Tìm hiểu tình hình bảo tồn ngôn ngữ của cộng đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 103

ĐHQG-HCM

Ngày nhận hồ sơ
Trường ĐHKHXH&NV
Do P.ĐN&QLKH ghi Mẫu: SV02

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN CẤP TRƯỜNG


NĂM HỌC 2019 – 2020

Tên đề tài: TÌM HIỂU TÌNH HÌNH BẢO TỒN NGÔN NGỮ CỦA CỘNG ĐỒNG
NGƯỜI HOA Ở THỊ XÃ VĨNH CHÂU, TỈNH SÓC TRĂNG

Thành phần tham gia thực hiện đề tài


STT Họ và tên Chịu trách nhiệm Điện thoại Email
danpis98
1. Đỗ1 Bá Điền Chủ nhiệm 0325968899
@gmail.com
vyanhtran2712
2. Trần Yến Vy Anh Tham gia 0772055777
@gmail.com
Lê Hoàng Quỳnh quynhnhule2208
3. Tham gia 0784980329
Như @gmail.com
nguyenngocnhuy3101
4. Nguyễn Ngọc Như Ý Tham gia 0945220425
@gmail.com

TP.HCM, tháng 06 năm 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Khoa Đông phương học

TÊN ĐỀ TÀI
TÌM HIỂU TÌNH HÌNH BẢO TỒN NGÔN NGỮ CỦA CỘNG ĐỒNG
NGƯỜI HOA Ở THỊ XÃ VĨNH CHÂU, TỈNH SÓC TRĂNG

Ngày 30 tháng 06 năm 2020 Ngày 30 tháng 06 năm 2020


Người hướng dẫn Chủ nhiệm đề tài
(Ký và ghi họ tên) (Ký và ghi họ tên)
TS. Hồ Minh Quang Đỗ Bá Điền

Ngày ……tháng…… năm 20… Ngày ……tháng…… năm 20…


Chủ tịch Hội đồng Phòng ĐN&QLKH
(Ký và ghi họ tên) (Ký và ghi họ tên)

TP. HỒ CHÍ MINH, 2020


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................................ 2

1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................... 2

2. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................... 3

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................... 4

4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................................... 5

5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................ 8

6. Ý nghĩa thực tiễn và ý nghĩa khoa học ................................................................... 9

7. Bố cục đề tài ........................................................................................................... 9

CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN ................................................................ 11

1.1. Tổng quan về thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng ............................................... 11

1.2. Khái quát về cộng đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng .......... 12
1.2.1. Nguồn gốc hình thành ................................................................................. 13
1.2.2. Dân số ......................................................................................................... 14
1.2.3. Đời sống kinh tế, văn hóa, giáo dục, xã hội ................................................ 15

1.3. Việc sử dụng ngôn ngữ của cộng đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh
Sóc Trăng.................................................................................................................. 20

Tiểu kết chương 1 ........................................................................................................ 23

CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH BẢO TỒN NGÔN NGỮ TRÊN BÌNH DIỆN VĂN
HÓA ............................................................................................................................. 25

2.1. Trong hoạt động tín ngưỡng .............................................................................. 25


2.1.1 Trong gia đình .............................................................................................. 25
2.1.2. Trong các cơ sở thờ tự công cộng ............................................................... 31

2.2. Trong các hoạt động lễ hội ................................................................................ 36

Tiểu kết chương 2 ........................................................................................................ 46


CHƯƠNG 3: TÌNH HÌNH BẢO TỒN NGÔN NGỮ TRÊN BÌNH DIỆN GIÁO
DỤC ............................................................................................................................. 47

3.1. Trong gia đình ................................................................................................... 47


3.1.1. Hình thức bảo tồn ngôn ngữ ....................................................................... 47
3.1.2. Khó khăn trong việc bảo tồn ngôn ngữ trong gia đình ............................... 52

