trẻ đến
già, cả cộng đồng lao động bền bỉ, cần mẫn trong bất cứ hoàn cảnh thời tiết
nào. Cũng chính trong cuộc sống lao động đó hình thành đức tính cần cù, chịu
thương, chịu khó trong lao động sản xuất của đồng bào.
Cũng qua quá trình lao động sản xuất, sự thông minh, sáng tạo của
đồng bào được bộc lộ rõ nét trong việc chế tạo ra công cụ lao động, hình
thành những tập quán canh tác đặc thù. Những chiếc cày, sản phẩm của nghề
rèn, cấu tạo cái cuốc, con dao đều phù hợp với canh tác vùng miền núi. Dù
canh tác nương rẫy hay canh tác ruộng nước, bà con đều sáng tạo ra những
công cụ lao động phù hợp. Chẳng hạn, trong canh tác nương rẫy, bà con đã
tạo ra những chiếc thuổng để đào củ mài, chiếc dao uốn cong làm cào bổ hốc
tra ngô, cây vót nhọn chọc hố tra lúa nương.... Trong canh tác, đồng bào các
65

DTTS vùng Đông Bắc biết xen canh, gối vụ, biết kết hợp nương rẫy với khai
thác rừng tự nhiên, dược liệu quý. Vùng thung lũng thì kết hợp giữa cây lúa
nước với thả cá, chăn nuôi và các nghề phụ... nên đã tạo ra những sản phẩm
chất lượng cao mang đậm nét BSVH tộc người, những sản phẩm rượu ngô,
rượu men lá, vải thổ cẩm, các loại thuốc lá chữa bệnh... ngày càng khẳng định
được giá trị trong cuộc sống hiện đại.
Ngoài ra, sự thông minh sáng tạo và khả năng thích ứng với điều kiện
tự nhiên khắc nghiệt còn được biểu hiện thông qua trang phục, nhà ở, ẩm
thực. Sống ở nơi địa hình phức tạp, khí hậu khắc nghiệt nên các DTTS nơi
đây đã xây dựng nên những ngôi nhà có kiến trúc độc đáo, phù hợp với địa
bàn cư trú của DT mình. Ngay cả trong cùng một DT, nhưng phân bố ở những
địa bàn khác nhau lại có kiến trúc nhà ở khác nhau. Điều này không phụ
thuộc vào họ thuộc nhóm nào mà phụ thuộc vào điều kiện thời tiết và địa bàn
họ sinh sống. Chẳng hạn, nơi khí hậu mát về mùa hè và lạnh về mùa đông thì
để chống chọi với cái lạnh của vùng núi đá phía Bắc đồng bào ở đây thường
làm nhà trình tường. Ở phía Tây và Tây Nam, khí hậu nóng ẩm hơn thì đồng
bào làm nhà đất hoặc nhà sàn.
Sự đa dạng về trang phục với nhiều họa tiết hoa văn thể hiện sự sáng
tạo, khéo léo của các chị em phụ nữ DTTS vùng Đông Bắc. Với sự cần cù, chăm
chỉ, khéo léo chị em đã tạo ra những sản phẩm mang dấu ấn của tộc người và có
chất lượng cao như vải thổ cẩm. Ngoài phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nội bộ tộc
người, sản phẩm còn là mặt hàng có giá trị cao trong trao đổi.
Sự thông minh, sáng tạo còn được thể hiện trong lĩnh vực ẩm thực với
những món ăn đa dạng, độc đáo. Với ưu thế về nguồn nguyên liệu tự nhiên có
sẵn trong vùng, các DTTS nơi đây đã tận dụng và tạo nên những món ăn độc
đáo, mang đặc trưng riêng của từng DT, chẳng hạn rau rớn, rau ngót rừng, rau
tầm bóp, rau tập tàng ... cùng với những lá cây rừng có thể chế biến để tạo ra
đồ uống vừa có tác dụng giải khát vừa có tác dụng bồi bổ sức khỏe và chữa
bệnh cho con người (các bệnh về gan, thận, xương khớp). Đồng thời, sự tinh
tế và sáng tạo còn được thể hiện trong cả cách thức chế biến và bảo quản thực
phẩm. Với địa hình khó khăn, hiểm trở, xa phiên chợ cùng với lối làm ăn tự
66

cung tự cấp nên các DTTS vùng Đông Bắc đã biết cách bảo quản thực phẩm
rất sáng tạo như: thịt muối, trứng muối, thịt sấy khô treo gác bếp, thịt làm lạp
xưởng để gác bếp ăn quanh năm, cho thịt vào túi bóng buộc chặt thả xuống
đáy giếng .... Trong chế biến món ăn, đồng bào đã biết sử dụng nguồn gia vị
có sẵn trong thiên nhiên hoặc do trồng được để chế biến những món ăn mang
đậm hương vị của tộc người như thảo quả, hạt dổi, gừng, giềng, lá móc mật...
Những sáng tạo từ nhỏ đến lớn, bao quát mọi thời điểm, phương diện
của cuộc sống thường nhật cho chúng ta thấy, mặc dù sinh sống ở những địa
bàn khó khăn, điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, nhưng đồng bào các DTTS
Đông Bắc không khuất phục trước những khó khăn mà vẫn bám trụ quê
hương, cần mẫn, chịu thương, chịu khó lao động sản xuất để vươn lên. Đồng
thời, không ngừng tìm tòi, khám phá để tìm ra phương thức sinh tồn phù hợp
với điều kiện tự nhiên vốn có.
Thứ tư, VH các DTTS vùng Đông Bắc thể hiện cách tư duy tự nhiên, chân
thật, phản ánh lối sống giản dị, mộc mạc.
Lối tư duy tự nhiên, chân thật xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử cũng như
điều kiện tồn tại và phát triển. Sống ở nơi có điều kiện giao thông không
thuận lợi, địa hình khó khăn, đời sống vật chất của các DTTS vùng Đông Bắc
rất chật vật và nghèo khó. Bà con cũng ít được học hành, tiếp xúc với những
thành tựu văn minh. Để sinh tồn và phát triển trong điều kiện như vậy, bà con
thường chỉ tin vào những thứ mắt thấy, tai nghe, những thứ cụ thể, thiết thực.
Trong quá trình lao động sản xuất và sinh tồn, đồng bào đều chủ yếu tự mình
quan sát trực tiếp các hiện tượng thiên nhiên cũng như những điều kiện sản
xuất xung quanh để có cách thức sản xuất và tạo ra công cụ lao động phù hợp,
chủ yếu là công cụ lao động thô sơ và cách thức làm ăn giản đơn. Những kinh
nghiệm của người trước, thế hệ trước thường được truyền lại cho con cháu
bằng cách trực tiếp, thị phạm.
Quan hệ giữa người với người, quan hệ với cộng đồng được diễn ra chủ
yếu theo tính chất chân thật, tin tưởng lẫn nhau. Bà con hầu như không biết
lừa dối. Bản chất con người mộc mạc, giản dị, bộc trực, nghĩ gì nói đó, nói thế
nào làm như vậy, không giấu giếm, không khéo léo, ngụy tạo. Lối sống bình
67

dị thể hiện trong cung cách sinh hoạt, trong trang phục, ẩm thực cũng như
trong cách bài trí ngôi nhà. Chính những điều này đã tạo nên một không gian
sinh tồn đậm chất nguyên sơ của các DTTS vùng Đông Bắc. Đến với các
DTTS nơi đây, con người dường như được thực sự hòa mình vào thiên nhiên
của cỏ cây, non nước, mây trời, hòa mình vào với cộng đồng những con
người chất phác, mộc mạc, giản dị nhưng tình cảm lại hết sức nồng ấm với
tập quán hiếu khách, trọng khách, với sự nhân đạo, nhân văn vốn có.
2.2.2. Thực chất của việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu
số vùng Đông Bắc
2.2.2.1. Lý luận về giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số
Theo Từ điển Tiếng Việt thì giữ gìn là “giữ cho được nguyên vẹn, không bị
mất mát, tổn hại”[106;406]. Song song với giữ gìn là phải chống lại sự tác động có
hại từ các yếu tố bên ngoài. Tuy nhiên, đứng trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật
biện chứng thì giữ gìn được thực hiện cả ở hai trạng thái, đó là giữ gìn nguyên gốc
và giữ gìn có chọn lọc, bổ sung và phát triển.
BSVH các DTTS vô cùng phong phú, đa dạng, độc đáo. Đó là hệ thống
các giá trị đặc trưng tinh túy được hình thành trong quá trình tồn tại và phát
triển của các tộc người gắn với hoàn cảnh lịch sử và hoàn cảnh tự nhiên, môi
trường vùng núi. Các giá trị này hàm chứa nhiều giá trị nhân văn, lịch sử tộc
người … và có ý nghĩa là nền tảng tinh thần vững chắc cho các DTTS tồn tại
và phát triển từ trước đến nay. Do đó, cần thiết phải giữ gìn nguyên gốc các
giá trị đó để các DTTS phát triển một cách bền vững trong hiện tại cũng như
trong tương lai. Đồng thời nhằm giáo dục cho các thế hệ sau về lịch sử hình
thành, quá trình tồn tại và phát triển, từ đó nâng cao ý thức tự giác tộc người,
lòng tự hào về các giá trị mà ông cha họ đã sáng tạo nên trong quá trình tồn
tại và phát triển. Trên cơ sở đó, họ tiếp nối truyền thống, các thế hệ sau phát
triển và sáng tạo thêm nhiều giá trị độc đáo mang bản sắc tộc người, góp phần
củng cố thêm nền tảng tinh thần vững chắc của cộng đồng.
Giữ gìn chọn lọc là quá trình chọn lọc và giữ lại giá trị tích cực, hạt
nhân hợp lý, đồng thời loại bỏ, khắc phục những gì đã trở nên lạc hậu, trở
thành lực cản của các DTTS nói chung và DTTS vùng Đông Bắc nói riêng.
68

Chính trong sự vận động, phát triển liên tục, BSVHDT luôn là một quá trình
thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, đó là những giá trị tích cực, giá
trị tinh túy, cốt lõi với những cái đã trở nên lạc hậu, những cái không còn phù
hợp khi tồn tại trong một giai đoạn mới với những điều kiện tự nhiên - xã hội
mới. Từ đó, diễn ra quá trình phủ định biện chứng. Nếu trong tự nhiên, sự phủ
định biện chứng diễn ra do chính bản thân sự vật thực hiện thì trong xã hội,
phủ định biện chứng diễn ra thông qua sự tác động của con người, con người
là chủ thể thực hiện. Trong sự tồn tại và phát triển BSVHDT, con người sẽ kế
thừa những hạt nhân hợp lý, có giá trị đối với sự phát triển của các DTTS, giữ
lại cả những yếu tố tuy không còn phù hợp với xã hội hiện đại nhưng sự tồn
tại của nó không ngăn cản sự phát triển mà nó mang đậm BSVH của các
DTTS (thực chất là giữ lại cả những yếu tố trung tính) đồng thời loại bỏ
những yếu tố đã trở nên lạc hậu, không còn phù hợp, kìm hãm, ngăn cản sự
phát triển của các DTTS.
Để thực hiện tốt được quá trình này cần phân định được đâu là lạc hậu, đâu
là các yếu tố trung tính, đâu là cái còn giá trị, là hạt nhân hợp lý trong BSVH các
DTTS và thực tiễn xã hội chính là tiêu chuẩn để phân định, đánh giá, kiểm chứng
phân loại. Chỉ có thể dựa trên sự phân định này mới có thể định hướng một cách
đúng đắn quá trình giữ gìn BSVH. Qua đó mới khắc phục được bệnh chủ quan duy
ý chí hay tự phát trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Bên cạnh việc giữ gìn có chọn lọc, cũng cần phải có sự bổ sung và phát
triển để BSVH các DTTS càng ngày càng phong phú, đa dạng. Trên cơ sở
những giá trị truyền thống, giá trị nền tảng, cốt lõi được giữ lại cũng cần bổ
sung thêm những giá trị mới phù hợp với hoàn cảnh tự nhiên - xã hội của các
DTTS. Chính thông qua quá trình không ngừng lao động sản xuất, các DT đã
sáng tạo thêm những giá trị VH mới, những giá trị này ngày càng được bổ
sung vào BSVHDT. Đồng thời những giá trị được kế thừa lại trong lịch sử
cũng được cải tiến cho phù hợp với xã hội mới và thực tiễn xã hội chính là
công cụ để “gọt rũa” những giá trị đó.
Để bổ sung và phát triển theo hướng tiên tiến thì cần có sự giao lưu,
trao đổi, tiếp thu tinh hoa VH của các DT khác (trong phạm vi vùng, quốc gia,
khu vực, thế giới). Giao lưu, trao đổi VH là quy luật tồn tại và phát triển của
69

mọi nền VH trong mọi thời đại. Đối với BSVH các DTTS, sự giao lưu, trao
đổi chính là một điều kiện để phát triển, để rũ bỏ những lạc hậu, những yếu tố
lỗi thời, không phù hợp, đồng thời tiếp thu có chọn lọc những giá trị tích cực
trong tinh hoa VH của DT khác. Sự giao lưu và hội nhập chính “là sự tác
động qua lại giữa các yếu tố nội sinh và ngoại sinh của quá trình phát
triển”[131;142]. Qua đó, trên cơ sở của các yếu tố nội sinh, yếu tố chủ đạo mà tiếp
thu các yếu tố ngoại sinh và qua thực tiễn chuyển các yếu tố ngoại sinh gia nhập
vào BSVH của các DTTS. Không có sự trao đổi hoặc sự trao đổi bị đứt đoạn thì cả
VH, xã hội của một cộng đồng đều có thể rơi vào trì trệ, suy thoái.
Như vậy, giữ gìn nguyên gốc, giữ gìn có chọn lọc và có bổ sung và
phát triển là một quá trình phủ định biện chứng vô tận. Thông qua đó, những
hạt nhân hợp lý, có giá trị được giữ lại, cải tiến, những yếu tố lỗi thời, lạc hậu
bị loại bỏ đồng thời bổ sung thêm những giá trị mới làm cho BSVH các
DTTS phong phú, đa dạng, độc đáo và tiên tiến.
Phát huy đúng nghĩa của nó là làm cho những cái vốn có trong một sự
vật, hiện tượng được sống dậy, được vận động, được phong phú thêm, mạnh
thêm; các yếu tố vốn có trong sự vật, hiện tượng, quá trình tác động lẫn nhau
và lan tỏa sang sự vật, hiện tượng, quá trình khác, làm cho chúng sống động,
mạnh mẽ hơn. Theo nghĩa tích cực thì, phát huy là “làm cho cái hay, cái tốt
tỏa tác dụng và tiếp tục nảy nở thêm”[106;768]. Thực chất của phát huy là
thúc đẩy cái hay, cái tốt cho nảy nở nhiều hơn trở thành nền tảng, động lực
của quá trình phát triển.
Phát huy BSVH các DTTS chính là việc làm cho những yếu tố độc đáo,
những giá trị đặc sắc của BSVH của mỗi DT đó một mặt được thể hiện ra
trong cuộc sống, không bị mai một, bị đánh mất. Đồng thời, tạo điều kiện cho
các giá trị đó được lan tỏa, nảy nở và phát triển để giữ được vai trò là sức
mạnh nội sinh cho sự phát triển của các DTTS.
Giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS là hai mặt thống nhất của quá
trình vận động. Giữ gìn giúp phát hiện, giữ lại những hạt nhân hợp lý, tích
cực, khắc phục loại bỏ những yếu tố lạc hậu, kìm hãm phát triển và bổ sung
những nhân tố mới để BSVHDT đa dạng, phong phú và tiên tiến. Tuy nhiên,
70

nếu chỉ dừng lại ở giữ gìn thì BSVH các DTTS luôn tồn tại dưới dạng tiềm
năng, nguồn năng lượng, nguồn vốn cho sự phát triển. Chỉ khi những giá trị
tích cực, hạt nhân hợp lý ấy được phát huy tác dụng trong đời sống hiện thực
thì những giá trị trong BSVHDT mới thực sự trở thành sức mạnh nội sinh cho
sự phát triển của các DTTS. Chính trong quá trình phát huy BSVH các DTTS
mà các giá trị hạt nhân, hợp lý, những giá trị tích cực được giữ gìn, không bị
mai một, bị đánh mất, thậm chí ngày càng tồn tại bền chặt hơn. Giữ gìn luôn là tiền
đề, điều kiện để phát huy. Phát huy là hình thức tốt nhất để giữ gìn và nâng chất
lượng của giữ gìn từ giữ cho nguyên vẹn thành giữ cho nảy nở, phát triển.
Giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS là một quá trình thống nhất và
biện chứng. Không thể giữ gìn để phát huy, mà giữ gìn và phát huy là công
việc song song, đồng thời. BSVH các DTTS không thể tự cô lập mình để giữ
khư khư cái vốn có của mình, của cha ông để lại mà phải gắn kết với mở
rộng, giao lưu, trao đổi với các DT khác trong phạm vi vùng miền, quốc gia,
khu vực và thế giới. Tiếp thu có chọn lọc cái hay, cái tiến bộ trong VH của
các DT khác, đồng thời chống tất cả những gì là lạc hậu, lỗi thời trong phong
tục, tập quán, lề thói cũ để tạo ra diện mạo mới cho mình. Trong luận án, việc
giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc được tiến hành song
song, đồng thời, đó là khơi dậy, huy động tất cả các giá trị trong BSVH các
DTTS để làm cho chúng tạo điều kiện cho các giá trị VH đó được nở rộ, làm
phong phú nền VH.
2.2.2.2. Chủ thể, nội dung, cách thức giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc
Chủ thể giữ gìn và phát huy: Giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS
vùng Đông Bắc là một quá trình được thực hiện bởi các chủ thể Đảng, chính
quyền nhà nước, hệ thống chính trị ở các địa phương; các cơ quan làm công
tác VH, các cơ sở giáo dục (nhà trường) và chính đồng bào các DTTS vùng
Đông Bắc với những nội dung và cách thức phù hợp.
Bước đầu tiên, quan trọng nhất, khởi đầu cho quá trình thực hiện giữ
gìn và phát huy BSVH được đạt hiệu quả đó là các cấp ủy đảng, chính quyền,
hệ thống chính trị các địa phương có nhận thức đúng đắn về việc cần thiết
phải giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS, từ sự nhận thức đúng đắn để có
71

những chỉ đạo đúng đắn.


- Các cấp ủy đảng và chính quyền địa phương cần bám sát tình hình
thực tiễn, xuất phát từ thực trạng giữ gìn BSVH các DTTS để hoạch định
những chủ trương, chính sách, chương trình, kế hoạch, dự án kịp thời và phù
hợp với điều kiện lịch sử, kinh tế, phong tục, tâm lý của đồng bào. Các nghị
quyết, chỉ thị, kế hoạch thực hiện đều cần được xây dựng trên tinh thần tôn
trọng BSVH của đồng bào các DTTS.
- Các tổ chức trong hệ thống chính trị như Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Mặt
trận, Hội cựu chiến binh có trách nhiệm giữ gìn và phát huy BSVH các DT. Tùy
theo chức năng của mình, mỗi tổ chức cụ thể hóa các chính sách giữ gìn và phát
huy BSVH các DTTS của chính quyền các cấp, gương mẫu thực hiện và vận động
đồng bào thực hiện; đồng thời gần gũi nắm bắt nguyện vọng và những ý kiến đóng
góp của đồng bào để tham mưu cho Đảng và chính quyền.
- Các cơ quan VH địa phương cũng như trung ương như các phòng,
ban, sở VH; các viện bảo tàng, viện nghiên cứu VH với đội ngũ cán bộ
chuyên trách hoạt động VH của mình là những chủ thể trực tiếp thực hiện giữ
gìn và phát huy BSVH các DTTS. Trên cơ sở chức năng và khả năng chuyên
môn của mình, cần tích cực triển khai các hoạt động sưu tầm, phục dựng, tôn
tạo, đề xuất chính sách, biện pháp giữ gìn và phát huy cụ thể; phát hiện kịp
thời những sự biến đổi BSVH trong thực tế, khả năng bảo tồn, phát triển cũng
như nguy cơ mất đi của những giá trị VH để kịp thời tư vấn, tham mưu cho cơ
quan Đảng và chính quyền.
- Nhà trường là một môi trường rất tốt cho việc giáo dục, tuyên truyền
những nét VH đậm đà BS của các DTTS và ý thức giữ gìn, phát huy BSVH
đó cho các thế hệ học sinh thông qua chủ thể là các thầy cô giáo. Do đó, bên
cạnh việc truyền dạy kiến thức, nhà trường cũng cần quan tâm thường xuyên
đến việc giáo dục, tuyên truyền BSVH của đồng bào các DTTS trong vùng từ
cấp mầm non trở đi thông qua các chương trình chính khóa và ngoại khóa.
- Bản thân đồng bào các DTTS chính là chủ thể sáng tạo và hưởng thụ
các giá trị VH do cộng đồng DT mình sáng tạo ra, do đó bản thân đồng bào
chính là chủ thể đặc biệt, có vai trò quan trọng nhất trong việc duy trì, gìn giữ
và phát huy các giá trị VH giàu bản sắc đó. Đồng bào các DT cần được tạo
72

mọi điều kiện để nâng cao trình độ học vấn, có đời sống vật chất no ấm, ổn
định, đó là cơ sở để đồng bào có thể tiếp tục sáng tạo, tham gia tự giác bảo vệ,
bảo tồn những giá trị VH của DT mình. Ở bất cứ một DT nào cũng cần phát
huy vai trò của các già làng, trưởng bản, do đó cần tận dụng uy tín của họ đối
với cộng đồng, hướng vào nhiệm vụ giữ gìn và phát huy BSVH của các DT.
Nội dung, cách thức giữ gìn và phát huy:
BSVH các DTTS vùng Đông Bắc vô cùng phong phú, đa dạng, độc đáo
được thể hiện ra qua các giá trị VH vật thể và VH phi vật thể. Các giá trị VH
này được các DTTS vùng Đông Bắc sáng tạo nên trong quá trình lao động sản xuất,
truyền thống đấu tranh chống thiên tai, địch họa, hoạt động sống về vật chất và tinh
thần, thông qua trao đổi, giao lưu, học hỏi với các nền VH khác và đồng thời nó
phản ánh thế giới quan, nhân sinh quan, cách thức tư duy, lý tưởng của mỗi tộc
người trong quá trình phát triển. Trải qua thời gian, các giá trị này ngày càng được
hun đúc, bồi đắp và làm giàu có thêm, trở thành nguồn lực nội sinh cho các DTTS
trên con đường phát triển. Sở dĩ BSVH các DTTS vùng Đông Bắc giữ được vai trò
đó là do nó luôn được giữ gìn và phát huy trong mọi giai đoạn lịch sử. Quá trình giữ
gìn và phát huy luôn được thực hiện cả trong giá trị VH vật thể lẫn giá trị VH phi
vật thể.
Các giá trị VH vật thể: giữ gìn và phát huy giá trị vật thể VH các DTTS
vùng Đông Bắc phải diễn ra ở mọi yếu tố biểu hiện của nó như nhà ở truyền
thống; trang phục truyền thống; ẩm thực truyền thống; công cụ lao động, sản
xuất, sinh hoạt.
- Nhà ở truyền thống: mỗi DTTS vùng Đông Bắc đều có ngôi nhà
truyền thống với kiến trúc riêng của DT mình. Nhà ở truyền thống của các
DTTS vùng Đông Bắc phản ánh sự tinh tế, khéo léo, khả năng linh hoạt của
các tộc người trong mối quan hệ giao hòa với thiên nhiên và nó phản ánh rõ
nét BSVH của tộc người. Do đó, mỗi cộng đồng cần lưu giữ ngôi nhà cổ
truyền của DT mình để bảo lưu các giá trị VH của ngôi nhà đồng thời giáo
dục cho các thế hệ sau những giá trị tốt đẹp đó. Hiện tại, do nhiều nguyên
nhân, trong một số chi tiết của ngôi nhà có thể dùng các vật liệu thay thế vật
liệu truyền thống nhưng vẫn cần đảm bảo các đặc điểm cơ bản của ngôi nhà
truyền thống như cấu trúc, màu sắc, mặt bằng sinh hoạt.
73

- Trang phục truyền thống cũng là một kết quả sáng tạo tuyệt vời của
các tộc người vùng Đông Bắc, trên cái nền tự nhiên vùng miền núi, mỗi DT
đã tạo ra những bộ trang phục mang đặc trưng riêng của DT mình. Do đó, mỗi
DT cần giữ gìn bộ trang phục truyền thống của DT mình, đặc biệt là trong
những dịp lễ tết, nhất là khi cần khẳng định BSDT mình với các tộc người
khác thì bộ trang phục truyền thống vô cùng có ý nghĩa. Trong điều kiện đổi
thay về môi trường và điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay thì nguyên liệu, quá
trình làm ra và hoàn thiện của bộ trang phục truyền thống có thể thay đổi,
chẳng hạn có thể dùng máy thay cho khâu tay, nhưng vẫn phải đảm bảo
những đặc điểm truyền thống như màu sắc, hoa văn, kích thước….
- Với ẩm thực truyền thống, mỗi tộc người nên lưu giữ những món ăn
truyền thống có tác dụng bồi bổ sức khỏe và chữa bệnh, giữ gìn và truyền lại
cho thế hệ sau những cách thức chế biến món ăn và cách thức bảo quản thực
phẩm độc đáo mang đặc trưng tộc người. Đồng thời, phát huy sự khéo léo của
đôi bàn tay, sự tinh tế, nhạy bén của khối óc để tận dụng những nguyên liệu tự
nhiên vào chế biến và bảo quản thực phẩm như đồng bào các DTTS vẫn làm.
Trong điều kiện ngày nay đang có sự báo động về nguồn thực phẩm bẩn và sử
dụng hóa chất cấm trong bảo quản thực phẩm một cách tràn lan trên phạm vi
cả nước, đặt ra vấn đề phải giữ gìn cách chế biến, cách bảo quản truyền thống,
cho dù sẽ phức tạp hơn, mất công hơn so với sử dụng những chất phụ gia
“bẩn” đang lan tràn trong xã hội.
- Với công cụ lao động, sản xuất, sinh hoạt, đây là hệ thống các công cụ
lao động được làm ra phù hợp với đặc điểm địa hình đa dạng, tập quán sinh
sống của đồng bào DTTS vùng Đông Bắc. Chủ yếu các công cụ này đều được
tạo ra dưới dạng thủ công nên nó mang đặc điểm thô sơ, giản đơn. Hiện tại
bên cạnh nhiều công cụ vẫn giữ được vai trò trong xã hội ngày nay, đã có
công cụ bị thay thế bởi thành tựu mới của khoa học công nghệ. Sự thay thế
công cụ sản xuất là nhu cầu tất yếu trong phát triển, không nên chối bỏ việc
sử dụng những công cụ thuận tiện và giảm nhẹ sức người hơn, nhằm làm cho
hoạt động sản xuất của bà con đỡ vất vả. Nhưng ngay trong quá trình làm ra
những công cụ mới, vẫn đặc biệt cần lưu ý đảm bảo sự phù hợp của công cụ
đối với tập quán canh tác rất đặc thù ở Đông Bắc. Đồng thời nên đẩy mạnh
74

việc bảo quản, giữ gìn những công cụ truyền thống để giáo dục cho thế hệ sau
hiểu biết thêm VH tộc người trong từng giai đoạn lịch sử nhất định gắn với
những điều kiện ở thời điểm đó. Mặt khác, tiếp tục phát huy những công cụ
vẫn có tác dụng đối với điều kiện hiện nay trong điều kiện môi trường tự
nhiên đặc biệt vùng Đông Bắc.
Giữ gìn và phát huy các giá trị VH vật thể của các DTTS vùng Đông
Bắc được thực hiện thông qua các cách thức cơ bản như: giữ gìn thông qua hệ
thống bảo tồn, bảo tàng chuyên nghiệp; đầu tư về cơ sở vật chất và sự trợ giúp
của khoa học kỹ thuật hiện đại; phục dựng, ghi lại, lưu giữ, phổ biến thông
qua các phương tiện khoa học kỹ thuật hiện đại; phục dựng, tái tạo, giữ gìn,
phát huy thông qua xây dựng những mô hình làng VH, làng VH du lịch cộng
đồng do chính đồng bào các DTTS giữ gìn trong đời sống của mỗi gia đình,
dòng họ, làng bản với không gian VH chân thực. Chẳng hạn, trong mỗi gia
đình, cần phát huy cao độ sự truyền dạy và thực hành thường xuyên, trực tiếp
trong cuộc sống hàng ngày.
Các giá trị VH phi vật thể như ngôn ngữ, phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn
giáo, lễ hội, tri thức bản địa và nghệ thuật dân gian cũng cần được nhận diện, giữ
gìn và phát huy một cách tích cực.
- Ngôn ngữ mỗi tộc người là công cụ lưu giữ và thể hiện BSVH tộc
người. Giữ gìn ngôn ngữ tộc người cần được thực hiện cả ở hai dạng tiếng nói
và chữ viết. Tiếng nói và chữ viết đều là công cụ thể hiện tư duy, nó không
chỉ có vai trò quan trọng trong giao tiếp hàng ngày mà còn là công cụ hữu
hiệu trong việc trao truyền (tiếng nói trao truyền trực tiếp, chữ viết trao truyền
gián tiếp) cho thế hệ sau những giá trị tinh túy trong VH tộc người. Giữ gìn
tiếng nói cần được thực hiện qua hai cách cơ bản đó là truyền dạy trực tiếp
trong cuộc sống hàng ngày bằng cách: Thứ nhất, các thế hệ thường xuyên
giao tiếp với nhau bằng ngôn ngữ tộc người; Thứ hai, được thực hiện qua
trường lớp, đó là mở các lớp dạy ngôn ngữ tộc người.
- Với phong tục tập quán, mỗi DT cần lưu giữ, trao truyền cho các thế
hệ sau những hạt nhân hợp lý và tốt đẹp trong phong tục tập quán của DT
mình. Các giá trị tốt đẹp đó được thể hiện trong cách thức tổ chức sản xuất,
cách thức bộc lộ tình cảm, mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, cũng
75

như trong các tập tục liên quan đến chu kì đời người như sinh đẻ, cưới xin, lễ
sinh nhật, tang ma….
Phong tục tập quán biểu hiện rõ nhất giá trị tốt đẹp của của cộng đồng,
cho thấy sự sáng tạo, linh hoạt trong lao động sản xuất; sự đoàn kết, yêu
thương, giúp đỡ lẫn nhau trong mọi hoàn cảnh; sự ứng xử hài hòa, cởi mở,
chân thật; sự hiếu thảo, thành kính với cha mẹ…. Cần phát huy những giá trị
tốt đẹp này trong cuộc sống hiện nay, làm cho những giá trị này được lan tỏa
trong cộng đồng tạo nên sức mạnh để đồng bào các DTTS ổn định và phát
triển trong bối cảnh kinh tế thị trường, giao lưu và hội nhập quốc tế.
Cách thức giữ gìn và phát huy có thể được thực hiện qua các hình thức
tư liệu hóa dưới hình thức văn bản, băng đĩa được cất trữ và giới thiệu trong
các bảo tàng các cấp từ trung ương đến địa phương; giới thiệu, quảng bá trên
truyền hình; truyền dạy trực tiếp cho các thế hệ được diễn ra từ trong gia đình
đến nhà trường và ngoài xã hội; đặc biệt thực hành thường xuyên trong cuộc
sống cộng đồng chính là cách giữ gìn và phát huy được hiệu quả nhất.
- Tín ngưỡng tôn giáo là sinh hoạt VH, tín ngưỡng chứa đựng nhiều giá
trị tốt đẹp của đồng bào các DTTS được phản ánh trong các lễ nghi, nghi thức
thờ cúng tổ tiên và các vị thần. Các giá trị đó vẫn đang tiếp tục góp phần quan
trọng vào việc củng cố, nâng cao đời sống tinh thần cho đồng bào các DTTS
vùng Đông Bắc. Do đó, cách giữ gìn và phát huy các giá trị này thông qua
việc nghiên cứu, sưu tầm, ghi chép dưới dạng tư liệu hóa; phục dựng, trao
truyền (truyền dạy) trong chính đời sống hàng ngày của các DTTS nơi đây.
Lễ hội là sinh hoạt VH cộng đồng của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc,
trong lễ hội chứa đựng các hạt nhân hợp lý có giá trị như củng cố sự cố kết cộng
đồng, bồi dưỡng tinh thần lạc quan, tin yêu vào cuộc sống, thỏa mãn nhu cầu sinh
hoạt VH tinh thần của đồng bào, thể hiện tài năng cá nhân như may thêu trang phục
truyền thống, món ăn truyền thống, ca, múa những bài hát truyền thống và sự khéo
léo trong chơi nhạc cụ DT…. Do đó rất cần giữ gìn và phát huy những giá trị tốt
đẹp này trong cộng đồng để từ đó nâng cao đời sống tinh thần cho đồng bào. Cách
thức giữ gìn được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu, sưu tầm dưới dạng tư liệu
hóa; tiến hành phục dựng lại và lưu trữ trong các đĩa DVD tại các bảo tàng;
duy trì trong chính đời sống của đồng bào các DTTS.
76

