Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 14

ĐẠI HỌC UEH

TRƯỜNG KINH TẾ - LUẬT VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC


KHOA LUẬT

BÀI TIỂU LUẬN CUỐI KÌ


MÔN: LUẬT ĐẦU TƯ
Đề bài: ĐẦU TƯ THEO HÌNH THỨC PPP

Giảng viên hướng dẫn : Thầy Trần Huỳnh Thanh Nghị


Mã lớp học phần : 24D1LAW51102803
Sinh viên thực hiện : Hoàng Thị Kiều Tiên
Khóa - Lớp : K47 - LK002
MSSV : 31211027543

TP Hồ Chí Minh, ngày 7 tháng 4 năm 2024

MỤC LỤC
Lời mở đầu....................................................................................................................................
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG.................................................................
1.1 Khái niệm về đầu tư theo đối tác công tư PPP...................................................................
1.2 Đặc điểm của hợp đồng dự án PPP....................................................................................
1.3 Phân loại đầu tư theo hình thức đối tác công tư.................................................................
1.4 Những lợi thế của mô hình PPP.........................................................................................
1.5 Quy trình thực hiện đầu tư.................................................................................................
Chương II: LUẬT ĐẦU TƯ THEO PHƯƠNG THỨC HỢP TÁC CÔNG TƯ...........................
2.1 Thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư PPP.................................................................
2.2 Quy định về việc lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án PPP..............................................
2.3 Quy định về cơ chế chia sẻ phần tăng doanh thu...............................................................
2.4 Các hành vi bị cấm trong đầu tư theo phương thức PPP....................................................
Chương III: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ
TẦNG THEO HÌNH THỨC PPP Ở VIỆT NAM 2020 TỚI NAY...............................................
3.1 Thực trạng của mô hình PPP hiện nay...............................................................................
3.2 Những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện đầu tư theo PPP ở
nước ta......................................................................................................................................
CHƯƠNG IV: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ THEO
HÌNH THỨC ĐỐI TÁC CÔNG TƯ Ở VIỆT NAM.....................................................................
Kết luận.........................................................................................................................................
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................

Lời mở đầu
Với nhu cầu thu hút nguồn tài chính phục vụ xã hội, hình thức đối tác công - tư (PPP) đã
trở thành một giải pháp cần thiết để thu hút nguồn lực tư nhân vào đầu tư, xây dựng và
phát triển cơ sở hạ tầng quốc gia. Nhìn vào thành tựu và kinh nghiệm của các nước phát
triển, Việt Nam đã tập trung vào việc xây dựng chính sách và hoàn thiện khung pháp lý về
hoạt động đầu tư theo hình thức PPP, nhằm giảm áp lực cho ngân sách quốc gia và giảm
sự phụ thuộc vào nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức, từ đó cải thiện chất lượng dịch
vụ, nâng cao hiệu quả đầu tư và giảm thiểu các vấn đề tiêu cực trong hoạt động đầu tư cơ
bản.

1
Qua việc Quốc hội thông qua Luật Đầu tư theo hình thức đối tác công - tư số
64/2020/QH14 vào ngày 18/06/2020, mở ra một bước tiến mới trong quản lý và điều
chỉnh hoạt động đầu tư theo hình thức này. Các nghị định hướng dẫn cũng được ban hành
nhằm thực hiện quản lý thống nhất đối với hoạt động đầu tư theo PPP, đồng thời quy định
rõ quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan. Nhà nước,
thông qua việc ban hành pháp luật và tổ chức bộ máy thực hiện, đã tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp có năng lực tham gia và hợp tác trong lĩnh vực này.

Trong bối cảnh này, việc nghiên cứu và phân tích về pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu
tư theo hình thức đối tác công - tư trở nên càng trọng yếu hơn bao giờ hết. Tiểu luận dưới
đây sẽ đi sâu vào các vấn đề lý luận liên quan đến đầu tư theo hình thức PPP và pháp luật
điều chỉnh hoạt động này.

CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG


1.1 Khái niệm về đầu tư theo đối tác công tư PPP
Từ những năm 90 của thế kỷ XX, Việt Nam đã bắt đầu áp dụng hình thức hợp tác với tư
nhân trong lĩnh vực hạ tầng thông qua các hợp đồng BOT (Xây dựng - Vận hành -
Chuyển giao), BT (Xây dựng - Chuyển giao) và BOT & BT. Tuy nhiên, khái niệm "đối
tác công tư" và "hợp đồng đầu tư PPP" mới chính thức xuất hiện vào năm 2010, khi
Quyết định 71/2010/QĐ-TTg về Quy chế thí điểm đầu tư PPP được ban hành. Sau đó,
Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư được Quốc hội thông qua vào năm 2019,
đánh dấu bước phát triển quan trọng trong việc thể chế hóa và hoàn thiện khuôn khổ pháp
lý cho hoạt động PPP tại Việt Nam.

Đầu tư theo phương thức PPP được mô tả là "hình thức đầu tư được thực hiện trên cơ sở
hợp đồng giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để
thực hiện, quản lý, vận hành dự án kết cấu hạ tầng, cung cấp dịch vụ công". Nội dung này
được thể chế hóa trong pháp luật và được định nghĩa tại Khoản 10 Điều 3 Luật Đầu tư
theo phương thức đối tác công tư như sau: "Đầu tư theo phương thức đối tác công tư
(Public Private Partnership - sau đây gọi là đầu tư theo phương thức PPP) là phương thức
đầu tư được thực hiện trên cơ sở hợp tác có thời hạn giữa Nhà nước và nhà đầu tư tư nhân
thông qua việc ký kết và thực hiện hợp đồng dự án PPP nhằm thu hút nhà đầu tư tư nhân
tham gia dự án PPP".

