Việt Bắc 6 7 8 9

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 20

Việt Bắc

(Khổ 6,7,8,9)
_Tố Hữu_

I. Đọc - tìm hiểu văn bản

1. Khổ 6: Nhớ những ngày khó khăn gian khổ nhưng đậm đà tình nghĩa

a, Những hoài niệm xúc động về cuộc sống sinh hoạt thời kháng chiến (4 câu thơ
đầu)

“Ta đi ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi

Thương nhau, chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.”

- Đại từ “Ta” ở đây chính là nhà thơ nhưng cũng chính là những người chiến sĩ cộng sản
khi phải rời xa Việt Bắc – quê hương thứ hai trong tim mình => Đại từ “ta” như xóa mờ
bóng hình riêng lẻ, tạo nên sự thống nhất, hay nói cách khác là để ám chỉ tất cả trái tim
của những người ra đi đều giống nhau. Họ đều ôm nỗi nhớ những vùng đất và con người
Việt Bắc khôn nguôi.

- Ta đi ta nhớ, mình đây ta đó: kết cấu đối xứng + giọng thơ rắn rỏi, nói lên tình cảm gắn
bó tha thiết, nhớ thương của người cán bộ đối với Việt Bắc.

- Họ nhớ về những “đắng cay ngọt bùi”: đó là những niềm vui, nỗi buồn, có cảm giác
hạnh phúc khi chiến thắng vang dội nhưng cũng có những đau thương ngút trời mà cán
bộ về xuôi và nhân dân Việt Bắc đã cùng nhau trải qua.

1
- Trong chặng đường dài ấy, họ chia nhau từng đồ vật, từng miếng cơm manh áo: “củ
sắn chia đôi”, “bát cơm sẻ nửa”, “chăn sui đắp cùng”. Đó đều là những hình ảnh cụ thể
và chân thực cho thấy cuộc sống kháng chiến gian khổ và thiếu thốn vô cùng.

- Các động từ: chia … sẻ … đắp kết hợp với bút pháp tả thực cũng đã thể hiện nghĩa tình
cảm động giữa những người dân Việt Bắc và bộ đội, họ đã chia sẻ với nhau từ miếng ăn
ngày đói đến hơi ấm trong đêm lạnh.

=> Những hình ảnh thân thương trong gian khó mà sao thật ấm lòng… Nỗi nhớ
dường như đang thường trực trong trái tim người chiến sĩ cộng sản, những anh bộ
đội cụ Hồ trong suốt năm tháng bom đạn của đất nước.

b, Người ra đi nhớ về bóng hình của nhân dân Việt Bắc (2 câu thơ sau)

- Trong nỗi nhớ của người cán bộ, hình ảnh người dân Việt Bắc hiện lên chân thật và
đầy xúc động:

“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.”

- Giữa những khắc nghiệt, khó khăn của mảnh đất ấy, những người mẹ hiện lên như một
điểm dịu dàng trong sự cần cù, chịu khó. Họ chấp nhận cái “nắng cháy lưng” gay gắt để
thực hiện những nhiệm vụ thiêng liêng mà bản thân ý thức được.

(Liên hệ:

“Em Cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi,

Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ.

Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội,

Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng.

Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi,

Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối…


2
- Người mẹ trong thơ Tố Hữu đã làm tròn hai trách nhiệm:

 Sinh thành, dưỡng dục.

 Mẹ Việt Nam anh hùng nuôi giấu bộ đội.

- Hai thanh sắc liên tiếp trong cụm từ “nắng cháy” cùng hàm nghĩa ẩn dụ không chỉ gợi
ra cả một vạt nương ngập nắng, gợi ra những tia nắng gay gắt chói chang làm cháy rát
lưng mà còn khiến câu thơ như nhói lên niềm thương xót.

=> Đó là những người lao động cần cù, chịu khó nhưng dạt dào ân tình với Cách
mạng, không ngại vất vả, cực khổ lao động góp phần tạo nên lương thực cho Cách
mạng nuôi quân. Hình ảnh thơ giàu sức gợi, phản ánh tình cảm sắc son của đồng
bào dân tộc đối với Cách mạng.

c, Kỉ niệm vui trong những năm tháng gian khổ (còn lại)

"Nhớ sao lớp học i tờ

Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan

Nhớ sao ngày tháng cơ quan

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo

Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nện cối đều đều suối xa…"

- Người về xuôi còn nhớ đến những “lớp học i tờ”: là lớp bình dân học vụ do Đảng và
nhà nước ta mở ra để xoá mù chữ hiện lên với những tiếng đánh vần có phần ngượng
nghịu, khó khăn của dân tộc miền núi như từng tiếng “i tờ” chất phác, mộc mạc.

- Kỉ niệm ấy còn là “những giờ liên hoan” nồng ấm tình quân dân trong ngọn “đuốc
sáng” vui tươi, nhộn nhịp.