3.2. Trong trường học ............................................................................................... 53


3.2.1. Quá trình duy trì việc giảng dạy ngôn ngữ trong trường học ..................... 53
3.2.2. Mô hình tổ chức........................................................................................... 59
3.2.3. Phương thức giảng dạy, tiêu chuẩn và thành tích của trường .................... 60
3.2.4. Chi phí duy trì, nguồn bảo trợ và các hoạt động của nhà trường .............. 67
3.2.5. Những khó khăn của việc bảo tồn ngôn ngữ trong giáo dục trường học .... 71

Tiểu kết chương 3 ........................................................................................................ 73

KẾT LUẬN .................................................................................................................. 74

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................... 76

PHỤ LỤC..................................................................................................................... 80

HẬU KÝ ...................................................................................................................... 92
MỤC LỤC HÌNH ẢNH

Hình 1: Bản đồ thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng .................................................11

Hình 2: Tiếng Hoa được sử dụng khá phổ biến trên các bảng hiệu ......................16

Hình 3, 4: Các hoạt động sử dụng tiếng Hoa trong đêm Tết Nguyên Tiêu ...........17

Hình 5, 6: Một lớp học tiếng Hoa tại trường Bồi Thanh .......................................18

Hình 7: Liên hoan mừng Xuân 2018 Hội Đồng Hương Vĩnh Châu lần thứ XII ....19

Hình 8: Cách bài trí bàn thờ phổ biến của một hộ gia đình người Hoa ................26

Hình 9: Bức liễn ghi chữ “神” (Thần) và hai câu đối liễn hai bên trên bàn thờ của
một người dân địa phương .....................................................................................27

Hình 10: Bức liễn ghi chữ “祖” (Tổ) và hai câu đối liễn hia bên trên bàn thờ của
một người dân địa phương .....................................................................................27

Hình 11: Bức liễn ghi chữ “祖堂” (Tổ đường) và hai câu đối liễn hai bên trên bàn
thờ của một người dân địa phương ........................................................................28

Hình 12: Câu đối liễn được sử dụng trong nhà (心想事成家運興 - Tâm tưởng sự
thành gia vận hưng - Tạm dịch: Cầu mong vạn sự như ý, gia đì nh may mắn) .....28

Hình 13: Cặp câu đối liễn được sử dụng trong gia đình .......................................29

Hình 14: Bàn thờ Thần của một hộ gia đình người Hoa gần khu vực chợ Vĩnh
Châu .......................................................................................................................30

Hình 15: Chùa Ông Bổn (Phước Đức Chánh Thần) ..............................................31

Hình 16: Trang trí trước cửa chùa Ông ................................................................32

Hình 17: Hai bức hoành ở chùa Ông .....................................................................33

Hình 18: Bảng ghi tên các thành viên trong Ban quản lý chùa Ông và chùa Bà ..34

Hình 19: Sách giải xăm Bà bằng tiếng Hoa tại chùa Ông .....................................34
Hình 20: Người dân tham dự Tết Nguyên Tiêu tại chùa Ông Bổn .........................35

Hình 21: Tục “lên xác ông Bổn” ...........................................................................37

Hình 22: Hoạt động biểu diễn nghệ thuật hát Tiều vào lễ Nguyên Tiêu được tổ chức
tại chùa Ông Bổn ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng ngày 19/02/2019 ..............38

Hình 23 : Ban nhạc lễ .............................................................................................39

Hình 24: Trò chơi đố vui dân gian trong phần hội của tết Nguyên Tiêu tại chùa Ông
Bổn ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng ngày 19/02/2019 ....................................41

Hình 25: Hai MC tiếng Việt và tiếng Hoa đang lần lượt đọc câu hỏi bằng ba thứ
tiếng ........................................................................................................................42

Hình 26 : Một trong những câu hỏi trong trò chơi đố chữ dân gian .....................42

Hình 27: Ban tổ chức đang chuẩn bị cho cuộc giao lưu thư pháp trong tết Nguyên
Tiêu được tổ chức tại chùa Ông Bổn ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng ............44