“Hợp đồng dự án PPP là thỏa thuận bằng văn bản giữa cơ quan ký kết hợp đồng với nhà
đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP về việc Nhà nước nhượng quyền cho nhà đầu tư, doanh

2
nghiệp dự án PPP thực hiện dự án PPP theo quy định” 1. Cơ quan nhà nước có thẩm
quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án bình đẳng, cùng hợp tác và chia sẻ trách nhiệm,
lợi ích và rủi ro trong quá trình đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng

1.2 Đặc điểm của hợp đồng dự án PPP


Về chủ thể của hợp đồng dự án PPP
Chủ thể của hợp đồng dự án PPP gồm cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư
hoặc doanh nghiệp dự án. Ở Việt Nam, cơ quan thẩm quyền tham gia ký kết và thực hiện
hợp đồng dự án PPP là Chính phủ, cơ quan cấp Bộ, Uỷ ban nhân dân các cấp, hoặc các cơ
quan có nguồn vốn ngân sách nhà nước. Đây là những cơ quan đại diện cho Nhà nước và
nhân danh lợi ích của nhà nước để thực hiện đàm phán với nhà đầu tư thuộc mọi thành
phần kinh tế. Sự tham gia của các cơ quan này với tư cách là một bên trong quan hệ hợp
đồng với nhà đầu tư đã tạo ra điểm khác cho hợp đồng PPP so với các loại hợp đồng khác
trong lĩnh vực thương mại và đầu tư. Nhà đầu tư là một bên chủ thể của hợp đồng PPP, tại
khoản 18 Điều 3 Luật PPP năm 2020 đã khẳng định: nhà đầu tư PPP là một pháp nhân
độc lập được thành lập theo quy định của pháp luật hoặc liên danh giữa nhiều pháp nhân
tham gia hoạt động đầu tư theo phương thức PPP. Ngoài ra, chủ thể của hợp đồng dự án
PPP còn có thể là doanh nghiệp dự án. Doanh nghiệp dự án PPP là doanh nghiệp do nhà
đầu tư thành lập có mục đích duy nhất để ký kết và thực hiện hợp đồng dự án PPP. Nhà
đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP hợp thành một bên và cùng ký vào hợp đồng với cơ quan
có thẩm quyền ký kết hợp đồng.

Về đối tượng của hợp đồng dự án PPP


Tùy thuộc vào tính chất và nội dung của từng quan hệ hợp đồng cụ thể mà đối tượng của
nó có thể là một tài sản, một công việc cụ thể. Trong ngữ cảnh của mối quan hệ đối tác
công tư, các công trình kết cấu hạ tầng và dịch vụ công thường là đối tượng chính của hợp
đồng dự án PPP. Các công trình kết cấu hạ tầng là các hệ thống, công trình vật chất và kỹ
thuật được xây dựng theo một cấu trúc nhất định, chúng đóng vai trò như "nền tảng" cho
các hoạt động kinh tế - xã hội diễn ra trên đó. Việc đầu tư xây dựng các công trình kết cấu
hạ tầng thường phức tạp với yêu cầu lớn về vốn đầu tư. Tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn phát
triển, pháp luật của mỗi quốc gia có các quy định khác nhau về các công trình kết cấu hạ
tầng thuộc diện kêu gọi đầu tư thông qua hình thức PPP. Dịch vụ công cũng là đối tượng
của hợp đồng dự án PPP. Theo quy định tại Điều 3 Luật PPP năm 2020, dự án PPP là tập
hợp các đề xuất có liên quan đến việc đầu tư để cung cấp sản phẩm, dịch vụ công thông
qua việc thực hiện một hoặc các hoạt động sau đây:
a) Xây dựng, vận hành, kinh doanh công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng;
b) Cải tạo, nâng cấp, mở rộng, hiện đại hóa, vận hành, kinh doanh công trình, hệ thống cơ
sở hạ tầng sẵn có;
c) Vận hành, kinh doanh công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng sẵn có.

1 Khoản 16 Điều 3 Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư 2020

3
Các sản phẩm, dịch vụ công là đối tượng của hợp đồng dự án PPP có thể thuộc các lĩnh
vực:
a) Giao thông vận tải;
b) Lưới điện, nhà máy điện, trừ nhà máy thủy điện và các trường hợp Nhà nước độc
quyền theo quy định của Luật Điện lực;
c) Thủy lợi; cung cấp nước sạch; thoát nước và xử lý nước thải; xử lý chất thải;
d) Y tế; giáo dục - đào tạo;
đ) Hạ tầng công nghệ thông tin.