- Đồng khuya đuốc sáng: lời thơ gợi lên hình ảnh những đêm liên hoan văn nghệ, vui vẻ
tưng bừng nơi rừng núi.
3
- Ca vang núi đèo: lời thơ mang tính chất ẩn dụ, phản ánh tinh thần lạc quan, tình cảm
đoàn kết gắn bó giữa cách mạng và người dân Việt Bắc.

- Điệp cấu trúc “Nhớ sao” được sắp xếp ở vế đầu mỗi câu lục càng tô đậm nỗi khắc
khoải, thương nhớ bâng khuâng về kỉ niệm đẹp đẽ đã qua giữa người đi và kẻ ở.

- Người cán bộ về xuôi nhớ đến “tiếng mõ rừng chiều”: đó là tiếng mõ trâu buổi chiều
trở về bản làng.

- Cảnh vật được mô tả với chi tiết về âm thanh (tiếng mõ, chày đêm nện cối) thể hiện
khung cảnh đặc trưng của núi rừng. Âm thanh vang vọng gợi tới những ký ức xa xôi
nhưng tha thiết và đầy ám ảnh trong tâm tư của những kẻ chia li.

- Dấu ba chấm được đặt ở cuối câu để lại bao dư vang lắng đọng trong lòng mỗi người
về những người chưa bao giờ từ bỏ, chưa bao giờ gục ngã, bởi trong họ luôn mang ánh
sáng của Đảng và Cách mạng dẫn lối, soi đường, tiếp thêm sức mạnh để người ra đi luôn
dũng cảm hiên ngang trước mọi “ đỉnh dốc cao” của cuộc đời.

=> Đoạn thơ là một khúc tình ca tha thiết thể hiện nỗi nhớ của người cán bộ về
xuôi với cảnh vật và con người Việt Bắc. Nó có cội nguồn sâu xa từ tình yêu quê
hương đất nước, niềm tự hào về sức mạnh của nhân dân, truyền thống ân nghĩa,
đạo lí thuỷ chung của dân tộc Việt Nam.

2. Khổ 7: Nhớ thiên nhiên và con người Việt Bắc (Vẻ đẹp bức tranh tứ bình)

a, Điểm nhìn nghệ thuật phác họa bức tranh tứ bình (2 câu thơ đầu)

“Ta về, mình có nhớ ta

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.”

- Đây là lời của của người ra đi nói với người ở lại, ướm hỏi, nhắc nhở tình nghĩa khi
chia xa. Và hỏi cũng là để gợi dẫn, để tìm cơ hội bộc lộ tình cảm của mình. Hoa và
người đan xen hài hòa đằm thắm tạo nên nét riêng biệt của mảnh đất này.

4
- Xưng hô “ta – mình”: xưng hô như cách đối đáp giao duyên của trai gái trong ca dao,
dân ca. Ta là người cán bộ kháng chiến, mình là nhân dân Việt Bắc đang lưu luyến chia
tay. Lối đáp giao duyên thân tình ấy lần nữa thể hiện được sắc điệu dân gian và tính dân
tộc trong những vần thơ của Tố Hữu, bởi người đọc đã dễ dàng bắt gặp những điệu hồn
ấy trong ca dao xưa:

“Mình về ta chẳng cho về

Ta nắm vạt áo, ta đề câu thơ”

- Điệp từ, điệp ngữ:

+ “Ta về” lặp lại 2 lần, đứng ở đầu dòng thơ, có tác dụng nhấn mạnh sự chia li giữa
người cán bộ Cách mạng về xuôi với người Việt Bắc đồng thời thể hiện tình cảm nhớ
nhung.

+ Điệp “nhớ” lặp hai lần, liên tiếp hé mở nét tâm trạng người ra đi. Cùng một thời điểm
chia tay, câu trước là ướm hỏi “có nhớ ta”, câu sau lại giãi bày “nhớ những hoa cùng
người” ...

- Đối tượng của nỗi nhớ: “hoa cùng người”

+ “Hoa” là hoán dụ, là biểu tượng cho vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Bắc, đồng thời cũng
là vẻ đẹp của con người Việt Bắc (bởi người ta là hoa đất). Hoa và con người không thể
tách rời.

+ Con người luôn là trung tâm của bức tranh thiên nhiên. Trong nỗi nhớ của người đi
con người và “hoa” đồng hiện soi sáng lẫn nhau.

=> Hai câu đầu hé lộ chủ đề tác phẩm: Nỗi nhớ da diết quê hương cách mạng Việt.
Từ điểm nhìn là nỗi nhớ, từng bức tranh thiên nhiên hiện về theo hoài niệm nhưng
tươi rói như vừa mới đây.

b, Bức tranh tứ bình Việt Bắc (8 câu thơ sau)

 Bức tranh mùa đông: khoác lên mình lớp áo xanh tươi, khỏe khoắn
5
* Cảnh sắc thiên nhiên:

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”

- “Rừng xanh”: không gian bao la, bạt ngàn của núi rừng đồng thời toát lên sự êm đềm,
tĩnh lặng của núi non. Gam màu xanh làm không gian thêm rộng lớn mênh mông.