- Tri thức bản địa là toàn bộ hiểu biết của cộng đồng về tự nhiên, xã hội
và bản thân con người, được tích lũy trong trường kỳ lịch sử qua kinh nghiệm
(trải nghiệm) của bản thân cộng đồng đó. Đây là những giá trị vô cùng quý,
chứa đựng những nét độc đáo của VH tộc người, nó có vai trò quan trọng
trong sản xuất, sinh hoạt, trong chữa bệnh…. Vì vậy, rất cần thiết để giữ gìn,
phát huy nó trong cuộc sống bằng cách: trao truyền cho các thế hệ kế cận
thông qua trí nhớ, truyền miệng và thực hành xã hội. Nó giúp con người có
được những ứng xử thích hợp với môi trường tự nhiên, điều hòa các quan hệ
xã hội, những hiểu biết cần thiết trong sản xuất, trong dưỡng sinh và trị bệnh.
Đồng thời cần tăng cường những hoạt động giữ gìn, phát huy các tri thức này
thông qua sưu tầm, khảo cứu, hệ thống, lưu giữ bởi những cơ quan VH các
cấp, đặc biệt các viện nghiên cứu có tính chất chuyên sâu.
- Nghệ thuật dân gian của các DTTS vùng Đông Bắc chứa đựng nhiều
giá trị VH độc đáo, đặc sắc. Đó là những câu truyện cổ, ca dao, tục ngữ, các
làn điệu dân ca cùng với các nhạc cụ đi kèm. Nó phản ánh lịch sử tộc người,
đời sống vật chất, đời sống tinh thần của các DTTS nơi đây. Do đó, giữ gìn và
phát huy kho tàng VH nghệ thuật dân gian của các DTTS ở vùng này nhằm
giáo dục cho thế hệ sau về lịch sử tộc người, góp phần củng cố ý thức tộc
người và ý thức vươn lên trong mọi hoàn cảnh, hình thành niềm tự hào về
truyền thống. Cách thức giữ gìn và phát huy được thực hiện thông qua việc
ghi chép, truyền dạy trong các lớp học, các câu lạc bộ, truyền miệng và thực
hành trong chính đời sống cộng đồng.
Cách thức giữ gìn và phát huy BSVH phi vật thể của các DTTS vùng
Đông Bắc nước ta được thực hiện cả ở trạng thái tĩnh và trạng thái động. Ở
trạng thái tĩnh là giữ chúng trong sách vở, các ghi chép, mô tả trong các băng
hình (video), băng tiếng (audio), ảnh (photo album). Tất cả các giá trị VH phi
vật thể này có thể lưu giữ trong các kho lưu VH ở trung ương và địa phương.
Ở trạng thái động là bảo tồn các giá trị VH phi vật thể đó ngay trong chính
đời sống cộng đồng. Cộng đồng chính là môi trường không chỉ sản sinh ra các
hiện tượng VH phi vật thể mà còn là nơi tốt nhất bảo tồn, làm giàu thêm và
phát huy nó trong đời sống xã hội.
Thực chất của việc giữ gìn và phát huy các giá trị VH vật thể và VH
77

phi vật thể là nhằm giữ gìn, phát huy những giá trị cốt lõi, bản chất, những cái
làm nên sức mạnh nội sinh để các DTTS vùng Đông Bắc tồn tại và phát triển,
đó là : lòng tự hào dân tộc; tinh thần đoàn kết, sống hài hòa tình nghĩa; tính
cần cù, thông minh, sáng tạo và khả năng thích ứng cao với môi trường tự
nhiên; lối sống giản dị, mộc mạc, tự nhiên, chân thật và tấm lòng hướng
thiện….
Tóm lại, giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc là đưa
các giá trị của BSVHDT này vào cuộc sống, làm cho chúng sống động, chúng
vận động cùng với mọi hoạt động sống của các tầng lớp nhân dân. Giữ gìn và
phát huy BSVHDT cũng là làm cho những yếu tố bản sắc ngày càng đậm đà
thêm, mặt khác làm cho chúng ngày càng tiên tiến và hiện đại, bằng cách bổ
sung, tiếp nhận những yếu tố mới, chất mới của VH các DT khác trong nước
và thế giới.
2.3. Những yếu tố tác động đến việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn
hóa các dân tộc thiểu số.
Giữ gìn và phát huy BSVHDT nói chung và BSVH các DTTS vùng
Đông Bắc nói riêng đều chịu sự tác động bởi các yếu tố khách quan và chủ
quan. Tuy nhiên, đối với bối cảnh hiện nay, việc giữ gìn, phát huy BSVH các
DTTS chịu sự tác động trực tiếp nhất của những yếu tố khách quan đó là sự
phát triển của nền kinh tế thị trường, của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Trong đó, nền kinh tế thị trường là yếu tố tác động mạnh mẽ nhất theo cả hai
hướng tích cực và tiêu cực.
Một trong những tác động tích cực của kinh tế thị trường đối với việc
giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc đó chính là tính chủ động,
sáng tạo, độc lập trong suy nghĩ và hành động của đồng bào các DTTS được
nâng cao. Dưới tác động của nền kinh tế thị trường, đồng bào các DTTS đã
chủ động tiếp thu phương thức sản xuất, kỹ thuật canh tác và kinh nghiệm
tiếp cận thị trường để phát triển kinh tế gia đình, địa phương với những ngành
nghề, sản phẩm đặc thù, ưu thế của vùng. Chẳng hạn, người Mông, Dao đã
biết áp dụng phương thức sản xuất, kỹ thuật canh tác mới vào trồng một số
loại cây công nghiệp trên diện rộng nhằm phục vụ mục đích thương mại như:
thảo quả, hồi, chè, thuốc lá, quýt, cam, chanh, lê, mận và đã hình thành một
78

số vùng chuyên canh trồng các loại cây thương mại ở phạm vi lớn như: trồng
lê ở Tràng Định (Lạng Sơn), trồng quýt ở Bắc Sơn, Bình Gia (Lạng Sơn),
trồng cam, chanh ở Vị Xuyên, Bắc Quang (Hà Giang), trồng chè đắng ở
Thạch An (Cao Bằng), trồng hồi ở các cánh rừng của đồng bào Tày, Nùng,
Mông, Dao ở huyện Lộc Bình (Lạng Sơn), Bắc Mê (Hà Giang), trồng chè
shan tuyết ở huyện Đồng Văn, huyện Hoàng Shu Phì (Hà Giang), huyện
Tràng Định (Lạng Sơn), huyện Na Hang (Tuyên Quang)… Ngoài các loại cây
trồng mang tính thương mại, đồng bào các DTTS cũng tích cực phát triển các
ngành nghề thủ công (rèn, đan lát, thêu thùa) để tạo ra các sản phẩm chất
lượng phục vụ người tiêu dùng. Thông qua thị trường, các loại hàng hóa này
nhanh chóng phổ biến khắp các vùng miền trong cả nước góp phần xóa đói
giảm nghèo, nâng cao thu nhập đồng thời góp phần duy trì, giữ gìn các ngành
nghề thủ công truyền thống, các sản phẩm đặc trưng, độc đáo mang tính bản
sắc của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc.
Thứ hai, khi thị trường mở rộng, sự giao lưu về kinh tế, VH giữa đồng
bào các DTTS vùng Đông Bắc với người Kinh được diễn ra thường xuyên và
mạnh mẽ hơn sẽ tạo điều kiện cho các yếu tố VH được va đập, cọ xát, khi đó
các yếu tố VH lạc hậu, không phù hợp với điều kiện mới sẽ bị đào thải, loại
bỏ đồng thời các yếu tố VH mang đậm bản sắc tiếp tục được khẳng định, duy
trì, phát huy và bổ sung thêm các yếu tố VH mới làm cho VH của đồng bào
các DTTS vùng Đông Bắc vừa tiên tiến vừa đậm đà BSDT.
Thứ ba, kinh tế du lịch phát triển trong điều kiện kinh tế thị trường sẽ
tạo điều kiện cho các giá trị VH giàu bản sắc của đồng bào các DTTS vùng
Đông Bắc được quảng bá, giới thiệu ở mọi vùng miền trong cả nước và trên
thế giới. Từ đó, tạo động lực cho đồng bào tiếp tục giữ gìn, phát huy các giá
trị VH đó - coi đó chính là nguồn vốn cho sự phát triển kinh tế địa phương.
Thứ tư, sự tác động của kinh tế thị trường làm cho đời sống vật chất
của đồng bào các DTTS không ngừng được nâng cao, khi đời sống vật chất
no đủ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bào tiếp tục duy trì, sáng tạo và
hưởng thụ các giá trị VH do chính DT mình tạo ra, đồng thời tạo điều kiện vật
chất cho việc giữ gìn, phát huy BSVH thông qua việc xây dựng các bảo tàng
tư nhân, bảo tàng địa phương, nhà VH hay sử dụng các phương tiện tiên tiến
79

để giữ gìn, bảo quản các giá trị VH giàu bản sắc được tốt hơn.
Bên cạnh những tác động tích cực trên, sự tác động của kinh tế thị
trường cũng làm xuất hiện những mặt tiêu cực trong quá trình giữ gìn, phát
huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc như:
Trong nền kinh tế thị trường, với mục đích lợi nhuận đã làm cho một
bộ phận đồng bào các DTTS tha hóa, biến chất đi ngược lại với bản tính hiền
lành, lương thiện, thật thà, chất phác vốn có của đồng bào. Xuất hiện hiện
tượng sản xuất kinh doanh, buôn bán trái pháp luật, hủy hoại môi trường tự
nhiên. Sự ganh gét, đố kị, cạnh tranh không lành mạnh, hủy hoại lẫn nhau
xuất hiện thay thế cho các giá trị đạo đức truyền thống như sự đoàn kết, tình
nghĩa, yêu thương đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau…
Nền kinh tế thị trường đã làm nhịp sống sôi động, hối hả tăng lên, một
bộ phận đồng bào chỉ chú tâm chăm lo phát triển kinh tế, thu lợi nhuận mà
dần dần lãng quên việc thực hành các giá trị VH truyền thống. Đó cũng chính
là một phần lí do để các giá trị VH truyền thống bị mai một, vắng bóng trong
đời sống của đồng bào.
Dưới tác động của nền kinh tế thị trường đã làm phái sinh nhiều yếu tố
phản VH. Trước sự kích của cái mới mẻ, đặc biệt giới thanh niên vùng đồng
bào các DTTS nhanh chóng tiếp cận và du nhập những yếu tố phản VH như
lối sống trụy lạc, thác loạn, lối sống thờ ơ, vô cảm, vô trách nhiệm, coi trọng
đồng tiền, ăn chơi lêu lổng… dần dần từ bỏ các giá trị VH truyền thống tốt
đẹp của DT mình. Đồng thời nảy sinh ý thức cho rằng những giá trị VH
truyền thống là lạc hậu, cổ súy, tôn sùng các giá trị VH mới.
Kinh tế thị trường phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho việc lưu thông
hàng hóa từ miền xuôi lên miền ngược. Sự đa dạng về hàng hóa của người
Kinh cùng với những mặt hàng sản xuất theo kiểu công nghiệp với mẫu mã
bắt mắt, giá cả hợp lý đã tràn nan khắp các khu chợ của đồng bào DTTS. Từ
đó đồng bào đã lựa chọn những hàng hóa công nghiệp thay thế cho các sản
phẩm truyền thống. Đồng nghĩa với việc đó, những làng nghề và những sản
phẩm thủ công truyền thống ít có điều kiện để tồn tại, dần dần bị mai một.
Ngoài ra, đứng trước người Kinh, một bộ phận đồng bào các DTTS luôn có
tâm lí tự ti, mặc cảm, e ngại khi thực hành các giá trị VH truyền thống của DT
80

mình vì cho rằng nó lạc hậu, lâu dần, các giá trị VH này cũng đi vào mai một
và mất chỗ đứng trong đời sống của đồng bào.
Như vậy, trước sự tác động của nền kinh tế thị trường, một mặt tạo điều
kiện thuận lợi cho các giá trị VH truyền thống mang tính bản sắc của đồng
bào được giữ gìn, phát huy tốt hơn, mặt khác, nó cũng làm nảy sinh những
yếu tố phản VH, làm lai tạp, biến đổi những giá trị VH truyền thống tốt đẹp
và nguy cơ mai một, vắng bóng dần những giá trị VH vật thể và VH phi vật
thể trong chính đời sống của đồng các DTTS vùng Đông Bắc.
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế cũng có sự tác động hai mặt đến việc
giữ gìn, phát huy BSVHDT nói chung và BSVH các DTTS vùng Đông Bắc
nói riêng. Tuy nhiên, đối với vùng Đông Bắc, sự tác động này chưa diễn ra
trên diện rộng khắp các vùng miền mà chủ yếu diễn ra ở các khu vực thành thị
và các vùng giáp ranh, còn vùng sâu, vùng xa, vùng xa xôi hẻo lánh có địa
hình phức tạp, giao thông chia cắt, điều kiện cơ sở vật chất thiếu thốn ít bị tác
động hơn.
Với tác động tích cực của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đem lại đã
giúp cho đồng bào các DTTS chủ yếu ở vùng có giao thông thuận lợi thu hút
được đầu tư quốc tế vào sản xuất, tiêu thụ các sản phẩm bản địa đặc sắc của
mình, đầu tư khai thác phát triển du lịch VH, tăng cường giao lưu, học hỏi
kinh nghiệm sản xuất kinh doanh, mở mang dân trí, nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần. Mặt khác, tạo điều kiện cho đồng bào tiếp cận với những
luồng VH mới, tiến bộ trong khu vực và trên thế giới. Từ đó tiếp thu có chọn
lọc để bổ sung, làm mới, phát triển VH truyền thống cho phù hợp với xã hội
hiện đại, làm giàu có thêm VH của DT mình đồng thời khắc phục được những
lạc hậu, sự không phù hợp trong VH truyền thống của đồng bào.
Bên cạnh những mặt tích cực trên, mặt trái của toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế đã làm biến đổi, lai tạp nhiều giá trị VH truyền thống của đồng
bào các DTTS. Nhiều giá trị VH truyền thống đang đứng trước nguy cơ biến
mất do giới trẻ học đòi theo cái mới du nhập từ bên ngoài vào một cách ồ ạt
thiếu kiểm soát, chọn lọc, đồng thời ca tụng, cổ súy cho VH ngoại lai, thờ ơ,
quay lưng lại những giá trị VH truyền thống. Những lối sống không lành
mạnh xa lạ với chính đồng bào các DTTS đó là lối sống thác loạn, vô tâm, vô
81

cảm, coi trọng vật chất… của một bộ phận tầng lớp thanh niên khu vực thành
thị và đang có chiều hướng lan ra các vùng giáp ranh. Nhiều giá trị đạo đức bị
coi nhẹ trước sự tấn công của những yếu tố phản VH, phản tiến bộ được du
nhập trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Tất cả điều đó đang
đặt ra nguy cơ mai một, biến mất một nền VH đậm đà BSDT của đồng bào
các DTTS vùng Đông Bắc.
Tiểu kết chương 2
VH là hệ thống các giá trị do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch
sử. Trong VH có những giá trị đặc trưng, bản chất, cốt lõi mang tính bền vững
tạo nên BSVH. BSVH luôn gắn với một DT nhất định với những đặc điểm
riêng về điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh lịch sử, điều kiện kinh tế - xã hội riêng
và nó chính là cơ sở để phân biệt DT này với DT khác, là tấm thẻ căn cước
hay tấm chứng minh thư của các DT trong quá trình giao lưu và hội nhập.
BSVH các DTTS vùng Đông Bắc vô cùng phong phú, đa dạng và độc đáo
được quy định bởi những đặc điểm về điều kiện địa lý, môi trường tự nhiên, hoàn
cảnh lịch sử và điều kiện kinh tế - xã hội vùng miền núi. Sự phong phú, đa dạng
trong BSVH các DTTS vùng Đông Bắc được thể hiện qua các sắc thái VH vật thể
(kiến trúc nhà ở truyền thống, trang phục, ẩm thực) và VH phi vật thể (ngôn ngữ,
phong tục tập quán, lễ hội, tri thức bản địa và kho tàng VH nghệ thuật dân gian).
Trong sự phong phú, đa dạng là những giá trị đặc trưng, bản chất, cốt lõi, những giá
trị chung tiềm ẩn sâu trong các sắc thái VH đó.
Quá trình giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc được
thực hiện nhằm giữ gìn, phát huy những giá trị cốt lõi, bản chất, những cái
làm nên sức mạnh nội sinh để các DTTS nơi đây tồn tại và phát triển. Cách
thức giữ gìn và phát huy các giá trị VH vật thể và các giá trị VH phi vật thể
được thực hiện cả ở hai trạng thái tĩnh (giữ gìn thông qua hệ thống bảo tồn,
bảo tàng chuyên nghiệp; ghi chép trong sách vở, sao chép, chụp chiếu trong
các video, audio…) và trạng thái động được thực hiện trong chính đời sống
hàng ngày của cộng đồng các DTTS vùng Đông Bắc.
Trong quá trình giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc đã
chịu sự tác động bởi những yếu tố khách quan và chủ quan. Tuy nhiên, trong bối
cảnh hiện nay, sự tác động của nền kinh tế thị trường được xem là yếu tố tác động
trực tiếp nhất, mạnh mẽ nhất theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực.
82

Chương 3
THỰC TRẠNG GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA
CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VÙNG ĐÔNG BẮC VIỆT NAM

Giữ gìn và phát huy BSVHDT có vai trò to lớn đối với sự tồn tại và
phát triển bền vững của mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Nó khơi dậy ý
chí tự lực, tự cường; sự đoàn kết, tương thân tương ái; đức tính cần cù, chịu
thương, chịu khó và sự sáng tạo cao trong lao động, sản xuất… tạo nên sức mạnh
nội sinh thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Trong đó, BSVH của đồng bào các
DTTS nói chung và BSVH của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc nói riêng,
ngoài vai trò tạo nên sự đa dạng trong nền VH Việt Nam, nó cũng có vai trò quan
trọng trong việc duy trì sự tồn tại và phát triển của chính bản thân đồng bào.
3.1. Thành tựu của giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc
thiểu số vùng Đông Bắc
Xây dựng nền VH Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc DT là mục tiêu và
chính sách xuyên suốt, nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Điều đó xuất phát
từ vai trò, vị trí của VH “VH là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu,
động lực phát triển bền vững đất nước”, là nội lực - sức mạnh nội sinh của đất
nước trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Trong đó, giữ gìn và
phát huy BSVHDT nói chung và BSVH các DTTS nói riêng có ý nghĩa quan
trọng không chỉ trong xây dựng nền VH Việt Nam tiên tiến, đậm đà BSDT mà
nó còn có vai trò to lớn đối với sự tồn tại và phát triển bền vững của quốc gia,
của mỗi DT trong cộng đồng quốc gia đa DT. Các giá trị VH truyền thống tốt
đẹp được khơi dậy sẽ tạo nên sức mạnh nội sinh thúc đẩy kinh tế - xã hội phát
triển.
Từ nhận thức đúng đắn vai trò đó, trong những năm qua, Đảng và Nhà
nước đã ban hành nhiều chủ trương, đường lối, chính sách VH nhằm giữ gìn,
phát huy BSVH nói chung và BSVH của đồng bào các DTTS nói riêng.
Chính quyền địa phương vùng Đông Bắc cũng đã có những Chỉ thị,
83

Nghị quyết, kế hoạch thực hiện việc giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS tại
địa phương thông qua việc giữ gìn và phát huy các giá trị VH vật thể và các
giá trị VH phi vật thể.
Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, sự tuyên truyền,
giáo dục của các cơ quan chuyên môn về ý thức giữ gìn, phát huy BSVHDT
đã có tác động rất lớn đến ý thức giữ gìn và phát huy BSVH của đồng bào các
DTTS. Đồng bào cũng nêu cao tinh thần tự giác, tham gia tích cực và cũng đã
đạt được những thành tựu nhất định vào việc giữ gìn, phát huy các giá trị VH
vật thể và các giá trị VH phi vật thể của DT mình.
3.1.1. Thành tựu của việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa vật thể
Thành tựu trong việc giữ gìn và phát huy các giá trị VH vật thể được
thể hiện thông qua việc giữ gìn nhà ở truyền thống, trang phục truyền thống
và ẩm thực truyền thống của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc.
* Về nhà ở truyền thống:
Trước xu thế giao lưu VH giữa các DT, các vùng trong phạm vi trong
và ngoài nước diễn ra mạnh mẽ, xu thế đồng hóa tự nhiên về mặt VH là điều dễ
nhận thấy. Tuy nhiên, với ý thức giữ gìn và phát huy BSVH, ở nhiều vùng, đồng
bào vẫn bảo lưu và duy trì được những ngôi nhà truyền thống của DT mình. Chiếm
phần lớn trong các ngôi nhà truyền thống là những ngôi nhà sàn được xây dựng từ
những vật liệu tự nhiên như tre, gỗ, nứa, lợp bằng cỏ gianh. Ở một số vùng, nhiều
ngôi nhà trình tường với hàng rào đá xếp xung quanh tạo nên những quần thể ấm
cúng. Ở những nơi này, bà con người Mông, người Dao, người Nùng vẫn làm ăn,
sinh sống với những tập quán lâu đời và độc đáo.
Kiến trúc nhà ở của nhân dân nhiều thôn, bản vẫn còn lưu giữ được nét
truyền thống DT. Đồng bào cũng có những biện pháp cải tạo để chống xuống
cấp. Đối với việc xây dựng mới ngôi nhà theo kiến trúc truyền thống, đồng bào
thường mời các già làng, trưởng bản, những nghệ nhân còn lưu giữ được kiến trúc
truyền thống để tư vấn nhằm bảo lưu nguyên vẹn ngôi nhà của cha ông để lại. Hiện
tại, với sự phát triển của dân số, sự dần khan hiếm của những vật liệu tự nhiên, để
xây dựng những ngôi nhà mới, đồng bào phải tìm những vật liệu mới thay thế, song
dù nguyên liệu được thay thế bằng nguyên liệu mới (như xi măng, sắt, thép, mái
lợp prôximăng, lợp tôn…) nhưng về mặt kiến trúc, một số nơi, đồng bào vẫn đảm
84

bảo nguyên vẹn kiến trúc truyền thống. Đây chính là sự biểu hiện của ý thức bảo
lưu BSVH của DT mình. Cùng với lưu giữ, đồng bào các DTTS cũng có sự chủ
động thay đổi những yếu tố không còn phù hợp, chẳng hạn, trong kiến trúc
nhà ở truyền thống của người Tày, Nùng, gầm sàn chính là nơi nhốt gia súc,
trên sàn là mặt bằng sinh hoạt của cả gia đình. Nhưng hiện nay, số gia đình
vẫn giữ tập quán đó còn rất ít, để giữ gìn vệ sinh, bà con đã nhốt gia súc, gia
cầm ra một vị trí riêng, tách bạch với nơi ở của cả gia đình.
Về bố trí mặt bằng sinh hoạt, cho dù sống trong nhà truyền thống hay
nhà theo kiến trúc mới, đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc vẫn bố trí một số
vị trí (bàn thờ, bếp, giường ngủ, nơi cất hạt giống và lương thực) theo cách
truyền thống của DT mình. Tuy nhiên, ở những DT khác nhau, tỷ lệ lưu giữ
cách thức bố trí ấy cũng không giống nhau: “DT Nùng 84,1%; Dao 100%;
Tày 62,9%”[140;200].
Các yếu tố mới tiếp nhận từ xã hội hiện đại không chỉ là các nguyên vật
liệu mà còn cả các tiện nghi hiện đại như ti vi, tủ lạnh, trang thiết bị phục vụ
nhu cầu sinh hoạt. Chính sự hiện đại hóa trên cái nền truyền thống vẫn đảm
bảo cho các DTTS duy trì, tiếp nối truyền thống nhưng phù hợp hơn với xã
hội hiện đại, làm đẹp hơn và tôn thêm niềm tự hào của đồng bào các DTTS về
vẻ đẹp trong VH vật thể của DT mình. Điều này cho thấy khả năng sáng tạo,
thích nghi của đồng bào các DTTS không những được duy trì mà còn được
phát huy trong điều kiện mới.
Ngôi nhà truyền thống với kết cấu cũng như mặt bằng sinh hoạt được duy trì
không chỉ để duy trì không gian sinh hoạt thông thường mà là cơ sở, môi trường để
đồng bào duy trì phong tục tập quán, các hình thức tín ngưỡng trong gia đình.
* Về trang phục truyền thống:
Ngoài việc lưu giữ được kiến trúc nhà ở truyền thống của DT mình,
đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc còn lưu giữ, duy trì được trang phục
truyền thống trong đời sống hàng ngày, nhất là vào các dịp lễ, tết trong năm.
Đây chính là nét VH nổi bật, đặc trưng nhất để nhận diện tộc người. Do điều
kiện tự nhiên, xã hội và VH mà mỗi tộc người đều có trang phục riêng. Trang
phục DT không chỉ có tác dụng che chở và bảo vệ cơ thể mà nó còn thể hiện
85

giá trị thẩm mỹ và trình độ khéo léo, cẩn thận, cầu kỳ từng chi tiết của các chị
em phụ nữ DTTS. Mặc dù dưới tác động của giao lưu VH, nhất là của toàn
cầu hóa trong bối cảnh hiện nay, trang phục thường là yếu tố dễ biến đổi nhất
nhưng trong đời sống hàng ngày, nhất là ngày lễ, tết đồng bào các DTTS vùng
Đông Bắc vẫn duy trì mặc trang phục truyền thống của DT mình.
Về cơ bản, đa số bà con DTTS vẫn rất tự hào về trang phục riêng của
DT mình. Những khi nông nhàn, những người phụ nữ trong các thôn bản lại
cần cù, tỉ mỉ trút mọi tình cảm, sự tinh tế của mình để tạo ra những bộ trang
phục đẹp nhất dùng cho các dịp hội hè, cưới xin, lễ tết. Trong cuộc sống hiện
đại, có thể ngày thường bà con cũng sử dụng những trang phục hiện đại như
người Kinh, tuy nhiên những bộ trang phục mang đậm BSDT vẫn được coi
như trang phục trang trọng nhất mà ai cũng tự hào sử dụng trong những dịp
quan trọng của cuộc sống cộng đồng. Ở vùng Đông Bắc, đi đến bất cứ nơi nào
có bà con DTTS sinh sống, cũng đều thấy tình cảm bà con dành cho trang
phục DT mình cũng như ý thức giữ gìn BSVHDT mình.
Ở Cao Bằng, đồng bào DT Nùng vẫn giữ được nét VH truyền thống từ
ngàn đời của cha ông để lại thông qua trang phục của mình. Hầu hết đồng bào
DT Nùng, nhất là phụ nữ hàng ngày vẫn mặc những bộ quần áo chàm do mình
tự dệt nhuộm. Xã Phúc Sen, huyện Quảng uyên có 423 hộ với 1.932 nhân khẩu,
100% đều là DT Nùng…. , điều đáng trân trọng là bà con luôn có ý thức gìn giữ
những nét VH truyền thống của DT mình, thể hiện thông qua việc bà con vẫn
luôn giữ và mặc trang phục DT. Ngay cả một số người mặc dù thoát ly đi làm
cán bộ nhà nước nhưng khi về đến nhà vẫn thay và mặc trang phục của DT
mình.… Chị Nhan Thị Yêm, xóm Pắc Rằng, xã Phúc Sen tươi tắn trong trang
phục vải chàm của DT Nùng An khoe: “Tất cả bộ trang phục tôi mặc đều do tôi
tự dệt, nhuộm và cắt may. Đồng bào chúng tôi rất ít mua những bộ quần áo thời
trang về mặc. Vào lúc nông nhàn, chúng tôi lại lên rừng tìm nguyên liệu mang
về dệt, nhuộm vải để may mặc. Đây là nghề từ cha ông để lại rồi nên chúng tôi
muốn gìn giữ và luôn tự hào về trang phục của đồng bào mình”[3].
Đối với đồng bào DT H’Mông Tuyên Quang, với ý thức giữ gìn
BSVHDT mình, các thế hệ trước luôn duy trì, truyền dạy cho các thế hệ sau
86

cách may trang phục truyền thống để mặc trong cuộc sống hàng ngày cũng
như trong các ngày lễ, tết. Phụ nữ H’Mông thường có trang phục thêu hoa văn
sặc sỡ, họa tiết tinh xảo, đẹp mắt thể hiện sự khéo léo trên từng đường thêu,
mũi chỉ. Những bé gái khi mới lớn lên đã được mẹ truyền dạy cách dệt vải,
thêu thùa, tập may trang phục truyền thống của mình, sau những giờ làm việc
đồng áng, chị em, bà cháu lại cùng quây quần bên nhau để thêu những bộ
trang phục truyền thống cho bản thân và gia đình.
Không chỉ người H’Mông, mà người Dao đỏ ở vùng Đông Bắc cũng tự
tay thêu những bộ trang phục truyền thống. Vào thời gian rảnh rỗi, các bà, các
mẹ vẫn thường xuyên dạy cho nhau cách thêu thùa, may quần áo truyền
thống. Người già dạy cho người trẻ, người thêu đẹp dạy cho người thêu chưa
thạo, không ai muốn thua kém, ai cũng muốn tự tay may, thêu trang phục cho
mình và gia đình. Nét đẹp của bộ trang phục DT Dao đỏ luôn được gìn giữ,
bảo tồn như “báu vật”, là biểu tượng đại diện cho BSVHDT. Các bản làng
người Dao ở các tỉnh vùng Đông Bắc đã thực hiện khá tốt việc truyền dạy cho
con cháu cách giữ gìn, phát huy trang phục DT mình.
Để làm ra bộ trang phục truyền thống, bà con chủ yếu là thêu tay, các
em nhỏ đã được bà, mẹ, chị dạy cách chọn vải, cắt, dạy thêu từng đường kim,
mũi chỉ, cách thêu các hoa văn, họa tiết trên từng bộ phận, những công việc
này đòi hỏi sự khéo léo, tinh tế nhất là sự tỉ mỉ của người thêu mới có thể làm
hoàn chỉnh bộ trang phục. Thế hệ trẻ người DTTS, trong đó chủ yếu là các em
nữ thường xuyên được mẹ, bà hay các chị em trong gia đình dạy cách làm bộ
trang phục truyền thống của cả nam và nữ.… Ý thức được tầm quan trọng của
việc giữ gìn trang phục DT, các em rất thích thú khi được học, còn những phụ
nữ lớn và trung tuổi hầu như ai cũng biết thêu, khâu trang phục DT.
Không chỉ học cách để làm mà hiện nay trong cuộc sống sinh hoạt, một số
đồng bào DTTS vẫn duy trì việc mặc trang phục trong lao động sản xuất. Trang
phục không chỉ để mặc mà còn thể hiện tính thẩm mỹ, tín ngưỡng và tâm linh,
cách nhận biết DT này với DT khác. Do đó, trong những dịp lễ hội, cưới xin,
đồng bào DTTS luôn mặc trang phục truyền thống của họ. “Việc thực hành các
nghi lễ đặc biệt của DT (đám cưới, đám tang, lễ cấp sắc…) khiến cho người Dao
87

vẫn duy trì và sử dụng trang phục truyền thống. Theo người Dao, trong một số
nghi lễ đặc biệt, như tang ma, hoặc cấp sắc, mặc trang phục truyền thống là
cách tốt nhất để tổ tiên hoặc thần linh nhận diện được mình. Tương tự người
Dao, người Nùng ở Lạng Sơn và Thái Nguyên cũng vẫn giữ được trang phục
cưới và trang phục truyền thống của họ”[140;186].
Cứ như vậy, qua nhiều thế hệ trang phục truyền thống của đồng bào
các DTTS vùng Đông Bắc được bảo tồn trong cuộc sống hàng ngày. Đó cũng
chính là yếu tố quan trọng nhất để VH của đồng bào không bị mai một hay
hòa tan trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
* Về ẩm thực truyền thống:
Trong đời sống hàng ngày, đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc vẫn
duy trì được các món ăn truyền thống có tác dụng bồi bổ và trị bệnh. Sự sáng
tạo trong chế biến món ăn và bảo quản thực phẩm vẫn được đồng bào duy trì
và trao truyền qua các thế hệ. Các món ăn mang đặc trưng và bản sắc của tộc
người không những được duy trì trong đời sống hàng ngày mà nó còn được
lan tỏa đến các tộc người khác tiếp nhận như món khau nhục (Tày, Nùng);
Thắng cố (H’Mông), lợn quay lá mác mật (Tày, Nùng); thịt lợn muối chua
(Dao), rượu men lá (Tày, Nùng, Dao); rượu ngô (H’Mông); các loại bánh như
bánh trứng kiến, bánh Oóc pò, xôi ngũ sắc…
Các món ăn truyền thống này vẫn được duy trì đầy đủ và không thể
không có trong các lễ hội của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc. Đó chính
là lễ vật để dâng cúng thần linh, biểu thị sự tôn kính với thần linh (tổ tiên, thổ
công, thần rừng, thần núi, thần sông, thần nông nghiệp…).
Trong thực tế, khá nhiều gia đình DTTS Đông Bắc có điều kiện để
trang bị tủ lạnh, lò vi sóng, lò nướng, bà con cũng tận dụng được chức năng
vốn có của các tiện nghi hiện đại đó, giúp cho việc bếp núc thuận tiện hơn.
Đồng thời, thay vì những quy trình cẩn trọng, nghiêm ngặt khi chế biến thực
phẩm, bà con cũng tận dụng những chất phụ gia đang rất nhiều và rất dễ mua
trên thị trường. Dù vậy, với những mâm cỗ cúng tổ tiên, thần linh, bà con vẫn
cẩn thận chuẩn bị theo “quy trình” truyền thống, cho dù nhiều khi việc chuẩn
88

bị diễn ra cả tháng trước sự kiện. Điều đó cho thấy sự trân trọng đối với
những giá trị VH đã được ông cha trao truyền lại.
Như vậy, các giá trị VH vật thể của đồng bào các DTTS vẫn tiếp tục
được lưu giữ, duy trì và phát huy trong chính đời sống của đồng bào. Đó là sự
thể hiện ý thức giữ gìn BSVH - ý thức tự hào DT của đồng bào các DTTS.
Giữ gìn bản sắc đó cũng là điều kiện để phát huy sự sáng tạo, cần cù, khéo
léo, lý tưởng thẩm mỹ trong thiết kế kiến trúc nhà ở, trong may trang phục với
hình dáng và họa tiết độc đáo, trong những món ăn giản dị có nguồn gốc từ tự
nhiên nhưng rất giàu dinh dưỡng.
Việc giữ gìn và phát huy được thực hiện ở nội dung là các giá trị VH
vật thể, nhưng ẩn sau đó là giữ gìn và duy trì một lối sống giản dị, hòa đồng
với thiên nhiên, làm cho con người luôn bình dị, tư tưởng cởi mở, lạc quan tin
yêu vào cuộc sống. Điều này rất cần trong xã hội ngày nay, khi nền kinh tế thị
trường với những mặt trái tác động làm cho con người xa dần bản tính thật
thà, hiền lành, lương thiện vốn có.
Tóm lại, cùng với sự quan tâm, nỗ lực chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính
quyền Nhà nước cùng sự tự ý thức giữ gìn BSVH của đồng bào các DTTS, các giá
trị VH vật thể của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc không những được giữ gìn
mà còn được cải biến, bổ sung, phát triển cho phù hợp hơn với xã hội hiện đại, điều
đó góp phần tạo nên sợi dây bền chặt gắn quá khứ với hiện tại và tương lai trong
đời sống VH của đồng bào DTTS vùng Đông Bắc.
3.1.2. Thành tựu của việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa phi
vật thể
Các giá trị VH phi vật thể của đồng bào các DTTS được giữ gìn và phát
huy thông qua việc giữ gìn ngôn ngữ DT; phong tục, tập quán; tôn giáo, tín
ngưỡng và nghệ thuật dân gian.
Về ngôn ngữ DT: Các DTTS vùng Đông Bắc, đặc biệt là lớp người trung
niên và người già luôn ý thức được việc giữ gìn ngôn ngữ mẹ đẻ, họ thường xuyên
sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ để giao tiếp trong gia đình, dòng họ, đặc biệt trong những
dịp chung của cộng đồng như đám cưới, đám tang, lễ hội ....
Trong giao tiếp gia đình, đồng bào DTTS thường sử dụng ngôn ngữ mẹ
89