Về mục đích giao kết hợp đồng dự án PPP


Mục đích của cả nhà nước và nhà đầu tư khi tham gia hợp đồng dự án PPP có sự đa dạng
và phức tạp. Nhà nước thường nhấn mạnh vào việc thúc đẩy phát triển hạ tầng và cung
cấp các dịch vụ công, mục tiêu này thường đi đôi với việc cải thiện chất lượng và hiệu
suất của các dịch vụ này. Qua việc chia sẻ rủi ro và chi phí với nhà đầu tư, nhà nước cũng
mong muốn giảm áp lực tài chính và tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế xã hội. Trong
khi đó, nhà đầu tư thường tập trung vào mục tiêu tạo ra lợi nhuận và quản lý rủi ro trong
quá trình thực hiện dự án. Tuy nhiên, việc tham gia vào các dự án PPP cũng mang lại cơ
hội cho nhà đầu tư xây dựng uy tín, mở rộng thị trường và đóng góp vào sự phát triển của
cộng đồng. Đồng thời, một số nhà đầu tư cũng coi việc tham gia vào các dự án PPP là một
phần của trách nhiệm xã hội doanh nghiệp của họ.

1.3 Phân loại đầu tư theo hình thức đối tác công tư
Có nhiều hình thức hợp tác PPP, song hiện nay trên thế giới và Việt Nam tập trung phát
triển các chính sách đối với sáu hình thức phổ biến sau:
BOT (Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao): “Hợp đồng BOT là hợp đồng mà nhà đầu
tư, doanh nghiệp dự án PPP được nhượng quyền để xây dựng kinh doanh, vận hành công
trình, hệ thống cơ sở hạ tầng trong thời hạn nhất định, hết thời hạn, nhà đầu tư, doanh
nghiệp dự án PPP chuyển giao công trình, hệ thống cơ sở đó cho Nhà nước 2.” Kết thúc
thời hạn hợp đồng, nhà đầu tư phải chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.
VD: Đường cao tốc Phan Thiết - Dầu Giây, Nhà nước sẽ cho doanh nghiệp thu phí 29
năm 6 tháng. Hết thời hạn này nhà đầu tư sẽ chuyển giao công trình này cho nhà nước. Có
nghĩa nhà nước sở hữu công trình này mà không cần bỏ tiền ra.

BTO (Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh): “Hợp đồng BTO là hợp đồng mà nhà đầu
tư, doanh nghiệp dự án PPP được nhượng quyền để xây dựng công trình, hệ thống cơ sở
hạ tầng; sau khi hoàn thành xây dựng, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP chuyển giao
công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng cho Nhà nước và được quyền kinh doanh, vận hành
công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng đó trong thời hạn nhất định 3”. Hợp đồng BTO mang

2 Điểm a Khoản 1 Điều 45 Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư 2020

3 Điểm b Khoản 1 Điều 45 Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư 2020

4
đầy đủ những đặc trưng cơ bản của hợp đồng BOT, chỉ khác ở thời gian chuyển giao công
trình dự án cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền

BOO (Xây dựng - Sở hữu - Kinh doanh): “Hợp đồng BOO là hợp đồng mà nhà đầu tư,
doanh nghiệp dự án PPP được nhượng quyền để xây dựng, sở hữu, kinh doanh, vận hành
công trình, hệ thống, cơ sở hạ tầng trong thời hạn nhất định, hết thời hạn, nhà đầu tư,
doanh nghiệp dự án PPP chấm dứt hợp đồng4”. Ví dụ: Nhà máy nước BOO thủ đức. Xây
dựng xong nhà nước sẽ cho sở hữu công trình này và sở hữu có thời hạn và thời hạn 30
năm thì nhà đầu tư sẽ được khai thác kinh doanh trong thời hạn sở hữu này. Tuy nhiên,
hình thức này khá tương đồng với việc tư nhân hoá. Vậy nên hợp đồng BOO nên dùng
hạn chế và chỉ trong những trường hợp đảm bảo việc chuyển giao vô hạn các tài sản công
sang cho khu vực tư nhân.

O&M (Kinh doanh - Quản lý): Trong mô hình O&M, nhà nước nhượng quyền cho một
doanh nghiệp để kinh doanh và quản lý cơ sở hạ tầng công cộng trong một thời gian nhất
định. Đây là một hình thức hợp tác công tư trong đó doanh nghiệp được ủy quyền phụ
trách vận hành và bảo dưỡng cơ sở hạ tầng đó, đồng thời có quyền thu phí hoặc thu các
khoản phí từ người sử dụng dịch vụ. Thời hạn của hợp đồng O&M thường ngắn hơn so
với các hình thức PPP khác (5-10 năm).
Ví dụ: Nhà nước có kế hoạch thực hiện quản lý đường cao tốc theo hình thức O&M với
tuyền đường dài khoảng 5000km. Căn cứ vào mật độ giao thông, địa hình, điều kiện kinh
tế - xã hội để chia nhỏ thành từng phần và giao cho doanh nghiệp quản lý.

BTL (Xây dựng - Chuyển giao - Thuê dịch vụ): là một hình thức hợp tác công tư trong đó
doanh nghiệp xây dựng một cơ sở hạ tầng công cộng, sau đó chuyển giao cho nhà nước
và nhà nước sẽ thuê các dịch vụ từ doanh nghiệp đó.

BLT (Xây dựng - Thuê dịch vụ - Chuyển giao): là một hình thức hợp tác công tư trong đó
doanh nghiệp xây dựng một cơ sở hạ tầng công cộng, sau đó nhà nước hoặc một cơ quan
công cộng khác sẽ thuê các dịch vụ từ doanh nghiệp đó trong một khoảng thời gian nhất
định, sau đó doanh nghiệp sẽ chuyển giao cơ sở hạ tầng đó lại cho nhà nước.