- “Hoa chuối”: cách lựa chọn hình ảnh tinh tế. Hoa chuối như ngọn lửa “đỏ tươi” trên
nền xanh mát làm núi rừng bừng sức sống, tạo nên vẻ đẹp riêng của núi rừng Việt Bắc.

- Sự phối hợp sắc màu: “xanh - đỏ” màu xanh của lá chuối, điểm xuyết màu đỏ của hoa
chuối, đem lại cảm giác tươi tắn, rạo rực của bức tranh đông, thay thế cho sự tịch liêu,
hiu hắt vốn dĩ của thiên nhiên chốn rừng hoang vu.

- Trông xa, ta như thấy những ngọn đuốc đỏ hồng sáng rực lên cả cánh rừng, từng cụm
từng chùm tạo thành một bức họa với hai gam màu “xanh - đỏ” đan xen, đưa người đắm
chìm vào nét vẽ sống động của nhà thơ dân tộc.

- Nghệ thuật chấm phá làm nổi bật nét đẹp cổ điển của câu thơ. Chỉ với hai màu sắc đã
phác thảo lên được bức tranh mùa đông sống động, ấm áp. Đây là cách cảm nhận hết sức
đặc biệt về cảnh sắc thiên nhiên.

* Hình ảnh con người lao động:

“Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”

- “Dao gài thắt lưng” gợi vẻ đẹp khỏe khoắn, tư thế vững chãi, tự tin, làm chủ thiên
nhiên. Chỉ bằng nét vẽ đơn sơ của bút pháp chấm phá trong hội họa, hình ảnh người dân
Việt Bắc đã hiện ra đầy ấn tượng.

- Cụm từ “nắng ánh” được đặt ở trạng thái động, câu thơ như một góc chụp đầy ấn tượng
của nghệ thuật nhiếp ảnh, tạo tư thế và tầm vóc của người làm chủ.

- Vẻ đẹp con người hài hòa với thiên nhiên “đèo cao nắng ánh”. Nắng chiếu vào dao gài
thắt lưng tạo nên một phản quang lấp lánh => Con người và thiên nhiên quấn quýt, chan
hòa. Qua câu thơ ta thấy được sự ngưỡng mộ, yêu mến của người ra đi đối với người ở
6
lại. Hình ảnh ở dân Việt Bắc trong lòng người ra đi mãi đẹp, mãi ấn tượng và thân
thương như vậy.

=> Nhà thơ thể hiện tấm lòng trân trọng nhân dân, trân quý công việc của họ, đặt
họ trong tâm thế hiên ngang của một tầm vóc lớn lao trên khung cảnh thiên nhiên
hùng vĩ.

 Bức tranh mùa xuân: với những gam màu tinh khôi thuần khiết

* Cảnh sắc thiên nhiên:

“Ngày xuân mơ nở trắng rừng”

- Sự thay đổi gam màu, từ gam nóng chuyển sang gam trung gian với sắc trắng thanh
nhẹ, dịu mát, tinh khiết gợi sự trong trẻo, trẻ trung.

- Phép đảo ngữ: “trắng rừng” đã mở ra ấn tượng về sắc trắng bao phủ khắp không gian.
Kết hợp với động từ “nở” cho thấy sức sống, sự sinh sôi, tràn trề của núi rừng mùa
xuân.

- Sắc trắng vừa làm nổi bật linh hồn của bức tranh mùa xuân, vừa gợi ra tâm trạng bâng
khuâng, xao xác trong lòng người trước cảnh thiên nhiên đẹp. Lại thêm nhịp 2/2/2 tạo
nên trạng thái động của thời gian, diễn tả sự vận động tinh tế trong từng cánh hoa.

- Nghệ thuật phối màu đã làm nổi bật sắc trắng của những bông hoa mơ, của những
chiếc nón lá, của những sợi giang trắng ngà óng chuốt.

=>Thiên nhiên trong trẻo, thơ mộng và tràn sức sống với sự vận động tinh tế.

* Hình ảnh con người:

“Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”

- “Chuốt” là trau chuốt để sợi giang bóng sáng hơn – một công việc đòi hỏi sự cần mẫn,
chăm chỉ, chịu thương, chịu khó và sự khéo léo của đôi bàn tay. Từ này gợi lên vẻ đẹp
duyên dáng và tinh tế của đôi tay con người lao động.

7
- Sự hài hòa của cảnh sắc thơ mộng, con người tỉ mỉ, tài hoa, tinh tế.

=> Núi rừng Việt Bắc đã ngập trong một màu trắng thanh khiết, tinh khôi của
hoa mơ. Thấp thoáng trong rừng hoa mơ ấy, ta bắt gặp hình ảnh con người Việt
Bắc trong lao động, mang vẻ đẹp cần mẫn và tài hoa phù hợp với thiên nhiên thơ
mộng và thanh khiết. Hình ảnh con người lao động cần mẫn, tinh tế, khéo léo nơi
núi rừng mãi là dấu ấn in đậm trong lòng người ra đi.