Hình 28: Giao lưu thư pháp được tổ chức vào tết Nguyên Tiêu tại thị xã Vĩnh Châu,
tỉnh Sóc Trăng ngày 19/02/2019 ............................................................................45

Hình 29: Các bài thư pháp giao lưu trong tết Nguyên Tiêu ..................................45

Hình 30: Người mẹ nói chuyện với đứa con bằng tiếng Tiều từ bé .......................49

Hình 31: Đôi chồng Tiều vợ Kinh đang nói chuyện bằng tiếng Việt .....................51

Hình 32: Trường PTCS Dân lập Bồi Thanh...........................................................57

Hình 33: Trường Tiểu học Dân lập Tân Hưng ......................................................58

Hình 34: Thông báo chiêu sinh năm học 2018 - 2019 của trường Tiểu học Dân lập
Cảnh Thành ............................................................................................................59

Hình 35: Sách 华语 của Bộ Giáo dục và đào tạo ..................................................60

Hình 36: Giáo trình tiếng Tiều của trường PTCS Dân lập Bồi Thanh ..................61
Hình 37: Giáo trình Hán ngữ Boya của nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà
Nội ..........................................................................................................................62

Hình 38: Lớp tiếng Hoa nâng cao tại trường PTCS Dân lập Bồi Thanh ..............63

Hình 39: Hoạt động văn nghệ tại trường ...............................................................65

Hình 40: Lớp học tại trường Tiểu học Dân lập Cảnh Thành.................................66

Hình 41: Lớp học tại trường Tiểu học Dân lập Tân Hưng ....................................66

Hình 42: Thời khóa biểu lớp 6 của trường PTCS Dân lập Bồi Thanh ..................67

Hình 43: Thư viện do tập đoàn Vạn Thịnh Phát tài trợ cho trường Bồi Thanh .....68

Hình 44: Hội đồng hương Vĩnh Châu - lan tỏa hoạt động vì an sinh xã hội .........70

Hình 45: Logo công ty cổ phần Tập đoàn Vạn Thịnh Phát....................................71

Hình 46: Tịnh xá Ngọc Châu Như ..........................................................................71


MỤC LỤC BẢNG BIỂU

Bảng 1: Số lượng và tỉ lệ dân cư ở Thị xã Vĩnh Châu phân theo dân tộc năm
2017 ........................................................................................................................14

Bảng 2: Thống kê dân số các dân tộc ở thị xã Vĩnh Châu năm 2017 ....................15

Bảng 3: Hiện trạng các phương ngữ của người Hoa ở TP.HCM hiện nay ...........20
1

TÓM TẮT CÔNG TRÌNH

TÌM HIỂU TÌNH HÌNH BẢO TỒN NGÔN NGỮ CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯỜI
HOA Ở THỊ XÃ VĨNH CHÂU, TỈNH SÓC TRĂNG

Giảng viên hướng dẫn: TS. Hồ Minh Quang


Nhóm sinh viên thực hiện: Trần Yến Vy Anh
Đỗ Bá Điền
Lê Hoàng Quỳnh Như
Nguyễn Ngọc Như Ý

Ngôn ngữ không những là một công cụ quan trọng mà còn là một thành tố cơ
bản trong việc chuyển tải bản sắc văn hóa truyền thống và tư duy của một dân tộc, việc
bảo tồn ngôn ngữ cũng vì lẽ đó mà đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc bảo
tồn đặc trưng văn hóa của một dân tộc. Vì vậy, việc tìm hiểu về vấn đề bảo tồn ngôn
ngữ cũng là một việc làm vô cùng cần thiết.