đẻ để giao tiếp giữa vợ với chồng, các anh chị em trong gia đình, bố mẹ và
con cái. Theo kết quả điều tra của nhóm tác giả Vương Xuân Tình, Trần Hồng
Hạnh trong công trình “Phát triển bền vững văn hóa tộc người trong quá
trình hội nhập ở vùng Đông Bắc” thì 100% vợ chồng người Dao ở hai tỉnh
Lạng Sơn và Thái Nguyên sử dụng ngôn ngữ DT mình để nói chuyện với
nhau, tỷ lệ này ở người Tày là 59,2%, người Nùng là 28%. Sử dụng ngôn ngữ
DT mình để nói chuyện với bố mẹ ở người Dao vẫn triệt để hơn cả (100%),
người Tày là 58,7%, người Nùng là 25,5% (người Nùng sử dụng song ngữ,
tiếng DT mình và ngôn ngữ phổ thông là 70,2%). Sử dụng ngôn ngữ để giao
tiếp với ông bà, người Dao vẫn đạt tỷ lệ 100% sử dụng ngôn ngữ DT mình,
còn người Tày và người Nùng tỷ lệ này là 40%, 10,5%. Do đó, người Tày và
người Nùng thường sử dụng song ngữ để giao tiếp (cả tiếng DT mình và ngôn
ngữ phổ thông với tỷ lệ lần lượt là 53,3% và 81,6%). Sử dụng ngôn ngữ để
nói chuyện với anh chị em thì 100% người Dao sử dụng ngôn ngữ DT mình,
còn tỷ lệ này ở người Tày là 48%, người Nùng là 28%. Người Tày, người
Nùng thường sử dụng song ngữ để giao tiếp với anh chị em. Sử dụng ngôn
ngữ nói chuyện đồng tộc cũng được DT Dao sử dụng ở mức độ cao là 90%,
người Tày là 58% và người Nùng là 32,7%. Người Tày, người Nùng cũng
thường xuyên sử dụng song ngữ trong nói chuyện với đồng tộc với tỷ lệ 32%
và 57,1%. Đặc biệt cả người Dao, người Tày, người Nùng ở hai tỉnh Lạng
Sơn và Thái Nguyên đều 100% sử dụng ngôn ngữ DT mình trong thờ cúng tổ
tiên và trong cúng đám ma[140;168-173].
DT H’Mông - DT có ý thức gìn giữ bản sắc rất cao nên gần như 100%
đồng bào H’Mông duy trì và sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ thường xuyên trong
giao tiếp hàng ngày cũng như trong các dịp lễ, tết quan trọng.
Như vậy, việc sử dụng ngôn ngữ DT mình vẫn được đồng bào DTTS
thường xuyên sử dụng để giao tiếp trong gia đình cũng như với đồng tộc.
Trong đám cưới, đám ma, thờ cúng tổ tiên càng thể hiện rõ ý thức duy trì và
sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ của đồng bào DTTS vùng Đông Bắc. Điều đó cho
thấy ý thức gìn giữ cũng như lòng tự hào về ngôn ngữ mẹ đẻ của đồng bào.
Ngoài việc thực hành ngôn ngữ trong sinh hoạt hàng ngày, đồng bào
90

các DTTS còn có ý thức giữ gìn ngôn ngữ thông qua việc thành lập các câu
lạc bộ sử dụng ngôn ngữ DT. Hoạt động của các câu lạc bộ này nhằm truyền
dạy ngôn ngữ DT cho các thành viên của câu lạc bộ thuộc người đồng tộc và
cả những người khác tộc. Một mặt để duy trì ngôn ngữ mẹ đẻ qua các thế hệ,
mặt khác, qua đó giúp cho các thế hệ sau cũng như những người khác tộc hiểu
thêm về phong tục, tập quán, VH của từng DT.
Câu lạc bộ sử dụng ngôn ngữ DT Dao xã Bình Xa, huyện Hàm Yên,
tỉnh Tuyên Quang là câu lạc bộ hoạt động thường xuyên và hiệu quả. Chị Lý
Thị Hằng, chủ nhiệm câu lạc bộ cho biết, hiện nay, do nhu cầu giao lưu VH,
phát triển kinh tế mà tiếng nói DT Dao ở lớp trẻ không còn được quan tâm,
chú trọng. Do đó, câu lạc bộ sử dụng ngôn ngữ DT Dao được thành lập giúp
các thành viên không chỉ là người DT Dao mà còn các DT khác cùng sinh
sống trên địa bàn thôn, xã được tìm hiểu, trau dồi, bổ sung thêm vốn từ, hiểu
về phong tục, tập quán, VH của DT Dao.
Chị Vương Thị Viên, 26 tuổi, thành viên câu lạc bộ sử dụng ngôn ngữ
DT Dao xã Bình Xa, Hàm Yên, Tuyên Quang tâm sự, chị là người DT La Chí
ở tỉnh Hà Giang lấy chồng làm dâu con của DT Dao tại xã. Mới đầu về nhà
chồng, do bất đồng ngôn ngữ khiến cho chị rất khó khăn trong sinh hoạt hàng
ngày. Ngay khi câu lạc bộ được thành lập, chị đã đăng ký tham gia sinh hoạt.
Tại đây, chị không chỉ được học nghe, học nói tiếng DT Dao mà còn được
giao lưu, học tập các bài dân ca truyền thống, luyện tập các điệu múa, bài hát
của DT Dao. Nhờ vậy, chị hiểu hơn về nét VH cũng như giá trị truyền thống
của DT Dao. Chị không chỉ học cho bản thân mà còn tích lũy để dạy cho các
con biết tiếng nói, biết hát các bài ca truyền thống của DT Dao.
Bằng những hành động thiết thực đó, bản thân đồng bào các DTTS
vùng Đông Bắc đang nỗ lực gìn giữ ngôn ngữ DT. Tạo điều kiện để góp phần
tích cực vào việc bảo tồn, gìn giữ, phát huy BSVH cho thế hệ mai sau.
Về Phong tục tập quán: BSVH các DTTS vùng Đông Bắc được thể
hiện thông qua phong tục tập quán của cư dân bản địa nơi đây và ngày nay,
nó vẫn được đồng bào các DTTS giữ gìn, thực hành, lưu truyền, cải tiến cho
phù hợp với xã hội hiện đại. Cùng với sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các
91

cấp ủy đảng, chính quyền địa phương và các phòng ban chuyên môn là sự nỗ
lực, nhiệt tình của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc trong việc duy trì các
phong tục, tập quán tốt đẹp, những cái đã trở thành bản sắc đóng góp vào sự
nghiệp chung của đất nước trong việc cố kết cộng đồng, xây dựng tình cảm
tốt đẹp giữa người với người, tinh thần trách nhiệm của cá nhân với cộng
đồng (làng, bản, vùng, miền, đất nước), ca ngợi đức tính lao động cần cù, chịu
thương chịu khó, sự sáng tạo, sự thích nghi trong mọi điều kiện, hoàn cảnh….
Hiện nay, tại một số địa phương vùng Đông Bắc, các phong tục gắn với
những nghi lễ liên quan đến chu kì đời người như: sinh đẻ, trưởng thành, cưới
xin, tang ma… vẫn được duy trì và thực hành đúng tuần tự. Đối với những
cặp vợ chồng người Nùng chậm có con thì họ hay tiến hành nghi lễ “cầu tự” nhằm
an ủi về mặt tâm lý cũng như thực hành phong tục truyền thống của DT. Sau khi
sinh em bé được 1 tháng, 100% các DTTS vùng Đông Bắc đều tiến hành lễ cúng
đầy tháng cho em bé. Đối với bé trai khi trưởng thành, một số đồng bào Dao vẫn
tiến hành lễ cấp sắc, nhằm đảo bảo cho người con trai đã trưởng thành có thể lo
được mọi chuyện trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Chính do nét đặc sắc, độc
đáo này trong phong tục “Lễ cấp sắc” của người Dao mà hiện nay “Lễ cấp sắc” đã
được công nhận là di sản VH phi vật thể cấp quốc gia.
Đặc sắc nhất trong phong tục tập quán của đồng bào các DTTS vùng
Đông Bắc chính là phong tục trong đám cưới và đám tang. Mỗi DT có một
sắc thái riêng, vô cùng độc đáo, mang đậm bản sắc DT.
Mặc dù hiện nay, đời sống có nhiều thay đổi, các nghi lễ trong phong
tục tập quán cũng có nhiều thay đổi theo, tuy nhiên, đồng bào vẫn giữ được
và duy trì những nét cơ bản truyền thống và loại bỏ nhiều thủ tục rườm rà.
Không kéo dài hai ngày đêm như trước, nhiều đám cưới hiện chỉ diễn ra gọn
nhẹ, loại bỏ những thủ tục rườm rà, nhưng vẫn giữ được nét đặc sắc của VH
tộc người. Các nghi thức xin dâu, hát giao duyên, lễ se tơ hay nghi thức níu
giữ cô dâu vẫn được thực hiện đầy đủ trong đám cưới…. Từ già đến trẻ, trong
mỗi gia đình, tiếng nói của DT luôn được duy trì, các phong tục tập quán
cũng được bà con có ý thức gìn giữ và phát huy. Những nghi lễ quan trọng
của DT được tổ chức, trao truyền từ đời này sang đời khác. Cứ như vậy, qua
92

nhiều thế hệ, BSVH của người Tày, Nùng, Dao ... đã được bảo tồn trong cuộc
sống hàng ngày và đó cũng là yếu tố quan trọng nhất để VH của đồng bào
không bị mai một hay hòa tan trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Ngoài các nghi lễ trong đám cưới được loại bỏ, rút gọn mà vẫn đảm
bảo được nét đặc sắc, truyền thống thì các nghi lễ trong đám tang cũng được
rút gọn còn những bước quan trọng, cơ bản. Chẳng hạn, trong số 34 nghi lễ
tang ma truyền thống của người chết bình thường, hiện nay, đồng bào Nùng
Phàn Slình ở Thái Nguyên cũng như các tỉnh vùng Đông Bắc đã giản tiện chỉ
còn 20 nghi lễ. Mỗi nghi lễ tuy giữ nguyên đầu lễ, nhưng các lễ thức đã thay
đổi chi tiết cho phù hợp. Một số nghi lễ được gộp chung một lễ tế của con
cháu trong gia đình cho giản tiện. Một số nghi lễ khác chủ yếu làm lễ mang
tính hình thức cho đủ lễ để con cháu yên tâm. Một vài sự kiêng kị trong đám
tang vẫn còn duy trì, một vài sự kiêng kị thái quá đã được bỏ đi.
Các nghi lễ liên quan đến xây dựng nhà cửa vẫn được đồng bào duy trì và
thực hiện theo phong tục truyền thống từ các khâu xem ngày, động thổ, dựng nhà cho
đến khi lên nhà mới. Tất cả các khâu đều thực hiện một cách cẩn thận và chu đáo bởi
theo quan niệm của đồng bào việc xây dựng nhà cửa còn liên quan trực tiếp tới bình
an và sức khỏe của những người thân trong gia đình.
Để giữ gìn nhiều phong tục, tập quán tốt đẹp, ngoài việc thực hành trong đời
sống hàng ngày, đồng bào các DTTS đã kết hợp với chính quyền địa phương thực
hiện thành công nhiều dự án phục dựng, bảo tồn phong tục tập quán tốt đẹp của đồng
bào như: tỉnh Thái Nguyên thực hiện thành công dự án phục dựng, bảo tồn đám
cưới của người Tày ở xã Lam Vỹ (Định Hóa), Lễ cưới truyền thống của DT Dao,
xã Mỹ Yên (Đại Từ), Lễ cấp sắc DT Dao Lô Gang xã Yên Đổ (Phú Lương). Tỉnh
Bắc Kạn đã bảo tồn 4 dự án VH phi vật thể của các DT trong tỉnh, trong đó,
có đám cưới người Nùng Giang tại huyện Pắc Nặm, Lễ nghi đám tang của
người Nùng tại huyện Na Rì.
Về tín ngưỡng, tôn giáo: Hiện nay đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc
vẫn duy trì và thực hành thường xuyên các nghi lễ thờ cúng như nghi lễ thờ
cúng tổ tiên, nghi lễ cúng thổ công, nghi lễ cúng các vị thần nông nghiệp
thông qua các lễ hội trong năm. Đặc biệt là nghi lễ thờ cúng tổ tiên luôn được
93

đồng bào chú trọng thực hiện vào những ngày mùng 1, ngày 15 hàng tháng,
ngày giỗ, ngày tết. Đó là dịp để đồng bào bày tỏ lòng biết ơn đối với tổ tiên và
các vị thần linh đã che chở, bảo vệ mùa màng cũng như sự bình an cho mọi
thành viên trong gia đình. Tuy nhiên, quá trình và các bước, cách thức thực
hiện các nghi lễ cũng được thay đổi cho phù hợp với thời đại mới trên cơ sở
nền tảng truyền thống vẫn được duy trì. Điều đó góp phần gìn giữ, bảo lưu
các phong tục tập quán tốt đẹp của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc một
cách phù hợp với xã hội hiện đại.
Về lễ hội: Trong một thời gian khá dài, do ảnh hưởng bởi phong trào
bài trừ mê tín dị đoan và sự nhận thức của các cấp chính quyền về giá trị VH
truyền thống của đồng bào các DTTS mà các lễ hội của đồng bào đã vắng
bóng dần trong đời sống cộng đồng. Nhưng ngày nay, với sự công nhận của
Đảng và chính quyền về các giá trị VH truyền thống của đồng bào các DTTS
- nét VH đặc sắc, đặc trưng làm nên bản sắc DT, góp phần nâng cao đời sống tinh
thần cho đồng bào và sự phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương nên cũng vì thế mà
các lễ hội truyền thống đang được phục hồi mạnh mẽ ở khu vực này. Tiêu biểu là
dân tộc H’Mông với lễ hội Gầu Tào, lễ hội chợ tình Khâu Vai (Hà Giang); DT Tày,
Nùng với lễ hội Lồng Tồng, DT Dao với lễ hội Tết Nhảy. Các lễ hội này được đồng
bào phục hồi và duy trì ngoài mục đích tổ chức sinh hoạt VH để nâng cao đời sống
tinh thần cho mọi thành viên, còn nhằm mục đích duy trì nét VH truyền thống của
đồng bào để phát triển du lịch. Do đó, duy trì lễ hội chính là một giải pháp kép mà
chính quyền và nhân dân các DT vùng Đông Bắc đã và đang thực hiện nhằm vừa
giữ gìn, phát huy BSVHDT vừa phát triển kinh tế du lịch để tăng thu nhập và cải
thiện đời sống cho đồng bào.
Về nghệ thuật dân gian: Đây là một loại hình VH phi vật thể đang được
chính quyền và đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc chú trọng giữ gìn, phát huy.
Họ đang tích cực truyền đạy cho thế hệ sau các làn điệu dân ca, các điệu múa và
cách thức sử dụng nhạc cụ DT. Trong gia đình, người già dạy cho người trẻ, cho
con cháu. Ngoài cộng đồng thì được những nghệ nhân tích cực truyền dạy cho các
thành viên trong câu lạc bộ, trong bản làng tạo nên một không khí phấn khởi, tự hào
về những giá trị đặc sắc trong kho tàng VH nghệ thuật của đồng bào các DTTS
94

vùng Đông Bắc. Do đó, ở các tỉnh vùng Đông Bắc đã thành lập nhiều câu lạc bộ
văn nghệ do chính đồng bào tự tổ chức thành lập, như câu lạc bộ hát Then - đàn
tính của DT Tày, câu lạc bộ hát Páo dung của DT Dao, câu lạc bộ hát dân ca của
DT H’Mông, câu lạc bộ hát Sli của DT Nùng…. Các câu lạc bộ này không chỉ
truyền dạy cho nhau các làn điệu dân ca mà còn tổ chức giao lưu và đi biểu diễn ở
các sự kiện trong và ngoài tỉnh. Điều đó không chỉ duy trì, giữ gìn mà còn quảng
bá, giới thiệu vốn VH nghệ thuật truyền thống của các các DTTS tới các vùng miền
trong phạm vi cả nước. Cụ thể: Ngành VH tỉnh Lạng Sơn đã tổ chức truyền dạy
được 1 lớp hát Sli DT Nùng tại thôn Tềnh Slung, xã Gia Cát, huyện Cao Lộc; 1 lớp
hát Lượn của DT Tày tại xã Khuất Xã, huyện Lộc Bình… gần 15 lớp hát Then -
đàn tính cho các hạt nhân văn nghệ quần chúng tổ chức tại Trung tâm VH thông tin
tỉnh và tại các huyện như Văn Lăng, Chi Lăng, Bình Gia, Văn Quan… đưa loại
hình hát Then vào chương trình đào tạo tại trường trung cấp VH nghệ thuật tỉnh…
[158]. Tỉnh Tuyên Quang đã tổ chức nghiên cứu, sưu tầm, bảo tồn các làn điệu
dân ca, dân vũ các DT Dao, Cao Lan, Pà Thẻn, Tày, Nùng, Mông. Biên soạn,
xuất bản các cuốn sách: "Bước đầu tìm hiểu dân ca DT Tày, Sán Dìu, Cao
Lan"; Tập thơ Tày "Nhớ Pác Tạ". In các đĩa VCD: "Hát ru, hát giao duyên
DT Dao"; "Then Tày Tuyên Quang". Đến nay, Nghi lễ Then, hát Páo dung
của DT Dao đã được công nhận di sản VH phi vật thể quốc gia [162].
Tóm lại, các giá trị VH truyền thống tạo nên BSVH của các DTTS vùng
Đông Bắc đang được giữ gìn và phát huy nhờ vào sự nỗ lực của các cấp ban
ngành, chính quyền địa phương và sự tham gia nhiệt tình từ phía đồng bào các
DTTS. Ngành VH và các chính quyền các cấp cũng thay đổi phương thức hoạt
động, từ cách làm thay “áp đặt” sang cách khuyến khích đồng bào chủ động, tích
cực tổ chức, thực hiện các hoạt động VH truyền thống tại cộng đồng trong
không gian VH do chính đồng bào tạo nên. Trong các hoạt động VH, vai trò tự
quản của cộng đồng được phát huy thông qua các già làng, nghệ nhân… Người
dân ở các bản làng, thôn xóm đã nâng cao lòng tự hào, tự tôn về giá trị truyền
thống của DT mình, tham gia ngày càng nhiều hơn vào các hoạt động giữ gìn giá
trị truyền thống. Nhờ những nỗ lực đó, BSVH được khơi dậy, phát huy, tinh thần
yêu quê hương đất nước, tinh thần đoàn kết, yêu thương đùm bọc lẫn nhau trong
cộng đồng các DT, truyền thống cần cù, chịu khó trong lao động sản xuất, sự
95

tuân thủ các quy định nghiêm ngặt của bản làng, thôn xóm, tính tổ chức kỷ luật
khá cao trong gia đình, trong sinh hoạt tại cộng đồng, nhiều hủ tục bị đẩy lùi
nhường chỗ cho những yếu tố VH mới tiến bộ nảy nở và phát triển…. Những
giá trị tốt đẹp đó đang được khơi dậy, lan tỏa và phát huy tác dụng trong công
cuộc phát triển kinh tế - xã hội ở vùng đồng bào các DTTS nói riêng và của sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung.
3.2. Hạn chế của giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu
số vùng Đông Bắc
3.2.1. Hạn chế của việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa vật thể
Mặc dù được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp, ban ngành chuyên
môn và chính quyền địa phương trong việc đa dạng hóa các hình thức giữ gìn, phát
huy các giá trị VH vật thể, nhưng các giá trị VH này vẫn đang dần vắng bóng và có
nguy cơ biến mất theo thời gian và sự ra đi của các thế hệ người già. Hiện ở các
vùng thành thị và vùng ráp ranh thành thị, kể cả vùng nông thôn phát triển, các giá
trị VH vật thể như nhà cửa, trang phục, ẩm thực truyền thống hầu như không còn
tồn tại trong đời sống mà đâu đó chỉ còn tồn tại trong kí ức của những người già với
sự tiếc nuối về những gì đã biến mất. Các thế hệ sau, thế hệ con cháu của họ không
muốn duy trì, phục dựng lại ngôi nhà truyền thống, trang phục truyền thống, ẩm
thực truyền thống, bởi theo lý giải của họ, một phần là do sự khan hiếm về nguyên
liệu, một phần là do sự bất tiện trong sinh hoạt, trong lao động sản xuất và sự thay
đổi thẩm mỹ trong giới trẻ so với thời trước. Chính vì thế mà họ dần lãng quên, từ
chối tiếp nhận và không có ý thức duy trì các giá trị VH mà cha ông để lại,
thay vào đó là sự tiếp nhận các yếu tố mới gắn với điều kiện kinh tế hiện đại.
Thậm chí, vì nhu cầu kinh tế trước mắt, nhiều gia đình đã bán đi ngôi nhà
truyền thống của tổ tiên.
Trong đời sống hàng ngày, những tiện nghi hiện đại, những trang phục
của người Kinh, những món ăn mới có tính chất công nghiệp đã dần thay thế
các yếu tố truyền thống. Việc thay đổi từ truyền thống sang hiện đại cũng là
một nhu cầu có tính tất yếu của sự phát triển xã hội. Bà con DTTS cũng cần
phải được thụ hưởng những thành tựu văn minh, đáng tiếc là cùng với sự mất
dần đi của những yếu tố truyền thống, việc bảo tồn, lưu giữ lại được tiến hành
96

khá chậm và không thật sự tích cực. Giới trẻ các DTTS sinh ra và lớn lên
trong thời hiện đại ít được tiếp xúc trực tiếp với những giá trị VH cũ, do đó
vốn hiểu biết về VH truyền thống còn hạn hẹp, mơ hồ dẫn tới họ không quý
trọng các giá trị VH truyền thống của cha ông. Một bộ phận giới trẻ ít biết
ngôi nhà truyền thống, trang phục truyền thống hay món ăn truyền thống của
DT mình như thế nào, giá trị tiềm ẩn ra sao…. Đây chính là dấu hiệu mất dần
cội nguồn.
Về nhà ở truyền thống: Hiện nay, chỉ có 27,5% số hộ DT Tày có nhà ở
truyền thống của DT mình, kết quả đó của DT Nùng là 24,6%, DT Dao là
37,9%, chỉ có DT H’Mông thì tỷ lệ này còn khá cao chiếm 74%[166;160].
Như vậy, số lượng gia đình đồng bào các DTTS còn duy trì ngôi nhà truyền
thống của mình còn rất ít, chủ yếu ở những gia đình còn thế hệ người già
chung sống, những gia đình vợ chồng trẻ khi ra ở riêng là đã xây dựng nhà
theo kiến trúc mới, hoặc có những gia đình vẫn xây theo kiểu dáng kiến trúc
ngôi nhà truyền thống nhưng đã thay thế hoàn toàn bằng nguyên liệu mới như
sắt, xi măng, gạch, mái lợp prô xi măng hay mái lợp tôn… những nguyên liệu
bằng gỗ, tre, nứa, lá hiếm khi thấy xuất hiện. Chính điều này đang làm mất đi
vẻ đẹp tự nhiên, độc đáo mang tính bản sắc của đồng bào các DTTS vùng
Đông Bắc. Đồng thời không gian VH ở các bản làng vùng đồng bào các
DTTS đang dần mất đi cái riêng vốn có mà đang dần hòa lẫn vào cái chung
như những làng của người Kinh với những ngôi nhà mái bằng lợp gạch ngói
và Prô xi măng.
Về sử dụng trang phục truyền thống cũng có thực trạng tương tự. Hiện
nay đồng bào các DTTS ở thành thị và một số khu vực nông thôn giáp gianh
thành thị đã không còn mặc trang phục DT trong cuộc sống hàng ngày. Thế
hệ trẻ thì chỉ mặc trong những ngày quy định (đối với học sinh trường DT nội
trú và một vài trường khác quy định mặc trang phục DT vào ngày thứ hai
hàng tuần). Những người già và người trung niên thì mặc trang phục DT chủ
yếu vào ngày lễ, tết (lễ hội, đám cưới, đám tang). Qua khảo sát của tác giả
Hoàng Thị Hương ở đối tượng là học sinh phổ thông người DTTS cho thấy
trang phục DT được lựa chọn thấp nhất (0,5% với đối tượng thành thị, 30%
97

với đối tượng nông thôn); sử dụng trang phục DT trong những ngày đặc biệt
đối với đồng bào DT Tày, Nùng chiếm khoảng 70%. Mức độ sử dụng thường
xuyên trong mọi sinh hoạt (ở nhà, đi chợ, đi làm việc, những ngày đặc biệt)
với DT Dao, H’Mông chiếm khoảng 70%[73;122]. Kết quả này cho thấy, sự
mai một về trang phục DT đã diễn ra trong một thời gian khá dài và mức độ
khác nhau giữa các DT nhưng đều diễn ra mạnh nhất ở khu vực thành thị, sau
đó lan tỏa đến khu vực giáp ranh và vùng nông thôn.
Đồng thời với việc ít duy trì mặc trang phục truyền thống thì việc trồng
bông, trồng lanh, trồng cây chàm, nghề nhuộm chàm, dệt vải, may mặc, thêu
thùa của một số DT đã dần vắng bóng cả ở khu vực thành thị lẫn vùng nông
thôn. Thế hệ trẻ người DTTS ngày nay không biết may trang phục truyền thống
của DT mình do không thiết tha với nó, không thấy được hết ý nghĩa của bộ
trang phục truyền thống của DT mình nên thờ ơ, không quan tâm, còn thế hệ
cha mẹ do bận công việc đồng áng, nương rẫy hoặc một bộ phận đi làm công ty
nên cũng không có thời gian may, thêu trang phục truyền thống cũng như dạy
con cái cách may thêu trang phục truyền thống của DT mình, trong khi may
trang phục truyền thống mất nhiều thời gian, công sức. Vì thế, sự lựa chọn của
họ là trang phục công nghiệp may sẵn được bày bán với giá rẻ ngoài chợ. Điều
này đang báo hiệu về sự mai một giá trị VH mang tính bản sắc diễn ra ở đồng
bào các DTTS vùng Đông Bắc. Trong khi việc tự trồng bông, trồng lanh, tự dệt
vải, nhuộm vải và may khâu những bộ trang phục truyền thống đã rèn rũa khả
năng thẩm mỹ, đức tính cần cù, chịu thương, chịu khó, kiên nhẫn, đảm đang
của các chị em phụ nữ đồng bào DTTS. Tuy nhiên, những hoạt động này ngày
nay đã vắng bóng trong đời sống hiện đại. Do đó, nó cũng ảnh hưởng nhất định
đến việc giáo dục, thực hành cho thế hệ sau những đức tính tốt đẹp đó.
Về ẩm thực truyền thống: Ngoài sự mai một trong kiến trúc nhà ở, trang
phục truyền thống, đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc cũng đang đối diện
với sự mai một ẩm thực truyền thống. Các món ăn được chế biến theo phương
pháp cổ truyền đang dần bị thay thế bởi các phương pháp chế biến mới làm
mất đi hương vị truyền thống mang tính đặc trưng của từng DT. Ví dụ món
lạp xưởng của DT Tày, Nùng được chế biến từ thịt lợn rừng và các loại gia vị
98

như hồi, quế và gừng gió mọc tự nhiên trên núi đá, …, nhưng do sự khan
hiếm các loại gia vị trên, đồng bào đã dùng các loại gừng trồng ở miền xuôi
hay gừng trồng trên ruộng đất kết hợp với thịt lợn nuôi bằng cám công
nghiệp, làm mất đi hương vị thơm ngon vốn có của món ăn. Thậm chí để tiết
kiệm thời gian, công sức cũng như tiền bạc, có những gia đình còn sử dụng
những chất gia vị, chất bảo quản Trung Quốc trôi nổi kém chất lượng để ướp,
tẩm món ăn, gây tổn hại đến sức khỏe người sử dụng.
Dường như các món ăn truyền thống chỉ được các thế hệ người già và
người trung niên duy trì và còn nhớ cách chế biến của nó, còn thế hệ người trẻ,
nhất là thế hệ người trẻ đi công tác hay đi học, làm ăn xa nhà thì hầu như lãng
quên cách chế biến vì không thường xuyên duy trì và thực hành nó trong cuộc
sống hàng ngày, họ quen dần với thói quen trong cuộc sống công nghiệp nên đồ
ăn, thức uống chủ yếu mua sẵn ngoài chợ hoặc là chế biến món ăn đơn giản chứ
không chú ý đến những món ăn truyền thống của DT mình với cách chế biến cầu
kì. Theo kết quả phỏng vấn sâu và điều tra về việc có biết và thường xuyên chế
biến món ăn truyền thống của DT mình đối với các em học sinh trường trung
học phổ thông nội trú tỉnh Thái Nguyên và trường vùng cao Việt Bắc, kết quả
cho thấy chỉ có 30% học sinh trả lời biết chế biến món ăn truyền thống của DT
mình nhưng không chế biến thường xuyên do bận học hành và không đủ nguyên
liệu tự nhiên để thực hành, 70% học sinh trả lời không biết chế biến món ăn
truyền thống, thậm chí không biết cả món ăn truyền thống, đặc trưng của DT
mình là món nào. Như vậy, chúng ta thấy rõ ràng có sự khác nhau giữa các thế
hệ trong việc duy trì chế biến món ăn truyền thống. Đối với thế hệ người già thì
vẫn còn ý thức gìn giữ và thường xuyên thực hành các món ăn truyền thống
không chỉ trong các dịp lễ tết, mà còn trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, nhưng
đối với lớp trẻ thì hầu như họ lãng quên và thờ ơ. Nếu tình trạng này kéo dài
thường xuyên thì sớm muộn món ăn truyền thống cùng cách thức chế biến của
nó sẽ mất đi cùng với sự mất đi của thế hệ người già, thế hệ sau sẽ không ai biết
về món ăn truyền thống cũng như cách thức chế biến của nó nữa. Và như thế,
chính bản thân họ đã đánh mất đi BSVH của DT mình.
Như vậy, với nhịp sống thời hội nhập, phát triển kinh tế thị trường mà
99

nhiều yếu tố trong VH truyền thống của đồng bào các DTTS dần mai một, đi
vào lãng quên. Đối với người cao tuổi, đó là cảm giác nuối tiếc nhưng đối với
thế hệ trẻ thì họ xem đó là sự tất yếu trong quá trình phát triển nên không có ý
thức giữ gìn, bảo lưu hoặc nếu có cũng là sự cách tân theo trào lưu mới nên
không còn gìn giữ được nét đậm đà bản sắc trong kho tàng VH của đồng bào
các DTTS vùng Đông Bắc.
3.2.2. Hạn chế của việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa phi
vật thể
Bên cạnh sự nỗ lực của các cấp, ban ngành, phòng ban chuyên môn và chính
quyền địa phương là sự nhiệt tình tham gia của đồng bào các DTTS vùng Đông
Bắc trong việc giữ gìn, phát huy BSVH nói chung và các giá trị VH phi vật thể nói
riêng, do đó đã đạt được những thành tựu có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp
xây dựng nền VH Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc DT. Tuy nhiên, bên cạnh
những thành tựu đạt được, cùng với tốc độ phát triển nhanh chóng của nền kinh tế
thị trường, của hội nhập, của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhiều giá trị
VH phi vật thể bị mai một, mất mát, biểu hiện ở nhiều sắc thái như: ngôn ngữ,
phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội và nghệ thuật dân gian với những
mức độ khác nhau ở các sắc thái biểu hiện BSVHDT
Về ngôn ngữ: Thế hệ người cao tuổi các DTTS cư trú ở vùng sâu, vùng
xa vẫn biết và sử dụng ngôn ngữ DT để giao tiếp với nhau, tuy nhiên, đối với
thế hệ trẻ thì mức độ duy trì giao tiếp bằng ngôn ngữ DT mình đã giảm, thay
vào đó là việc sử dụng ngôn ngữ phổ thông. Ở các khu vực thành thị thì gần
như các thế hệ chủ yếu giao tiếp với nhau bằng tiếng phổ thông, không quen
và dần lãng quên đi ngôn ngữ của DT mình, chính điều đó đã làm mai một
dần đi tiếng DT, mất khả năng trao truyền qua các thế hệ. Xu hướng này tiếp
tục lan dần đến khu vực giáp ranh thành thị và vùng nông thôn, hiện tượng
giao tiếp bằng tiếng phổ thông và không còn khả năng giao tiếp bằng tiếng
DT đang là một hiện tượng phổ biến.
Kết quả khảo sát của tác giả Hoàng Thị Hương cho thấy, mức độ sử
dụng được ngôn ngữ DT ở đối tượng là học sinh trung học phổ thông người
DT Tày, Nùng, H’Mông, Dao…ở vùng II, vùng III của các tỉnh Đông Bắc là
100

70% sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ thành thạo, biết ở mức độ vừa phải là 25%, biết
một ít là 0,5%, không biết là 0%. Khảo sát mức độ sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ ở
đối tượng cũng là học sinh trung học phổ thông người Tày, Nùng, H’Mông,
Dao ở vùng I (thành thị) cho kết quả ngược lại, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ
thành thạo là 0,5%, biết ở mức độ vừa phải (nghe được ít nhưng không nói
được) là 25%, không biết là 70%.[73;121] Như vậy, biểu hiện sự mai một
ngôn ngữ DT đang diễn ra ở các vùng là khác nhau, mức độ trầm trọng đang
diễn ra ở khu vực thành thị đang có xu hướng lan dần đến các khu vực khác.
Chính việc ít duy trì giao tiếp ngôn ngữ DT trong gia đình (giữa ông bà - cha
mẹ - các con, cháu) và ngoài cộng đồng nên qua thời gian, ngôn ngữ DT sẽ bị
mai một dần qua các thế hệ. Đặc biệt, đối với thế hệ trẻ sau này hoàn toàn sẽ
không còn khả năng giao tiếp bằng ngôn ngữ DT, trong khi ngôn ngữ là công
cụ lưu giữ và thể hiện BSVHDT.
Về phong tục tập quán và lễ hội truyền thống:
Đồng bào các DTTS vùng Đông bắc, đặc biệt là đồng bào cư trú ở vùng
sâu, vùng xa, do điều kiện khó khăn về giao thông, về thông tin liên lạc, về sự
tiếp xúc, tiếp cận với những tiến bộ khoa học kỹ thuật nên chưa biết chắt lọc
những tinh hoa trong BSVHDT để gìn giữ, phát huy đồng thời loại bỏ những
hủ tục, tập quán lạc hậu ảnh hưởng đến đời sống tinh thần, vật chất của đồng
bào. Đó là những hủ tục liên quan đến chữa bệnh bằng cúng bái, khi gia đình
có người thân bị ốm đau, họ không được đưa đến cơ sở y tế để chữa trị mà
được giữ ở nhà để mời thầy cúng về cúng vì cho rằng người thân bị ma nhập.
Hay tập tục tảo hôn thường diễn ra ở DT H’Mông, thực hiện đám tang nhiều
ngày của các DT Tày, Nùng, H’Mông, những kiêng kị khắt khe trong đám
tang, trong sinh đẻ… làm ảnh hưởng đến mọi mặt cuộc sống của đồng bào…
Ngoài ra còn tồn tại niềm tin đến mê muội vào các lực lượng siêu nhiên
có quyền uy vạn năng nên đồng bào vẫn duy trì và thực hành những nghi lễ
với những thủ tục rườm rà, lễ vật nhiều gây lãng phí. Đối với những gia đình
khó khăn về kinh tế thì những hủ tục, tập quán lạc hậu này là một gánh nặng
kinh tế đè lên họ….
Như vậy, mặc dù xã hội đã phát triển nhưng đồng bào ở vùng sâu, vùng
101

xa vẫn chưa thoát khỏi được những lạc hậu, những hủ tục. Tác giả luận án đã
có dịp chứng kiến đám tang của người Nùng ở Thái Nguyên, một gia đình có
6 người con (3 trai, 3 gái), khi người cha mất đi, mỗi người con phải dâng
cúng cha một con lợn thịt và mấy con gà, dải bên cạnh thi thể người cha để
thầy cúng làm lễ mấy tiếng, thậm chí mất cả ngày làm lễ. Cúng xong, lợn gà
được mang ra nấu nướng để bầy cỗ. Với số lượng lợn, gà nhiều như vậy, để
sống trong nhiều giờ (kể cả khi thời tiết nóng) đã bốc mùi được mang ra chế
biến ăn trong những ngày tang ma, vừa lãng phí vừa mất vệ sinh… Do đó, rất
cần có sự giản lược về thủ tục và lễ vật để đồng bào các DTTS thoát khỏi tư
tưởng nặng nề, tập trung làm ăn, phát triển kinh tế gia đình để cải thiện cuộc sống.
Bà con DTTS thường ngại giao lưu, tiếp xúc với người ngoài làng,
ngoài bản, người DT khác, họ khép mình trong cộng đồng của mình, với họ,
tất cả truyền thống tổ tiên để lại là tốt đẹp, thế hệ sau cần phải tiếp nối, giữ
gìn nguyên vẹn những truyền thống, tập quán đó. Do đó, họ lưu giữ, gìn giữ
những truyền thống tốt đẹp, lưu giữ ngay cả những hủ tục, tập quán lạc hậu và
giáo dục cho thế hệ sau ý thức gìn giữ đó. Nó đã hằn sâu vào nếp ăn, nếp nghĩ
của đồng bào các DTTS vùng sâu, vùng xa, làm cho đời sống tinh thần và đời
sống vật chất của họ thiếu thốn và luôn tồn tại trong sự lạc hậu, khó có thể
thoát ra khi chưa thay đổi được nhận thức trong đồng bào.
Đối với đồng bào các DTTS cư trú ở vùng thành thị và vùng giáp ranh
thành thị, do sự tác động của nền kinh tế thị trường nên ngoài những tác động
tích cực, nó cũng gây ra những ảnh hưởng tiêu cực, trong đó có làm mai một,
mất mát, biến tướng một số phong tục tập quán tốt đẹp và một số lễ hội truyền
thống của đồng bào DTTS vùng Đông Bắc. Chẳng hạn, nhiều người lợi dụng
phong tục, tập quán tốt đẹp của DT để đạt được những mục đích riêng của
mình, như tục “cướp vợ” của người H’Mông. Bản chất tốt đẹp của phong tục
này là khi đôi trai gái đã thuận tình, để tiết kiệm thời gian và tiền bạc thì nhà
trai tiến hành tục “cướp vợ”. Lợi dụng phong tục này mà hiện nay, một số trai
bản người H’Mông đã cố tình cướp vợ trong khi người con gái không đồng ý,
dẫn đến cảnh giằng co, la hét và cảm giác không an toàn khi người con gái ra
đường, điều này làm cho phong tục tốt đẹp của người H’Mông bị biến dạng,
102

biến tướng theo hướng phản tiến bộ.