 Bức tranh mùa hạ: sắc vàng rực rỡ của cây phách

* Cảnh sắc thiên nhiên:

“Ve kêu rừng phách đổ vàng”

- Nét vẽ chuyển từ màu sắc sang âm thanh phù hợp với sự sôi động của mùa hè.

- Tiếng ve là âm thanh quen thuộc báo hiệu hè về, chứa đựng cả khúc nhạc rừng độc
đáo, tạo không khí náo nức, xôn xao.

- “Phách” là loại cây gỗ lim ở rừng Việt Bắc, loại cây nở hoa tím nhạt vào mùa hè, trước
lúc nở hoa, cả rừng cây đồng loạt thay lá, chuyển từ màu xanh sang màu vàng chỉ trong
vài ngày.

- “Đổ” nhấn mạnh sắc thái biến chuyển mau lẹ, đột ngột, nhanh chóng của cảnh vật trên
phạm vi diện rộng tạo nên bức tranh sôi động mà tươi mới nhiều sức sống => hiệu ứng
lan tỏa giữa các sự vật. Trạng thái này đã đưa tới cảm giác ngỡ ngàng, choáng ngợp
trong lòng người.

- Hai động từ “kêu” – “đổ”: Sự phản ứng dây chuyền từ đầu tới cuối câu thơ. Tiếng ve
đồng loạt rừng phách trổ hoa vàng. Bước đi thời gian được hữu hình hóa. Thời gian đã
thay màu áo cho cảnh vật. Thực chất việc rừng phách thay lá và âm thanh tiếng ve hoàn
toàn không có mối liên hệ với nhau nhưng Tố Hữu đã kết nối các sự vật, khiến thiên
nhiên dường như có sự giao cảm và linh hồn riêng, tạo ra phản ứng dây chuyền.

8
=> Bức tranh mùa hè tiếp tục có sự phối màu hài hòa nhờ bàn tay người nghệ sĩ tài
hoa, tạo ấn tượng cho người đọc về sắc màu và âm thanh.

* Hình ảnh con người:

“Nhớ cô em gái hái măng một mình”

- Xưng hô “cô em gái” trìu mến, ngọt ngào, thân thiết như em gái ruột thịt trong nhà.
Cách xưng hô quen thuộc trong thơ Tố Hữu để diễn tả tình cảm cách mạng lớn lao.

- Công việc lao động “hái măng” quen thuộc hàng ngày của người dân Việt Bắc. Động
tác hái măng gợi ra dáng vẻ cắm cúi, cần mẫn, thầm lặng của cô gái nhỏ bé giữa núi
rừng mênh mông.

- “Một mình” gợi sự làm việc chăm chỉ, cần mẫn thầm lặng => Con người gần gũi, thân
thuộc với thiên nhiên, hài hòa với vẻ đẹp thiên nhiên.

=> Hai câu thơ trên chỉ có sáu âm tiết nhưng đã gợi ra cả một chuỗi vận động liên
hoàn: tiếng ve kêu gọi mùa hè đến, mùa hè với sắc nắng chói chang của nó nhuộm
vàng cả rừng phách. Hình ảnh con người hiện ra qua cách gọi “người em gái”
khiến người Việt Bắc hiện lên thật thân thương, gần gũi. Đó có thể là người em gái
đang hái măng rừng để nuôi quân. Con người hiện ra hết sức lặng lẽ: “người em
gái” chỉ có “một mình” giữa rừng măng, lao động trong thầm lặng, trong lãng
quên, không cần được biết đến hay ngợi ca.

 Bức tranh mùa thu: khép lại chuỗi quy luật tuần hoàn của thiên nhiên vạn
vật

“Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.”

- Tố Hữu chọn trăng - điều huyền diệu mang màu bình yên đã tạo nên những nét đẹp rất
riêng cho bức tranh tứ bình.

9
- Vầng trăng, người bạn tri kỷ của biết bao thi sĩ đã theo chân người chiến sĩ từ những
ngày chiến đấu gian khổ đến hòa bình hôm nay, trăng vẫn còn đó , “rọi” những ánh hòa
bình xuống trần gian như làm êm dịu lòng người sau mất mát đau thương của cuộc
kháng chiến trường kỳ gian khổ.

- Trăng là người bạn tâm tình, là chứng nhân lịch sử trên từng chặng đường dài của dân
tộc. Trăng đi vào “Đồng chí” soi sáng tình đồng đội, trăng nhắc nhở con người sống ân
tình trong “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, trăng là người bạn tâm giao, soi sáng những
trang “Nhật kí trong tù” của vị lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh.

- Dưới ánh trăng hòa bình một “tiếng hát” ngân lên - thứ làm nên chất thơ của cuộc đời
các anh chiến sĩ.

- Nếu như trong toàn bộ tác phẩm, cặp xưng hô “ta – mình” luôn đồng hiện thì ở đây ta
bắt gặp đại từ “ai”. “Ai” khiến lời thơ tình tứ hơn, khiến nỗi nhớ như mang hình sắc của
lứa đôi. Từ “ai” cũng để chỉ người Việt Bắc lao động tần tảo, giàu lòng yêu nước và tinh
thần Cách mạng, đã gắn bó cưu mang cán bộ trong suốt 15 năm kháng chiến.