1.4 Những lợi thế của mô hình PPP


Các nước trên thế giới ngày càng có khuynh hướng chuyển dần sang khu vực tư nhân để
cung cấp các dịch vụ về cơ sở hạ tầng trong lĩnh vực năng lượng và điện, nước, thông tin
liên lạc, giao thông vận tải. Có nhiều lý do cho sự hợp tác với khu vực tư nhân trong phát
triển và cung cấp các dịch vụ về cơ sở hạ tầng:
- Tăng cường hiệu quả quản lý dự án: Sự hợp tác với nhà đầu tư, doanh nghiệp
mang lại khả năng tăng cường hiệu quả trong việc phân phối, điều hành và quản lý
dự án về hạ tầng. Doanh nghiệp tư nhân thường có kinh nghiệm và tài nguyên quản
lý tốt, giúp tối ưu hóa hoạt động của dự án.

4 Điểm c Khoản 1 Điều 45 Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư 2020

5
- Nguồn lực bổ sung: Sự hợp tác với nhà đầu tư, doanh nghiệp cung cấp các nguồn
lực bổ sung, giúp đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về đầu tư vào cơ sở hạ tầng.

- Tiếp cận công nghệ tiên tiến: Doanh nghiệp tư nhân thường có khả năng tiếp cận
và nắm bắt các công nghệ tiên tiến, cả phần cứng và phần mềm, giúp cải thiện hiệu
suất và chất lượng dự án.

- Quản lý quy hoạch và phát triển hiệu quả: Việc quản lý quy hoạch và phát triển dự
án một cách hiệu quả, từ việc lựa chọn đối tác đến quyết định về cơ cấu dự án và
công nghệ sử dụng.

- Cơ chế ngoài ngân sách: Mô hình PPP được đánh giá là một cơ chế ngoài ngân
sách hiệu quả để phát triển cơ sở hạ tầng. Nó giúp tăng cường cung cấp các dịch vụ
cơ sở hạ tầng cần thiết mà không yêu cầu ngay lập tức các khoản chi tiêu tiền mặt,
đồng thời giảm bớt gánh nặng chi phí thiết kế và xây dựng.

- Chuyển nhượng rủi ro: Mô hình PPP cho phép chuyển nhượng nhiều rủi ro dự án
sang khu vực tư nhân, giúp giảm bớt rủi ro cho chính phủ và cải thiện hiệu suất của
dự án.

- Lựa chọn tốt hơn về thiết kế và công nghệ: Đưa ra những lựa chọn tốt hơn về thiết
kế, công nghệ, xây dựng, vận hành và chất lượng cung cấp dịch vụ hạ tầng, tạo ra
các giải pháp đa dạng và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của cộng đồng.

1.5 Quy trình thực hiện đầu tư


Quy trình đầu tư theo hình thức đối tác công tư (quy trình dự án PPP) được thực hiện theo
các bước cụ thể dựa trên quy định của pháp luật. Theo đó, đối với những dự án
PPP nói chung sẽ bao gồm 5 bước như sau:
"a) Lập, thẩm định báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, quyết định chủ trương đầu tư, công
bố dự án;
b) Lập, thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi, phê duyệt dự án;
c) Lựa chọn nhà đầu tư;
d) Thành lập doanh nghiệp dự án PPP và ký kết hợp đồng dự án PPP;
đ) Triển khai thực hiện hợp đồng dự án PPP5"
Tuy nhiên trong trường hợp dự án PPP là "ứng dụng công nghệ cao thuộc danh mục công
nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển theo quy định của pháp luật về công nghệ cao,
ứng dụng công nghệ mới theo quy định của pháp luật về chuyển giao công nghệ", thứ tự
và nội dung các bước trong quy trình dự án PPP sẽ có sự thay đổi nhất định, qua đó nhằm
tạo thuận lợi và phù hợp hơn với thực tế triển khai của loại hình dự án này. Cụ thể các
bước thực hiện như sau:

5 Khoản 1 Điều 11 Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư 2020

6
"a) Lập, thẩm định báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, quyết định chủ trương đầu tư, công
bố dự án;
b) Lựa chọn nhà đầu tư;
c) Nhà đầu tư được lựa chọn lập báo cáo nghiên cứu khả thi;
d) Thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi, phê duyệt dự án;
đ) Thành lập doanh nghiệp dự án PPP và ký kết hợp đồng dự án PPP;
e) Triển khai thực hiện hợp đồng dự án PPP6"
Trước đây khi Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư năm 2020 chưa được ban
hành, việc thực hiện thủ tục, quy trình phê duyệt dự án đầu tư theo hình thức PPP có
nhiều quan điểm cho rằng “vẫn còn rất nhiều rào cản, vướng mắc mang tính xung đột
pháp lý trong việc thực hiện các thủ tục đối với dự án PPP, dẫn đến nhiều đơn vị ngại
hoặc không lựa chọn hình thức đầu tư đối tác công tư 7”. Bởi lẽ, văn bản quy phạm pháp
luật chính quy định về hình thức đầu tư PPP chỉ dừng lại ở mức Nghị định của Chính phủ,
trong khi hoạt động này vẫn phụ thuộc vào các luật như: Luật Đấu thầu, Luật Đất đai,
Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp ... từ bước chuẩn bị đến triển khai đầu
tư, vận hành và khai thác dự án. Những văn bản này chủ yếu được xây dựng để điều chỉnh
hoạt động đầu tư dự án công. Do vậy, dẫn tới thực tế gặp khó khăn về “'thời gian áp dụng
văn bản luật và vòng đời của dự án, thời gian mà nhà đầu tư lấy lại vốn từ một dự án PPP
có thể lên đến vài chục năm, trong khi Nghị định điều chỉnh thì có thể bị sửa đổi bổ sung
sau vài năm áp dụng8”
Tuy nhiên, với sự ra đời của Luật ĐTTPTĐTCT năm 2020, quy trình và thủ tục thực hiện
dự án PPP đã được quy định cụ thể và rõ ràng hơn. Luật này cung cấp các nội dung chi
tiết của từng bước, cơ quan có thẩm quyền thực hiện tại các điều khoản của Luật này.
Điều này hy vọng sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn và giảm thiểu những vấn đề phát sinh
trong quá trình triển khai thực hiện các dự án PPP, cả trong hiện tại và tương lai.