Thực tế còn có tình trạng những sinh hoạt VH không còn chú ý, quan
tâm đầy đủ đến yếu tố VH nữa mà chú tâm đến yếu tố kinh tế, lợi nhuận.
Chẳng hạn, các lễ hội diễn ra trong năm của đồng bào các DTTS không còn
quan tâm chăm lo đến các nghi lễ mang tính cộng đồng có tác dụng gắn kết
các thành viên với nhau để cùng thực hiện các nhiệm vụ chung mà chủ yếu
quan tâm đến các hoạt động kinh tế trong đó như quảng cáo các mặt hàng.
Những nét đẹp trong phong tục cúng Thần rừng, cúng thần Thổ công, tục đi
tết bố mẹ vợ, những bài văn dạy con cháu cách ứng xử với tự nhiên và con
người… đều bị mất đi trước lối sống gấp gáp, chóng vánh của con người
trong một nền kinh tế thị trường đặt lợi nhuận tối đa lên hàng đầu. Đặc biệt,
đối với những gia đình sống ở thành thị mải làm ăn, kinh doanh, buôn bán nên
cũng thờ ơ với những phong tục truyền thống của DT mình, mặc dù những
phong tục tập quán đó có ý nghĩa tốt đẹp trong việc cố kết cộng đồng (thành
viên trong gia đình, dòng họ, bản làng); giáo dục những điều hay, lẽ phải
(uống nước nhớ nguồn, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau)… như tục thờ cúng tổ
tiên, thờ các vị thần, phong tục trong đám cưới, đám tang…
Trong những ngày giỗ, ngày tết trong năm của DT mình, đồng bào các
DTTS thường phải tụ họp để cùng nấu nướng những món ăn truyền thống của
DT để dâng cúng tổ tiên, qua đó cũng ôn lại gốc gác lịch sử của cha ông để
nhắc nhở, giáo dục con cháu đời sau biết về cội nguồn, về ý nghĩa của những
ngày giỗ, ngày tết. Nhưng với cuộc sống hối hả của nền kinh tế thị trường,
nhiều gia đình đã bỏ qua các phong tục tập quán này, hoặc có chú ý đến cũng
chỉ qua loa, chẳng hạn mua gói bánh, gói kẹo bán ở chợ về đặt lên bàn thờ,
thắp hương là xong.
Nếu như trước đây, các phong tục trong đám cưới, đám tang được thực
hiện nghiêm ngặt theo quy trình nhất định của từng DT, thì ngày nay, đồng
bào các DTTS ở các vùng thành thị, giáp ranh thành thị và các gia đình trẻ
hầu như không thực hiện, thậm chí không còn biết đến phong tục truyền
thống của DT mình, thay vào đó là sự “Kinh hóa”, tiến hành theo phong tục
của người Kinh. Chiều hướng này đang tiếp tục diễn ra và lan tỏa đến vùng
103

nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Nếu tình trạng này diễn ra lâu dài thì một thời
gian không xa, BSVH của đồng bào các DTTS sẽ bị lu mờ, các thế hệ trẻ về
sau sẽ không còn biết đến các giá trị VH cổ truyền của DT. Qua tìm hiểu học
sinh, sinh viên là người DTTS đang theo học tại các trường DT nội trú cũng
như một số trường đại học thuộc Đại học Thái Nguyên thì được biết các em
cũng không biết đến hoặc lơ mơ về các phong tục tập quán của DT mình. Lý
do các em đưa ra là do từ bé chỉ chú tâm học hành những kiến thức ở trường
lớp và cũng do cảnh sống xa nhà từ nhỏ nên cũng không được tham gia vào
các hoạt động VH truyền thống của DT nên đã bỏ hổng một kiến thức quan
trọng về những giá trị trong kho tàng VH truyền thống của DT.
Những lễ hội truyền thống như: lễ hội Gầu Tào của DT H’Mông, lễ hội
chợ tình Khâu Vai (Hà Giang), lễ hội Lồng Tồng của DT Tày, Nùng, lễ hội
Tết Nhảy của DT Dao đã bị thay đổi cả về phần lễ lẫn phần hội cũng như sự
giảm thiểu về đối tượng tham gia. Tất cả đều có sự giản lược đến mức sơ sài
không còn nguyên giá trị mang dấu ấn đậm đà bản sắc của từng DT. Điều đó
xuất phát từ khâu tổ chức cũng như từ tâm lý của đồng bào các DTTS khi
tham gia lễ hội, họ không còn tâm trạng háo hức, phẩn khởi, nhiệt tình như
trước. Thế hệ trẻ thì dường như thờ ơ bởi họ có thú vui mới bên những chiếc
điện thoại hay máy tính với những trò chơi game, chát zalo, facebook,
messeger…Đó cùng là lý do vì sao các lễ hội của đồng bào các DTTS dần bị
phai nhạt trong đời sống cộng đồng, mất dần ý nghĩa giáo dục, cố kết cộng
đồng, cân bằng tâm lý cho đồng bào sau những ngày lao động vất vả.
Về nghệ thuật dân gian:
Nghệ thuật dân gian thể hiện trong điệu múa, bài hát, nhạc cụ của đồng
bào các DTTS vùng Đông Bắc cũng đang bị mai một nghiêm trọng. Tỷ lệ duy
trì VH truyền thống này ở người Tày là 29,4%, người Nùng là 27,63%, người
Dao là 35,41% và người H’Mông là 56,87%. Trong đó, chỉ có 3,4% hộ người
Tày là biết điệu múa truyền thống của DT mình, người Nùng là 0,9%, người
H’Mông là 15,7%, người Dao là 5,7%. 8,2% hộ người Tày có các thành viên
của hộ biết hát bài hát truyền thống, tỷ lệ này ở người Nùng là 7,1%, người
H’Mông là 28,7%, người Dao là 10,8%. Về sử dụng nhạc cụ truyền thống, chỉ
có 2,2% hộ người Tày biết sử dụng nhạc cụ truyền thống của DT mình, tỷ lệ
104

này ở người Nùng là 0,9%, người H’Mông là 15,1%, người Dao là


3,4%[166;171-174].
Như vậy, việc duy trì VH truyền thống của DT ít được thực hiện, đặc biệt
thế hệ trẻ, sinh viên không biết những điệu múa, bài hát, nhạc cụ truyền thống
của DT mình. Số ít biết đến thì cũng chỉ tồn tại ở người già (lưu lại trong trí nhớ
và cũng không còn khả năng biểu diễn) và những người tham gia vào đội văn
nghệ ở địa phương. Trong các đám cưới, không còn tồn tại những làn điệu dân
ca truyền thống mà thay vào đó là nhạc trẻ, nhạc rốc… trong các phiên chợ tình,
chợ phiên, hội xuân, trai gái không còn giao lưu với nhau qua các làn điệu Sli,
lượn… mà thay vào đó là mỗi người trên tay chiếc điện thoại để chụp hình, tạo
dáng, lướt web, chơi game. Không gian đậm BSDT giờ đã lùi vào quá khứ để
mở ra không gian với những yếu tố cũ, mới đan xen tạo nên sự hỗn tạp.
Nhìn chung, xung quanh việc giữ gìn và phát BSVH các DTTS vùng
Đông Bắc đang đặt ra nhiều vấn đề khá phức tạp. Đó là sự mai một dần
những giá trị VH truyền thống do sự tiếp nhận cái mới một cách ồ ạt - hệ quả
của quá trình giao lưu, tiếp xúc và hội nhập. Cũng chính do quá trình này mà
hiện tượng Kinh hóa đang diễn ra mạnh mẽ ở vùng Đông Bắc, mạnh nhất là ở
khu vực thành phố, thị trấn và những vùng giáp ranh. Giao lưu, tiếp xúc là tốt
khi biết học hỏi những giá trị tốt đẹp của DT khác để bổ sung và làm mới nền
VH của DT mình, để cải biến những hủ tục, lạc hậu đưa DT mình phát triển
đi lên nhưng trên thực tế sự giao lưu, tiếp xúc đã làm cho một bộ phận đồng
bào các DTTS tự ti, mặc cảm từ đó chối bỏ những giá trị truyền thống tốt đẹp
của DT mình để chạy theo cái mới, thậm chí tiếp nhận cả những cái phản
động, tiêu cực, phản tiến bộ… Biểu hiện này đang hủy hoại, làm nghèo đi
nền VH, đời sống tinh thần của các DTTS, làm mai một đi nhiều giá trị VH
truyền thống của DTTS nói riêng và nền VH Việt Nam nói chung.
Như vậy, nền kinh tế thị trường với sự mở cửa hội nhập đã tác động
mạnh mẽ đến đời sống tinh thần của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc.
Nhiều giá trị truyền thống bị biến dạng, lai tạp, giới trẻ quay lưng lại với giá
trị truyền thống để chạy theo cái mới, làm mai một, mất dần BSVDHT.
3.3. Nguyên nhân và một số vấn đề đặt ra đối với việc giữ gìn và
105

phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc
3.3.1. Nguyên nhân của thực trạng giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa
các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc.
3.3.1.1. Nguyên nhân của thành tựu
*Nguyên nhân khách quan
Giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc trong thời gian qua
đã đạt được những thành tựu quan trọng, điều đó bắt nguồn từ nguyên nhân
khách quan đó là sự phát triển của kinh tế - xã hội.
Trong những năm qua, sự thay đổi mạnh mẽ bộ mặt kinh tế đất nước đã
và đang tác động tích cực đến việc giữ gìn và phát huy BSVH nói chung và
BSVH các DTTS vùng Đông Bắc nói riêng. Những thành tựu của kinh tế
đang là yếu tố đắc lực cho Đảng, Nhà nước, các cơ quan chuyên môn sử dụng
để nâng cao hiệu quả của việc giữ gìn, phát huy BSVHDT và đó cũng là cơ sở
để Đảng, Nhà nước đưa ra chủ trương, đường lối, chương trình, kế hoạch cụ
thể giao cho các phòng ban chuyên môn thực hiện thông qua cấp phát về
nguồn kinh phí. Cùng với đó là sự tiến bộ của khoa học - kỹ thuật cho phép sử
dụng những công cụ lưu giữ hiện đại thông qua băng đĩa, đầu thu, đầu ghi âm,
máy quay… , các trang thiết bị hiện đại để trưng bày, bảo quản trong các bảo
tàng, thư viện. Qua đó, các giá trị VH vật thể và phi vật thể có điều kiện được
giữ gìn tốt hơn.
Ngoài ra, sự phát triển kinh tế đã tạo điều kiện để nâng cao đời sống vật
chất và đời sống tinh thần của đồng bào các DTTS. Đời sống vật chất được
cải thiện, nâng cao thông qua việc sử dụng các phương tiện, tiện nghi sinh
hoạt hiện đại (ti vi, xe máy, tủ lạnh, máy giặt, điều hòa…) trong chính ngôi
nhà truyền thống của đồng bào; sử dụng các loại trang phục truyền thống trên
nền chất liệu mới; những món ăn truyền thống kết hợp với những món ăn mới
làm tăng chất lượng bữa ăn. Đời sống vật chất thay đổi làm cho đời sống tinh
thần cũng từng bước được nâng lên. Để thuận lợi trong giao tiếp, trong làm
ăn, buôn bán, trong học hành, trong việc tiếp cận những thông tin mới…,
đồng bào đã thành thạo hơn với việc sử dụng ngôn ngữ phổ thông, ngoại ngữ
bên cạnh tiếng mẹ đẻ. Nhiều gia đình vùng đồng bào DTTS có điều kiện kinh
106

tế khấm khá đã sẵn sàng chi ra một khoản tiền để đầu tư cho con cái học thêm
ngoại ngữ, đầu tư cho con du học nước ngoài. Khoa học kỹ thuật phát triển và
việc vận dụng nó vào sản xuất làm cho đồng bào các DTTS giảm cho phí sản
xuất, thời gian, lao động mà vẫn đem lại hiệu quả kinh tế cao, giúp cho đồng
bào có thêm thời gian nông nhàn để chăm lo đến đời sống tinh thần, tham gia
tích cực vào những phong trào, hoạt động VH của địa phương như: phong
trào xây dựng nông thôn mới, tham gia vào nhiều hoạt động văn nghệ quần
chúng, các câu lạc bộ văn nghệ để tiếp tục gìn giữ, bảo lưu nhiều nhiều lễ hội
đặc sắc, nhiều phong tục tập quán tốt đẹp, nhiều làn điệu dân ca, bài múa
truyền thống. Với sự phát triển kinh tế trong thời kỳ mở cửa, hội nhập, đồng
bào các DTTS có điều kiện giao lưu, tiếp xúc để tự tin hơn, lạc quan hơn và
tự hào hơn về giá trị VH truyền thống của DT mình đồng thời học hỏi, tiếp
thu được nhiều giá trị VH mới của DT khác, nền VH khác để làm mới nền
VH của DT mình, đẩy lùi được những lạc hậu, mê tín dị đoan.
* Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, sự quan tâm của Đảng và Nhà nước trong việc giữ gìn, phát
huy BSVH các DTTS.
Vùng Đông Bắc nước ta là nơi tập trung nhiều thành phần DT với
BSVH đặc trưng, phong phú, đa dạng, là nền tảng tinh thần cho đồng bào các
DTTS nơi đây tồn tại và phát triển. Nhận thức được điều đó, Đảng và Nhà
nước ta trước sau như một luôn chủ trương giữ gìn, phát huy BSVH các
DTTS một cách có chọn lọc được thể hiện trong các Chỉ thị, Nghị quyết của
Đảng, trong Hiến pháp và Pháp luật của Nhà nước.
Trong Nghị quyết trung ương 5 khóa VIII, Đảng ta đã nhấn mạnh: “Coi
trọng và bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống và xây dựng, phát triển
những giá trị mới về VH, văn học, nghệ thuật của các DTTS. Bảo tồn và phát triển
ngôn ngữ, chữ viết của các DT. Đi đôi với việc sử dụng ngôn ngữ, chữ viết phổ
thông, khuyến khích thế hệ trẻ thuộc đồng bào các DTTS học tập, hiểu biết và sử
dụng thành thạo tiếng nói, chữ viết của các DT mình. Phát hiện, bồi dưỡng, tổ chức
lực lượng sáng tác, sưu tầm, nghiên cứu, phổ biến các giá trị VH, văn học, nghệ
thuật của các DTTS”[29;69].
Có thể nói, đây chính là một quan điểm có ý nghĩa triết lý chỉ đạo rất quan
107

trọng và sâu sắc đối với việc giữ gìn và phát huy BSVHDT nói chung, BSVH của
các DTTS nói riêng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nó
định hướng cho việc khơi dậy và nhân lên những giá trị ưu tú của VHDT, VH tộc
người từ lâu đời để thúc đẩy công cuộc phát triển đất nước hiện nay.
Trong các chỉ thị về sau, Đảng ta vẫn tiếp tục chủ trương giữ gìn, phát
huy tinh hoa VH truyền thống của các DTTS.
Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII) tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cũng nêu rõ: “Bảo tồn và phát huy
các di sản VHDT, các giá trị VH, nghệ thuật, ngôn ngữ, chữ viết và thuần
phong mỹ tục của các DT”[30;90].
Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về các văn kiện trình
Đại hội XI ngày 12/01/2011 nêu rõ: “Xây dựng nền VH Việt Nam tiên tiến, đậm đà
BSDT, vừa kế thừa, phát huy những truyền thống VH tốt đẹp của cộng đồng các
DT Việt Nam, vừa tiếp thu tinh hoa VH nhân loại… ”[32;40].
Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương
khóa XI về xây dựng và phát triển VH, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững đất nước đã đưa ra nhiệm vụ cụ thể là “Giữ gìn và phát
huy di sản VH các DTTS, nhất là tiếng nói, chữ viết, trang phục, lễ hội truyền
thống, các giá trị VH tích cực trong tôn giáo, tín ngưỡng”[33].
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng cũng đề ra nhiệm
vụ “Huy động sức mạnh của toàn xã hội nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị
VH truyền thống DT; khích lệ sáng tạo các giá trị VH mới, tiếp thu tinh hoa
VH nhân loại, làm giàu VHDT”[34;129].
Như vậy, thông qua các văn kiện, nghị quyết, cho thấy rõ sự nâng cao
không ngừng nhận thức của Đảng về vấn đề giữ gìn và phát huy BSVHDT
nói chung và BSVH các DTTS nói riêng và nhận thức đó luôn bám sát với
tình hình, điều kiện mới.
Trong điều kiện kinh tế thị trường và giao lưu quốc tế, Đảng ta nhấn
mạnh việc quan tâm giữ gìn và nâng cao BSVH đồng thời phải đấu tranh chống sự
xâm nhập của các yếu tố phản VH, những khuynh hướng lai căng, mất gốc, khuynh
hướng sùng bái đồng tiền mà bất chấp đạo lý, coi thường các giá trị nhân văn.
108

Những yếu tố này xuất hiện là do mặt trái của nền kinh tế thị trường tác động và là
một trong những hệ quả của quá trình giao lưu quốc tế. Do đó, dựa vào màng lọc là
BSVH, một mặt chúng ta tiếp nhận các giá trị mà nền kinh tế thị trường và quá trình
giao lưu quốc tế mang lại, một mặt chúng ta phải chủ động đào thải, loại bỏ
những cái đi ngược với thuần phong mỹ tục của DT.
Đảng đã nhận thấy được rằng, bên cạnh tính tất yếu của những giá trị
VH mới được tạo ra, được tiếp thu từ nhân loại thì có nguy cơ mai một, mất
dần BSVH của DT cũng như BSVH của các DTTS. Do đó, Đảng ta chủ
trương tích cực giữ gìn và phát huy các thành tố của VH như tiếng nói, chữ
viết, trang phục, lễ hội truyền thống, những giá trị VH trong phong tục, tập
quán, tín ngưỡng, tôn giáo….
Cùng với đường lối, chính sách của Đảng, nhà nước Việt Nam đã ban hành
nhiều luật và nghị định nhằm giữ gìn, phát huy các giá trị VH, đỉnh cao là Luật di
sản văn hóa năm 2001 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Trong Luật di sản văn hóa,
ngoài tính hệ thống và bao quát của nó, lần đầu tiên các di sản VH phi vật thể được
đưa vào nội dung quản lí và điều chỉnh của bộ luật này. Đây là bước phát triển trong
việc hoàn chỉnh bộ Luật di sản văn hóa mà không phải quốc gia hiện đại nào cũng
đạt được. Đây cũng là giai đoạn đầu tiên chúng ta có được sự hội nhập quốc tế khá
toàn diện về phương diện VH, tạo nên sự gắn kết trên phương diện luật pháp và
hoạt động bảo tồn VH giữa Việt Nam và quốc tế. Trên cơ sở bộ luật, từ đó đến nay,
nhà nước Việt Nam đã ban hành rất nhiều chính sách VH cụ thể nhằm bảo tồn, phát
triển các giá trị VH truyền thống, trong đó có giá trị VH của DTTS vùng Đông Bắc.
Với điều kiện còn khó khăn của một nước đang phát triển, nhà nước Việt Nam đã
tích cực, chủ động giữ gìn những giá trị VHDT, được tổ chức VH quốc tế
UNESCO đánh giá cao.
Những văn kiện, nghị quyết của Đảng đã được chính phủ, chính quyền
các cấp, các ngành, các vùng, miền, các tầng lớp nhân dân hưởng ứng tham
gia và đạt được những thành tựu quan trọng, có ý nghĩa góp phần vào mục
tiêu xây dựng nền VH Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc DT có tính DT, nhân
văn, dân chủ và khoa học.
Thứ hai, hệ thống chính trị cơ sở đã có nhiều nỗ lực trong việc cụ thể hóa
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về việc giữ gìn, phát huy BSVH các
109

DTTS vùng Đông Bắc thông qua nhiều hình thức phong phú, đa dạng.
Hầu hết các địa phương vùng Đông Bắc, đã xác định được công tác giữ
gìn và phát huy BSVHDT là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong thời
kỳ hội nhập và thực hiện có hiệu quả Nghị quyết TW 5 (khóa VIII), về xây
dựng và phát triển nền VH Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc DT, Nghị
quyết TW 9 (khóa XI) về xây dựng và phát triển VH, con người Việt Nam đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân các tỉnh
vùng Đông Bắc đã nỗ lực chỉ đạo, ban hành các chương trình, nghị quyết, kế
hoạch chuyên đề về giữ gìn BSVH các DTTS trên địa bàn. Tỉnh ủy các tỉnh
đã đưa mục tiêu, nhiệm vụ giữ gìn, phát triển VH các DTTS vào nghị quyết
của từng nhiệm kỳ, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Để đạt được mục tiêu, nhiệm vụ đó, ủy ban nhân dân các tỉnh đã chỉ
đạo các sở VH thể thao và du lịch xây dựng kế hoạch cụ thể và triển khai thực
hiện. Kế hoạch cụ thể được thể hiện chi tiết qua các đề án trình ủy ban nhân
dân tỉnh phê duyệt và đang được thực hiện. Chẳng hạn tỉnh Tuyên Quang
thực hiện đề án “Bảo tồn và phát triển VH các DTTS trên địa bàn tỉnh giai
đoạn 2016 - 2020”[161] với nội dung nghiên cứu, sưu tầm các giá trị VH
truyền thống các DTTS, xây dựng, bảo tồn làng VH du lịch, hỗ trợ phát triển
một số làng nghề truyền thống, phục dựng bảo tồn một số lễ hội truyền thống
của các DTTS; tổ chức ngày hội VH các DT cấp tỉnh, cấp huyện; tổ chức thi,
tìm hiểu và hát dân ca; dàn dựng, biểu diễn các điệu hát - múa đặc sắc, tiêu
biểu của các DT. “Đề án giáo dục kỹ năng sống và VH truyền thống các
DTTS cho học sinh phổ thông trên địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn 2016 -
2020”[159] với nội dung quan trọng là giáo dục cho học sinh những giá trị
VH truyền thống của các DT trên địa bàn, giúp học sinh hình hành, phát triển,
rèn luyện, biểu diễn một số nhạc cụ DT như: Khèn, sáo, các làn điệu dân ca
bằng ngôn ngữ dân DT; biết thêu, dệt và làm các sản phẩm truyền thống của
địa phương như khèn Mông, thêu đan váy, áo, túi, sách, khăn, mũ… để phục
vụ khách du lịch và giữ gìn BSDT; Sở VH thể thao và du lịch tỉnh Lạng Sơn
thực hiện đề án “Bảo tồn và phát huy tiếng nói, chữ viết và kiến trúc nhà ở
người DTTS trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2015 - 2020”[157], đề án triển khai
110

việc đưa tiếng nói, chữ viết các DTTS vào giảng dạy trong các nhà trường,
khuyến khích, hướng dẫn quần chúng nhân dân tham gia sáng tạo, bảo tồn,
truyền dạy và phát huy các giá trị VH truyền thống của đồng bào các DT như
hát then, sli, lượn… tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành và phát triển
các câu lạc bộ VH, nghệ thuật đáp ứng nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ VH; Sở
VH, thể thao và du lịch tỉnh Thái Nguyên thực hiện đề án “Bảo tồn, phát triển
VH các DTTS tỉnh Thái Nguyên đến năm 2020”[165]. Trong đề án này có các
dự án thành phần là: Dự án “Khôi phục, bảo tồn tinh hoa VH truyền thống các
DTTS của các huyện Định Hóa, Đại Từ, Phú Lương, Đồng Hỷ, Võ Nhai”; dự
án “Đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực, phát huy hiệu quả các thiết chế VH
cơ sở vùng đồng bào các DTTS”; dự án “Gắn kết phát triển kinh tế và bảo
tồn, phát triển VH các DTTS của các huyện Định Hóa, Đại Từ, Phú Lương,
Đồng Hỷ, Võ Nhai”; dự án “Giới thiệu, quảng bá các sản phẩm VH nghệ
thuật và các di sản VH tiêu biểu của các DTTS và đưa giáo dục VH truyền
thống các DT vào trường học thuộc địa bàn các huyện Định Hóa, Đại Từ, Phú
Lương, Đồng Hỷ, Võ Nhai”; dự án “Chương trình hoạt động, lễ hội và biểu
diễn VH, nghệ thuật các DT cấp huyện, cấp tỉnh, tham gia cấp vùng, quốc gia
giai đoạn 2014 - 2020”.
Với tư duy linh hoạt, nhạy bén, các cấp ủy, chính quyền ở các tỉnh
vùng Đông Bắc ngoài những chương trình, chuyên đề phát triển VH riêng còn
ban hành các chương trình, nghị quyết, kế hoạch chuyên đề về phát triển du
lịch gắn với giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS. Chủ trương “lấy VH để
phát triển du lịch, lấy du lịch để bảo tồn, phát triển VH” xem VH là tài
nguyên du lịch có giá trị… đã thể hiện rõ sự gắn kết giữa kinh tế và VH trong
quá trình phát triển vùng đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc. Do đó, vấn đề
giữ gìn và phát huy BSVHDT được chú trọng, quan tâm và khai thác nhằm
hướng tới sự phát triển hài hòa, kinh tế tăng trưởng mà vẫn giữ gìn, bảo lưu
được các giá trị VH truyền thống. Sự gắn kết này được thể hiển hiện rõ trong
việc xây dựng các mô hình làng VH. Từ khi mô hình này đi vào hoạt động đã
thu hút được một lượng lớn khách du lịch đến thăm quan và trải nghiệm, góp
phần tăng thu nhập và cải thiện cuộc sống cho đồng bào các DTTS đồng thời
111

vẫn giữ gìn, bảo lưu, khơi dậy, phát huy các giá trị VH vật thể và phi vật thể.
Các cấp địa phương cũng đã kết hợp với đồng bào các DTTS xây dựng
các mô hình làng VH như làng VH du lịch Bản Quyên xã Điềm Mặc, huyện
Định Hóa, Thái Nguyên; làng VH truyền thống DT Tày bản Pác Ngòi, xã
Nam Mẫu, huyện Ba Bể, Bắc Kạn; bản VH Khuổi Ky của DT Tày (Cao
Bằng); Hà Giang xây dựng được 29 làng VH của các DT Tày ở thành phố Hà
Giang, DT Dao ở Hoàng Su Phì, Xín Mần, DT Mông ở Quản Bạ, Đồng Văn, Mèo
Vạc; làng VH du lịch cộng đồng Quỳnh Sơn, Bắc Sơn, Lạng Sơn. Mô hình làng
VH đã nhận được sự đồng tình hưởng ứng từ phía đồng bào các DTTS, trong đó
phục dựng lại ngôi nhà truyền thống, duy trì mặc trang phục truyền thống trong sinh
hoạt hàng ngày, chế biến món ăn truyền thống để phục vụ bản thân, gia đình và du
khách….Sự tham gia tích cực của các cấp chính quyền và người dân đã đáp ứng
được hai mục tiêu lớn đó là vừa phát triển kinh tế du lịch vừa giữ gìn và phát huy
được BSVH tộc người. Có thể nói đây là hướng bảo tồn đúng đắn và phù hợp với
thực tiễn. Sự xuất hiện các làng bản VH đã tạo động lực dấy lên phong trào khôi
phục, bảo tồn các giá trị VH vật thể của đồng bào các DTTS ở các địa phương.
Những hoạt động đa dạng trên cho thấy công tác giữ gìn, phát huy
BSVH các DTTS từ phía cấp ủy, chính quyền, các tổ chức trong hệ thống
chính trị, các cơ quan quản lý VH vùng Đông Bắc đã được triển khai tích cực,
góp phần quan trọng vào nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các
DTTS vùng Đông Bắc.
Thứ ba, sự phát huy vai trò chủ động, tích cực, tự giác của đồng bào
các DTTS với tư cách là chủ thể của nền VH.
Bản thân đồng bào các DTTS chính là chủ thể của nền VH của họ, do
đó, nền VH đó có được giữ gìn, phát huy hay không ngoài sự tác động bởi các
yếu tố bên ngoài như sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các bộ ban ngành và
chính quyền địa phương thì vai trò quyết định vẫn chính là bản thân đồng bào
các DTTS. Nếu như Đảng, Nhà nước, cơ quan chuyên môn và chính quyền
địa phương có quan tâm, tạo mọi điều kiện đến đâu đi chăng nữa mà đồng bào
các DTTS không tiếp nhận, không chủ động, tự giác phối kết hợp thì công tác
giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS cũng chỉ là sự cưỡng ép từ bên trên mà
112

không đạt được hiệu quả. Do đó, có lúc, có nơi, Nhà nước làm thay cho đồng
bào như tự phục dựng lại các ngôi nhà truyền thống, phục dựng lại các giá trị
VH phi vật thể… không đúng bản chất của nó, làm mất đi vẻ đẹp đậm đà bản
sắc trong VH của đồng bào các DTTS và các giá trị VH đó cũng chỉ được lưu
giữ, trưng bày trong các bảo tàng, trong băng đĩa, sách vở mà không thực sự
được sống trong chính đời sống của đồng bào. Vì thế, ý thức tự giác và tích
cực tham gia vào duy trì, thực hiện các các giá trị VH giàu BSDT của đồng
bào các DTTS sẽ không chỉ giúp cho các giá trị đó tồn tại bền vững trong đời
sống đồng bào mà nó mới thực sự đóng vai trò là nền tảng tinh thần để đồng
bào các DTTS vươn lên hòa nhập theo xu thế phát triển.
Thực tế hiện nay, các thế hệ người già của đồng bào các DTTS vẫn luôn
thường trực ý thức gìn giữ vốn liếng của cha ông, họ vẫn đang thường xuyên
duy trì, thực hành, trao truyền cho thế hệ sau những vốn liếng tốt đẹp đó. Họ
luôn nuối tiếc những giá trị VH đã mất mát, mai một và cũng đang mong muốn
được tham gia vào khôi phục để gìn giữ BSVH cho thế hệ mai sau. Các nghệ
nhân cũng đang miệt mài lan tỏa những giá trị tinh hoa đến cộng đồng, đến thế
hệ trẻ thông qua việc mở lớp truyền dạy các giá trị VH phi vật thể như mở lớp
dạy ngôn ngữ DT, dân ca, dân vũ, sử dụng nhạc cụ truyền thống, các bài hát,
điệu múa truyền thống. Tuyên truyền, giáo dục mọi người cùng tham gia vào
việc duy trì, giữ gìn, phát huy các giá trị đó. Họ luôn có ý thức tự hào về kho
tàng VH của DT đồng thời luôn biết tự làm mới nền VH của DT mình bằng cách
loại bỏ những yếu tố đã trở nên lỗi thời, lạc hậu, cản trở sự phát triển, tiếp thu cái
hay, tiến bộ, tích cực trong VH các DT khác kể cả trong nước và quốc tế, góp
phần tạo nên một nền VH tiên tiến, đậm đà BSDT, trở thành nền tảng tinh thần,
sức mạnh nội sinh cho đồng bào các DTTS vươn lên, phát triển.
3.3.1.1. Nguyên nhân của hạn chế
* Nguyên nhân khách quan
Những hạn chế của việc giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS vùng Đông
Bắc trong những năm qua bắt nguồn từ những nguyên nhân khách quan đó là
sự tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường, của quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Sự tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường như bàn tay vô hình làm
113