- “Tiếng hát ân tình thủy chung”: tạo âm vang ngọt ngào của bài ca lao động và của lòng
người. Tiếng hát tạo cảm giác tươi vui, thanh bình, đồng thời cũng cho thấy sự hồi sinh
của đất nước sau chiến tranh. Tiếng hát còn là lời nhắc nhở người ở lại, là lời nguyện
ước của người ra đi.

=> Người trở về không tái hiện lại lời ca mà chỉ ghi lại ấn tượng mà bài ca đọng lại
trong lòng người “ân tình thủy chung”. Đó là phẩm chất của những con người Việt
Bắc, luôn son sắt thủy chung, một lòng với cách mạng. Chiến tranh dù qua đi, bụi
thời gian dù có phủ bụi mờ lên những kỉ niệm thì vẻ đẹp của tấm lòng ấy mãi mãi
vẹn nguyên trong kí ức của người ra đi.

Tiểu kết: Mỗi câu lục bát làm thành một bức tranh trong bộ tứ bình. Mỗi bức
tranh có vẻ đẹp riêng hòa kết bên nhau tạo vẻ đẹp chung. Đó là sự hài hòa giữa âm
thanh, màu sắc... Tiếng ve của mùa hè, tiếng hát của đêm thu, màu xanh của rừng

10
già, sắc đỏ của hoa chuối, trắng tinh khôi của rừng mơ, vàng ửng của hoa phách...
Trên cái nền thiên nhiên ấy, hình ảnh con người hiện lên thật bình dị, thơ mộng
trong công việc lao động hàng ngày.

3. Khổ 8: Nhớ thiên nhiên Việt Bắc anh hùng: tái hiện một bức tranh thiên nhiên Việt
Bắc hào hùng trong thời kì kháng chiến chống Pháp, chống Nhật.

- Tố Hữu khắc họa một cách cụ thể hoàn cảnh chiến đấu căng thẳng đầy khó khăn của
cuộc Cách mạng:

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng”

+ Ý thơ mở ra một không khí đầy cam go, căng thẳng, khi giặc tìm mọi cách để truy sát,
để hòng dập tắt phong trào cách mạng, phong trào kháng chiến của đồng bào Việt Bắc.

- Tố Hữu cụ thể hóa vai trò của thiên nhiên và con người Việt Bắc trong những ngày
kháng chiến:

“Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây”

+ Nhà thơ gợi lại bao kỉ niệm ở chiến khu Việt Bắc, khi người đi – kẻ ở đã cùng nhau kề
vai sát cánh.

+ “Rừng cây núi đá” luôn là tấm chắn vững chắc, tạo nên ưu thế cho bộ đội ta giành
thắng lợi, cùng nhau chiến đấu trong sự bao bọc của thiên nhiên. Đứng trước cánh rừng
đại ngàn mênh mông, quân thù phải lùi bước, phải e sợ, dè chừng bởi thiên nhiên và con
người đất Việt luôn đồng lòng, đoàn kết.

+ Đại từ “ta”: đại diện cho “chúng ta”, bao gồm kẻ ở, người đi và chính cả thiên nhiên
núi rừng Việt Bắc.

“Núi giăng thành lũy sắt dày

Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.”

11
- Nhân hóa “Rừng che", "rừng vây”: làm cho sự vật vô tri, vô giác trở nên có hồn. Rừng
có khi hiểm trở, có khi dịu dàng để che chở bao bọc cho những người cán bộ kháng
chiến, có khi lại mạnh mẽ như một thứ vũ khí sắc nhọn để tiêu diệt kẻ thù bảo vệ đất
nước.

- Núi rừng Việt Bắc không chỉ là nơi trú ẩn mà còn là thành lũy, chiến hào, là người
đồng đội chung tay vây bắt quân thù.

=> Tình đoàn kết đặc biệt giữa thiên nhiên và con người.

“Mênh mông bốn mặt sương mù

Đất trời ta cả chiến khu một lòng”

- Đảo ngữ "mênh mông": nhấn mạnh Trời đất bị chìm lấp trong cả màn sương giăng
khắp nơi, khiến cho khung cảnh chiến đấu trở nên uy linh và không kém phần lãng mạn.

- Chiến khu mang nét đặc trưng rộng lớn, đồng thời thể hiện sự phát triển của kháng
chiến, chiến khu giải phóng được mở rộng hơn.

- Cụm từ “Đất trời ta cả” khẳng định quyền làm chủ vùng giải phóng. Với từ "một lòng"
thể hiện sự đồng tâm nhất trí đã cho ta thấy một "thế trận lòng người" san bằng tất cả
quân thù.

=> Cả vũ trụ, núi rừng Việt Bắc giờ đây đang cùng nhìn về một hướng, đang
hướng về cuộc chiến đấu, hướng về sứ mệnh bảo vệ quê hương đất nước yêu dấu
của mình thầm thể hiện tinh thần đoàn kết của dân tộc trong cuộc kháng chiến
chống Pháp.