Chương II: LUẬT ĐẦU TƯ THEO PHƯƠNG THỨC HỢP TÁC CÔNG TƯ
2.1 Thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư PPP
Theo Điều 12 Luật đầu tư theo hình thức đối tác công tư số 65/2020/QH14 ngày 18 tháng
6 năm 2020 quy định thẩm quyền quyết định đầu tư của dự án PPP như sau:
“Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư dự án PPP thuộc một trong các tiêu chí sau đây:
a) Sử dụng vốn đầu tư công tư 10.000 tỷ đồng trở lên;
b) Ảnh hưởng lớn đến môi trường hoặc tiềm ẩn khả năng ảnh hưởng nghiêm trọng đến
môi trường, bao gồm: nhà máy điện hạt nhân; sử dụng đất có yêu cầu chuyển mục đích sử
dụng đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ đầu nguồn, rừng phòng hộ biên giới từ 50 ha trở
lên; rừng phòng hộ chắn gió, chắn cát bay và rừng phòng hộ chắn sóng, lấn biển từ 500 ha
trở lên; rừng sản xuất từ 1.000 ha trở lên;
c) Sử dụng đất có yêu cầu chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa nước từ 02 vụ trở lên
với quy mô từ 500 ha trở lên;
6 Khoản 2 Điều 11 Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư 2020
7 Hùng Lê (2017), “Nhiều vướng mắc đầu tư theo hình thức PPP", Tạp chí Kinh tế Sài Gòn Online
8 Diệp Thị Diễm My (2019), "Pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác công tư - PPP", Luận văn thạc sĩ
luật học, Trường Đại học Kinh tế - Luật, tr.58.

7
d) Di dân tái định cư từ 20.000 người trở lên ở miền núi, từ 50.000 người trở lên ở vùng
khác;
đ) Dự án đòi hỏi phải áp dụng cơ chế, chính sách đặc biệt cần được Quốc hội quyết định.
2. Trừ dự án quy định tại khoản 1 Điều này, Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương
đầu tư dự án PPP thuộc một trong các tiêu chí sau đây:
a) Di dân tái định cư từ 10.000 người trở lên ở miền núi, từ 20.000 người trở lên ở vùng
khác;
b) Dự án sử dụng vốn ngân sách trung ương do Bộ, cơ quan trung ương quản lý, có tổng
mức đầu tư tương đương dự án nhóm A theo quy định của pháp luật về đầu tư công, dự án
sử dụng vốn vay ODA và vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ nước ngoài;
c) Đầu tư xây dựng mới: cảng hàng không, sân bay; đường cất hạ cánh của cảng hàng
không, sân bay; nhà ga hành khách của cảng hàng không quốc tế; nhà ga hàng hóa của
cảng hàng không, sân bay có công suất từ 01 triệu tấn/năm trở lên;
d) Đầu tư xây dựng mới: bến cảng, khu bến cảng thuộc cảng biển đặc biệt; bến cảng, khu
bến cảng thuộc cảng biển loại I có tổng mức đầu tư tương đương dự án nhóm A theo quy
định của pháp luật về đầu tư công.
3. Bộ trưởng, người đứng đầu cơ quan trung ương, cơ quan khác quyết định chủ trương
đầu tư dự án PPP thuộc phạm vi quản lý, trừ dự án quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều
này.
4. Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định chủ trương đầu tư dự án PPP thuộc phạm vi
quản lý của địa phương, trừ dự án quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.
5. Trường hợp điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án PPP, thẩm quyền quyết định điều chỉnh
chủ trương đầu tư dự án PPP thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 18 của Luật”
Các quyết định về chủ trương đầu tư dự án PPP được Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng,
hoặc các cơ quan trung ương khác quyết định tùy thuộc vào phạm vi quản lý. Còn Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh sẽ quyết định chủ trương đầu tư dự án PPP trong phạm vi địa
phương.