Đề tài của chúng tôi đề cập về tình hình bảo tồn ngôn ngữ của cộng đồng người
Hoa tại thị Xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng. Báo cáo gồm có 3 chương, với chương một
là khái quát chung về cộng đồng người Hoa tại địa bàn. Từ cơ sở chương một, chúng
tôi đã chia tình hình bảo tồn ngôn ngữ của người Hoa tại đây thành 2 chương, tương
đương với 2 phương diện là bảo tồn trong văn hóa và bảo tồn trong giáo dục. Vì vậy, ở
chương hai chúng tôi tập trung vào điều tra tình hình bảo tồn ngôn ngữ trong hoạt động
thờ cúng và lễ hội của cộng đồng người Hoa tại thị xã Vĩnh Châu. Còn ở chương ba,
chúng tôi đi sâu vào việc nghiên cứu hoạt động giáo dục ngôn ngữ dân tộc của người
Hoa tại đây trong môi trường gia đình và nhà trường.
2

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Ngôn ngữ là một hệ thống ký hiệu được dùng làm phương tiện giao tiếp quan
trọng nhất và phương tiện tư duy của con người. Bằng ngôn ngữ, chúng ta có thể truyền
tải một cách chính xác bất kỳ một loại thông tin nào, có thể diễn tả tâm trạng, tình cảm,
miêu tả hành động hay sự vật. Ngôn ngữ là phương tiện chuyển tải văn hóa, tư duy, lưu
giữ quá trình lịch sử và phản ánh quan niệm của dân tộc. Ngôn ngữ không chỉ là một
hiện tượng của xã hội mà còn là một bộ phận cấu thành quan trọng của văn hóa. Mỗi hệ
thống ngôn ngữ đều mang đậm dấu ấn văn hóa của cộng đồng người bản ngữ. Do đó,
bảo tồn một ngôn ngữ cũng chính là góp phần gìn giữ và phát triển một nền văn hóa.1

Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa đang diễn ra hiện nay, giao lưu văn hóa
giữa các dân tộc diễn ra như một lẽ đương nhiên, mà ngôn ngữ với tư cách là công cụ
chuyển tải văn hóa và tư duy của một dân tộc, cùng với quá trình giao lưu đó, ngôn ngữ
riêng của dân tộc cũng bị mai một dần theo thời gian. Với tư cách vừa là công cụ giao
tiếp vừa là một phần của văn hóa, ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt, có chức
năng phản ánh sự thay đổi của xã hội, đồng thời tác động vào xã hội, góp phần làm thay
đổi xã hội. Ngôn ngữ không chỉ là phương tiện giao tiếp giữa các thành viên trong cùng
một thế hệ, cùng sống một thời kỳ, mà còn là phương tiện giao tiếp giữa các thế hệ, là
phương tiện để con người truyền tải thông tin cho các thế hệ tương lai.2 Bối cảnh hội
nhập hiện nay là một cơ hội phát triển tốt tuy nhiên nó cũng là thách thức đối với mỗi
dân tộc trong vấn đề giữ gìn và phát huy những nét văn hóa truyền thống nói chung và
ngôn ngữ nói riêng. Chính vì thế, các vấn đề ngôn ngữ của dân tộc thiểu số đã trở thành
mối quan tâm của Nhà nước và những nhà nghiên cứu. Trong đó, ngôn ngữ của cộng
đồng người Hoa là một đề tài chưa được lưu ý đúng mức.

Những dòng người Hoa từ miền Nam Trung Quốc đã di cư đến Nam Bộ nói
chung, đến vùng đồng bằng sông Cửu Long và phần đất phía tây sông Hậu nói riêng
vào khoảng cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII và kéo dài cho đến năm 1949, trước khi
nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập. Trong quá trình nhập cư ở tỉnh

1
Hoàng Dũng, Bùi Mạnh Hùng, Giáo trình Dẫn luận ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, Hà Nội,
2007, tr. 8
2
Hoàng Dũng, Bùi Mạnh Hùng, Giáo trình Dẫn luận ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, Hà Nội,
2007, tr. 8
3