- Tố Hữu ca ngợi sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc góp phần làm nên những chiến
công vang dội, hàng loạt những địa danh vang lên, mỗi nơi đều gắn với một thắng lợi
vinh quang:

“Ai về ai có nhớ không?


12
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng

Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng

Nhớ từ Cao - Lạng, nhớ sang Nhị Hà…”

+ Đại từ phiếm chỉ "ai" quen thuộc trong ca dao kết hợp với câu hỏi tu từ thể hiện niềm
vui to lớn trước chiến thắng vẻ vang của dân tộc.

+ Điệp từ “nhớ” như muốn nhắc lại những trận đánh, những chiến công oanh tạc như thế
là niềm tự hào của cá nhân những người tham gia kháng chiến. Có lẽ họ không những
nhớ đến những chiến công oanh liệt như thế mà còn nhớ về những kỉ niệm buồn bên
đồng đội của mình, họ đã phải chia tay ra đi vĩnh viễn trong nước mắt và sự xót thương
của cả dân tộc.

+ Phép liệt kê các địa danh ở Việt Bắc: Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng, Nhị
Hà ... đều là những địa điểm mà họ đã gắn bó, những cứ điểm kháng chiến quan trọng
với mỗi người cán bộ mà có lẽ họ không thể nào quên.

+ Trả lời cho câu hỏi “ai có nhớ không? “là lời đáp thiết tha, chắc nịch: “ta về ta nhớ”,
Tố Hữu đã mượn thơ để nói hộ tiếng lòng mình, gói gọn cả một thời đại Cách mạng cao
đẹp.

+ Giọng thơ thay đổi linh hoạt: chuyên chở tất cả những sự náo nức, reo vui đang vỡ oà,
tràn ra theo từng dòng thơ.

=> Tố Hữu thực sự đã thổi hồn vào thiên nhiên Việt Bắc khiến cho mỗi cánh rừng,
ngọn núi trở thành người đồng hành với người kháng chiến trong cuộc kháng chiến
trường kỳ của dân tộc. Sức mạnh thiên nhiên hòa quyện với sức mạnh con người
đã tạo thành sức mạnh của cả dân tộc, cả thời đại.

4. Khổ 9: Không khí hào hùng của đêm hành quân và niềm vui chiến thắng

a. Không khí hào hùng đêm hành quân (8 câu thơ đầu)

13
- Khẳng định chắc nịch về niềm tin và lòng tự hào mãnh liệt dành trọn cho chiến khu
Việt Bắc:

“Những đường Việt Bắc của ta”

+ Một lời quả quyết hùng tráng, khỏe khoắn, tưởng như một đoàn người trai tráng đồng
thanh hô ứng thật to khỏe: “Việt Bắc của ta” vậy!

+ “của ta” hai tiếng ấy vang lên thật gần gũi, thân thuộc, giản dị mà thiêng liêng vô
cùng.

+ Đó cũng là niềm tự hào về sự bất khả xâm phạm của vùng căn cứ Việt Bắc. Đây cũng
là cảm hứng chung từng xuất hiện trong bài Đất nước của Nguyễn Đình Thi:

“Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta.”

- Hình ảnh đoàn binh hùng hồn và khí thế rợp trời:

“Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”

+ Hình ảnh đoàn binh đông đảo càng làm uy lực và khí thế chiến đấu dâng lên gấp bội:
Trong không gian đêm tối, quân ta vẫn “rầm rập” đi, khí thế hùng hồn, dữ dội như “đất
rung”.

+ Hình ảnh “đất rung”: sức mạnh bước chân đoàn quân mạnh mẽ hùng tráng, như không
gì có thể cản được, làm lay chuyển trời đất, phá tan mọi giới hạn không gian.

+ “Đêm đêm”: Không chỉ là một đêm hành quân mà đêm nào cũng như thế, họ luôn giữ
được lý tưởng và sức mạnh bền bỉ mỗi ngày.

14
+ “điệp điệp trùng trùng”: Khí thế hồ hởi như cơn sóng ào ạt, như thác nước tuôn trào
liên tục, sức mạnh ấy còn thể hiện ở sự kỷ luật của đoàn binh, dù đêm tối nhưng vẫn giữ
được tinh thần kháng chiến hăm hở.

- “Sao đầu súng”: vừa tả thực, vừa tượng trưng:

+ Tả thực: trong đêm đầu súng lấp lánh như sao trời.

+ Biểu tượng: Đầu súng lấp lánh lí tưởng sáng rực như sao: “Anh đi bộ đội sao trên
mũ/Mãi mãi là sao sáng dẫn đường”

+ “Sao đầu súng” đặt bên cạnh hình ảnh “mũ nan” -> gợi nên sự thiếu thốn trong quân
trang khiến hình tượng người lính hiện lên bình dị mà cao cả.

- Sự đoàn kết đồng lòng của hậu phương, của lực lượng dân công hỏa tuyến:

“Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay

Nghìn đêm thăm thẳm sương dài

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.”