2.2 Quy định về việc lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án PPP
Việc lựa chọn nhà đầu tư đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển cơ sở
hạ tầng và các dự án quan trọng khác. Dựa trên quy định tại Khoản 17 Điều 3 của Luật
Đầu tư theo hình thức đối tác công tư năm 2020, khái niệm về việc lựa chọn nhà đầu tư
trong đầu tư theo hình thức đối tác công tư được mô tả như sau: "Lựa chọn nhà đầu tư là
quá trình xác định nhà đầu tư có đủ năng lực, kinh nghiệm, và giải pháp khả thi để thực
hiện dự án đối tác công tư, tuân thủ nguyên tắc bảo đảm cạnh tranh, công bằng, minh
bạch và hiệu quả kinh tế."
Dựa trên quy định này, việc lựa chọn nhà đầu tư trong đầu tư theo hình thức đối tác công
tư thực hiện thông qua các phương thức sau:
1. Đấu Thầu Rộng Rãi: Đấu thầu rộng rãi là một trong những phương thức phổ biến để
lựa chọn nhà đầu tư trong dự án PPP. Trong quá trình này, không hạn chế số lượng nhà
đầu tư tham gia vào dự án, nhằm tạo điều kiện cạnh tranh, minh bạch và công bằng. Quy
trình đấu thầu rộng rãi được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật và yêu cầu tuân
thủ các quy định về công khai thông tin, tiêu chí đánh giá và lựa chọn nhà đầu tư.

8
2. Đàm Phán Cạnh Tranh: Phương pháp này được áp dụng khi có ít hơn hoặc bằng ba
nhà đầu tư đáp ứng yêu cầu của dự án. Trong trường hợp này, các bên sẽ tham gia vào
quá trình đàm phán để thảo luận về các điều khoản và điều kiện của hợp đồng. Thời gian
chuẩn bị hồ sơ dự thầu tối thiểu là 60 ngày cho nhà đầu tư trong nước và 90 ngày cho nhà
đầu tư quốc tế, tính từ ngày phát hành hồ sơ mời thầu cho đến ngày có thời điểm đóng
thầu.

3. Chỉ Định Nhà Đầu Tư: Dự án cần đảm bảo yêu cầu về quốc phòng, an ninh quốc gia,
và bảo vệ bí mật nhà nước. Trước khi chỉ định nhà đầu tư, cần có sự chấp thuận của Thủ
tướng Chính phủ dựa trên ý kiến của Bộ Quốc phòng và Bộ Công an. Cần lựa chọn ngay
nhà đầu tư thay thế để đảm bảo tính liên tục trong quá trình thực hiện dự án.

4. Trường Hợp Đặc Biệt: Trong trường hợp dự án PPP có điều kiện đặc thù mà không thể
áp dụng các hình thức lựa chọn nhà đầu tư thông thường, cơ quan có thẩm quyền sẽ trình
Thủ tướng Chính phủ xem xét và quyết định phương án lựa chọn nhà đầu tư tại thời điểm
đóng thầu.

2.3 Quy định về cơ chế chia sẻ phần tăng doanh thu


Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP) có hiệu lực từ năm 2021 đã bổ sung
quy định mới về cơ chế chia sẻ phần tăng giảm doanh thu. Đây là một bước tiến quan
trọng nhằm đảm bảo sự công bằng và minh bạch trong mối quan hệ hợp tác giữa nhà nước
và nhà đầu tư tư nhân.
Quy định này chia việc tăng giảm doanh thu thành hai trường hợp:
1. Doanh thu thực tế đạt cao hơn 125% mức doanh thu trong phương án tài chính:
Nhà đầu tư tư nhân có nghĩa vụ chia sẻ 50% phần chênh lệch vượt quá mức 125% này với
nhà nước. Việc chia sẻ được thực hiện sau khi đã điều chỉnh mức giá, phí sản phẩm, dịch
vụ công, điều chỉnh thời hạn hợp đồng dự án (nếu có). Mục đích là đảm bảo công bằng xã
hội và thu hồi lợi ích cho nhà nước khi dự án PPP đạt hiệu quả cao hơn dự kiến.
2. Doanh thu thực tế đạt thấp hơn 75% mức doanh thu trong phương án tài chính:
Nhà nước chia sẻ 50% phần chênh lệch giữa mức 75% này và doanh thu thực tế với nhà
đầu tư tư nhân. Tuy nhiên, để nhận được sự hỗ trợ từ nhà nước, dự án phải đáp ứng các
điều kiện (Áp dụng loại hợp đồng BOT, BTO, BOO. Quy hoạch, chính sách, pháp luật có
liên quan thay đổi làm giảm doanh thu. Đã thực hiện đầy đủ các biện pháp điều chỉnh
mức giá, phí sản phẩm, dịch vụ công, điều chỉnh thời hạn hợp đồng dự án nhưng vẫn
không đảm bảo mức doanh thu tối thiểu 75%. Việc chia sẻ doanh thu giảm phải được xác
định trong quyết định chủ trương đầu tư). Mục đích là hỗ trợ nhà đầu tư tư nhân trong
trường hợp doanh thu giảm do các yếu tố khách quan, giúp dự án tiếp tục hoạt động hiệu
quả.

Nhìn chung, quy định về chia sẻ phần tăng giảm doanh thu thể hiện sự quan tâm của nhà
nước đối với các nhà đầu tư tư nhân trong lĩnh vực PPP. Đồng thời, quy định này cũng đặt

9
ra các tiêu chí chặt chẽ để đảm bảo sử dụng nguồn vốn nhà nước một cách hiệu quả và
minh bạch.