đảo lộn nhiều giá trị, chuẩn mực truyền thống, làm lu mờ BSVHDT, nhiều giá
trị VH truyền thống mang tính bản sắc của đồng bào các DTTS vùng Đông
Bắc bị biến dạng, mai một. Khát vọng lợi nhuận trong kinh tế đã dẫn đến sự
bất chấp mà hủy hoại môi trường tự nhiên và phá hoại môi trường VH. Không
gian VH rừng, bản làng vốn là cơ sở để nảy sinh, tồn tại nhiều giá trị VH có
nguy cơ bị phá mất để xây dựng các thủy điện, các khu công nghiệp, các dự
án quốc gia. Quá trình di dân đã làm ảnh hưởng lớn đến việc duy trì và thực
hành các hoạt động VH mang tính bản sắc của đồng bào các DTTS. Các nguồn
tài nguyên để tạo dựng nên các giá trị VH vật thể ngày càng khan hiếm. Sự mải mê
tập trung phát triển kinh tế, sự cạnh tranh trong làm ăn làm cho đồng bào các DTTS
ít chú ý thậm chí lãng quên các giá trị VH truyền thống cũng như việc thực hành nó
trong đời sống hàng ngày. Những giá trị VH nghệ thuật như ca dao, tục ngữ, làn
điệu dân ca, điệu múa truyền thống, nhạc cụ truyền thống không được trao truyền,
truyền dạy cho thế hệ sau trong nội bộ gia đình, dòng họ; các lễ hội truyền thống
của DT thưa thớt người tham gia. Bản chất của đồng bào các DTTS luôn thật
thà, chất phác, giản dị, cần cù, chịu thương, chịu khó, thích nghi với mọi hoàn
cảnh khắc nghiệt nhưng khi bước vào nền kinh tế thị trường, một bộ phận nảy
sinh tâm lý thụ động, ỷ lại, trông chờ vào kết quả lao động của người khác,
ham chơi, sa đà vào các tụ điểm tệ nạn, làm biến đổi bản chất tự nhiên của
mình. Để có tiền, có lợi nhuận cao, họ chấp nhận mọi cách làm ăn phi pháp:
buôn lậu, buôn thuốc phiện, làm hàng chất lượng kém.... Lợi dụng địa hình
khó khăn, hiểm trở, giáp biên giới, nhiều đối tượng là đồng bào DTTS vùng
Đông Bắc đã trực tiếp cầm đầu hoặc tham gia vào đường dây buôn bán ma
túy với số lượng lớn. Nhiều thanh niên thoát ly khỏi bản làng xuống các thành
phố làm ăn đã sớm thích nghi với cuộc sống sôi động, tiêu xài hoang phí, thay
đổi dần bản tính hiền lành, lương thiện, giản dị, mộc mạc của người DTTS.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng đang tạo ra những sản
phẩm mới hiện đại, làm cho đồng bào choáng ngợp trước tính hữu dụng cao
của những sản phẩm mới, từ đó họ cho rằng những cái thuộc về truyền thống
là lạc hậu nên cần bỏ qua. Hoặc do tư tưởng cho rằng hiện đại hóa là làm cho
cái truyền thống được hiện đại nên các sản phẩm VH như vải thổ cẩm, trang
114

phục DT đã bị hiện đại hóa, cách tân… làm mất đi sự đa dạng, phong phú
mang đậm đà BSDT của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc. Ngoài ra,
những ngành nghề thủ công đang có xu hướng bị thu hẹp lại, thậm chí mất
chỗ đứng do những sản phẩm công nghiệp đa dạng về chủng loại, mẫu mã,
giá rẻ hơn xuất hiện tràn lan trên thị trường.
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đem đến nhiều giá trị mới nhưng
cũng kéo theo những hiện tượng phản VH, phản tiến bộ khiến cho đồng bào
các DTTS vốn trình độ dân trí không cao, đã tiếp thu một cách thiếu chọn lọc,
kể cả những yếu tố trái với thuần phong mỹ tục của DT mình nên đã tạo ra sự
lai căng, mất gốc. Giới trẻ người DTTS đã có sự thay đổi lớn từ bên trong
(nhận thức, tư duy, lối sống, cách ứng xử) cho đến những biểu hiện bên ngoài
(trang phục, ngoại hình). Trên một mức độ nhất định, bản chất hiếu khách và
chân thật đã dần mất đi thay vào đó là sự chèo kéo, bán hàng với giá cắt cổ ở
một vài tụ điểm du lịch. Nhiều trẻ em lang thang, cơ nhỡ xuất hiện xin tiền du
khách, sự gian dối trong kinh doanh xuất hiện (bán hàng kém chất lượng,
hàng nhái, hàng giả, hàng trốn lậu thuế…). Trai gái mặc váy ngắn, quần soóc,
nhuộm tóc, xăm mình, ăn mặc lố lăng, cung cách giao tiếp, ứng xử thiếu VH
đã xuất hiện ở một bộ phận giới trẻ người DTTS. Những biểu hiện của sự lệch
lạc trong tư duy, trong lối sống của một bộ phận giới trẻ người DTTS vùng
Đông Bắc là do họ tiếp nhận một cách ồ ạt thiếu chọn lọc những luồng VH
ngoại lai, phản tiến bộ, du nhập trong quá trình hội nhập.
* Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, nhận thức chưa đầy đủ của các cấp, ban ngành từ trung ương đến
địa phương và bản thân đồng bào các DTTS về việc giữ gìn, phát huy BSVHDT.
Trong suốt quá trình nhận thức của Đảng từ trước đổi mới đến nay, có
những thời gian do quá nhấn mạnh việc xây dựng nền VH mới, phê phán và
bài trừ VH phong kiến, lạc hậu, trong chỉ đạo đã có nhận thức không đúng về
các giá trị VH truyền thống của đồng bào. Chẳng hạn, do sự thiếu hiểu biết về
BSVH của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc nên các cấp chính quyền, đặc
biệt các cơ quan chuyên môn về VH chưa phân định được đâu là mặt sinh
hoạt VH cộng đồng - mang tính bản sắc, đâu là sinh hoạt tín ngưỡng của đồng
115

bào; chưa nhận thức được đầy đủ các mặt tích cực và hạn chế trong các nghi
lễ liên quan đến chu kì đời người và các nghi lễ liên quan đến sản xuất nên đã
đồng nhất nó với cái cũ, cái lạc hậu, cái mê tín đị đoan; hoạt động tổ chức lễ
hội, múa hát, vui chơi tập thể, đi chợ phiên bị coi là những hoạt động gây tốn
kém về thời gian, tiền bạc. Do vậy, đã có những hành động cứng nhắc mang
tính cấm đoán, dẹp bỏ phong tục đó, hạn chế việc tổ chức các sinh hoạt VH
cộng đồng… làm ảnh hưởng đến tâm lý chung của đồng bào. Với bà con DT,
những người vô cùng hồn hậu, chất phác, chỉ cần một việc làm nhỏ nào đó có
tính chất không thiện chí cũng có thể khiến đồng bào dần mất niềm tin vào
Đảng và chính quyền, làm giảm sút ý thức duy trì những giá trị VH làm nên
bản sắc của cộng đồng, tạo nên sự hẫng hụt, trống trải về mặt tinh thần của
đồng bào các DTTS, trong khi đó, kinh tế vùng đồng bào chưa thoát khỏi tình
trạng kém phát triển, đời sống đồng bào gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn cả về
vật chất và tinh thần.
Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta tiếp tục chủ trương gìn giữ và phát
huy BSVHDT, trong đó có chủ trương khôi phục những giá trị VH truyền
thống của đồng bào các DTTS từng bị xóa bỏ và mất mát. Nhưng trong quá
trình thực hiện, do nhận thức không đầy đủ về tính hai mặt của truyền thống,
không phân tách được đâu là mặt tích cực, đâu là mặt tiêu cực nên đã khôi
phục một cách tràn lan thiếu kiểm soát. Do đó, các tập quán lạc hậu, các hủ
tục đã trỗi dậy và tác động, gây ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống tinh thần,
vật chất của đồng bào các DTTS.
Trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ chuyên môn, đặc biệt là cán bộ
chuyên môn ở cơ sở, trong nhận thức và giải quyết công việc còn lúng túng,
do không được đào tạo bài bản, đúng chuyên ngành về VH DTTS nên còn
hạn chế trong kiến thức về mảng này. Do đó, chưa có những cách làm hiệu
quả, còn thụ động trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến giữ
gìn, phát huy BSVH các DTTS. Vì thế, những hủ tục, tập quán lạc hậu vẫn
tồn tại trong đời sống đồng bào các DTTS vùng sâu, vùng xa bên cạnh sự mai
một, mất mát nhiều phong tục, tập quán tốt đẹp ở vùng thành phố, thị trấn và
các vùng giáp ranh hay một số giá trị VH truyền thống bị biến dạng, lai tạp
mà chưa có sự định hướng đúng đắn của các cơ quan chuyên môn tại cơ sở.
Nhà trường chưa nhận thức được đầy đủ vai trò, ý nghĩa của BSVH đối
116

với sự tồn tại, phát triển của đồng bào các DTTS nên mới chỉ chú tâm đến
giảng dạy kiến thức chuyên môn, chưa có sự quan tâm, sâu sát đến việc giáo
dục, tuyên truyền các giá trị VH truyền thống làm nên BSVH của đồng bào
các DTTS cho các em học sinh. Mặt khác, do bản thân các thầy cô một bộ
phận là giáo viên từ miền xuôi lên cũng không hiểu biết rõ về BSVH của
đồng bào các DTTS, không biết tiếng DT nên đó cũng là trở ngại lớn để các
thầy cô tuyên truyền, giáo dục ý thức giữ gìn BSVHDT. Đối với các thầy cô
bản thân là đồng bào DTTS, nhưng do thời gian phần lớn là học tập xa nhà
nên không thường xuyên tham gia vào các hoạt động VH của gia đình, địa
phương nên cũng có sự mờ nhạt về BSVH của DT mình, mặt khác, do có
những hạn chế nhất định trong cách thức thực hiện nên đã làm suy giảm lòng
nhiệt tình, sôi nổi của thầy cô trong việc tuyên truyền, giáo dục về BSVHDT
cho các em học sinh.
Bản thân đồng bào các DTTS, đặc biệt là bộ phận sinh sống ở các thành
phố, thị trấn và các vùng giáp ranh chỉ tập trung vào làm ăn, phát triển kinh tế
nên thờ ơ, quay lưng lại với các giá trị VH truyền thống của DT mình, không
nhận thức được các giá trị VH truyền thống mang đậm đà BSDT chính là nguồn
vốn cho sự phát triển bền vững mà cho rằng đó là sản phẩm của xã hội phong
kiến, là cổ hủ, là lạc hậu cần xóa bỏ. Các tầng lớp thanh niên sinh ra và lớn lên ở
vùng này ít khi, thậm chí không được tham gia vào vào các hoạt động VH trong
gia đình, dòng họ cho đến xã phường, thị trấn cho nên họ nhận thức mờ nhạt về
các giá trị VH truyền thống của DT mình. Từ đó, không có ý thức giữ gìn, phát
huy. Họ tiếp nhận cái mới nhanh hơn, mạnh hơn trong khi không có cái truyền
thống làm nền tảng, làm màng lọc. Từ đó, tiếp nhận một cách ồ ạt, cả những mặt
tích cực, cả những mặt phản VH, đi ngược lại thuần phong, mỹ tục, làm xói mòn
BSVH của DT. Một bộ phận trẻ thoát ly ra khỏi cộng đồng DT do đi làm ăn
hoặc học tập thì có tâm lí tự ti về VH của DT mình trước DT Kinh vì họ cho
rằng VH của DTTS là lạc hậu, là cổ hủ. Vì vậy, họ thường che dấu, không dám
thể hiện ra, dần dần lãng quên và học tập theo VH của người Kinh một cách
hoàn toàn. Chính sự nhận thức chưa đầy đủ đó, cũng như chưa thực sự nhận thức
hết được cái hay, cái đẹp trong BSVH của DT mình nên một bộ phận đồng bào
có thái độ “cổ súy” cho cái mới mà thờ ơ, quay lưng lại với những giá trị VH
117

truyền thống của DT mình. Đó cũng là lý do những giá trị VH truyền thống tạo
nên BSVHDT đang dần mai một, biến mất trong đời sống của đồng bào các
DTTS vùng Đông Bắc.
Thứ hai, hoạt động kém hiệu quả của các chủ thể trong việc giữ gìn,
phát huy BSVH các DTTS.
Đảng, Nhà nước, các cơ quan chức năng và chính quyền địa phương
các tỉnh vùng Đông Bắc đã có những cách thức giữ gìn và phát huy BSVH
các DTTS khá phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, hiệu quả của những cách
thức này chưa cao, chưa đạt được kết quả như mong muốn.
Việc đầu tư cho mục tiêu phát triển VH ở vùng đồng bào các DTTS
mặc dù đã tăng đáng kể trong những năm gần đây nhưng vẫn còn thấp so với
sự đầu tư cho lĩnh vực kinh tế. Do đó, kinh phí đầu tư cho công tác nghiên
cứu, sưu tầm, phục dựng, lưu giữ các giá trị VHDT chưa thực sự đáp ứng
được nhu cầu của việc giữ gìn kho tàng VH các DTTS. Kinh phí hạn hẹp dẫn
đến việc nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê, giữ gìn, phát huy những giá trị VH
thiếu tính toàn diện và chưa kịp thời.
Công tác nghiên cứu, sưu tầm VH các DTTS được thực hiện bởi các tổ
chức, các nhà khoa học, các cơ quan chuyên môn như sở VH ở các địa
phương chưa theo một chương trình thống nhất, đang ở tình trạng vừa tản
mạn, vừa trùng lặp, làm chậm tiến độ thực hiện và lãng phí thời gian, tiền bạc.
Khâu bảo tồn, lưu giữ tư liệu còn giản đơn, thiếu khoa học, trình độ
chuyên môn của cán bộ làm công tác bảo tồn, tư liệu … còn hạn chế và thiếu
phương tiện kỹ thuật, đặc biệt là phương tiện kỹ thuật hiện đại.
Trong một số giai đoạn, lĩnh vực, việc phát huy VH truyền thống các
DTTS chưa được quán triệt đầy đủ nên trong chỉ đạo và thực hiện còn có biểu
hiện ngần ngại, thiếu quyết đoán, né tránh nhất là những vấn đề khó khăn,
phức tạp, nhạy bén có liên quan đến VH tâm linh, ngôn ngữ, phong tục…
Sưu tầm, nghiên cứu VH chưa gắn với duy trì và phát huy, khiến cho
các giá trị VH được nghiên cứu, sưu tầm mới dừng lại ở sản phẩm được tư
liệu hóa chứ chưa thực sự được phát huy trong cộng đồng. Các bảo tàng ở địa
118

phương vắng bóng khách tham quan tìm hiểu. Những dịp trưng bày, giới thiệu
cũng thưa thớt người tham gia. Điều này có lẽ xuất phát từ thực trạng tuyên
truyền, quảng bá, giới thiệu chưa cuốn hút, chưa làm nổi bật giá trị đặc sắc,
độc đáo trong VH truyền thống của đồng bào các DTTS cũng như các tư liệu,
hiện vật trưng bày kém đa dạng, phong phú, sự sắp xếp thiếu hợp lý… là
những lý do khiến khách tham quan vắng bóng dần.
Quá trình phục dựng các giá trị VH phi vật thể như phong tục tập quán,
tín ngưỡng tôn giáo, lễ hội, âm nhạc chưa thực sự đặt nó trong môi trường sản
sinh và tồn tại vốn có của nó, tách khỏi môi trường VH sẽ làm mất đi giá trị
và ý nghĩa nhân bản. Chẳng hạn, các nghi lễ Then, Mo, Tào, Pụt của người
Tày, Nùng được sản sinh trong các dịp cúng mừng sinh nhật, mừng thọ, cầu
yên giải hạn, trong các đám tang… Do đó, phục dựng phải gắn với chính môi
trường nó xuất hiện thì mới phản ánh được hết ý nghĩa thực của nó.
Các điệu múa, điệu hát cũng xuất hiện trong những môi trường cụ thể
và chỉ có trong môi trường đó, nó mới thể hiện được hết ý nghĩa của mình.
Chẳng hạn hát quan làng (cỏ lẩu) của người Tày là dạng hát đối đáp trong
đám cưới, hát then trong chúc tụng, trong cấp sắc, trong cầu mùa đều có nội
dung riêng. Do đó, phục dựng lại các điệu múa, điệu hát một cách cơ học
trong các lễ hội, làng VH như hiện tại cũng làm mất mát một phần nhất định
cái hay, cái đẹp của di sản.
Nhiều địa phương chưa biết cách tuyên truyền, giáo dục để đồng bào
nhận thức được hết cái hay, cái đẹp trong BSVH của DT mình để từ đó có ý
thức giữ gìn và phát huy trong cuộc sống. Sự tuyên truyền, giáo dục được
thực hiện qua loa, cho xong việc, chưa có trọng tâm, trọng điểm, chưa thực sự
lấy đồng bào với BSVH độc đáo làm đối tượng trực tiếp để tuyên truyền, giáo
dục. Do đó, bản thân đồng bào vẫn còn thờ ơ trước sự mai một dần của nhiều
giá trị VH truyền thống của DT mình.
Các cơ quan VH, các cấp chính quyền, có nơi thì làm thay đồng bào
trong việc giữ gìn và phát huy BSVH của họ, có nơi thì áp đặt những cách
thức cho đồng bào thực hiện, chưa đưa họ vào vị thế chủ thể trực tiếp trong
119

việc giữ gìn và phát huy. Chính tình trạng “áp đặt”, làm thay, “quốc dân hóa”
các hoạt động VH truyền thống đã làm lu mờ vai trò chủ thể của VH truyền
thống, thậm chí làm cho đồng bào các DTTS bất bình, quay lưng với những gì
được cho là BSVH của DT mình. Vì thế, đồng bào ở nhiều nơi còn xa lạ với
chính BSVH của DT mình.
Việc giữ gìn và phát huy BSVH các DT thông qua phát huy vai trò của
các nghệ nhân, khuyến khích họ truyền dạy, lan tỏa những giá trị VH truyền
thống giàu bản sắc cho cộng đồng, cho các thế hệ là một mắt khâu quan trọng,
song hiện tại các cơ quan, chính quyền địa phương chưa có chính sách bồi
dưỡng và khuyến khích thỏa đáng, cho nên một bộ phận các nghệ nhân chưa
thiết tha, tâm huyết với công việc truyền dạy. Đặc biệt, đối với các thầy cúng,
do tâm lí tự ti khi một bộ phận cán bộ chuyên môn chưa khéo léo trong tuyên
truyền, giáo dục quy họ về đội ngũ những người hoạt động mê tín dị đoan nên
họ dần bỏ nghề, cùng theo đó là những kiến thức về các quy trình trong phong
tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo, lễ hội… cũng bị mai một theo.
Sự lồng ghép nội dung giáo dục, tuyên truyền về BSVH của đồng bào
các DTTS vào các chương trình chính khóa và ngoại khóa ở các nhà trường
chưa thực sự phát huy tốt và hiệu quả đạt được chưa cao. Các hoạt động đó
diễn ra chủ yếu về mặt hình thức, chưa thực sự khơi dạy được ở các em học
sinh ý thức tìm hiểu về VH của DT mình cũng như ý thức giữ gìn, phát huy
BSVH đó trong cộng đồng. Các thầy cô chưa thực sự tâm huyết với nhiệm vụ
này, do đó chưa có những cách giáo dục, tuyên truyền một cách thuyết phục
khiến cho hoạt động giữ gìn, phát huy BSVH của đồng bào các DTTS diễn ra
trong các nhà trường chưa đạt hiệu quả.
Bản thân đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc, do điều kiện kinh tế còn
khó khăn, họ phải tranh thủ vận dụng những điều mới mẻ do quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế thị trường đem đến để tập trung
phát triển kinh tế nên cũng lãng quên việc thực hành cũng như trao truyền các
giá trị VH truyền thống cho các thế hệ trong gia đình cũng như dòng họ, bản làng.
Một số nơi đồng bào vẫn duy trì, gìn giữ và phát huy bằng cách thực
hành trong cuộc sống cũng như truyền dạy trong gia đình, trong các câu lạc
bộ nhưng không được thường xuyên, liên tục nên sự tiếp nhận của giới trẻ mờ
120

nhạt, trong khi các yếu tố VH mới đầy hấp dẫn xuất hiện do quá trình toàn
cầu hóa, hội nhập quốc tế mang lại diễn ra một cách mạnh mẽ làm cho giới trẻ
bị cuốn theo, lấn át những yếu tố truyền thống.
Như vậy, những cách thức mà chính quyền địa phương, cơ quan chức
năng, và bản thân đồng bào đang thực hiện nhằm nỗ lực giữ gìn và phát huy
BSVH của các DTTS vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập do đó hiệu quả đạt được
chưa cao. BSVH của đồng bào các DTTS vẫn đang đứng trước nguy cơ mai
một, biến dạng, nhiều giá trị VH truyền thống đã bị lùi về quá khứ nhường
chỗ cho các yếu tố VH mới thâm nhập, làm lai tạp trong cách sống, cách nghĩ
của đồng bào.
3.3.2. Một số vấn đề đặt ra
3.3.2.1.Khoảng cách giữa lý luận và thực tiễn trong việc giữ gìn, phát
huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc
Trong đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước luôn thể hiện chủ
trương phát triển VH vùng đồng bào các DTTS, trong đó có nhiệm vụ giữ gìn,
phát huy BSVH các DTTS, để BSVH thực sự trở thành điểm tựa, sức mạnh
nội sinh để các DTTS vươn lên trong quá trình phát triển, hội nhập. Trong các
chương trình mục tiêu quốc gia về VH, trong các đề án bảo tồn, phát huy di
sản VH vật thể, phi vật thể của các DTTS, luôn đề ra mục tiêu, nhiệm vụ, giải
pháp để thực hiện. Tuy nhiên, khi thực tiễn giải quyết lại gặp nhiều vướng
mắc, không đạt được hiệu quả như mong muốn, chưa tương xứng với sự phát
triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào các DTTS. Cụ thể, nhiều cấp ban ngành
từ trung ương đến địa phương đã triển khai thực hiện các chương trình về VH
vùng đồng bào các DTTS một cách cứng nhắc, thiếu linh hoạt, không bám sát
vào tình hình cụ thể của từng vùng. Việc tổ chức thực hiện còn thiếu tập
trung, chưa đồng bộ, không kiên quyết, dẫn đến thực trạng nhiều vùng sâu,
vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn vẫn tồn tại nhiều hủ tục, tập quán lạc hậu,
hiện tượng mê tín, dị đoan có chiều hướng phát triển ảnh hưởng đến đời sống
vật chất và tinh thần của đồng bào, trong khi những năm 50 của thế kỷ XX,
Đảng đã có chủ trương vận động bà con xóa bỏ các tập tục lạc hậu ở vùng
đồng bào các DTTS.
Chủ trương giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS được quán triệt trong
121

các nghị quyết, chỉ thị và được cụ thể hóa bằng những kế hoạch, chương trình
do Bộ VH thể thao và du lịch, Sở VH các tỉnh tổ chức thực hiện như: tổ chức
các ngày hội VH các DTTS cấp vùng, cấp tỉnh, cấp huyện; tổ chức hội thảo
chuyên đề bảo tồn và phát huy di sản VH vật thể, phi vật thể của đồng bào
DTTS; tổ chức nghiên cứu, sưu tầm, phục dựng các giá trị VH truyền thống.
Tuy nhiên, kết quả đạt được chưa cao, đối tượng tham dự trong ngày hội VH
các DTTS cũng chỉ tập trung chủ yếu là các nghệ nhân, các đội văn nghệ quần
chúng tại các địa phương. Các hội thảo thì chủ yếu là các nhà khoa học, các
nhà quản lý trong lĩnh vực VH. Nghiên cứu, sưu tầm, phục dựng cũng chỉ
đảm bảo giữ gìn ở trạng thái “tĩnh”, chưa vận dụng để phát huy thực sự trong
đời sống của đồng bào. Do đó, nhiều giá trị VH đậm đà BSDT vẫn bị biến
mất, mai một, mất bản sắc, biến dạng trước những tác động của nền kinh tế
thị trường, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Chủ trương giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS thông qua nhiều mô
hình kinh tế du lịch do các tỉnh, các địa phương thực hiện như “mô hình làng
VH du lịch, làng VH cộng đồng, các tua du lịch qua các vùng di sản Việt
Bắc…” nhưng hiệu quả đạt được từ mô hình này chưa cao. Nhiều giá trị
truyền thống cũng chỉ được giữ gìn nhằm mục đích phát triển du lịch, chứ
chưa được thực hiện xuất phát từ nhu cầu nâng cao đời sống tinh thần của
đồng bào, do đó, để phục vụ thị hiếu khách du lịch, những giá trị VH này đã
bị pha tạp, cải biến. Đồng bào chưa biết khai thác những giá trị VH truyền
thống giàu bản sắc để phục vụ du lịch như tổ chức bán các sản phẩm đặc
trưng của vùng trong các buổi chợ phiên, các khu du lịch. Hạn chế, kiểm soát
các hàng hóa xuất xứ Trung Quốc đang được bán tràn lan ở khu du lịch. Đồng
bào chú ý quá mức đến hiệu quả kinh tế từ du lịch mà chưa thực sự coi trọng
đến hiệu quả giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS. Việc tổ chức các buổi triển
lãm, trưng bày các giá trị VH vật thể tại các bảo tàng địa phương chưa thu hút
được đông đảo quần chúng tham quan, mới chủ yếu là học sinh các cấp trên
địa bàn thăm quan theo tổ chức tại nhà trường dưới hình thức đi trải nghiệm.
Do đó, chưa đạt hiệu quả trong việc tuyên truyền những giá trị VH đậm đà
bản sắc đến với mọi tầng lớp, mọi thành phần DT.
Như vậy, giữa lý luận và thực tiễn còn là một khoảng cách khá xa. Chủ
122

trương, đường lối là đúng đắn nhưng quá trình thực hiện lại vấp phải những
vướng mắc do những những nguyên nhân khách quan và chủ quan nên không
đạt được kết quả hoàn hoàn như mục tiêu chủ trương đề ra. Do đó, cần thiết
phải nghiên cứu, nắm chắc chủ trương, đường lối để từ đó vận dụng linh hoạt,
sáng tạo có hiệu quả vào thực tiễn dể đạt được những hiệu quả tốt nhất.
3.3.2.2. Những bất cập giữa yêu cầu phát triển kinh tế với yêu cầu giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc.
Vùng Đông Bắc thuộc vùng trung du và miền núi phía Bắc, địa hình
phức tạp, kinh tế còn nhiều khó khăn. Ngoại trừ thành phố, thị xã, thị trấn còn
các vùng khác trong các tỉnh đều là vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó
khăn - nơi đồng bào các DTTS sinh sống là chủ yếu. Trong những năm gần
đây, Nhà nước đã có nhiều chính sách ưu tiên phát triển kinh tế miền núi, vùng
đồng bào các DTTS như chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh
hoạt cho hộ đồng bào DTTS nghèo, đời sống khó khăn; chính sách hỗ trợ phát triển
kinh tế - xã hội như cho vay vốn để phát triển sản xuất; dạy nghề đối với học sinh
DTTS nội trú… chính sách hỗ trợ di dân thực hiện định canh, định cư cho đồng bào
các DTTS … , chính sách ưu tiên phát triển kinh tế vùng đồng bào các DTTS số
sinh sống, trong đó có vùng Đông Bắc, nhằm mục đích cải thiện đời sống vật chất
cho đồng bào, giảm tỷ lệ nghèo, đưa vùng Đông Bắc hòa chung vào sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước.
Với chủ trương, chính sách phát triển kinh tế là chủ yếu, trọng tâm,
chính sách phát triển VH các DTTS vùng Đông Bắc ít được chú ý và đề cập
đến, đã tạo ra một sự chênh lệch khá lớn trong yêu cầu phát triển kinh tế với
yêu cầu phát triển VH, trong đó có giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS.
Mặt khác, chính sự đặc biệt ưu tiên cho phát triển kinh tế, tập trung vào
phát triển công nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản, nông sản, lâm sản mà
làm cho đồng bào các DTTS bị cuốn hút mạnh vào yêu cầu phát triển kinh tế,
phát triển nền sản xuất hàng hóa. Sự tập trung vào phát triển kinh tế với nền
sản xuất hàng hóa là chủ đạo đã làm cho bản thân đồng bào các DTTS thờ ơ,
thiếu quan tâm, thậm trí quay lưng lại với các giá trị VH truyền thống, chỉ
chăm lo đến đời sống vật chất mà không chú tâm đến đời sống tinh thần.
Đồng bào ít thực hành các giá trị VH truyền thống như tham gia lễ hội
123

truyền thống, thực hành các loại hình VH tâm linh (các nghi thức thờ cúng trong
gia đình, dòng họ, cộng đồng); ít tham gia vào các ngày hội VH các DTTS các
cấp (quốc gia, khu vực, tỉnh, huyện); thiếu quan tâm đến việc giáo dục, trao
truyền cho thế hệ sau các giá trị VH của DT mình. Chính điều đó đã làm cho VH
truyền thống với những phong tục, tập quán tốt đẹp bị đứt quãng… Sự cân đối
không hài hòa giữa yêu cầu phát triển kinh tế với yêu cầu phát triển VH đã làm
giảm sức lan tỏa của các giá trị VH truyền thống đến mọi tầng lớp nhân dân.
Môi trường VH (bản làng, rừng, chợ…) - nơi sản sinh, nuôi dưỡng các giá trị
VH đã thay đổi theo hướng phục vụ cho phát triển kinh tế, làm mất đi vẻ đẹp
nguyên sơ, nguyên thủy của nó. Nhiều bản làng đã bị quy hoạch ra chỗ mới để
nhường chỗ cho các dự án quốc gia, những khu công nghiệp, những nhà máy;
những cánh rừng bạt ngàn - nơi diễn ra các lễ hội đã bị chặt phá, khai thác thành
đồi trọc; các chợ phiên không còn là nơi diễn ra các hoạt động VH đặc trưng, nơi
bán các sản phẩm VH do chính bàn tay khéo léo của các chị em phụ nữ người
DTTS làm ra, thay vào đó là các sản phẩm kém chất lượng, giá rẻ có xuất xứ từ
Trung Quốc được bày bán tràn lan. Tất cả điều đó đều hướng tới mục tiêu phát
triển kinh tế, tuy nhiên nó không bền vững vì sự phát triển không dựa trên nền
tảng truyền thống. Do đó, cần thiết phải có giải pháp đồng thời hai mục tiêu, hai
nhiệm vụ là vừa phát triển kinh tế, vừa phát triển VH. Nâng cao đời sống vật
chất đồng thời cũng phải nâng cao đời sống tinh thần cho đồng bào các DTTS
vùng Đông Bắc để nó thực sự trở thành nội lực cho sự phát triển bền vững.
3.3.3.3. Mâu thuẫn giữa hiện đại và truyền thống trong quá trình giữ
gìn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc
Xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đã tác động mạnh mẽ và sâu rộng
đến mọi vùng miền của đất nước ta, vùng Đông Bắc cũng nằm trong sự tác
động nhanh và mạnh mẽ đó, bởi vị trí đặc biệt tiếp giáp với thủ đô - trung tâm
kinh tế, VH, chính trị của cả nước và có đường biên giới kéo dài tiếp giáp với
nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa (Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà
Giang). Bên cạnh sự giao lưu về kinh tế thì đó là sự giao lưu, tiếp xúc về VH.
Nhiều yếu tố VH mới xuất hiện, thâm nhập tạo nên sự pha tạp trong VH của
đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc.
Bên cạnh nhu cầu bảo vệ, giữ gìn cái truyền thống là nhu cầu tiếp thu
124

cái mới, cái hiện đại. Nếu như cố gìn giữ những vật dụng, những tư liệu sinh
hoạt, tư liệu sản xuất truyền thống - kết quả của nền sản xuất thủ công thì sẽ
không tiếp cận được những vật dụng, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất hiện
đại - kết quả của nền sản xuất công nghiệp phát triển. Những bộ trang phục
truyền thống, những món ăn chế biến cầu kỳ với những loại gia vị tự nhiên sẽ
không còn thuận lợi, nhanh gọn trong xã hội với nhịp điệu và tốc độ diễn ra
nhanh, mạnh của nền kinh tế thị trường. Những nếp nhà sàn xinh xắn, nhà
trình tường, nhà đất không còn đủ nguyên liệu để làm khi những loại gỗ càng
ngày càng hiếm do nạn chặt phá rừng bừa bãi, trong khi các nguyên liệu hiện
đại: Prô xi măng, sắt, thép, xi măng, tấm lợp ngày càng phổ biến với giá thành
hợp lý. Ngôn ngữ phổ thông, ngoại ngữ đang là lợi thế trong giao dịch, trong
việc làm, trong các thủ tục hành chính…; những bài hát nhạc rốc, nhạc rimix,
nhạc nước ngoài đang trở nên hót, là sự lựa chọn có giới trẻ, thanh niên, sinh
viên…; những phương pháp chữa bệnh mới dựa trên sự phát triển của khoa
học công nghệ, của y học hiện đại đang được phổ biến trong các bệnh viện,
các cơ sở y tế đang dần thay thế những phương pháp chữa bệnh bằng kinh
nghiệm dân gian, gia truyền…; những lối tư duy nhạy bén, phong cách sống
thoáng, thích hưởng thụ, sự cạnh tranh “mạnh được, yếu thua” trong nền kinh
tế thị trường, sự chạy theo lợi ích vật chất mà chà đạp không thương tiếc nên
những quan hệ thân thích (làng xóm, bạn bè, anh em, láng giềng) đang len lỏi
vào đời sống vốn giản dị, hiền lành, chất phác, chịu thương, chịu khó, đoàn
kết, đùm bọc lẫn nhau trong gia đình, dòng họ, bản làng…
Tất cả những yếu tố VH mới đó đang lan tỏa, xâm nhập vào trong đời
sống của đồng bào các DTTS, nó va chạm với các yếu tố VH truyền thống tạo
nên sự mâu thuẫn giữa yếu tố mới với yếu tố cũ, đan xen, đấu tranh và phủ
định lẫn nhau. Nếu tiếp nhận hoàn toàn cái mới thì cái truyền thống sẽ bị đẩy
lùi vào quá khứ. Nếu đóng của, khép mình, chối bỏ, phủ nhận cái hiện đại thì
bản thân đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc sẽ rơi vào lạc hậu, chậm phát
triển. Do đó, bản thân đồng bào các DTTS cần phải được nâng cao trình độ
nhận thức để biết kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại trong việc giữ
gìn, phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc, làm cho nền VH của đồng
bào vừa tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc DT.
Tiểu kết chương 3
125

Vùng Đông Bắc là nơi tập trung hơn 20 DTTS cùng chung sống, trong đó
phân bố rộng rãi, đan xen lẫn nhau giữa các vùng. Nếu như vùng thấp với địa hình
thung lũng, đồng bào DT Tày, Nùng chiếm số đông và VH của họ mang tính đặc
trưng của vùng thì vùng cao với địa hình trườn dốc, đồng bào H’Mông, Dao chiếm
số đông và VH của họ cũng mang đặc trưng của vùng cao. Các giá trị VH của đồng
bào các DTTS nơi đây vô cùng phong phú, độc đáo được hình thành và tồn tại, phát
triển cùng với sự hình thành, tồn tại và phát triển của tộc người, nó là yếu tố đóng
vai trò là nền tảng tinh thần, sức mạnh nội sinh để các DTTS phát triển bền vững
trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Nhận thức được vai trò đó, Đảng, Nhà nước cũng có những chủ trương,
đường lối, chính sách và được các ban ngành chuyên môn, chính quyền địa
phương cụ thể hóa thành các chương trình, kế hoạch cụ thể để giữ gìn, phát
huy BSVH của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc.
Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước cùng với sự
nỗ lực của chính quyền địa phương và bản thân đồng bào các DTTS, nên công tác
giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc đã đạt được những thành tựu
nhất định, góp phần bảo lưu, gìn giữ nhiều giá trị VH tốt đẹp, góp phần xây dựng
nền VH Việt Nam tiên tiến, đậm đà BSDT. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu
đạt được, công tác giữ gìn, phát huy cũng gặp phải những vướng mắc, những hạn
chế nhất định do những nguyên nhân khách quan (sự tác động tiêu cực của nền kinh
tế thị trường, của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế) và nguyên nhân chủ quan (nhận thức chưa đầy đủ và hoạt động kém hiệu
quả của các cấp, ban ngành và chính quyền từ trung ương đến địa phương và bản
thân đồng bào các DTTS).
Trước thực trạng đó, các chủ thể giữ gìn, phát huy cần nhận thức được
những vấn đề đặt ra cần giải quyết để có những biện pháp hữu hiệu nhằm
nâng cao hiệu quả của công tác giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS Đông Bắc.
126