+ “Dân công đỏ đuốc từng đoàn”: tả thực kết hợp với phép đảo ngữ đã tái hiện đoàn
quân với hình ảnh đốt đuốc đi trong đêm tối để thực hiện nhiệm vụ tiếp tế lương thực,
thực phẩm cho quân đội, đây là một hình ảnh rất đẹp.

+ “Bước chân nát đá”: ca ngợi sức mạnh phi thường của những đoàn dân công đông đảo
nối tiếp nhau ngày đêm tải lương, tải đạn ra chiến trường, phục vụ chiến dịch, trực tiếp
góp phần vào chiến thắng. Phóng đại táo bạo, khỏe khắn, bước chân đầy sức mạnh. Đó
là bước chân đạp bằng mọi chông gai để tiến về phía trước.

+ “Lửa bay”: hình ảnh tả thực về những tàn lửa trong đêm tối => tạo nên cái lãng mạn
thần kỳ nhưng đó cũng là hình ảnh ẩn dụ cho lửa từ trái tim. => Không khí sục sôi của

15
cuộc chiến. Đoàn quân đi vào chiến dịch mà như đi trong lễ hội hoa đăng, thể hiện niềm
vui và tự hào khi ra trận.

+ “Đèn pha bật sáng” lực lượng hùng mạnh của quân cơ giới.

+ “Ngày mai lên” ẩn dụ cho ánh bình minh của ngày mới tươi sáng, tràn đầy niềm tin và
hy vọng. Khuynh hướng sử thi đã gắn kết sâu sắc với cảm hứng lãng mạn, làm tăng
thêm sức mạnh cho những con người đang chiến đấu ngay trong gian khổ, nguy nan.

+ Nghệ thuật tương phản “Nghìn đêm thăm thẳm sương dày >< đèn pha bật sáng như
ngày mai lên” tô đậm sự trưởng thành vượt bậc của quân ta, khẳng định niềm tin tất
thắng.

=> Bức tranh Việt Bắc ra trận được tô đậm bởi bút pháp sử thi và cảm hứng lãng
mạn, cho thấy khí thế hào hùng, tinh thần quật khởi và niềm tin chiến thắng của
dân tộc.

b, Niềm vui chiến thắng (Bốn câu thơ cuối)

“Tin vui chiến thắng trăm miền

Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về

Vui từ Đồng Tháp, An Khê

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”

- Tố Hữu như một nhà tốc ký, ghi lại kịp thời những tin tức thời sự nóng hổi, kịp thời
cập nhật tin chiến thắng để khích lệ tinh thần chiến đấu của bộ đội, chiến sĩ cũng như
toàn dân ta trên khắp các chiến trường. Hàng loạt những địa danh được liệt kê, hàng loạt
những chiến dịch lớn được theo dõi sát sao. Điều này cho thấy sự gắn bó của Tố Hữu
trong suốt chặng đường chiến đấu gian khổ 15 năm của dân tộc.

- Điệp từ “vui” nhắc lại bốn lần thể hiện niềm vui, niềm háo hức trong lòng.

16
- “Trăm miền” số từ cùng với sự kết hợp từ ngữ linh hoạt “tin vui”, “vui từ” “vui về”,
“vui lên” diễn tả một không gian rộng lớn, niềm vui khắp đất nước.

=> Việt Bắc trở thành nơi hội tụ niềm vui, tin mừng.

- Các địa danh rải đều từ Bắc vào Nam, từ miền ngược xuống miền xuôi. Mỗi địa danh
là một chiến thắng, là một điểm nhớ thiêng liêng, là một niềm tự hào.

- Giọng điệu dạt dào, phấn khởi, tươi vui, phấn chấn phù hợp với khí thế chiến thắng và
niềm vui bất tuyệt của con người.

=> Nhịp thơ dồn dập, tươi vui, náo nức cùng với sự xuất hiện của loạt các địa danh
trăm miền gắn với tin vui chiến thắng đã cho thấy tốc độ thần kì của thắng lợi.
Chiến thắng ấy trải dài khắp mọi miền Tổ quốc tạo nên ngày hội chiến thắng của
toàn thể dân tộc ta.

Tiểu kết: Đoạn thơ đã rất thành công khi thể hiện niềm vui chiến thắng của quân
và dân ta trong những ngày kháng chiến chống thực dân Pháp gian khổ nhưng rất
đỗi hào hùng. Thành công ấy là nhờ vào một số thủ pháp nghệ thuật thể hiện: thể
thơ lục bát truyền thống; ngôn ngữ sử thi hào hùng; hình ảnh thơ giàu sức sống;
nhịp thơ dồn dập, nhiều điệp từ, điệp ngữ… tất cả đã tạo nên một đoạn thơ hùng
tráng về những ngày sục sôi đánh Pháp.

III. Tổng kết

1. Nội dung

- Bài thơ tái hiện lại cuộc chia ly đầy quyến luyến giữa người ở lại và người ra đi với
những lời gợi nhắc về những kỉ niệm của 15 năm gắn bó trong kháng chiến. Việt Bắc
hiện lên với những hoài niệm đầy gian lao, khổ cực nhưng tình nghĩa mặn nồng.