Sóc Trăng, người Hoa thuộc các nhóm ngôn ngữ địa phương (chủ yếu là người Triều
Châu và người Quảng Đông) đã sớm hòa nhập vào cùng người Khmer và người Kinh
để xúc tiến công cuộc khai khẩn đất đai, phát triển sản xuất và thúc đẩy việc trao đổi,
buôn bán với cả bên trong và ngoài cộng đồng. Người Hoa ở tỉnh Sóc Trăng, tập trung
đông nhất ở thị xã Vĩnh Châu và là một trong ba thành phần dân cư quan trọng ở địa
phương chỉ sau người Khmer và người Kinh.3 Họ đã có những đóng góp đáng kể về mặt
kinh tế, văn hóa và xã hội cho tỉnh Sóc Trăng nói riêng và đất nước Việt Nam nói chung.
Mặc dù Sóc Trăng là một tỉnh có nhiều khu vực thuộc môi trường giao tiếp đa ngữ (tiếng
Việt, tiếng Triều Châu, tiếng Hoa phổ thông, tiếng Khmer), thế nhưng tình hình bảo tồn
ngôn ngữ dân tộc của cộng đồng người Hoa Triều Châu ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc
Trăng vẫn còn diễn ra rất mạnh mẽ. Vậy thì do đâu mà cộng đồng người Hoa tại đây lại
có thể bảo tồn bản sắc ngôn ngữ của mình trong môi trường giao tiếp đa ngữ tốt đến
như thế? Chính vì vậy, việc nghiên cứu về những phương thức để bảo tồn ngôn ngữ là
một đề tài hay và có ý nghĩa nhất định trong việc nghiên cứu và giúp đỡ việc bảo tồn
ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số.

Tổng hợp những tiền đề trên, nhóm tác giả đã quyết định chọn đề tài “Tìm hiểu
tình hình bảo tồn ngôn ngữ của cộng đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc
Trăng” làm đề tài nghiên cứu. Chúng tôi muốn cung cấp một bức tranh tổng quan về
thực trạng bảo tồn ngôn ngữ và đi sâu vào tìm hiểu những phương thức mà cộng đồng
người Hoa nơi đây sử dụng để giữ gìn ngôn ngữ và phát huy những tinh hoa văn hóa
của mình. Bên cạnh đó, từ góc nhìn ngôn ngữ giúp chúng ta nhìn thấy được sự cố kết
cộng đồng của cộng đồng người Hoa Triều Châu ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Chúng tôi thực hiện đề tài “Tìm hiểu tình hình bảo tồn ngôn ngữ của cộng
đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng” để làm rõ các vấn đề:

+ Ngôn ngữ của cộng đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng có
được bảo tồn trên cả 2 phương diện lời nói và chữ viết không?

3
Địa chí tỉnh Sóc Trăng
4

+ Trong cuộc sống hằng ngày và trong sinh hoạt cộng đồng, việc bảo tồn ngôn
ngữ được diễn ra như thế nào?

+ Việc bảo tồn ngôn ngữ có còn tồn tại trong các hoạt động tín ngưỡng nữa
hay không?

+ Trường học đóng vai trò như thế nào trong quá trình bảo tồn ngôn ngữ của
cộng đồng người Hoa nơi đây?

Thông qua đó, nhóm tác giả mong muốn có thể mô tả được tình hình bảo tồn
ngôn ngữ hiện nay của cộng đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng và
những hình thức bảo tồn trên các phương diện của đời sống.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


3.1. Đối tượng nghiên cứu
Chủ thể: Tình hình bảo tồn ngôn ngữ.

Khách thể: Cộng đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng.