Việc áp dụng quy định này sẽ góp phần khuyến khích các nhà đầu tư tư nhân tham gia
vào các dự án PPP, tạo điều kiện cho sự phát triển của các dự án hạ tầng và dịch vụ công
trong tương lai. Ngoài ra, quy định này cũng cần được tiếp tục hoàn thiện trong thực tiễn
áp dụng để đảm bảo tính hợp lý và phù hợp với các điều kiện kinh tế xã hội.

2.4 Các hành vi bị cấm trong đầu tư theo phương thức PPP
Trong thực tế, để một hoạt động hay một lĩnh vực nào đó hoạt động đem lại lợi ích cho
nền kinh tế, cho đất nước, việc quy định các hành vi được phép làm và cũng phải đưa ra
các hành vi bị cấm là cần thiết. Đối với phương thức đối tác công tư (PPP), Luật Đầu tư
năm 2020 đã quy định rất cụ thể về các hành vi bị nghiêm cấm trong đầu tư theo phương
thức này. Những hành vi bị nghiêm cấm này được quy định tại Điều 10 Luật Đầu tư theo
phương thức đối tác công tư 2020 như sau:
“1. Quyết định chủ trương đầu tư dự án PPP không phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch; không xác định được nguồn vốn nhà nước trong dự án PPP đối với dự án có yêu
cầu sử dụng vốn nhà nước; không đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của
Luật này.

2. Phê duyệt dự án PPP khi chưa có chủ trương đầu tư; không phù hợp với chủ trương đầu
tư; không đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Luật này.

3. Cơ quan có thẩm quyền, cơ quan ký kết hợp đồng thông đồng với tổ chức tư vấn, nhà
đầu tư dẫn tới quyết định chủ trương đầu tư, phê duyệt dự án PPP gây thất thoát vốn, tài
sản của Nhà nước, tài nguyên của quốc gia; làm tổn hại, xâm phạm lợi ích của công dân
và của cộng đồng.

….

9. Cản trở việc phát hiện, xử lý hành vi vi phạm pháp luật về đầu tư theo phương thức
PPP”.
Đồng thời, đối với các dự án đối tác công tư, việc không xác định được nguồn vốn nhà
nước trong dự án PPP hoặc không tuân thủ đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy
định của Luật Đầu tư cũng sẽ không được phép thực hiện.

Chương III: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ


TẦNG THEO HÌNH THỨC PPP Ở VIỆT NAM 2020 TỚI NAY
3.1 Thực trạng của mô hình PPP hiện nay
Dựa trên kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới, ở Việt Nam, hình thức hợp tác công
- tư (PPP) được coi là một giải pháp phù hợp để thực hiện các dự án phát triển cơ sở hạ
tầng giao thông, các dịch vụ công… nhằm giảm áp lực cho ngân sách quốc gia và giảm sự

10
lệ thuộc vào nguồn vốn ODA, nâng cao hiệu quả đầu tư, cải thiện chất lượng dịch vụ,
đồng thời giảm các tiêu cực trong hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản.

Trong những năm gần đây, lĩnh vực thu hút đầu tư dưới hình thức PPP đã có sự thay đổi,
ngoài đầu tư vào ngành điện, các dự án PPP được đề xuất và thực hiện nhiều trong lĩnh
vực giao thông. Một số lĩnh vực thu hút dự án PPP khác là cấp thoát nước, bảo vệ môi
trường. Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố lớn là những địa
phương thu hút chủ yếu nguồn vốn đầu tư dưới hình thức PPP.

Kể từ khi Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP) có hiệu lực từ năm 2021,
số lượng hợp đồng PPP được ký kết đã tăng lên đáng kể. Tính đến ngày 14/11/2023, đã có
438 hợp đồng PPP được ký kết với tổng giá trị đầu tư hơn 1.8 triệu tỷ đồng. Lĩnh vực thu
hút nhiều hợp đồng PPP nhất là giao thông (224 hợp đồng), tiếp theo là năng lượng (92
hợp đồng) và môi trường (40 hợp đồng). Tuy nhiên, bên cạnh những nỗ lực thúc đẩy triển
khai PPP, vẫn còn nhiều thách thức cần được giải quyết để thu hút hiệu quả nguồn vốn tư
nhân vào phát triển kinh tế - xã hội.

3.2 Những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện đầu tư theo PPP ở nước
ta
Trong quá trình thực hiện đầu tư theo hình thức đối tác công - tư (PPP) tại Việt Nam, có
nhiều khó khăn và vướng mắc đáng chú ý. Trước hết, vấn đề pháp luật và thể chế được
xem là một trong những thách thức lớn nhất. Hệ thống pháp luật về PPP hiện vẫn chưa
hoàn thiện và thiếu đồng bộ, điều này tạo ra sự không chắc chắn và khó khăn trong việc
áp dụng các quy định. Thêm vào đó, thủ tục hành chính liên quan đến PPP vẫn còn rườm
rà, phức tạp, tốn nhiều thời gian và chi phí, gây trở ngại cho quá trình triển khai dự án.

Ngoài ra, cả năng lực của các bên tham gia cũng là một vấn đề đáng quan ngại. Cả cơ
quan nhà nước và tư nhân đều cần có kiến thức và kỹ năng về PPP để thực hiện hiệu quả
các dự án. Tuy nhiên, hiện vẫn còn thiếu hụt nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao
trong lĩnh vực này, gây ra khó khăn trong quản lý và giải quyết các vấn đề phát sinh.