Chương 4
MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIỮ
GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
VÙNG ĐÔNG BẮC VIỆT NAM
4.1. Một số quan điểm nâng cao hiệu quả giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc
4.1.1. Giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số theo nguyên
tắc thống nhất trong đa dạng và tiên tiến hóa nền văn hóa Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc (54 DT). Do đó, nền VH Việt
Nam là nền VH thống nhất của 54 DT anh em, mỗi một DT đều có những nét
VH riêng biệt của mình, đều góp những mảng màu rực rỡ trong bức tranh VH
Việt Nam đa sắc màu. Vì thế, BSVHDT Việt Nam là sự hòa hợp biện chứng
BSVH của các DT, giữa chúng có sự ảnh hưởng, tác động qua lại lẫn nhau, bổ
sung cho nhau, làm phong phú nền VH Việt Nam thống nhất và củng cố sự
thống nhất quốc gia - DT.
Nghị quyết của hội nghị lần thứ V của Ban Chấp hành trung ương
Đảng chỉ rõ: “Hơn 50 DT sống trên đất nước ta đều có những giá trị và sắc
thái VH riêng. Các giá trị và sắc thái đó bổ sung cho nhau làm phong phú
thêm nền VH Việt Nam, củng cố sự thống nhất DT là cơ sở để giữ vững sự
bình đẳng và phát huy tính đa dạng VH của các DT anh em”[29;57].
Do đó, để giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc trước
hết chúng ta cần quán triệt sâu sắc mối quan hệ biện chứng giữa những giá trị
VH chung - cơ sở của sự thống nhất VH với những sắc thái VH riêng độc đáo
biểu hiện của sự đa dạng trong gia tài VH của các DTTS vùng Đông Bắc.
Nghĩa là phát huy được sự đa dạng trong khi vẫn đảm bảo được sự thống
nhất, không chỉ chăm chút quá khứ và các truyền thống địa phương mà cần
nhận rõ và đánh thức tiềm năng bí ẩn, quý giá trong sắc thái VH của các DT
để cùng hướng tới những giá trị, những tiêu chí chung có lợi cho sự tiến bộ.
Những giá trị chung có lợi cho sự tiến bộ ấy chính là “lòng yêu nước nồng
nàn, ý chí tự cường DT, tinh thần đoàn kết, tính cộng đồng gắn kết cá nhân -
gia đình - làng nước; lòng nhân ái bao dung, trọng nghĩa tình đạo lý; đầu óc
127

thực tế; đức tính cần cù sáng tạo trong lao động; tế nhị trong cư xử, giản dị
trong lối sống”[29;23]. Những giá trị chung này được biểu hiện cụ thể hóa
khác nhau ở những DT khác nhau. Vì thế, sẽ có những cách thức biểu hiện
khác nhau của cùng một giá trị nên cần tránh tư tưởng miệt thị, DT hẹp hòi,
cực đoan, coi cách thức biểu hiện của DT có dân số chiếm số đông trong
vùng, trong cả nước là giá trị chung áp đặt các DT khác có số dân ít hơn, tình
hình kinh tế - xã hội kém hơn phải lệ thuộc. Càng tránh tư tưởng tự ti DT,
không dám khẳng định bản sắc riêng của DT mình. Nếu như vậy sẽ làm
nghèo nàn cái riêng, sớm muộn cái riêng sẽ bị đồng hóa và biến mất.
Sự đa dạng trong cái riêng của VH các DT được thể hiện trong VH vật
thể (nhà ở, trang phục, ẩm thực, công cụ lao động, sản xuất, sinh hoạt…) và
VH phi vật thể (ngôn ngữ, phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo, lễ hội,
nghệ thuật, tri thức dân gian…). Tất cả những cái riêng đó là do hoàn cảnh,
điều kiện và trình độ canh tác, đời sống kinh tế - xã hội của các DT phát triển
không đồng đều. Vì vậy, nền VH của các DT đều mang những sắc thái riêng
biệt. Lấy ví dụ về kiến trúc nhà ở, cùng sinh sống ở vùng Đông Bắc, nhưng
mỗi một DT có một kiểu kiến trúc nhà ở riêng: Người H’Mông với kiến trúc
nhà trình tường, người Tày, Nùng với kiến trúc nhà sàn, người Dao với kiến
trúc nhà đất… Về trang phục, chúng ta thấy thị hiếu thẩm mỹ riêng về màu
sắc, hình dáng, họa tiết hoa văn… của mỗi DT, nếu như người H’Mông và
người Dao với những bộ trang phục rực rỡ kèm theo nhiều họa tiết hoa văn thì
người Tày và người Nùng giản dị với những bộ trang phục màu chàm, ít họa
tiết. Cái riêng của nghệ thuật của từng DT được thể hiện từ văn vần đến văn
xuôi, từ thêu đan đến vẽ, nhiều màu sắc, bố cục hình khối trong hội họa, điêu
khắc, từ các điệu múa, bài hát đến các loại nhạc khí như đàn tính, khèn,….
Cái riêng phong phú, đa dạng của nền VH các DTTS đã được thống nhất bởi
cái chung của nền VH Việt Nam. Do đó, luôn phải quán triệt quan điểm giữ gìn và
phát huy cái riêng luôn phải dựa trên nguyên tắc thống nhất trong đa dạng. Ngoài
ra, còn phải đảm bảo nguyên tắc tiên tiến hóa nền VH Việt Nam.
Tiên tiến hóa nền VH Việt Nam là đảm bảo nền VH Việt Nam không
rơi vào trì trệ, lạc hậu, kìm hãm sự phát triển. Tuy nhiên, ở đây cần nhận thức
128

đầy đủ và đúng đắn rằng không phải tiên tiến là chỉ các giá trị chỉ có trong
tương lai, mà nó có cả ngay trong bản thân truyền thống. Truyền thống mang
trong mình sự thống nhất giữa hai yếu tố lạc hậu và tiên tiến.
Ngay trong truyền thống VH của các DTTS vùng Đông Bắc cũng có
những yếu tố đã trở nên lạc hậu, lỗi thời, không phù hợp và có cả những yếu
tố có giá trị tích cực trong xã hội hiện đại thì nó là tiên tiến. Do đó, cần nhìn
nhận theo quan điểm biện chứng, tránh quan điểm siêu hình để lọc bỏ những
yếu tố cũ đã trở nên lạc hậu, kìm hãm sự phát triển, thúc đẩy, cải tiến những
giá trị cũ có tác dụng tích cực theo hướng cấu trúc lại, bổ sung nội dung mới
cho thích hợp với xã hội mới.
Đồng thời, trong quá trình tiếp xúc, giao thoa với các nền VH khác cần
chủ động, tích cực tiếp thu những giá trị VH mới, cải biến nó phù hợp với VH
DT để tạo nên một nền VH Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc DT. Một nền
VH không tiếp thu tinh hoa VH của DT khác, của nhân loại để làm mới mình
thì một nền VH đó luôn nghèo nàn, trì trệ, chậm phát triển và nó sẽ kéo theo
sự chậm phát triển trong lĩnh vực kinh tế - xã hội của DT.
Do đó, BSVHDT không phải chỉ là những giá trị truyền thống được
truyền từ đời này sang đời khác mà qua thời gian, nó được lọc bỏ, cải biến vừa
được tiếp thu những giá trị mới phù hợp với đời sống VH của DT. Ví dụ, ngôi
nhà sàn truyền thống của các DT Tày, Nùng biểu hiện giá trị lịch sử, giá trị nghệ
thuật của đồng bào cần được tiếp tục duy trì trong xã hội hiện đại nhưng cũng
cần cải biến, thay đổi để phù hợp hơn với xã hội hiện đại như cần thoát ly
chuồng gia súc dưới gầm sàn ra phạm vi riêng cách xa nơi ở để không gây ô
nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe của đồng bào DT. Cần thiết kê lại
cách bố trí mặt bằng trong sinh hoạt theo hướng bình đẳng, hài hòa thống nhất
không có sự phân biệt, phân chia ranh giới theo hướng bất bình đẳng như kiểu
thiết kế hai cầu thang, hai bếp lửa trong ngôi nhà sàn của người Tày. Một cầu
thang và một bếp lửa chỉ dành cho đàn ông và khách trong gia đình, phụ nữ
không được bén mảng đến, chỉ được sử dụng cầu thang và bếp lửa được thiết kế
dành riêng cho phụ nữ trong gia đình. Hay trong tập quán của người Nùng vùng
Đông Bắc, con dâu không được ngồi chung mâm cơm với bố chồng… những
129

thứ truyền thống đã trở nên lạc hậu, có ảnh hưởng đến đời sống của đồng bào thì
cần được xóa bỏ, thay đổi, có truyền thống không ảnh hưởng xấu đến đời sống
của đồng bào mà cũng không có tác dụng thúc đẩy sự phát triển (yếu tố trung
tính), nhưng nó hàm chứa những thông tin liên quan đến lịch sử tộc người thì
nên được duy trì, phát huy để giáo dục cho thế hệ sau nguồn gốc lịch sử tộc
người. Còn những truyền thống có vai trò tích cực kích thích sự phát triển, động
lực của sự phát triển (thể hiện sự tiên tiến) thì nên khuyến khích duy trì, phát
huy, tạo điều kiện, môi trường để nó tồn tại và phát triển hoặc cấu trúc lại, cải
biên, bổ sung và phát triển mới. Có như vậy, mới góp phần tiên tiến hóa nền VH
Việt Nam. Nếu chỉ chú tâm đến giữ gìn quá khứ một cách nguyên vẹn mà không
lọc bỏ, cải tiến thì Việt Nam sẽ trở thành bảo tàng của quá khứ.
4.1.2. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số gắn với
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào
Chủ trương giữ gìn BSVH các DTTS không phải là để các giá trị đó không
mất đi mà phải phát huy nó trong đời sống để đạt được những mục tiêu, cụ thể mục
tiêu ở đây là đời sống vật chất và đời sống tinh thần được nâng cao.
Giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS là giữ gìn, phát huy nền tảng tinh
thần của đồng bào các DTTS trong quá trình phát triển. Đó chính là quá trình
khơi dậy, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp như lòng yêu quê
hương, đất nước, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sản xuất, chịu
thương, chịu khó vượt qua mọi điều kiện khắc nghiệt về địa hình, khí hậu để
tiếp tục sinh tồn và phát triển; tinh thần đoàn kết cộng đồng, dòng họ, thôn
bản, làng xã… Những giá trị này được khơi dậy, phát huy sẽ tạo nên một sức
mạnh to lớn để đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc phát triển vươn lên theo
kịp sự phát triển chung của đất nước. Những yếu tố đó được khơi dậy, phát
huy và có ý nghĩa khi nó tham gia vào cải thiện và nâng cao đời sống vật chất
như xóa đói, giảm nghèo, tăng trưởng kinh tế, nâng cao thu nhập, giải quyết
việc làm, nâng cao chất lượng cuộc sống. Đồng thời với việc đời sống vật
chất được cải thiện, thì đời sống tinh thần cũng được nâng cao. Đồng bào các
DTTS có điều kiện hơn để tham gia các hoạt động tinh thần như tham gia lễ
hội, tham gia vào sáng tạo và hưởng thụ các giá trị tinh thần.
130

Như vậy, giữ gìn và phát huy BSVH gắn với nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc là hai nhiệm vụ, hai mục
tiêu gắn kết, bổ trợ lẫn nhau để tạo nên sự phát triển bền vững. Giữ gìn và
phát huy BSVH các DTTS là điều kiện, là nguồn vốn cho sự phát triển kinh tế
nhằm nâng cao đời sống vật chất, đời sống tinh thần cho đồng bào. Nguồn
vốn này tồn tại dưới hai dạng: dạng tiềm ẩn tồn tại thông qua con người - chủ
thể của quá trình phát triển kinh tế với đầy đủ đức tính yêu nước, cần cù,
thông minh, sáng tạo, chịu thương, chịu khó, đoàn kết, ý chí vươn lên… và
dạng hiện hữu thông qua các giá trị VH vật thể (nhà ở, trang phục, ẩm thực)
và giá trị VH phi vật thể (ngôn ngữ, phong tục tập quán, lễ hội, kho tàng VH
nghệ thuật, tri thức bản địa…) - đối tượng khám phá, tìm hiểu của khách du
lịch. Nếu biết cách khai thác tốt dạng hiện hữu này để phát triển ngành du lịch
(du lịch VH) thì sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao khi mà hiện nay xu hướng tìm
về BSVH các DTTS đang được các du khách quan tâm.
Trong những năm gần đây, để nâng cao đời sống vật chất - tinh thần
cho đồng bào các DTTS, Đảng và Nhà nước đã có những chính sách, chương
trình thực hiện nhằm tăng cường phát triển kinh tế ở các địa phương ở vùng
đồng bào các DTTS như: Quyết định 134/2004/QĐ - TTg của Thủ tướng
chính phủ về một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất nhà ở và nước sinh
hoạt cho đồng bào DTTS nghèo, đời sống khó khăn; chương trình 135 giai
đoạn II; Quyết định 32/QĐ-TTg về chính sách cho vay vốn và phát triển sản
xuất… và một số chương trình, dự án khác.
Thực hiện những chính sách trên, các tỉnh vùng Đông Bắc đã xác định đặt sự
phát triển của tỉnh trong chiến lược phát triển chung của cả nước và vùng trung du
và miền núi phía Bắc. Mở rộng quan hệ hợp tác với bên ngoài trên tất cả các lĩnh
vực: kinh tế, VH, giáo dục, y tế… đồng thời chủ động hội nhập quốc tế, dựa vào
hội nhập để phát triển. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển VH xã hội, đảm bảo
cho mọi người dân có cơ hội tham gia vào công việc chung và hưởng thụ các thành
quả của sự phát triển, giảm khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa các tầng lớp
dân cư và giữa các vùng trong tỉnh, thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo, nâng
cao mức sống, mức hưởng thụ các giá trị vật chất và tinh thần. Khi đời sống vật
131

chất và tinh thần được nâng cao thì cũng là điều kiện để giữ gìn, phát huy BSVH
các DTTS được tốt hơn.
4.1.3. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số bằng
việc phát huy vai trò chủ thể của đồng bào dân tộc thiểu số
Thực tế cho thấy, sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước
thông qua chủ trương, chính sách, pháp luật chỉ thực sự phát huy khi nhận
được sự đồng thuận và tham gia tích cực của đồng bào các DTTS. Do đó, để
phát huy tốt vai trò chủ thể của đồng bào các DTTS trong việc giữ gìn và phát
huy BSVH của DT mình, cần chú ý:
Trong quá trình cụ thể hóa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng,
Nhà nước thông qua các chương trình, dự án, phải chú ý đến điều kiện kinh tế
- xã hội và sự đa dạng của từng vùng, từng DT; chú trọng tính đặc thù của
từng DT để có những hình thức, bước đi và giải pháp hiệu quả, phù hợp với
thực tiễn địa phương nhằm phát huy vai trò chủ động, tích cực, làm chủ của
đồng bào các DTTS.
Các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương cần có những biện
pháp cụ thể để tuyên truyền, giáo dục cho đồng bào nhận thức được tầm quan
trọng của việc giữ gìn, phát huy BSVHDT và vai trò chủ thể chính thuộc về
đồng bào các DTTS, bởi họ chính là chủ nhân của nền VH do họ cùng cộng
đồng sáng tạo ra đồng thời họ chính là chủ thể duy trì, thực hành và hưởng
thụ các giá trị VH giàu bản sắc đó. Cần giúp họ nhận ra vấn đề BSVH của họ
được duy trì, gìn giữ, phát huy trong cuộc sống và được trao truyền qua các
thế hệ là phụ thuộc chính vào sự tham gia tích cực của bản thân đồng bào,
không nên có thái độ và tâm lý dựa dẫm, ỷ lại, trông chờ vào sự giúp đỡ của
nhà nước. Nhà nước chỉ tạo điều kiện giúp đỡ về cơ sở vật chất, tinh thần và
nguồn lực, kỹ thuật. Mọi sự giúp đỡ đó chỉ phát huy tác dụng khi được đồng
bào chủ động tiếp nhận và biến thành những hành động cụ thể.
Sở dĩ cần nhấn mạnh điều này bởi những năm qua, để thực hiện các
chương trình phát triển VH, mọi cái (để thực hiện chương trình đó) từ ngân
sách, cán bộ thực hiện đến việc xây dựng thiết chế VH cho đồng bào các
DTTS đều là của nhà nước, từ phía nhà nước. Do đó, cái VH mà chúng ta
132

đang làm cho đồng bào các DTTS thường mang “dấu ấn nhà nước”, điều đó
tạo nên tính ỷ lại của các tộc người vào nhà nước, nếu nhà nước không quan
tâm đầu tư thì họ mặc kệ. Mặt khác, các chương trình, dự án được thực thi
thường không có sự tham gia của chính đồng bào các DTTS nên nó tạo ra một
tâm lý thờ ơ với những gì họ đang được nhận. Do đó, cần thiết phải coi việc
giữ gìn và phát huy BSVH của đồng bào các DTTS là hoạt động tự thân của
đồng bào, đồng bào là chủ thể thực hiện và hưởng thụ các giá trị VH, dưới sự
định hướng của nhà nước.
Để phát huy tốt vai trò chủ thể của đồng bào các DTTS trong việc giữ
gìn và phát huy BSVH của DT mình, các cơ quan chức năng, chính quyền địa
phương cần có những chính sách tạo điều kiện để đồng bào nâng cao trình độ
dân trí, tăng cường sự hiểu biết. Chỉ khi trình độ dân trí được nâng cao, nhận
thức về chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước mới được sáng
tỏ, đồng bào mới vận dụng được một cách linh hoạt vào trong cuộc sống.
Đồng thời, trên cơ sở của sự hiểu biết, đồng bào mới nhận thức được mặt nào
là tích cực, là giá trị để tiếp tục có những hành động giữ gìn, duy trì và tiếp
tục phát huy nó trong cuộc sống; loại bỏ dần những hủ tục, tập quán lạc hậu,
những mặt tiêu cực, không còn phù hợp với xã hội mới, đề kháng được những
yếu tố VH ngoại lai đang tác động, len lỏi, xâm nhập vào đời sống của đồng
bào - những yếu tố không phù hợp với thuần phong, mỹ tục của đồng bào, với
giá trị tốt đẹp của DT.
Thực tế, trong thời gian qua, để nâng cao trình độ dân trí cho đồng bào,
Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách như: miễn giảm học phí, cấp không
giấy viết, sách giáo khoa, thực hiện chính sách cử tuyển, ưu tiên điểm cho con
em đồng bào các DTTS, miền núi khi thi vào các trường Đại học, chuyên
nghiệp… Vì vậy, sự nghiệp giáo dục đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc đã
có những tiến bộ vượt bậc. Giáo dục mầm non đã phát triển sâu rộng từ các
thị xã, thị trấn đến các vùng nông thôn. Tại các thôn bản đều có trường hoặc
các lớp cấp I. Nhiều xã, cụm xã có trường tiểu học và trung học cơ sở. Tất cả
các huyện đều có trường trung học phổ thông. Hệ thống các trường DT nội trú
từ Trung ương đến địa phương đã tạo điều kiện cho con em đồng bào các
133

DTTS vùng sâu, vùng xa có nhiều cơ hội học tập. Đến năm 2010, toàn vùng
Đông Bắc có 1744 trường phổ thông với 560.974 học sinh [144; 647-651].
Cùng với hệ thống các trường công lập, được sự đầu tư của trung ương và địa
phương, mạng lưới các trường DT nội trú bao gồm 4 trường DT nội trú cấp
tỉnh và các trường DT nội trú cấp huyện. Ngoài ra, trường phổ thông Vùng
cao Việt Bắc là trường DT nội trú duy nhất của cả nước có 3 hệ đào tạo (trung
học Phổ thông, Dự bị đại học DT và Trung học cơ sở) với quy mô trên 1800
em/năm thuộc 21 tỉnh với 29 DT trên tổng số 53 DTTS cả nước.
Cùng với kết quả đạt được, trong quá trình phát triển giáo dục tại vùng
Đông Bắc vẫn bộc lộ một số hạn chế: năm 2010, tất cả các tỉnh đạt chuẩn giáo
dục phổ cập trung học cơ sở, tuy nhiên kết quả đạt được chưa thực sự vững
chắc. Chương trình phổ cập giáo dục tiểu học đã hoàn thành cách đây 10 năm
nhưng đến năm 2010 các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng mới đạt phổ cập giáo dục
tiểu học nói chung, chưa đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi.
Điều kiện dạy và học ở bậc mầm non và phổ thông các cấp còn thiếu thốn.
Đây chính là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng bỏ học của học sinh phổ
thông trong những năm qua tuy có giảm nhưng vẫn chiếm tỷ lệ khá cao.
Thống kê cho thấy, năm 2011 - 2012, 15 tỉnh miền núi phía Bắc có 9.790 học
sinh bỏ học, trong đó nhiều nhất là học sinh trung học phổ thông có 6.795,
trung học sơ sở có 2.682 (một số tỉnh có học sinh bỏ học nhiều của vùng này
là: Bắc Kạn và Hà Giang). Lực lượng lao động có trình độ đại học, cao đẳng
của vùng thấp so với cả nước, chỉ chiếm 1,2% trong khi trung bình của cả
nước là 12%[140;106]. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn
đến trình độ dân trí của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc còn hạn chế, dẫn
đến chưa thực sự phát huy tốt vai trò chủ thể của đồng bào trong việc thực
hiện những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước nói chung
và nhiệm vụ giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS trong vùng nói riêng.
Do đó, trong thời gian tới, cần tiếp tục nhân rộng mô hình phát triển
giáo dục gắn với tình hình thực tế của địa phương để góp phần nâng cao trình
độ dân trí cho đồng bào các DTTS để đồng bào thực sự phát huy tốt vai trò
chủ thể của mình.
134

4.2. Những giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc
Trong quá trình phát triển VH vùng đồng bào các DTTS, Đảng, Nhà
nước và chính quyền địa phương cũng đã rất nỗ lực trong việc giữ gìn và phát
huy BSVH các DTTS thông qua các nhiệm vụ cụ thể. Bản thân đồng bào các
DTTS cũng đã nhận thức được tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy
BSVH của DT mình và cũng đang nỗ lực tham gia vào nhiệm vụ đó. Tuy
nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan mà hiệu quả đạt được
từ vấn đề này chưa cao. Do đó, cần thiết phải nhìn nhận vấn đề một cách
khách quan trên cơ sở những yếu tố đặc thù vùng miền để đưa ra những giải
phù hợp trên cơ sở quán triệt những quan điểm nhằm nâng cao hiệu quả giữ
gìn và phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc. Những giải pháp đó tập
trung vào chủ thể giữ gìn, phát huy đó là Đảng, Nhà nước, chính quyền địa
phương, các cơ quan, cán bộ chuyên môn và bản thân đồng bào các DTTS.
4.2.1. Nâng cao chất lượng và đa dạng hóa hình thức, nội dung giáo dục,
tuyên truyền về việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số
BSVH các DTTS nói chung và BSVH hóa các DTTS vùng Đông Bắc
nói riêng được ví như một rừng hoa ngập tràn sắc hương. Mỗi một loài hoa có
vẻ đẹp riêng, có hương thơm riêng tạo nên giá trị riêng - bản sắc riêng cho
mình. Bản sắc ấy có vai trò quan trọng, nền tảng vững chắc - điểm tựa tinh
thần cho mỗi DT tồn tại và phát triển trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Tuy
nhiên, không phải trong mọi giai đoạn, cái hay, cái đẹp, cái giá trị trong
BSVH các DTTS đều được nhận thức đúng và việc giữ gìn, phát huy nó được
thực hiện tốt. Do đó, rất cần thiết phải có sự tuyên truyền sâu rộng đến toàn
xã hội về BSVH các DTTS và việc giữ gìn, phát huy nó trong thời đại hiện
nay - thời đại phát triển kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Thông qua việc tuyên truyền, quán triệt trong các cấp ủy Đảng và chính
quyền cơ sở về vai trò, trách nhiệm đối với công tác giữ gìn và phát huy BSVH các
DTTS, trên cơ sở chủ trương, đường lối chung của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương, các ngành chức năng cần
cụ thể hóa gắn với đặc điểm tình hình riêng của vùng miền, địa phương, cơ sở để có
135

những giải pháp phù hợp. Tránh sự cứng nhắc, khô cứng, thiếu linh hoạt mà ảnh
hưởng đến hiệu quả của công tác giữ gìn, phát huy.
Các cấp ban ngành, cơ quan chuyên môn tại địa phương cần đa dạng
hóa các hình thức tuyên truyền nhằm giáo dục cho đồng bào các DTTS hiểu
về BSVHDT mình. Bởi “vô tri bất mộ” - không thấu hiểu hết cái hay, cái đẹp
của BSVHDT mình thì không thể yêu mến, trân trọng, giữ gìn và quảng bá
cái hay, cái đẹp ấy ra được. Có thể nói, đây là giải pháp quan trọng nhất trong
số các giải pháp. Bởi lẽ, khi nói đến việc giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS
thì chủ thể của nó không ai khác chính là con người có ý thức. Nếu không có
nhận thức đúng, không hiểu được giá trị độc đáo của BSVHDT mình thì sẽ
không có những hành động đúng và có thể xảy ra theo hai xu hướng cực
đoan, đó là coi VH truyền thống là lạc hậu, là cổ hủ, là mê tín dị đoan - là sản
phẩm của xã hội cũ nên chối bỏ, phủ nhận, đoạn tuyệt với nó, tiếp nhận cái
mới lạ trong quá trình giao lưu - hội nhập dẫn đến mất gốc, mất bản sắc. Xu
hướng thứ hai đó là coi trọng tất cả những gì trong VH truyền thống là tốt nên
khư khư bảo vệ, giữ gìn nguyên xi, kể cả nó lỗi thời, lạc hậu, cản trở, kìm
hãm sự phát triển. Do đó, rất cần sự tuyên truyền, giáo dục của các cấp ban
ngành, chính quyền địa phương, đặc biệt là đội ngũ cán bộ làm công tác VH ở
cơ sở qua nhiều hình thức đa dạng, phong phú.
Thứ nhất, thông qua phương tiện thông tin đại chúng: Trong thời đại
bùng nổ thông tin như hiện nay thì các phương tiện thông tin đại chúng có tác
động nhanh, mạnh đến việc truyền tải thông tin. Hệ thống thông tin này bao
gồm các phương tiện: phát thanh, truyền hình, internet, sách vở, báo chí…
Các phương tiện thông tin này có vai trò quan trọng trong việc cung cấp
những kiến thức cơ bản về tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, giáo dục, y
tế, VH, kể cả những chương trình giải trí đến với đồng bào các DTTS, nó
cũng là phương tiện kết nối các tỉnh, các vùng, các nước, các khu vực, các DT
lại với nhau. Điều đó góp phần gia tăng sự đoàn kết DT và nâng cao nhận
thức, sự hiểu biết của đồng bào về tất cả các lĩnh vực trong đó có vấn đề giữ gìn,
phát huy BSVH.
Trong các phương tiện thông tin trên, tuyên truyền qua đài phát thanh và
136

truyền hình tại các bản làng, thôn xóm là có hiệu quả mạnh nhất, vì nó trực tiếp và
gần gũi nhất với đồng bào. Do đó, cần chuẩn bị nội dung phù hợp, tăng tần suất và
thời lượng phát sóng, đặc biệt sử dụng ngôn ngữ DT trong quá trình tuyên truyền
vừa tăng hiệu quả của việc tuyên truyền, vừa trực tiếp giữ gìn ngôn ngữ trong chính
đời sống của cộng đồng. Các kênh truyền hình của địa phương thường xuyên phát
sóng những chương trình về ca ngợi những nét đẹp trong BSVH các DTTS ở địa
phương mình để từ đó hình thành cho đồng bào ý thức tự hào DT, tự hào với những
nét đẹp trong VH truyền thống của cha ông để lại và có ý thức giữ gìn, phát huy
trong đời sống hiện đại.
Các ấn phẩm báo chí của nhà nước và địa phương phát hành nên tăng
cường bổ sung hơn nữa những chuyên mục về giới thiệu và ca ngợi BSVH các
DTTS ở địa phương và lưu hành rộng rãi đến các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc
biệt khó khăn để đồng bào nơi đây có cơ hội tiếp cận được những thông tin hữu
ích trong việc tìm hiểu về chính BSVH của DT mình, địa phương mình. Với hệ
thống internet và cáp quang mới chủ yếu phổ biến ở thành phố, thị xã, thị trấn và
các vùng nông thôn giáp ranh, còn các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn
thì chưa được tiếp cận. Đây là một sự thiệt thòi trong việc tiếp cận những tri thức
mới trong lĩnh vực VH cũng như trong tất cả các lĩnh vực khác. Tuy nhiên, đối với
các vùng đã phổ biến thì nó cũng có tác động hai mặt: Một mặt, nó đem đến cơ
hội cho đồng bào được tiếp cận những giá trị VH mới của quốc tế, khu vực, quốc
gia và các DT khác trong cộng đồng các DT Việt Nam, từ đó, nâng cao khả năng
học hỏi, tiếp thu những giá trị chung của nhân loại để làm giàu có thêm BSVH
của DT mình. Mặt khác, chính điều đó cũng đặt đồng bào các DTTS vào tình thế
khó có thể duy trì được bản sắc khi các yếu tố ngoại lai được hỗ trợ bởi phương
tiện hiện đại đã tác động nhanh, mạnh vào giới trẻ, tầng lớp thanh niên, làm cho
họ thay đổi cách nghĩ, cách làm, cách cảm… dẫn đến lệch lạc trong suy nghĩ,
hành vi, phản nghịch với những giá trị truyền thống - cái làm nên bản sắc được
tôn tạo, duy trì, tiếp nối qua bao thế hệ. Do đó, cần phải tuyên truyền sâu rộng đến
tầng lớp này để họ nhận ra những giá trị tốt đẹp trong VH truyền thống của DT
mình, từ đó, họ tiếp nhận cái mới một cách chủ động, tích cực thông qua màng lọc
là BSVH của DT mình.
137

Thứ hai, thông qua hệ thống giáo dục quốc dân: Ngoài tuyên truyền
thông qua hệ thống thông tin đại chúng, các cấp ban ngành cần kết hợp với
việc truyên truyền thông qua hệ thống trường lớp với chủ thể tuyên truyền là
các thầy cô giáo và tổ chức đoàn thanh niên trong nhà trường. Nhà trường cần
bố trí trong chương trình học những tiết vừa đảm bảo kiến thức chung vừa
cung cấp thêm những kiến thức về BSVH các DTTS trên địa bàn. Các trường
học từ cấp mầm non cũng nên giáo dục, truyền dạy, những bài hát, bài múa,
của đồng bào các DTTS trong các chương trình văn nghệ của nhà trường và
các hội thi văn nghệ các cấp, qua đó, góp phần giáo dục cho các em ngay khi
còn nhỏ những giá trị VH đặc sắc trong kho tàng VH nghệ thuật của đồng bào
các DTTS. Các nhà trường, nhất là các trường ở thị trấn, thành phố nên
thường xuyên tổ chức các buổi ngoại khóa thăm quan bảo tàng tại các địa
phương, thăm quan, trải nghiệm trong các làng VH du lịch, làng VH cộng
đồng, để các em cảm nhận được những nét đẹp trong VH của đồng bào các
DTTS trong thực tế. Từ đó, hình thành trong các em lòng tự hào DT, ý thức
bảo bệ BSDT ngay từ khi còn nhỏ.
Tại các trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp chuyên nghiệp, đoàn thanh
niên và hội sinh viên ở các nhà trường này nên thành lập các câu lạc bộ của từng
DTTS, các câu lạc bộ này thường xuyên có những hoạt động trong việc giữ gìn,
khơi dậy, lan tỏa BSVH tộc người trong những hoạt động ngoại khóa.
Thứ ba, tuyên truyền thông qua các hoạt động VH ở địa phương: Một
hình thức nữa cần được thực hiện để tuyên truyền mọi tầng lớp tham gia vào
việc giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc đó là, thông qua các
hoạt động VH văn nghệ ở địa phương, các hội thi văn nghệ, các ngày hội VH
các DTTS các cấp (toàn quốc, vùng, tỉnh, huyện), qua triển lãm ở bảo tàng địa
phương… Ngày hội VH các DTTS ở các cấp chính là ngày đồng bào phô diễn
những nét đẹp trong VH truyền thống của DT mình thông qua những bộ trang
phục lộng lẫy, những điệu múa, bài hát truyền thống say đắm lòng người, tái
diễn lại những phong tục tập quán đậm đà giá trị nhân văn, mang đậm bản sắc
tộc người. Từ đó, đồng bào các DTTS tự hào hơn về BSVH của DT mình. Họ sẽ
có ý thức gìn giữ và phát huy nó tốt hơn trong đời sống và trao truyền qua các thế
138

hệ. Vì vậy, chính quyền địa phương, các ban ngành chức năng (Sở VH, phòng VH
cần phối hợp với đồng bào DTTS thường xuyên, đều đặn tổ chức ngày hội VH các
DTTS các cấp để duy trì truyền thống trong xã hội hiện đại và tạo điều kiện để nâng
cao đời sống tinh thần, nâng cao mức sáng tạo và hưởng thụ các giá trị VH do chính
đồng bào sáng tạo nên.
Tuy nhiên, quá trình tổ chức cũng cần có sự chuẩn bị chu đáo, chặt chẽ
từ khâu tổ chức cho đến nội dung chương trình thể hiện, tránh sự hời hợt, tổ
chức cho xong lần, như vậy sẽ không những không duy trì và phát huy, lan
tỏa được những giá trị VH truyền thống mang đậm bản sắc của đồng bào các
DTTS mà còn thất vọng, tạo tâm lý chán nản của đội biểu diễn văn nghệ, các
nghệ nhân và khán giả theo dõi. Khiến cho họ không nhiệt tình tham gia biểu
diễn hoặc có cũng chỉ là xuất phát từ tâm lý tham gia cho xong lần, không
truyền được cảm hứng đến cho khán giả để họ hiểu, yêu mến về những giá trị
trong kho tàng VH các DTTS. Nội dung chương trình cần được đa dạng hóa,
hình thức tổ chức cần có sự đổi mới qua mỗi lần tổ chức để thu hút sự đông
đảo đồng bào tham gia, tạo tâm lý nuối tiếc qua mỗi lần kết thúc ngày hội để
họ hồ hởi, phấn khởi chờ đợi những ngày hội của các năm tiếp theo diễn ra.
Khi đó chính là lòng tự hào DT được nâng cao, ý thức về giữ gìn, phát huy
BSVH của DT mình được quan tâm sâu sắc.
Đồng bào các DTTS thường có tâm lý cho rằng mình là những chủ
nhân của nền VH của DT mình nên hiểu rõ nhất về nền VH đó, những trên
thực tế, không phải ai cũng thấy được hết cái hay, cái đẹp trong VH của DT
mình. Vì vậy, hình thức tuyên truyền cho đồng bào trong các buổi triển lãm, trưng
bày trong các bảo tàng địa phương cần tập trung vào giới thiệu những ấn phẩm sưu
tầm vốn VH cổ truyền của họ cùng với đó là sự đánh giá, ca ngợi cái hay, cái đẹp
trong BSVH của mỗi DT một cách khách quan, khoa học của những nhà VH có uy
tín, đặc biệt là những nhà khoa học là người DTTS. Các ấn phẩm trình bày ngắn
gọn, rõ ràng, xúc tích, hình ảnh đẹp thể hiện rõ sự trân trọng, nâng niu VHDT của
các tác giả và người trình bày trước công chúng. Cách tuyên truyền này vừa tránh
được sự khô khan, cứng nhắc vừa giúp đồng bào tự thấy được sự hiểu biết về VH
và cội nguồn DT của mình còn hạn chế mà quan tâm tìm hiểu nhiều hơn vấn đề này
với ý thức tự hào DT.
139

Thứ tư, thông qua thiết chế gia đình, dòng họ, bản làng: Đây chính là môi
trường cho sự hình thành, tồn tại và phát triển các giá trị VH của đồng bào các
DTTS vùng Đông Bắc. Để các giá trị VH này tiếp tục được duy trì, phát huy qua
các thế hệ thì bản thân mỗi gia đình, dòng họ cần tiếp tục thực hành một cách
thường xuyên. Các ngày lễ tết, lễ hội, các phong tục tập quán của DT, các bậc cha
mẹ, các bậc trưởng họ nên thường xuyên tổ chức tham gia và nhắc nhở các thành
viên trong gia đình, dòng họ tích cực tham gia để gìn giữ BSVH tộc người. Các bậc
ông bà, cha mẹ nên tích cực trao truyền cho thế hệ con cháu BSVH của tộc người
mình thông qua những câu truyện kể, những hoạt động truyền dạy ngôn ngữ, dân
ca, dân vũ cũng như những tri thức dân gian.
Đối với bản làng, sự tuyên truyền, giáo dục về BSVHDT và ý thức giữ
gìn, phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc cần tiếp tục được thực hiện
thông qua các nghệ nhân, các già làng, trưởng bản - người có uy tín trong
cộng đồng. Bởi lẽ, họ là người đúc kết, hội tụ, gìn giữ được những nét bản sắc
độc đáo của DT, có kinh nghiệm và uy tín tổ chức các hoạt động VH, là trụ
cột trong các hoạt động VH, tiếng nói của họ có giá trị cao và được nể trọng
trong cộng đồng. Họ có khả năng khơi dậy được ý thức giữ giữ gìn, phát huy
BSVH của DT trong cộng đồng bằng những việc làm cụ thể như tổ chức các
hoạt động VH truyền dạy cho đồng bào trong cộng đồng những giá trị BSVH
như ngôn ngữ, cách may trang phục truyền thống, các điệu múa, bài hát
truyền thống, các phong tục tập quán tốt đẹp của DT…. Đây là lớp người có
vai trò không thể thay thế trong thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục giữ
gìn BSVH của DT. Do đó, chính quyền địa phương cần nắm bắt được đội ngũ
các nghệ nhân, già làng, trưởng bản còn lưu giữ được trong mình những nét
đẹp trong BSVH của các DTTS để có những chính sách ưu tiên, khuyến
khích, động viên để họ tích cực tuyên truyền cho đồng bào trong dòng họ, bản
làng thấy được cái hay, cái đẹp trong BSVH của mình từ đó có ý thức giữ gìn,
phát huy nó trong đời sống cộng đồng. Chính quyền địa phương cần tạo mọi
điều kiện về cơ sở vật chất, có chính sách bồi dưỡng, hỗ trợ để các nghệ nhân
tổ chức các lớp dạy cho đồng bào các DTTS về các giá trị VH phi vật thể của
đồng bào. Có như vậy mới tạo động lực để họ thiết tha duy trì, trao truyền
những giá trị VH giàu bản sắc trong cộng đồng.
140