- Bao trùm lên cả bài thơ về nỗi nhớ và sự luyến tiếc. Nỗi nhớ của cả những người ở lại
và người ra đi. Với người ra đi, nỗi nhớ về Việt Bắc đa dạng hơn: nhớ con người, cuộc

17
sống nơi chiến khu Việt Bắc; nhớ thiên nhiên, núi rừng nơi đây; nhớ về cuộc kháng
chiến gian lao nhưng hùng tráng và nhớ cả những ngày đầu độc lập.

- Qua đó, người đọc có thể thấy được mối quan hệ và sự gắn bó keo sơn, tình quân dân
thắm thiết giữa chiến sĩ cách mạng với người dân Việt Bắc.

2. Nghệ thuật đặc sắc

- Sử dụng sáng tạo ngôn ngữ và lối đối đáp quen thuộc trong ca dao.

- Cặp đại từ: Mình – Ta: tạo không khí ấm áp, thân thương. Chỉ ra sự gắn bó nghĩa tình
giữa nhân dân và cách mạng. "Mình" và "Ta" tuy hai mà một.

- Sử dụng sáng tạo thể thơ lục bát của dân tộc.

- Bài thơ dung dị, gần gũi với ca dao, dân ca, được trau chuốt, trong sáng, nhuần nhụy
đến độ cổ điển.

- Nghệ thuật tiểu đối: nhịp thơ cân xứng, nhịp nhàng.

- Ngôn ngữ, hình ảnh thơ mộc mạc, đậm chất dân tộc:

+ Các phép so sánh, liên tưởng quen thuộc phù hợp với tâm lý, tư duy của đồng bào
miền núi.

+ Sử dụng thành công các biện pháp tu từ: so sánh, nhân hóa, hoán dụ, điệp từ, ...

+ Hình ảnh phong phú, giản dị mà sinh động, hấp dẫn.

- Giọng điệu thơ tâm tình, thủ thỉ tạo ra một thế giới thơ giàu tình cảm, ân tình ân nghĩa

=> Đậm chất sử thi và lãng mạn.

IV. Nhận định về tác giả, tác phẩm

1. “Những vần thơ miêu tả thiên nhiên trong “Việt Bắc” có thể so sánh với bất kì câu thơ
nào trong thơ ca cổ điển”. (Hoài Thanh)

18
2. “Thơ là đi giữa nhạc và ý. Rơi vào cái vực ý, thì thơ sẽ sâu, nhưng rất dễ khô khan.
Rơi vào cái vực nhạc, thì thơ dễ làm đắm say người, nhưng cũng dễ nông cạn. Tố Hữu
đã giữ được thế quân bình giữa hai vực thu hút ấy. Thơ của anh vừa ru người trong nhạc,
vừa thức người bằng ý”. (Chế Lan Viên - “Lời nói đầu tuyển tập thơ Tố Hữu”)

3. “Trong thơ Tố Hữu, nét nổi bật đáng quý là sự nhất trí. Nhất trí giữa đời sống và nghệ
thuật. Nhất trí giữa tình cảm, tư tưởng và hành động. Nhất trí giữa con người với thời
đại, với tập thể”. (Giáo sư Đặng Thai Mai)

4. “Sức mạnh của thơ Tố Hữu trong những ngày đen tối ấy chính là vì nó nói với trái
tim, chính là bởi người cách mạng ấy là một thi sĩ chính cống, thật sự”. (Xuân Diệu -
“Tố Hữu với chúng tôi”)

5. “Thời gian đời người chẳng được là bao, hơn nhau hai chữ anh hào mà thôi. Tố Hữu
là một anh hào và là một nhà thơ. Anh để lại cho đời hơn nhiều người của chúng ta với
những cống hiến cho sự nghiệp cách mạng và di sản thơ văn...”. (Nhà báo Hoàng
Tùng)

V. Câu hỏi

Câu 1: Vì sao trong đoạn thơ viết về núi rừng Việt Bắc:
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.”
chữ "rừng" và "núi" được lặp đi lặp lại đến năm lần?
Câu 2: Tại sao Tố Hữu lại miêu tả mùa đông trước rồi kết thúc bằng mùa thu mà không bắt
đầu theo một trình tự thông thường?

19
Câu 3: Hãy liên hệ với nỗi nhớ về một thời kì kháng chiến gian khổ mà nghĩa tình được thể
hiện trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng để thấy được điểm tương đồng và nét riêng
của hai bài thơ.
Câu 4: Xuân Diệu từng nhận định rằng “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị đạt đến trình độ rất đỗi
trữ tình”. Hãy lý giải nhận định trên theo cách hiểu của bản thân.

Phần phân công:

Công việc Thành viên

Word Bùi Liên, Mai Liên, Quốc Hưng, Thu


Huyền

PowerPoint Bùi Liên

Phản biện Quốc Hưng

Thuyết trình Bùi Liên, Mai Liên, Quốc Hưng, Thu


Huyền

20

You might also like