Vấn đề tài chính cũng đặt ra nhiều thách thức. Nguồn vốn cho các dự án PPP vẫn còn
thiếu hụt, đặc biệt là từ phía tư nhân. Việc huy động vốn đầu tư từ các nhà đầu tư tư nhân
cũng gặp nhiều khó khăn do rủi ro cao và không chắc chắn về lợi nhuận. Ngoài ra, lãi suất
ngân hàng ở mức cao cũng làm giảm sức hấp dẫn của các dự án PPP, gây khó khăn trong
việc thu hút vốn đầu tư.

Một thách thức khác đối diện với các dự án PPP là vấn đề rủi ro. Do quy mô lớn và đặc
điểm phức tạp của các dự án này, rủi ro thường rất cao và không dễ dàng quản lý. Cơ chế
phân chia rủi ro giữa các bên tham gia cũng đang gặp phải nhiều vấn đề, gây ra sự không
công bằng và không ổn định trong quá trình thực hiện dự án.

11
Cuối cùng, vấn đề minh bạch và giải quyết tranh chấp cũng là một thách thức lớn. Việc
thiếu minh bạch trong quá trình thực hiện các dự án PPP có thể tạo điều kiện cho các hành
vi tham nhũng. Hệ thống giải quyết tranh chấp về PPP cũng còn nhiều hạn chế, không
đảm bảo hiệu quả và công bằng, gây ra sự bất cập và không an tâm cho các bên liên quan.

CHƯƠNG IV: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ THEO
HÌNH THỨC ĐỐI TÁC CÔNG TƯ Ở VIỆT NAM
- Sửa đổi, bổ sung Luật PPP để điều chỉnh các quy định không phù hợp với thực tiễn
và đảm bảo tính khả thi và hiệu quả trong thực hiện các dự án PPP. Đặc biệt, cần
rõ ràng hóa các quy định về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan
nhà nước trong quản lý PPP.
- Ban hành đầy đủ và rõ ràng các văn bản hướng dẫn thi hành Luật PPP, giúp đảm
bảo tính đồng bộ và thống nhất trong thực hiện.
- Phải có bộ phận chuyên trách ở các bộ, ngành, địa phương về PPP, đồng thời
nhanh chóng bồi dưỡng, nâng cao năng lực của cán bộ làm công tác PPP ở các
bộ,ngành, địa phương.
- Đẩy nhanh quá trình chuẩn bị dự án: Đề góp phần đẩy nhanh quá trình chuẩn bị
dự án và tạo ra tính minh bạch, các bộ, ngành, địa phương cần sớm hình thành
nguồn vốn hỗ trợ chuẩn bị đầu tư nhằm hỗ trợ các cơ quan nhà nước trong giai
đoạn chuẩn bị đầu tư dự án theo hình thức PPP,…
- Tạo môi trường đầu tư thuận lợi, minh bạch và công bằng, bao gồm cả việc cải
thiện môi trường kinh doanh và giảm rủi ro đầu tư. Áp dụng các chính sách ưu đãi,
hỗ trợ cho các nhà đầu tư tham gia vào các dự án PPP, cũng như chia sẻ rủi ro hợp
lý giữa các bên tham gia.

Kết luận
Trong một thế giới đầy biến động và cạnh tranh, việc phát triển một môi trường đầu tư
thuận lợi và hấp dẫn là điều không thể phủ nhận. Hình thức đầu tư theo mô hình PPP
không chỉ là một công cụ quan trọng để thu hút đầu tư từ tư nhân, mà còn là một cơ hội để
cải thiện chất lượng dịch vụ công và tạo ra những đột phá trong phát triển hạ tầng. Tuy
nhiên, để thành công trong việc triển khai PPP, cần có sự hiểu biết sâu sắc về lý thuyết và
thực tiễn của mô hình này, cùng với sự cam kết và hợp tác từ tất cả các bên liên quan.
Việt Nam với đặc trưng là một quốc gia đang phát triển, ngân sách nhà nước còn nhiều
hạn hẹp, do vậy việc thu hút các nhà đầu tư tư nhân tham gia vào hình thức đầu tư đối tác
công tư -PPP để cung cấp dịch vụ công cho xã hội là một giải pháp hoàn hảo. Theo đó,
đầu tư theo hình thức đối tác công tư - PPP được thiết lập và thực hiện trên cơ sở hợp
đồng giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để thực
hiện, quản lý, vận hành dự án kết cấu hạ tầng, cung cấp dịch vụ công.

12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Luật Đầu tư 2020
2. Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư 2020
3. Nghị định 31/2021/NĐ-CP
4. Nghị định 35/2021/ NĐ-CP
5. Bùi Ngọc Cường (Chủ biên) (2022). Giáo trình Luật Đầu tư. Nhà xuất bản Tư
pháp, Trường Đại học Luật Hà nội
6. Hà Thị Út, Một số điểm mới về hợp đồng đối tác công tư trong Luật Đẩu tư theo
phương thức đối tác công tư năm 2020, Nghề Luật, Học viện Tư pháp, 2021- Số 4.
7. Diệp Thị Diễm My (2019), "Pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác công tư -
PPP", Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Kinh tế - Luật.
8. Hùng Lê (2017), “Nhiều vướng mắc đầu tư theo hình thức PPP", Tạp chí Kinh tế
Sài Gòn Online.

13

You might also like