4.2.2. Xây dựng đội ngũ làm công tác văn hóa đáp ứng yêu cầu giữ
gìn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số
Đội ngũ cán bộ tại các địa phương vùng Đông Bắc thì nhiều, nhưng đội
ngũ làm công tác liên quan và trực tiếp đến VH các DTTS còn thiếu. Đặc biệt,
ở cấp cơ sở chỉ định biên một cán bộ phụ trách toàn bộ lĩnh vực VH - xã hội
rộng lớn. Đội ngũ cán bộ VH ở cơ sở vùng đồng bào các DTTS có ý nghĩa to
lớn cả về phương diện chính trị và phương diện VH. Họ vừa là người dại diện
cho DT mình tham gia quản lý, điều hành bộ máy ở cơ sở, vừa là người triển
khai, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ VH thông tin, vừa giữ gìn và phát huy
BSVH của chính DT mình. Do đó, để công tác giữ gìn và phát huy BSVH các
DTTS có hiệu quả thì việc đào tạo, bồi dưỡng năng lực đội ngũ cán bộ quản
lý và hoạt động trong lĩnh vực VH hiện đang là đòi hỏi cấp bách.
Trước tiên, cần phải làm nghiêm túc hơn nữa khâu tuyển chọn. Muốn
có được nguồn cán bộ làm công tác VH đủ, có trình độ chuyên môn, có phẩm
chất đạo đức tốt, nhiệt huyết, đam mê, tận tâm với công việc thì khâu tuyển
chọn vô cùng quan trọng. Để có đội ngũ cán bộ làm công tác VH có trình độ
chuyên môn cần tuyển chọn người được đào tạo chính quy, đúng chuyên
ngành VH. Có như vậy, mới đảm bảo được mặt chuyên môn, tránh tình trạng
tuyển chọn trái ngành xong về đi làm lại tiếp tục cử đi học theo diện vừa học,
vừa làm. Tuyển chọn như vậy sẽ được một lực lượng cán bộ không làm được
việc ngay mà lại mất thời gian, kinh phí đào tạo lại. Mặt khác, ngoài trình độ
chuyên môn, cũng cần tập trung vào đối tượng có niềm đam mê, tâm huyết
với lĩnh vực VH, nhất là VH các DTTS. Muốn vậy, nguồn tuyển chọn cần
được chắt lọc, tập trung vào đối tượng là người DTTS. Các cơ quan địa
phương cần phối hợp chặt chẽ với Bộ VH và du lịch, Bộ giáo dục và đào tạo
tháo gỡ vướng mắc trong khâu tuyển sinh để tuyển chọn được những hạt nhân
VH cơ sở đưa vào đào tạo tập trung dưới dạng cử tuyển.
Đối với các em học sinh đang theo học tại các trường DT nội trú tỉnh,
dự bị đại học mà có khả năng về lĩnh vực VH - nghệ thuật của đồng bào các
DTTS hay có sự am hiểu, đam mê về nghiên cứu, tìm hiểu BSVH của các DT
tại địa phương thì thầy cô, gia đình nên phân tích, hướng các em theo học tại
141

các trường VH nghệ thuật cấp tỉnh, các trường đại học, cao đẳng có chuyên
ngành VH, VHDTTS… để các em phát huy được sở trường, thế mạnh. Từ đó,
nuôi dưỡng niềm đam mê, nhiệt huyết, tận tâm với nghề cùng với những
chính sách ưu đãi của địa phương tạo điều kiện để các em trở về quê hương
công tác. Có như vậy mới tạo ra được một lực lượng cán bộ mạnh về chuyên
môn, giàu có về phẩm chất để tham gia hoàn thành tốt nhiệm vụ giữ gìn và
phát huy BSVH các DTTS trong vùng, trong tỉnh.
Cần có kế hoạch ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nghiên cứu VH các
DTTS. Nên có chế độ đãi ngộ thích hợp, coi đó là sự động viên để họ an tâm
công tác, đóng góp vào công việc giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS.
Đối với đội ngũ cán bộ VH chuyên tham gia vào những hoạt động liên
quan đến mảng VH các DTTS, cần có chế độ đãi ngộ thích đáng để khuyến
khích họ toàn tâm, toàn ý cho công việc, thường xuyên xuống cơ sở để nắm
bắt tình hình, tuyên truyền đồng bào giữ gìn những nét đẹp trong VH truyền
thống, loại bỏ những hủ tục, tập quán lạc hậu, tiếp thu những giá trị mới nhằm
nâng cao đời sống vật chất và đời sống tinh thần cho đồng bào. Đối với cán
bộ VH cấp huyện thị và thành phố, cần đủ về số lượng và đảm bảo về chất
lượng chuyên môn, có sự phân bổ cho hợp lý, tránh tình trạng chỉ tập trung
đội ngũ cán bộ vào mảng thể thao và du lịch, tập trung vào những mảng nổi
như các hoạt động phong trào mà thiếu đi đội ngũ cán bộ VH chuyên về mảng
nghiên cứu, sưu tầm, tuyên truyền, quản lý các hoạt động VH của đồng bào
các DTTS. Thực tế mới có cấp tỉnh là Sở VH mới có đội ngũ chuyên sâu về
lĩnh vực này, còn cấp huyện (phòng VH) và cấp xã thì đội ngũ cán bộ VH vẫn
bao quát chung mọi lĩnh vực. Trong khi, ở cơ sở - nơi gần gũi nhất với đồng
bào rất cần có đội ngũ am hiểu chuyên sâu về lĩnh vực VH các DTTS, từ đó,
họ mới nắm bắt, tuyên truyền và giải quyết kịp thời mọi vướng mắc liên quan
đến mọi hoạt động VH của đồng bào các DTTS.
Với nguồn cán bộ VH tại cơ sở không qua đào tạo chính quy mà được
luân chuyển từ vị trí khác sang thì cần yêu cầu đi học tập, bồi dưỡng, tập huấn
chuyên ngành để hoàn thiện và nâng cao kiến thức chuyên môn. Chính quyền
cơ sở cần khuyến khích cán bộ VH tham gia những đề tài nghiên cứu khoa
học hay những sáng kiến liên quan đến công tác giữ gìn và phát huy BSVH
142

các DTTS ở địa phương, vừa để họ rèn rũa nâng cao kiến thức chuyên môn,
sự am hiểu, về BSVH các DTTS tại địa phương, vừa để họ có cơ hội kiểm
chứng những ý tưởng về giải pháp giữ gìn và phát huy BSVH trên thực tế. Có
như vậy, mới đào tạo được đội ngũ cán bộ VH tại cơ sở mạnh về chất lượng,
dày dạn kinh nghiệm để hiện thực hóa mọi chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng, Nhà nước.
Cần phát huy vai trò của các trí thức người DT đã nghỉ hưu trong sưu
tầm, giới thiệu vốn VH truyền thống của họ. Bản thân họ là những người dày
dạn kinh nghiệm, có tri thức về vốn VH truyền thống của đồng bào các
DTTS, có niềm đam mê, sự tận tâm, tận tụy, nên các ngành chức năng cần có
sự hợp tác dưới vai trò là các cộng tác viên, để cùng tham gia vào công tác
giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS nhằm đạt được hiệu quả cao.
Với một đội ngũ làm công tác VH đủ mạnh về số lượng và chất lượng
(có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp) thì
mới đảm bảo được tiến độ và hiệu quả của công việc. Thực hiện chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước một cách linh hoạt,
tránh cứng nhắc, bảo thủ, có tư duy biện chứng để nhìn nhận khách quan
những mặt tích cực, mặt hạn chế trong BSVH các DTTS, để có cách thức giải
quyết phù hợp trên cơ sở nhận thức được vai trò, vị trí địa lý cũng như hoàn
cảnh lịch sử của đồng bào các DTTS tại địa phương. Đồng thời, tham mưu
cho các cấp kết hợp hài hòa giữa chính sách kinh tế với chính sách VH. Tránh
tập trung cho sự phát triển kinh tế mà hủy hoại các giá trị VH.
Tóm lại, trong bối cảnh hiện nay, cần thiết phải xây dựng một đội ngũ
làm công tác VH có chuyên môn, lương tâm và bản lĩnh nghề nghiệp thì trong
công tác giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS mới không làm biến dạng các
giá trị truyền thống do xu hướng thị trường, thương mại hóa chi phối hay sự
mất mát vĩnh viễn những giá trị VH truyền thống do những hành vi thiếu hiểu
biết khoa học gây ra.
4.2.3. Đầu tư một cách cân xứng, hài hòa giữa nguồn lực kinh tế và
nguồn lực phát triển văn hóa
Cần khẳng định một thực tế rằng, các tỉnh vùng Đông Bắc do vị trí địa
lý, điều kiện tự nhiên không thuận lợi cùng với trình độ dân trí chưa cao, nên
143

đồng bào các DTTS nơi đây có đời sống vật chất còn thiếu thốn, sản xuất chủ yếu
dựa vào nông nghiệp. Đặc biệt, các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào DTTS, hệ
thống giao thông thủy lợi, điện, đường, trường, trạm còn thiếu thốn, nhiều khó
khăn. Do đó, những năm vừa qua, nhà nước đã có nhiều chương trình, dự án lớn tập
trung cho phát triển kinh tế, cải thiện sinh hoạt và nâng cao đời sống vật chất cho
đồng bào vùng này. Sự tập trung quá mức để đầu tư cho phát triển kinh tế, cho đời
sống vật chất mà chưa để ý hoặc coi nhẹ sự đầu tư cho lĩnh vực VH. Dẫn đến đời
sống vật chất dần được cải thiện nhưng kéo theo sự mai một, mất dần bản sắc của
đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc, làm cho đời sống tinh thần suy giảm, ảnh
hưởng đến sự phát triển bền vững. Vì thế, rất cần có sự đầu tư lớn trong lĩnh vực
VH trong đó có sự đầu tư cho việc giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS để BSVH
thực sự trở thành điểm tựa, sức mạnh nội sinh đưa vùng Đông Bắc tiến kịp xu thế
phát triển chung của đất nước.
Sự đầu tư để phát triển VH có thể huy động từ nhiều nguồn lực: Ngân sách
nhà nước, doanh nghiệp, đóng góp của nhân dân, nguồn viện trợ của các cá nhân, tổ
chức trong nước và quốc tế, các nguồn vốn hợp pháp khác. Huy động sự tham gia
của nhiều lực lượng xã hội vào công tác giữ gìn và phát huy BSVH Các DTTS như:
Các nhà quản lý, nhà khoa học, nhà VH, các doanh nghiệp, các tầng lớp nhân dân,
đặc biệt là bản thân đồng bào các DTTS, họ chính là chủ thể chính trong việc giữ
gìn và phát huy BSVH của DT mình.
Với nguồn lực đầu tư của nhà nước, cần tiếp tục phát huy và nâng cao
hiệu quả. Đây chính là nguồn lực chủ yếu trong mục tiêu giữ gìn và phát huy
BSVH các DTTS ở các tỉnh vùng Đông Bắc. Do điều kiện khó khăn, nguồn
ngân sách địa phương hạn hẹp nên trong mục tiêu giữ gìn, phát huy BSVH
các DTTS ngân sách trung ương chiếm tới 70%, ngân sách địa phương chiếm
20%, còn lại là nguồn vốn hợp pháp khác.
Trong ngân sách trung ương cần có sự phân bổ, điều chỉnh hợp lý về
chính sách đầu tư để đạt hiệu quả cao nhất, tránh sự dàn trải mà cần xác định
được nội dung ưu tiên để đầu tư của nhà nước có tính trọng tâm, trọng điểm,
đủ mạnh để giải quyết những nhiệm vụ ưu tiên.
Ngoài nguồn đầu tư của nhà nước, cũng cần tăng cường hơn nữa nguồn
vốn từ địa phương và nguồn vốn từ xã hội hóa. Trong những năm gần đây,
144

vùng đồng bào các DTTS nói chung và đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc
nói riêng đã được hưởng nhiều chính sách ưu tiên, nhằm thúc đẩy kinh tế phát
triển, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần. Trong tổng thể nguồn vốn đầu
tư về các tỉnh vùng Đông Bắc cũng như nguồn vốn địa phương, cần có sự
phân bổ hài hòa giữa nguồn vốn đầu tư cho phát triển kinh tế với nguồn vốn
đầu tư cho phát triển VH trên địa bàn của tỉnh. Có những chính sách ưu tiên,
khuyến khích, tạo điều kiện để cho các doanh nghiệp tư nhân đầu tư kinh
doanh trong lĩnh vực VH du lịch như: kinh doanh nhà hàng ẩm thực DT, xây
dựng các làng VH du lịch, khu sinh thái ở vùng đồng bào DTTS, xây dựng
bảo tàng VH DTTS tư nhân…. Đây cũng là cách thu hút vốn đầu tư vào lĩnh
vực giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS trên địa bàn. Ngoài ra, với việc tạo
được hành lang pháp lý, môi trường làm việc cho các doanh nghiệp tư nhân
trên địa bàn yên tâm làm ăn kinh doanh, tăng thu nhập, từ đó kêu gọi các
doanh nghiệp đó, bản thân đồng bào các DTTS là chủ các doanh nghiệp công
tác trong và ngoài nước cùng tham gia đóng góp nguồn vốn xã hội hóa cho
các nhiệm vụ như: phục dựng các ngôi nhà truyền thống, thành lập các câu lạc
bộ, đội văn nghệ quần chúng dân gian, các hội thi, hội diễn, các lễ hội …. Có
như vậy mới huy động được tổng thể nguồn vốn để thực hiện được những
nhiệm vụ cụ thể như: Đầu tư vốn cho công tác nghiên cứu, sưu tầm, phục
dựng các giá trị VH của đồng bào các DTTS một cách liên tục, cấp kinh phí
để tổ chức các hoạt động VH nhằm tuyên truyền đồng thời duy trì, thực hiện
các hoạt động VH cộng đồng như tổ chức ngày hội VH các cấp, tổ chức trưng
bày, triển lãm các giá trị VH vật thể, phi vật thể, tổ chức các hội thi, hội diễn,
tổ chức các buổi tập huấn, các hội thảo để trao đổi tri thức, kinh nghiệm của
các nhà quản lý, nhà khoa học, nghệ nhân trong việc giữ gìn và phát huy
BSVH các DTTS. Đồng thời, có nguồn kinh phí để động viên, khuyến khích,
hỗ trợ cho các nghệ nhân đồng bào DTTS đang nắm giữ những giá trị VH phi
vật thể và đang có những hoạt động trao truyền các giá trị VH đó cho cộng
đồng, cho thế hệ sau.
Ngoài việc huy động tổng thể các nguồn vốn đầu tư, các tỉnh vùng
Đông Bắc cũng cần huy động mọi lực lượng cùng chung tay vào nhiệm vụ
giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS trên địa bàn. Vì vậy, cần nâng cao vai
145

trò lãnh đạo của đảng bộ, sự quản lý của chính quyền, vai trò vận động đồng
bào các DTTS của các tổ chức chính trị - xã hội trong việc giữ gìn và phát
huy BSVH của họ là rất quan trọng. Đối với đồng bào các DTTS vùng Đông
Bắc, đặc biệt là ở những nơi vùng sâu, vùng xa, trình độ dân trí còn thấp, đa
số đồng bào vẫn thường quen tư duy theo lối trực quan, trực giác, chỉ tin vào
kinh nghiệm và những điều mắt thấy tai nghe. Vì vậy, trong sự nghiệp cách
mạng nói chung, giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS nói riêng cần thiết
phải có sự lãnh đạo, định hướng sáng suốt của các tổ chức Đảng, chính quyền
đoàn thể, sự hướng dẫn và gương mẫu của các cán bộ đảng viên, lực lượng
quan trọng mang tính quyết định đó chính là bản thân đồng bào các DTTS với
sự hưởng ứng, nhiệt tình cùng chung tay vào giữ gìn và phát huy các giá trị
tốt đẹp trong VH của DT mình.
4.2.4. Nâng cao trình độ, năng lực của đồng bào các dân tộc thiểu số với
tư cách là chủ thể của giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc mình
Bản thân đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc, nhất là đồng bào cư trú
ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, do giao thông chia cắt, địa hình
hiểm trở, sự giao lưu, tiếp xúc với các nguồn thông tin liên lạc còn hạn chế
cho nên trình độ dân trí rất thấp so với mặt bằng chung của đất nước. Trình độ
dân trí thấp ảnh hưởng đến khả năng tiếp thu các chủ trương, đường lối của
Đảng còn chậm, khả năng chọn lọc những giá trị VH mới, kế thừa có chọn lọc
các giá trị VH truyền thống còn kém và thiếu linh hoạt, dễ bị tư tưởng chạy
theo cái mới chi phối hoặc tư tưởng bảo thủ ôm khư khư quá khứ, từ chối giao
lưu, tiếp xúc, tiếp nhận cái mới một cách tích cực. Trình độ dân trí thấp là
nguyên nhân dẫn đến sự kém hiệu quả trong sự phối kết hợp giữa các cơ quan
chính quyền, các ban ngành trong việc chung tay giữ gìn và phát huy BSVH
các DTTS. Do đó, cần nâng cao trình độ dân trí cho đồng bào bằng cách đẩy
mạnh giáo dục và đào tạo. Giáo dục là quốc sách hàng đầu của mọi quốc gia,
vì nó là nền tảng tri thức, cơ sở tạo ra nhân tài cho đất nước. Sự lạc hậu, tiên
tiến của một DT biểu hiện trước hết ở sự lạc hậu hay tiên tiến của giáo dục.
Hồ Chí Minh đã từng nói: “một DT dốt là một DT yếu”. Cho nên, để chiến
thắng được nghèo nàn, lạc hậu, giữ gìn được BSVH thì cần phát triển giáo
dục, mở mang dân trí.
146

Nhiệm vụ đầu tiên là tăng cường giáo dục trong nhà trường để vừa nâng cao
trình độ học vấn vừa nâng cao sự hiểu biết xã hội cho thế hệ trẻ đồng bào các DTTS
một cách bài bản. Muốn vậy, cần phải tiếp tục nghiên cứu, đổi mới nội dung,
chương trình, phương pháp giáo dục cho phù hợp với đồng bào các DTTS, lồng
ghép giáo dục giá trị VH truyền thống của đồng bào các DTTS trong vùng vào
chương trình chính khóa (thông qua các bài giảng trong môn học giáo dục công
dân, môn lịch sử, môn văn học…) và các hoạt động ngoại khóa của các nhà trường
nhằm vừa giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống vừa giáo dục lòng tự hào
DT và ý thức giữ gìn, phát huy BSVHDT.
Kết hợp có hiệu quả chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục với
chương trình mục tiêu quốc gia về VH ở các tỉnh vùng Đông Bắc. Chính nguồn
vốn trong chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục tạo điểu kiện để xây dựng
mới các trường DT nội trú của tỉnh và của huyện, tạo điều kiện cho con em đồng
bào các DTTS ở vùng khó khăn đến trường miễn phí và có chính sách thu hút
các thầy cô giáo vùng xuôi lên công tác được học tập, bồi dưỡng tiếng DT để
nắm được BSVH của đồng bào các DTTS, từ đó có cách giáo dục, tuyên truyền
đến các em học sinh ý thức gìn giữ, phát huy bản sắc đó trong cộng đồng.
Thầy cô trong nhà trường kết hợp với các tổ chức hội ở địa phương
(thôn, bản) như hội phữ, đoàn thanh niên đến vận động đồng bào có con em
đến độ tuổi đi học và con em đang học dang dở tiếp tục tới trường nhằm thực
hiện tốt việc xóa mù chữ và phổ cập trung học đối với các em là người DTTS.
Đối với các già làng, trưởng bản không biết chữ phổ thông, nhà nước
cần mở các lớp bổ túc để họ biết chữ phổ thông, từ đó họ mới tìm hiểu, tiếp
thu, nắm vững được chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của nhà nước, đồng thời tham gia vào tuyên truyền, hướng dẫn cho đồng bào
trong bản thực hiện tốt mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp
luật của nhà nước và các quy định của địa phương.
Ngoài việc nâng cao trình độ dân trí thông qua giáo dục trong hệ thống nhà
trường thì việc giao lưu, tiếp xúc với các DT khác trong vùng và thường xuyên tiếp
cận với hệ thống phương tiện thông tin như sách vở, báo chí, đài phát thanh, truyền
hình, Internet… cũng là cách để mở mang hiểu biết, nâng cao trình độ dân trí cho
đồng bào các DTTS. Trong thời buổi công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh
147

tế thị trường và hội nhập quốc tế như hiện nay, trình độ dân trí được coi là nền tảng
của sự phát triển. Do đó, nếu đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc sống khép kín,
cô lập, không có sự giao lưu tiếp xúc với các DT khách trong và ngoài vùng thì
không thể nâng cao được sự hiểu biết. Chính sự phát triển kinh tế thị trường và hội
nhập quốc tế như hiện nay là cơ hội để các DT được giao lưu, tiếp xúc với nhau trên
mọi lĩnh vực. Từ đó, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, chia sẻ những kinh nghiệm
trong lao động sản xuất, tìm hiểu và học hỏi những cái hay, cái đẹp trong VH của
các DT khác để trên cái nền truyền thống, các DT tự làm mới mình, phát triển kinh
tế, VH của DT mình lên theo kịp xu thế phát triển chung của đất nước.
Sự tăng cường các phương tiện thông tin như sách, báo, đài phát thanh,
truyền hình, Internet đến những bản vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn,
không chỉ giúp cho đồng bào ở các vùng này tiếp cận được với chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước một cách thường xuyên, thông suốt
và trực tiếp nhất mà còn giúp cho đồng bào các DTTS nâng cao sự hiểu biết về
những kiến thức bổ ích liên quan đến sức khỏe, mô hình kinh nghiệm phát triển
kinh tế, giáo dục, VHDT, hướng dẫn sản xuất,… trên các kênh truyền hình như
VTV1, VTV2, VTV3 và các kênh truyền hình địa phương. Đội ngũ cán bộ VH
cơ sở cần nêu cao tinh thần trách nhiệm trong việc tuyên truyền, định hướng cho
đồng bào DTTS lựa chọn, theo dõi các chương trình liên quan đến VHDT như
những kênh truyền hình có phát sóng giới thiệu về VH độc đáo, đặc sắc của các
DT cũng như những việc làm cụ thể mà các DT đang thực hiện để tham gia trực
tiếp vào việc giữ gìn, phát huy BSVH của DT họ. Từ đó, giúp cho đồng bào các
DTTS cảm thấy tự tin hơn, tự hào hơn về những giá trị trong kho tàng VH của
DT mình và có ý thức, hành động giữ gìn, phát huy nó.
Như vậy, cần phát huy tốt vai trò của giáo dục trong nhà trường, bên
cạnh việc nâng cao trình độ học vấn, các nhà trường cần có những cách thức
để nâng cao sự hiểu biết nói chung của đồng bào các DTTS về các lĩnh vực xã
hội thông qua chương trình chính khóa cũng như chương trình ngoại khóa.
Các trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm dạy nghề ở các huyện do
phòng lao động thương binh xã hội kết hợp với các trường nghề tổ chức đào
tạo tại địa phương cũng cần lồng ghép vào chương trình giảng dạy để giáo
dục các em là học sinh DTTS phải nhận thức được đúng đắn các giá trị VH
148

truyền thống của DT mình và có những cách thức thực hiện để duy trì, phát
huy những giá trị đó trong cộng đồng.
Trình độ dân trí của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc cũng được nâng
cao do sự giao lưu, hội nhập, sự va chạm, tiếp xúc giữa các DT trong phạm vi
toàn quốc, khu vực, tỉnh, huyện và sự tiếp cận với các phương tiện thông tin đại
chúng như sách vở, báo chí, đài phát thanh, truyền hình, internet. Do đó, các tỉnh
vùng Đông Bắc cần tăng cường đầu tư, đặc biệt sự đầu tư điện lưới quốc gia đến
các thôn bản vùng sâu vùng xa để họ có cơ hội sử dụng các phương tiện thông
tin trên. Đối với sách vở, tạp chí vẫn đang được nhà nước cấp phát miễn phí đến
các huyện, xã vùng đặc biệt khó khăn để nâng cao dân trí cho đồng bào nhưng
hiệu quả đạt được chưa cao từ chương trình này. Sách, báo, tạp chí cấp phát về
các huyện, xã thì nhiều nhưng số lượng đến tay bản thân đồng bào các DTTS thì
ít. Mặt khác, nhu cầu đọc, tìm hiểu của đồng bào chưa cao, trong điều kiện kinh
tế còn eo hẹp, đồng bào chỉ tập trung làm ăn, lên nương rẫy cả ngày không có
thời gian tìm hiểu, có nơi thì khả năng đọc chữ phổ thông còn hạn chế nên khó
khăn trong việc nghiên cứu, tìm hiểu. Do đó, vấn đề đặt ra là chính quyền địa
phương cần kết hợp với các tổ chức ban ngành khảo sát, thống kê số lượng
người chưa biết đọc, biết viết chữ phổ thông để có những phương án giáo dục bổ
túc dành cho đối tượng là đồng bào các DTTS không biết chữ nhằm xóa tình
trạng mù chữ hiện vẫn còn ở một số vùng sâu, vùng xa. Chỉ khi xóa được tình
trạng này thì đồng bào mới tiếp cận được dễ dàng các nguồn tri thức cần thiết,
trong đó có các tri thức về giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS.
Tóm lại, khi trình độ dân trí của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc
được nâng cao, họ sẽ chủ động, tự giác, tích cực tiếp thu nhanh, nhạy với các
chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, nhận thức được
những giá trị tích cực, cái hay, cái đẹp trong BSVH của DT mình để từ đó
củng cố niềm tin, lòng tự hào DT, ý thức tự giác tộc người, không ngừng phát
huy, phát triển BSVH của tộc người mình cho phù hợp với xu thế mới đồng
thời thấy được cái không phù hợp, cái hủ tục, tập quán lạc hậu, cổ hủ trong
VH truyền thống để từ đó loại bỏ dần trong cuộc sống của đồng bào. Có như
vậy, BSVH của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc mới không ngừng được
giữ gìn và phát huy trong đời sống cộng đồng.
149

Tiểu kết chương 4


Trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế, các tỉnh vùng Đông Bắc cần nhận thức rõ vai trò, vị trí của BSVH
các DTTS trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội nói chung, trong việc nâng cao
đời sống tinh thần cho đồng bào các DTTS nói riêng. Từ sự nhận thức đúng đắn,
cần có những hành động cụ thể, thiết thực, phù hợp với nguyên tắc chung và những
đặc điểm riêng của vùng miền, DT để có những giải pháp phù hợp nhằm nâng cao
hiệu quả của việc giữ gìn và phát huy các DTTS vùng Đông Bắc. Trong quá trình
thực hiện, cần phải dựa trên nguyên tắc thống nhất trong đa dạng và tiên tiến hóa
nền VH Việt Nam, đồng thời phải gắn với việc nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho đồng bào các DTTS và phát huy tốt vai trò chủ thể chính là đồng bào các
DTTS. Những quan điểm đó phải được quán triệt một cách đồng bộ, xuyên suốt,
trong hệ thống đường lối, chủ trương, sách sách của Đảng, Nhà nước và trong quá
trình tổ chức, triển khai, thực hiện thông qua những giải pháp chủ yếu: Tiếp tục
nâng cao và đa dạng hóa các hình thức, nội dung tuyên truyền nhằm nâng cao nhận
thức của toàn xã hội về việc giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS; xây dựng đội ngũ
làm công tác VH đủ mạnh về số lượng và chất lượng để hoàn thành tốt nhiệm vụ
hiện thực hóa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực
VH, trong đó có vấn đề giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS; Nhà nước và các địa
phương cần đầu tư nguồn lực một cách hài hòa, cân xứng giữa nguồn lực kinh tế
với nguồn lực phát triển VH; Nâng cao trình độ dân trí cho đồng bào các DTTS
vùng Đông Bắc để họ phát huy tối đa vai trò chủ thể trong việc giữ gìn và phát huy
BSVH của DT mình.
Hệ thống giải pháp này vừa mang tính chiến lược, vừa có tính cụ thể, vừa
phù hợp với đặc thù của vùng trong quá trình phát triển nhằm góp phần nâng cao
hiệu quả của việc giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS trong địa bàn.
150

KẾT LUẬN
BSVH các DTTS vừa mang những đặc trưng cơ bản của BSVH Việt Nam
vừa có những sắc thái VH riêng, độc đáo, đặc thù tạo nên nền VH Việt Nam
phong phú, đa dạng. Cái riêng, cái đặc thù làm nên BSVH các DTTS xuất phát từ
những điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh lịch sử, điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể.
BSVH các DTTS vùng Đông Bắc trong những điều kiện cụ thể của vùng có
những biểu hiện phong phú, đa dạng trong VH vật thể (nhà ở; trang phục; ẩm thực;
tư liệu sinh hoạt, lao động) và VH phi vật thể (ngôn ngữ, phong tục tập quán, lễ hội,
tín ngưỡng, tôn giáo, nghệ thuật và tri thức bản địa). Những đặc trưng cơ bản của
BSVH vùng Đông Bắc là: Thế giới quan thần bí, tín ngưỡng vạn vật hữu linh ăn
sâu bám rễ vào mọi khía cạnh của đời sống xã hội; đề cao đời sống tinh thần, sống
đoàn kết, hài hòa, tình nghĩa; đức tính cần cù, thông minh, sáng tạo và khả năng
thích ứng với môi trường tự nhiên khắc nghiệt; cách tư duy tự nhiên, chân thật,
phản ánh một lối sống giản dị, mộc mạc.
Từ lý luận về giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS, luận án trình bày vấn
đề giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc Việt Nam thông qua
việc giữ gìn, phát huy các giá trị VH vật thể và giá trị VH phi vật thể. Đây là
một quá trình thống nhất giữa giữ gìn với phát huy nhằm làm cho BSVH của
các DTTS vùng Đông Bắc được lưu giữ, không bị mất mát, tổn hại và làm
cho cái hay, cái tốt của BSVH lan tỏa tác dụng, tiếp tục làm nảy nở thêm
trong cuộc sống để đóng vai trò làm sức mạnh nội sinh đưa các DTTS hòa
nhập theo xu thế chung của cả nước, đóng góp vào xây dựng nền VH Việt
Nam tiên tiến, đậm đà BSDT và thống nhất trong đa dạng.
Luận án đã đánh giá và khái quát những thành tựu và hạn chế trong quá
trình giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc. Đảng, Nhà nước,
chính quyền địa phương và đặc biệt là sự tham gia tích cực, chủ động của
đồng bào các DTTS vào việc giữ gìn, phát huy BSVH của đồng bào mà
những nội dung trong BSVH của đồng bào (VH vật thể và VH phi vật thể)
được quan tâm giữ gìn, phát huy với nhiều hình thức phong phú, đa dạng. Bản
thân đồng bào các DTTS dưới sự tuyên truyền, giáo dục của các cơ quan
chuyên môn đã có những sự nhận thức đúng đắn về BSVH của DT mình, đã
phát huy cao vai trò chủ thể của mình trong việc sáng tạo và hưởng thụ các
giá trị VH đồng thời là chủ thể trong việc giữ gìn, phát huy BSVH.
151

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, nhiệm vụ giữ gìn và
phát huy BSVH của đồng bào các DTTS vẫn còn nhiều hạn chế. Hạn chế đó
xuất phát từ bản thân chủ thể là Nhà nước, chính quyền địa phương, đồng bào
các DTTS với những cách thức thực hiện chưa phù hợp, chưa sát, chưa đúng
trọng tâm, triệt để. Do đó nhiều giá trị VH truyền thống mang đậm đà bản sắc
đang dần mai một trước tác động của nền kinh tế thị trường, của giao lưu và
hội nhập quốc tế. Các yếu tố thuộc về VH vật thể như nhà ở truyền thống,
trang phục truyền thống, ẩm thực truyền thống … vắng bóng dần trong cuộc
sống của đồng bào, chỉ còn tồn tại thưa thớt ở những bản vùng sâu, vùng xa,
vùng đặc biệt khó khăn. Các giá trị VH phi vật thể ít được đồng bào thực
hiện, đặc biệt là giới trẻ thì quay lưng lại với những giá trị truyền thống, tiếp
nhận những yếu tố VH ngoại lai, đi ngược lại với thuần phong mỹ tục của DT
tạo nên sự lai căng, mất gốc.
Thực trạng đó bắt nguồn từ những nguyên nhân khách quan (những tác
động tiêu cực của nền kinh tế thị trường, của quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, hội nhập quốc tế…) và nguyên nhân chủ quan (nhận thức chưa đầy
đủ và hoạt động kém hiệu quả của các cấp ban ngành, chính quyền địa
phương và bản thân đồng bào các DTTS). Trong quá trình thực hiện việc giữ
gìn và phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc cũng đặt ra một số vấn đề
đòi hỏi phải có quan điểm và giải pháp đúng đắn, phù hợp.
Để phát huy một cách vững chắc thành quả đạt được và khắc phục, loại
bỏ dần những hạn chế yếu kém trong giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS
cần quán triệt các quan điểm cơ bản như: Phải theo nguyên tắc thống nhất trong đa
dạng và tiên tiến hóa nền VH Việt Nam; gắn với nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của đồng bào các DTTS; bằng việc phát huy vai trò chủ thể của đồng bào.
Những quan điểm đó phải được quán triệt một cách đồng bộ, xuyên suốt trong hệ
thống đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và trong toàn bộ quá
trình tổ chức, triển khai thực hiện thông qua một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả của việc giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS. Trên cơ sở đó phát huy tối đa
vai trò của các chủ thể với các cách thức tiên tiến, phù hợp với từng nội dung trong
BSVH của các DTTS nhằm phát huy sức mạnh nội sinh đưa đồng bào các DTTS
vùng Đông Bắc phát triển đi lên, đồng thời góp phần xây dựng nền VH Việt Nam
tiên tiến, đậm đà BSDT.
152

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ

1. Ngô Thị Hương (2014), “Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người
Nùng ở Thái nguyên”. Tạp chí Dân tộc học, số 167 tháng 11.
2. Nguyễn Thị Lan Hương, Ngô Thị Hương (2015), “Tín ngưỡng
nông nghiệp của người Nùng ở Thái Nguyên ”. Tạp chí Dân tộc
học, số 169 tháng 11.
3. Ngô Thị Hương (2016), “Thực trạng sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng
của người Nùng ở Thái Nguyên hiện nay”. Tạp chí Giáo dục và xã
hội, số đặc biệt, tháng 5.
4. Ngô Thị Hương, Lê Kiều Anh (2017), “Đa dạng về bản sắc văn
hóa các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc Việt Nam”. Tạp chí Giáo
dục và xã hội, số đặc biệt, tháng 1.
5. Ngô Thị Hương (2018), “Một số giải pháp nhằm giữ gìn, phát huy
giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc
Việt Nam”. Tạp chí Giáo dục và xã hội, số đặc biệt kì 1, tháng 6
6. Ngô Thị Hương, Lê Kiều Anh (2019), “Giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa các dân tộc thiểu số thông qua hình thức tuyên truyền,
giáo dục”. Tạp chí Dạy và Học ngày nay, kì 2 tháng 3 năm 2019.
7. Ngô Thị Hương (2019), “Bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số vùng
Đông Bắc Việt Nam”. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 6.
153

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Đặng Thế Anh (2012), Nét đẹp văn hóa xứ lạng. Nxb Văn hóa dân tộc.
2. Huỳnh Công Bá (2015), Đặc trưng và sắc thái văn hóa vùng – tiểu vùng
ở Việt Nam. Nxb Thuận Hóa.
3. Báo Caobang.vn cập nhật ngày 19/01/2015, Bảo tồn, phát huy giá trị
trang phục các dân tộc.
4. Lê Văn Bé (2001), Trang phục cổ truyền của người Nùng ở Đông Bắc
Việt Nam. Luận án tiến sĩ Lịch sử, Viện dân tộc học, Hà Nội.
5. P.K.Benedct (1944), Thai, Kadai và Indonesiens (Những tộc người nói ngôn
ngữ Thái, Kadai và Indonêsiên. Tập san hội nghiên cứu Đông Dương.
6. Nguyễn Chí Bền (2010), Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh
tế quốc tế. Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
7. Trần Văn Bính (chủ biên) (2004), Văn hóa các dân tộc Tây Bắc. Đề tài
khoa học cấp nhà nước.
8. Trần Văn Bính (2015), Văn hóa Việt Nam trên đường đổi mới – thời cơ
và thách thức. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Trần Văn Bính (2006), Đời sống văn hóa các dân tộc thiểu số trong quá
trình công nghiệp hóa hiện đại hóa. Nxb Quân đội nhân dân.
10. Trần Bình (2011), Văn hóa mưu sinh của các dân tộc thiểu số vùng Đông
Bắc Việt Nam. Nxb Thời đại.
11. Huy Cận (1994), Suy nghĩ về bản sắc văn hóa dân tộc. Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
12. Bùi Thị Kim Chi (2014), Một số vấn đề đặt ra trong việc giữ gìn và phát
huy giá trị văn hóa tộc người. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Hoàng Chương (2009), Thực trạng vấn đề bảo tồn và phát huy văn hóa
dân tộc. Tạp chí Tuyên giáo (6).
14. Nguyễn Văn Dân (2011), Con người và văn hóa Việt Nam trong thời kỳ
154

đổi mới và hội nhập. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.


15. Khổng Diễn (chủ biên) (1996), Những đặc điểm kinh tế - xã hội của các
dân tộc miền núi phía Bắc. Nxb Khoa học xã hội.
16. Donovan (1997), Những xu hướng phát triển ở vùng núi phía Bắc Việt
Nam. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Ma Ngọc Dung (2005), Truyền thống và biến đổi trong tập quán ăn uống
của người Tày vùng Đông Bắc Việt Nam. Luận án tiến sĩ Nhân học, Viện
dân tộc học, Hà Nội.
18. Ma Ngọc Dung (2013), Nhà sàn truyền thống của người Tày vùng Đông
Bắc Việt Nam. Nxb Thời đại.
19. Đinh Xuân Dũng (chủ biên) (2013), Văn hóa trong chiến lược phát triển
của Việt Nam. Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
20. Nguyễn Đăng Duy (2002), Văn hóa học Việt Nam, Nxb Văn hóa - Thông
tin, Hà Nội.
21. Thành Duy (2006), Bản sắc dân tộc và hiện đại hóa văn hóa Việt Nam
mấy vấn đề lý luận và thực tiễn. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Phạm Đức Dương (2002). Từ văn hóa đến văn hóa học. Nxb Văn hóa
thông tin Hà Nội.
23. Lê Duy Đại, Triệu Đức Thanh (chủ biên) (2004), Các dân tộc ở Hà
Giang. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Vũ Quang Đán, Bảo tồn văn hóa các dân tộc thiểu số Tuyên Quang, http:
Cinet.gov.vn ngày 18/1/2010 (Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch).
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 51. Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
155

lần thứ VIII. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.


29. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ương khóa VIII. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Văn kiện Hội nghị lần thứ IX, Ban
chấp hành Trung ương Đảng khóa XI. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Bế Viết Đẳng (1971), Người Dao ở Việt Nam. Nxb Khoa học xã hội.
36. Bế Viết Đẳng (1978), Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía
Bắc). Nxb Khoa học xã hội.
37. Bế Viết Đẳng (chủ biên) (1993), Những biến đổi về kinh tế - văn hóa ở
các tỉnh miền núi phía Bắc, Nxb Khoa học xã hội.
38. Bế Viết Đẳng (chủ biên) (1996), Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển
kinh tế - xã hội miền núi. Nxb Văn hóa dân tộc.
39. Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên) (2002), Xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Nịnh Văn Độ (chủ biên) (2003), Văn hoá truyền thống các dân tộc Tày,

Dao, Sán Dìu ở Tuyên Quang. Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
41. Trần Độ (1986), Khái niệm và quan niệm về văn hóa. Viện Văn hóa, Hà Nội.
42. Phạm Văn Đồng (1994), Văn hóa và đổi mới. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Phạm Duy Đức (chủ biên) (2010), Phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn
2011 - 2020 - Những vấn đề về phương pháp luận. Nxb Chính trị quốc
156

gia, Hà Nội.
44. Phạm Duy Đức (chủ biên) (2010), Thành tựu trong xây dựng và phát
triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 25 năm đổi mới (1986 - 2010). Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. Phạm Duy Đức (chủ biên) (2010), Phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn
2011 - 2020 - Xu hướng và giải pháp. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Thanh Hà (2010), Bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể từ cơ sở ở Tuyên
Quang. Http:www.tuyenquang.gov.vn ngày 18/10/2010.
47. Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc dân
tộc kết hợp với tinh hoa nhân loại. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
48. Đỗ Đình Hãng (chủ biên) (2007), Lý luận văn hóa và đường lối văn hóa
của Đảng. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
49. A.G.Haudricourt (1973), Mấy nhận xét về lý luận và thực tiễn một chuyến đi
thăm các dân tộc thiểu số ở Tây Bắc và Việt Bắc. Tạp chí Ngôn ngữ, số 3.
50. Đinh Thị Hoa (2006), Nhân tố chủ quan với việc giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc Mường ở tỉnh Phú Thọ hiện nay. Luận văn thạc sĩ Triết học,
học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
51. Đỗ Thị Hòa (2003), Trang phục các dân tộc thiểu số nhóm ngôn ngữ Việt
- Mường và Tày - Thái. Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
52. Phạm Quang Hoan, Đào Đình Quý (chủ biên) (1999), Văn hóa truyền
thống người Dao ở Hà Giang. Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
53. Phạm Công Hoan (2015), Ứng xử của người Dao đỏ ở SaPa trong việc cư
trú, khai thác và bảo vệ rừng, nguồn nước. Nxb Khoa học xã hội.
54. Lê Thị Thúy Hoàn (2010), Nhà sàn truyền thống của cư dân Tày ở Chiêm
Hóa (Tuyên Quang). Luận án tiến sĩ Văn hóa học, Học viện Khoa học xã hội.
55. Hội đồng nhân dân tỉnh Bắc Kạn (2015), Nghị quyết về việc thông qua Quy
hoạch phát triển sự nghiệp văn hóa tỉnh Bắc Kạn đến năm 2020, tầm nhìn
đến năm 2030. Lưu tại Văn phòng HĐND tỉnh Bắc Kạn.
56. http://.baohagiang.vn ngày 08/07/2010, Hà Giang phát huy thế mạnh
157

làng văn hóa du lịch.


57. http://www.baohagiang.vn ngày1/2/2018, Gương sáng nghệ nhân dân
gian trong đồng bào dân tộc thiểu số.
58. Lại Phi Hùng (2013), Xu hướng biến đổi cấu trúc văn hóa vùng ở các
tỉnh phía Bắc Việt Nam. Nxb Đại học Kinh tế quốc dân.
59. Đỗ Huy (2005), Văn hóa và phát triển. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. Nguyễn Văn Huyên (1998), Giá trị truyền thống nhân lõi và sức sống
bên trong của sự phát triển đất nước, dân tộc. Tạp chí Triết học, số 04.
61. Nguyễn Văn Huyên (1998), Văn hóa, phát huy bản sắc và hội nhập. Tạp
chí Cộng Sản, tháng 6/1998.
62. Nguyễn Văn Huyên (1999), Công nghiệp hóa - hiện đại hóa và vấn đề
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Tạp chí Triết học, số 01.
63. Nguyễn Văn Huyên (2001), Văn hóa đạo đức trong quá trình phát triển
kinh tế thị trường ở Việt Nam. Tạp chí Triết học, số 09 (127).
64. Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Trọng Chuẩn (2002), Giá trị truyền thống trước
thách thức của toàn cầu hóa. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
65. Nguyễn Văn Huyên (2003), Văn hóa với tiềm năng hoạt động sáng tạo
của con người. Tạp chí Triết học, số 03.
66. Nguyễn Văn Huyên (2005), Văn hóa và văn hóa chính trị từ cách tiếp
cận của triết học chính trị Mác xít. Tạp chí Triết học, số 5 (168).
67. Nguyễn Văn Huyên (Chủ biên) (2006), Văn hóa mục tiêu và động lực
của sự phát triển xã hội. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
68. Nguyễn Văn Huyên (Chủ biên) (2007), Chính trị học - những vẫn đề lý
luận và thực tiễn. Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.
69. Nguyễn Chí Huyên (Chủ biên) (2000), Nguồn gốc lịch sử tộc người vùng
biên giới phía Bắc Việt Nam. Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
70. Lê Thị kim Hưng (2019), Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Tày trong điều kiện kinh tế thị trường ở một số tỉnh Đông Bắc Việt Nam
hiện nay. Luận án tiến sĩ Triết học, trường Đại học Khoa học xã hội và
158

Nhân văn, Hà Nội.


71. Nguyễn Đắc Hưng (2010), Văn hóa Việt Nam giàu bản sắc. Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
72. Hoàng Thị Hương (2010), Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
trong quá trình phát triển kinh tế thời kỳ hội nhập quốc tế. Tạp chí Triết
học số 10 (233).
73. Hoàng Thị Hương (2012), Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc
nước ta hiện nay. Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia, Hà Nội.
74. Neil Jamieson (2000), Socio-economic Overview of the Northern
Mountain Region and the Project and poverty reduction in the Northern
Mountain Region of Vietnam (Tổng quan tình hình kinh tế - xã hội khu
vực miền núi phía Bắc và dự án xóa đói giảm nghèo ở khu vực miền núi
phía Bắc Việt Nam). Báo cáo của Ngân hàng thế giới.
75. Neil Jamieson (2000), Rethinking Approaches to Ethenic Minority
Develoment, the case of Vietnam (Nghĩ lại cách tiếp cận chương trình
phát triển DTTS, trường hợp Việt Nam). Báo cáo của Ngân hàng thế giới.
76. Vũ Ngọc Khánh (chủ biên) (1997), Văn hóa tín ngưỡng Tày, Nùng. Viện
nghiên cứu văn hóa dân gian, Hà Nội.
77. Vũ Ngọc Khánh (1998), Sơ lược truyền thống văn hóa dân tộc thiểu số
Việt Nam. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
78. Vũ Khánh (Chủ biên) (2009), Người Tày ở Việt Nam. Nxb Thông tấn, Hà Nội.
79. Nguyễn Đình Khoa (1983), Các dân tộc ở Việt Nam. Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
80. Lương Quỳnh Khuê (1997), Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc. Tạp chí Cộng sản số 3,1997 (2).
81. Đỗ Nam Liên (2001), Việc giữ gìn và phát huy “bản sắc dân tộc”, “bản
159

sắc văn hóa”. Tạp chí Khoa học xã hội, số 4(50).


82. Lã Văn Lô, Hà Văn Thư (1984), Văn hóa Tày - Nùng. Nxb Văn hóa.
83. Lã Văn Lô, Đặng Nghiêm Vạn (1968), Sơ lược giới thiệu các nhóm Tày -
Nùng - Thái ở Việt Nam. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
84. Nguyễn Văn Lộc (chủ biên) (2014), Nghiên cứu, bảo tồn và phát triển ngôn
ngữ văn hóa một số dân tộc thiểu số ở Việt Bắc. Nxb Đại học Thái Nguyên.
85. Hoàng Lương (2002), Lễ hội truyền thống của các dân tộc thiểu số ở
miền Bắc Việt Nam. Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
86. Hoàng Xuân Lương (2002), Bản sắc văn hóa dân tộc Mông và giải pháp
giữ gìn, phát huy các giá trị của nó ở Việt Nam hiện nay. Luận án tiến sĩ
Triết học, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
87. Nguyễn Thị Lượng (2008), Nét đẹp trong đám cưới của người Tày. Tạp
chí Văn hóa dân tộc, số 11.
88. Trường Lưu (1999), Văn hóa, một số vấn đề lý luận. Nxb Chính trị.
89. Trường Lưu (2003), Toàn cầu hóa và vấn đề bảo tồn văn hóa dân tộc.
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
90. Federricoe Mayor (1998), Diễn văn tại lễ phát động Thập kỷ thế giới phát triển
văn hóa, UNESCO, Paris.
91. V.M.Mezhuev (2012), Tư tưởng văn hóa, khái luận về triết học văn hóa.
Nxb Chính trị quốc gia - sự thật, Hà Nội.
92. Hồ chí Minh toàn tập, tập 4 (2000). Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
93. Furuata Moto (1998), Chính sách dân tộc của Đảng cộng sản Việt Nam.
Luận án tiến sĩ.
94. Hoàng Nam (1998), Bước đầu tìm hiểu về văn hóa tộc người, văn hóa Việt
Nam. Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
95. Hoàng Nam (2002), Đặc trưng văn hóa cổ truyền các dân tộc Việt Nam.
Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
96. Hoàng Nam (2004), Văn hóa các dân tộc vùng Đông Bắc Việt Nam.
160

Trường Đại học Văn hóa, Hà Nội.


97. Hoàng Tuấn Nam (1999), Việc tang lễ cổ truyền của người Tày. Nxb Văn
hóa dân tộc, Hà Nội.
98. Nguyễn Thị Nga (2009), Vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc Dao ở tỉnh Hà Giang hiện nay. Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện
chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
99. Đỗ Thị Hằng Nga (2009), Vấn đề kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc Mông ở tỉnh Hà Giang hiện nay. Luận văn thạc sĩ Triết học, Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
100. Nguyễn Thị Ngân (2009), Tang ma của người Nùng Phàn Slình ở tỉnh
Thái Nguyên. Luận án tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử, trường Đại học
Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội.
101. Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hóa Việt Nam. Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
102. Vi Hồng Nhân (2004), Văn hóa các dân tộc thiểu số từ một góc nhìn.
Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
103. Nông Thị Nhình (2000), Âm nhạc dân gian các dân tộc Tày - Nùng -
Dao Lạng Sơn. Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
104. Nông Thị Nhình (2004), Nét chung và riêng của âm nhạc trong diễn
xướng then Tày - Nùng. Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
105. Nguyễn Thị Nội (2017), Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền
thống tộc người Tày ở Thái Nguyên hiện nay. Luận án tiến sĩ Triết học,
trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
106. Từ điển Tiếng Việt (2000). Nxb Đà Nẵng.
107. Đông Bắc - vùng đất, con người (2010). Nxb Quân đội nhân dân.
108. Sắc thái văn hóa địa phương và tộc người trong chiến lược phát triển
đất nước (1998). Nxb Khoa học xã hội.
109. Hoàng Văn Páo (2009), Lễ hội Lồng Thồng của dân tộc Tày ở Lạng Sơn.
Luận án tiến sĩ Lịch sử, Viện khoa học xã hội Việt Nam.
110. Lò Giàng Páo (1997), Tìm hiểu văn hóa vùng các dân tộc thiểu số. Nxb
161

Văn hóa dân tộc, Hà Nội.


111. Giàng A Páo- Lâm Tâm (1979), Truyền thống của dân tộc Mèo đoàn kết
đấu tranh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Nxb Văn hóa, Hà Nội.
112. Trần Quang Phúc (2013), Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Nxb Lao
động xã hội.
113. Bùi Thanh Quất (2005), Bản sắc và giao lưu văn hóa - từ góc nhìn Triết
học. Tạp chí Triết học số 5.
114. Hồ Sĩ Quý (1999), Tìm hiểu về văn hóa và văn minh. Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
115. Trương Hữu Quýnh (1998), Các nền văn minh trên đất nước Việt Nam.
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
116. Dương Sách - Dương Thị Đào - Lã Vinh (2005), Văn hóa ẩm thực các
dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc. Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
117. Trần Hữu Sơn (1996), Văn hoá Mông. Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
118. Tập thể các tác giả (2015), Văn hóa với động lực của sự nghiệp đổi mới.
Nxb Chính trị quốc gia - sự thật, Hà Nội.
119.Tập thể các tác giả (2001), Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam thế kỷ XX.
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
120. Tập thể các tác giả (1999), Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc -
vai trò của nghiên cứu và giáo dục. Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
121. Tập thể các tác giả (1987), Một số vấn đề về phát triển văn hóa các dân
tộc thiểu số. Nxb Văn hóa dân tộc.
122. Hoàng Đức Thạch (2009), Giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
trong thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Hà Giang. Luận văn thạc sĩ
Triết học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
123.Thái Nguyên: Hội thảo lượn cổ dân tộc Tày trong hội Lồng Tồng.
http://www.dulichvn.org.vn ngày 29/10/2010 (Tổng cục Du lịch).
124. Nguyễn Ngọc Thanh (chủ biên) (2016), Văn hóa truyền thống dân tộc
162

Tày ở Tuyên Quang. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.


125. Triệu Đức Thanh ( 1998), Người Dao ở Hà Giang. Kỷ yếu hội thảo, Hà Nội.
126. Hà Đình Thành (2010), Văn hóa dân gian Tày, Nùng ở Việt Nam. Viện
nghiên cứu văn hóa dân gian, Hà Nội.
127. Song Thành (2010), Hồ Chí Minh - nhà văn hóa kiệt xuất. Nxb Chính trị
quốc gia Hà Nội.
128. Lê Ngọc Thắng - Lâm Bá Nam (1990), Bản sắc văn hóa các dân tộc ở
Việt Nam. Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
129. Hồ Bá Thâm (2012), Văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc. Nxb Văn hóa
- Thông tin.
130. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam. Nxb Thành
phố Hồ Chí Minh.
131. Trần Ngọc Thêm (1998), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb giáo dục, Hà Nội.
132. Ngô Đức Thịnh: Văn hóa dân gian và bản sắc văn hóa dân tộc. Tạp chí
Cộng sản, 2001 (3).
133. Ngô Đức Thịnh (2006), Văn hóa, văn hóa tộc người và văn hóa Việt
Nam. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
134. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (2011), Giá trị văn hóa Việt Nam truyền
thống và biến đổi. Nxb Chính trị quốc gia - sự thật, Hà Nội.
135. Đàm Hoàng Thụ (1998), Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa nghệ thuật
ở nước ta hiện nay. Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
136. Trần Thị Phương Thúy (2010), Văn hóa tộc người H’Mông ở Lào Cai trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Luận văn thạc sĩ Văn hóa học.
137. Nguyễn Đắc Thủy (2009), Bảo tồn và phát huy di sản lễ hội để phát
triển du lịch ở Phú Thọ hiện nay. Luận văn thạc sĩ Văn hóa học.
138. Hoàng Thu Thủy (2014), Quá trình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng ở
một số tỉnh miền núi Đông Bắc Việt Nam từ năm 1996 đến năm 2010. Luận án
tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
139. Lương Duy Thứ (1996) Đại cương văn hóa Phương Đông. Nxb giáo dục,
163

Hà Nội.
140. Vương Xuân Tình - Trần Hồng Hạnh (chủ biên) (2012), Phát triển bền
vững văn hóa tộc người trong quá trình hội nhập ở vùng Đông Bắc. Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
141. Tỉnh ủy Lạng Sơn (2016), Nghị quyết của Ban thường vụ Tỉnh ủy về bảo
tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa tỉnh Lạng Sơn. Lưu tại văn phòng
Tỉnh ủy Lạng Sơn.
142. Tỉnh ủy Lạng Sơn (2016), Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện kết luận số 12-
KL/TU, ngày 25/5/2011 của ban thường vụ Tỉnh ủy về việc tiếp tục thực hiện
Nghị quyết số 13-NQ/TU, ngày 19/4/2007 về bảo tồn và phát huy vốn di sản
văn hóa tỉnh, Số 39/BC-TU. Lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy Lạng Sơn.
143. Đặng Hữu Toàn (2000), Gắn phát triển con người Việt Nam hiện đại với giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Tạp chí Triết học số 4 (116).
144. Tổng cục Thống kê (2009), Tổng điều tra dân số. Tổng cục Thống kê Hà Nội.
145. Lê Quang Trang - Nguyễn Trọng Hoài (tuyển chọn và giới thiệu) (2001),
Những vấn đề văn hóa Việt Nam hiện đại. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
146. Lê Quang Trang - Nguyễn Trọng Hoài (tuyển chọn và giới, thiệu) (2001),
Những vấn đề văn hóa Việt Nam hiện đại. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
147. Bùi Xuân Trường (1998), Một số giải pháp nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở miền núi –
dân tộc thiểu số. Tạp chí Dân tộc học, số 4.
148. Nông Quốc Tuấn (1998), Trang phục cổ truyền nhóm Dao Đỏ ở huyện
chợ Đồn tỉnh Bắc Cạn. Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt Nam.
149. Tuyenquang.gov.vn, ngày 5/7/2017, Bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc
Dao Thanh Y.
150. Nguyễn Đình Tường (2006), Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống
ở Việt Nam trước tác động của toàn cầu hóa. Tạp chí Triết học số 5 (180).
151. E.B.Tylor (1871), Văn hóa nguyên thủy, Huyền Giang dịch, Xb Tạp chí văn
hóa nghệ thuật - Hà Nội (2000).
164

152. Ủy ban quốc gia về thập kỷ quốc tế phát triển văn hóa (1992), Thập kỷ thế giới
phát triển văn hóa. Bộ Văn hóa, thông tin và thể thao xuất bản, Hà Nội.
153. Ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng (2017), Báo cáo về việc thực hiện nhiệm vụ
xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Lưu tại Văn phòng UBND tỉnh Cao Bằng.
154. Ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng (2017), Kế hoạch tổ chức ngày Hội văn hóa
dân tộc Mông tỉnh Cao Bằng lần thứ nhất, năm 2018 và ngày Hội văn hóa dân
tộc Mông huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng năm 2018. Lưu tại Văn phòng
UBND tỉnh Cao Bằng.
155. Ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng (2019), Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện
chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2020. Lưu tại Văn phòng
UBND tỉnh Cao Bằng.
156. Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn (2014), Kế hoạch triển khai thực hiện chiến
lược và và chương trình hành động thực hiện chiến lược công tác dân tộc đến
năm 2020 của Thủ tướng chính phủ trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn, số 52/KH-
UBND. Lưu tại Văn phòng UBND tỉnh Lạng Sơn.
157. Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn (2017), Kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 25
- NQ/TU ngày 31/8/2016 của Ban thường vụ Tỉnh ủy về bảo tồn và phát huy
giá trị di sản văn hóa tỉnh Lạng sơn, giai đoạn 2016 - 2020 và những năm tiếp
theo, số 32/KH-UBND. Lưu tại Văn phòng UBND tỉnh Lạng Sơn.
158. Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn, Sở văn hóa thể thao và du lịch (2017),
Kế hoạch thực hiện Nghị Quyết số 25 - NQ/TU ngày 31/8/2016 của Ban
thường vụ Tỉnh ủy về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa tỉnh Lạng
Sơn từ nay đến năm 2020. Lưu tại Sở Văn hóa thể thao và du lịch tỉnh
Lạng Sơn.
159. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang (2016), Quyết định ban hành đề án giáo
dục kỹ năng sống và văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số cho học
sinh phổ thông trên địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn 2016 - 2020, số
597/QĐ - UBND. Lưu tại Văn phòng UBND tỉnh Hà Giang.
165

160. Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn (2015), Kế hoạch thực hiện nghị quyết số
33 NQ/TW ngày 09 tháng 6 năm 2014 của Ban chấp hành trung ương
Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước (kèm theo Quyết định số:
153/Đ - UBND ngày 04/02/2015 của UBND tỉnh Bắc Kạn). Lưu tại Văn
phòng UBND tỉnh Bắc Kạn.
161. Ủy ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang (2012), Quyết định về việc phê duyệt
Quy hoạch phát triển sự nghiệp văn hóa tỉnh Tuyên Quang đến năm
2020, số 526/QĐ - UBND. Lưu tại Văn phòng UBND tỉnh Tuyên Quang.
162. Ủy ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang, Sở văn hóa, thể thao và du lịch
(2015), Báo cáo Đánh giá công tác kiểm kê, sưu tầm, bảo quản, trưng
bày, tuyên truyền di sản văn hóa truyền thống điển hình của các dân tộc
thiểu số Việt Nam trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang, từ năm 2010 đến hết
năm 2014. Lưu tại Sở văn hóa, thể thao và du lịch.
163. Ủy ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang (2017),Kế hoạch triển khai thực
hiện chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đến năm 2020,
tầm nhìn 2030 trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang, số 66/KH-UBND. Lưu tại
Văn phòng UBND tỉnh Tuyên Quang.
164. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2017), Chương trình phát triển văn
hóa, thể thao và du lịch tỉnh Thái Nguyên, giai đoạn 2017 - 2020. Lưu tại
Văn phòng UBND tỉnh Thái Nguyên.
165. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2015), Kế hoạch Thực hiện Đề án “Bảo
tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số tỉnh Thái Nguyên đến năm 2020”,
Số 30/KH – UBND. Lưu tại Văn phòng UBND tỉnh Thái Nguyên.
166. Ủy ban dân tộc, Tổng quan thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc
thiểu số (5/2017) - Tiểu dự án hỗ trợ giảm nghèo PRPP - UBDT do
UNDP và Irish Aid tài trợ - Lưu hành nội bộ, Hà Nội.
167. Lê Thị Thanh Vân (2009), Phong tục và tín ngưỡng tôn giáo của người
Nùng ở huyện Đồng Hỷ, Thái Nguyên. Luận văn thạc sĩ Lịch sử, trường
166

Đại học Sư phạm Thái Nguyên.


168. Hoàng Vinh (1997), Một số vấn đề về bảo tồn và phát triển di sản văn
hóa dân tộc. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
169. Vụ Văn hoá dân tộc - Bộ Văn hóa Thông tin (2005), Bảo tồn và phát
triển văn hóa dân tộc Mông (kỷ yếu hội thảo). In tại Công ty In và Văn
hóa phẩm, Hà Nội.
170. Vụ Văn hoá dân tộc - Bộ Văn hóa Thông tin (2007), Bảo tồn lễ hội dân
gian các dân tộc thiểu số thời kỳ đổi mới (kỷ yếu hội thảo). Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
171. Trần Quốc Vượng (chủ biên) (2008), Cơ sở văn hóa Việt Nam. Nxb Giáo
dục.
172. Nguyễn Thị Yên (2009), Tín ngưỡng dân gian Tày, Nùng. Nxb Khoa học
xã hội.
PL1

PHỤ LỤC
Biểu 1: Số lượng dân tộc thiểu số chính của một số tỉnh vùng Đông Bắc
(đơn vị: người)
Tỉnh
Cao Tuyên Thái Lạng
Hà Giang Bắc Kạn
Dân tộc Bằng Quang Nguyên Sơn

Tày 186.621 213.827 168.230 204.443 138.360 274.165


Nùng 79.100 153.517 28.652 16.350 70.673 330.421
Mông 268.696 55134 20.512 19.593 8.734 1.347
Dao 122.037 53.112 55.847 101.049 27.870 27.262
(Nguồn: Điều tra thực trạng tình hình kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số
năm 2015)
Biểu 2: Số hộ và tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc có nhà ở truyền
thống của dân tộc mình (đơn vị: hộ)
Tày 121.878 27,5%
Nùng 59.719 24,6%
Mông 166.866 74%
Dao 67.831 37,9%
(Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên kết quả Điều tra thực trạng tình hình kinh
tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2015)
Biểu 3: Số người dân tộc thiểu số và tỷ lệ người dân tộc thiểu số vùng Đông
Bắc biết tiếng dân tộc mình (đơn vị: người)
Tày 1.464.794 92,2%
Nùng 853.224 93,1%
Mông 1.054.406 99,5%
Dao 726.431 98,3%
(Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên kết quả Điều tra thực trạng tình hình kinh
tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2015)
PL2

Biểu 4: Số hộ và tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc biết điệu múa
truyền thống của dân tộc mình (đơn vị: hộ)
Tày 15.041 3,4%
Nùng 2.300 0,9%
Mông 35.371 15,7%
Dao 10.275 5,7%
(Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên kết quả Điều tra thực trạng tình hình kinh
tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2015)
Biểu 5: Số hộ và tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc có các thành viên
của hộ biết hát bài hát truyền thống (đơn vị: hộ)
Tày 36.543 8,2%
Nùng 17.285 7,1%
Mông 64.735 28,7%
Dao 19.334 10,8%
(Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên kết quả Điều tra thực trạng tình hình kinh
tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2015)
Biểu 6: Số hộ và tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc biết sử dụng nhạc
cụ truyền thống của dân tộc mình (đơn vị: hộ)
Tày 9.838 2,2&
Nùng 2.264 0,9%
Mông 34.054 15,1%
Dao 6.133 3,4%
(Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên kết quả Điều tra thực trạng tình hình kinh
tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2015)
PL3

Biểu 7. Các dự án sưu tầm, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật
thể ở một số tỉnh vùng Đông Bắc
Tên địa Năm
ST
phương thực Tên dự án
T
thực hiện hiện
1 Bắc Kạn 1998 Đám cưới người Dao
1999 Sinh hoạt dân ca dân tộc Cao Lan
2000 Hội Lồng tồng
2001 Y phục cổ truyền người Dao (đỏ + trắng)
2002 Nghề dệt thổ cẩm dân tộc Dao
2003 Then cổ của dân tộc Tày
2004 Sưu tầm lễ đặt tên con (người Dao Tiền)
Tổng điều tra di sản văn hóa phi vật thể các
2005
dân tộc thuộc ngữ hệ Tày - Thái
Một số hình thức sinh hoạt văn hóa sông nước
2006
của cư dân bản địa vùng hồ Ba Bể
Bảo tồn làn điệu Lượn Slương dân tộc Tày,
2007
huyện Na Rì
2008 Đám cưới người Nùng Giang
Dự án bảo tồn và phát triển Làng văn hóa
2009 truyền thống dân tộc Tày, bản Pác Ngòi, Nam
Mẫu, Ba Bể
Nghi lễ đám tang người Nùng, xã Dương Sơn,
2010
Na Rì
Phục dựng lễ hội Lồng tồng , Bằng Sơn, Ngân
2011
Sơn
Dự án, sưu tầm, bảo tồn “Thơ Lẩu - thơ đám
2012 cưới” của người Tày ở xã Nghiên Loan, Pắc
Nặm

2 Cao Bằng 1998 Lễ Quá tang – Tẩu Sai (dân tộc Dao)
1999 Hội lễ dân tộc Ngạn
PL4

2000 Sli, lượn dân tộc Tày, Nùng


2002 Nghề dệt thổ cẩm dân tộc Tày
2004 Điều tra văn hóa phi vật thể
2005 Nghệ thuật hát then Cao Bằng
2006 Văn hóa một làng cổ người Tày
2008 Dân ca giá hai dân tộc Nùng, Cao Bằng
Sưu tầm, nghiên cứu dân ca, dân vũ của người
2009
Dao đỏ
Bảo tồn làng văn hóa truyền thống dân tộc
2009 Tày tại xóm Khuổi Ky, Đàm Thủy, Trùng
Khánh
Nghiên cứu, phục dựng đám cưới dân tộc Dao
2011
đỏ
Sưu tầm, bảo tồn nghệ thuật Lượn then tứ quý
2012
dân tộc Tày
3 Hà Giang 1997 Lễ hộ dân tộc Pà Thẻn
1998 Tết tháng bày (dân tộc La Chí)
1999 Lễ tế trời của dân tộc Lô Lô
2000 Hát dân ca dân tộc Bố Y
Những nghề thủ công tiêu biểu của người
2001
H’Mông
2002 Sinh hoạt hát giao duyên dân tộc La Chí
2003 Lễ mừng thọ của người Suồng
2004 Lễ mừng thọ của người Phù Lá
2005 Tết khu Cù Tê dân tộc La Chí
Các làn điệu dân ca của dân tộc Tày - Hà
2006
Giang
2007 Lễ đặt tên cho người Dao đại bản
2008 Sưu tầm dân ca dân tộc Nùng U

4 Lạng Sơn 1998 Then cấp sắc


1999 Lễ hội Lồng tồng dân tộc Tày
PL5

2000 Then Kỳ yên


2001 Mo Nùng (trong tang lễ dân tộc)
2002 Hát Lượn dân tộc Tày
2003 Hát Sli của người Nùng Phàn Sình
2004 Hát Si của người Nùng Cháo ở Cao Lộc
2005 Hát ví dân tộc Tày huyện Bắc Sơn
Lễ hội tình yêu xã Quốc Khánh, huyện Tràng
2006
Định, Lạng Sơn
2007 Hát Lượn dân tộc Tày, Bàng Mạc, Chi Lăng
2008 Sưu tầm hát Sắng cọ người Sán Chí
Nghiên cứu, phục dựng lễ hội Ná Nhèm, xã
2011
Trấn Yên, huyện Bắc Sơn
Nghiên cứu, phục dựng lễ hội Háng Ví, xã
2012
Chiến Thắng, huyện Chi Lăng
Nghiên cứu, phục dựng lễ hội Nàng Hai, xã
2013
Chí minh, huyện Tràng Định
Lễ Sinh Nhật (Chúc thọ) người Nùng Lạng
2014
Sơn

5 Thái 1998 Đám cưới Tày


Nguyên 1999 Lễ nhận rể và đưa dâu dân tộc Tày
2000 Lễ Cưới, đưa dâu dân tộc Sán Dìu
2002 Nghề dệt thổ cẩm của dân tộc Cao Lan
2003 Nghề làm thuốc nam người Dao
Lễ cấp sắc của dân tộc Dao Lô Gang (Phú
2004
Lương)
2005 Tổng điều tra văn hóa phi vật thể vùng ATK
Tổ chức lễ hội Oóc pò (ra đồng) dân tộc Nùng
2007
– Đồng Hỷ
Bảo tồn nghề làm con rối và biêu diễn rối cạn
2008 tại Thẩm Rộc, Bình yên, Định Hóa, Thái
Nguyên
PL6

Khôi phục, bảo tồn tinh hoa văn hóa truyền


2015-
thống các dân tộc thiểu số của các huyện Định
2016
Hóa, Đồng Hỷ, Phú Lương, Võ Nhai, Đại Từ

6 Tuyên 1998 Hát Sình ca dân tộc Cao Lan


Quang 1999 Hát ru và hát giao duyên dân tộc Dao
2002 Then khỏa quan dân tộc Tày
Hát Páo Dung trong lễ tục của người Dao ở Na
2003
Hang
2004 Điều tra văn hóa dân tộc Sán Dìu
Tổng điều tra di sản văn hóa phi vật thể tỉnh
2005
Tuyên Quang
Tổng điều tra và bảo tồn di sản văn hóa phi vật
2006 thể tỉnh Tuyên Quang (tiếp tục từ năm 2005
chuyển sang)
Tổng điều tra di sản văn hóa phi vật thể
2007
(chuyển tiếp từ năm 2006)
2008 Tổng điều tra di sản văn hóa phi vật thể ở ATK

You might also like