3.2. Phạm vi nghiên cứu


Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã cố gắng khảo sát, tuy nhiên do nhiều
hạn chế về mặt khách quan như thời gian khảo sát thực địa có hạn, hạn chế về nhân lực
lẫn chủ quan như khả năng nhìn nhận vấn đề của người nghiên cứu còn chưa sâu rộng,
nên đề tài chỉ giới hạn trong các bình diện, phạm vi không gian và thời gian như sau:

Về bình diện, chúng tôi tập trung nghiên cứu trên hai bình diện là văn hóa và
giáo dục mà không tiến hành ở các bình diện khác như kinh tế, chính trị,… Nguyên
nhân chủ yếu của điều này đã được đề cập ở hai hạn chế khách quan và chủ quan bên
trên, ngoài ra còn do hai bình diện này là hai bình diện dễ gặp nhất, dễ quan sát và có
hiện tượng bảo tồn ngôn ngữ diễn ra thường xuyên nhất.

Về không gian, đề tài tập trung khảo sát các gia đình người Hoa thuộc phường 1,
thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng. Nguyên nhân chủ yếu của điều này đã được đề cập ở
hai hạn chế khách quan và chủ quan bên trên, ngoài ra còn do do số người Hoa tập trung
đông nhất ở đây (chiếm 22,4% toàn thị xã Vĩnh Châu), hai cơ sở sinh hoạt tín ngưỡng
(Thanh Minh Cổ Miếu, Thiên Hậu Cổ Miếu) lớn nhất của cộng đồng người Hoa nơi đây
đều tọa lạc trên địa bàn và phần lớn các tổ chức xã hội của người Hoa đều hoạt động
mạnh mẽ ở đây.
5

Về thời gian, chúng tôi nghiên cứu tình hình bảo tồn ngôn ngữ của cộng đồng
người Hoa nơi đây từ khi định cư cho đến nay, chủ yếu là giai đoạn hiện nay.

4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Người Hoa là một trong 54 dân tộc của Việt Nam, là một bộ phận của đất nước
Việt Nam. Cộng đồng người Hoa ở Nam Bộ cũng là một cộng đồng dân cư quan trọng
ở Việt Nam. Trong quá khứ cũng như hiện tại, cộng đồng người Hoa ở Nam Bộ đã góp
phần tích cực cho công cuộc xây dựng và phát triển vùng đất Nam Bộ của Việt Nam.
Chính vì vậy người Hoa ở Nam Bộ đã trở thành đối tượng và đề tài nghiên cứu được
nhiều tác giả quan tâm. Năm 1991, Mạc Đường với bài viết nghiên cứu “Người Hoa ở
Đồng bằng sông Cửu Long” đã đề cập đến nhiều vấn đề như: đặc điểm về dân số và dân
cư, lịch sử di cư và quá trình hòa hợp dân tộc. Nổi bật trong bài viết là chính sách của
triều đình nhà Nguyễn đối với người Hoa và tinh thần đấu tranh chống phong kiến,
chống giặc ngoại xâm của đồng bào người Hoa. Năm 2005, Phan An công bố sách
“Người Hoa ở Nam Bộ”. Nội dung chính của cuốn sách đã giới thiệu một cách khái
quát về người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời đem đến cái nhìn sâu hơn về
những phương diện xung quanh cuộc sống của họ như: hoạt động kinh tế, tổ chức xã
hội, sinh hoạt tín ngưỡng – tôn giáo, đời sống văn hóa, phong tục tập quán, lối sống,
kiến trúc chùa Hoa,... Bên cạnh đó, tác giả cũng đã dành một phần để giới thiệu khái
quát về nguồn gốc, dân cư, đời sống vật chất tinh thần của người ở Sóc Trăng. Cũng
trong năm này, Trần Hồng Liên đã giới thiệu cuốn sách “Văn hóa người Hoa ở Nam Bộ
- Tín ngưỡng và Tôn giáo”. Nội dung chính giới thiệu về những kiến trúc, cấu trúc điêu
khắc, trang trí, sinh hoạt tín ngưỡng cũng như vai trò của người hoa tại Thành phố Hồ
Chí Minh. Những nghiên cứu trên đã cung cấp một cái nhìn tổng quan về nguồn gốc
cũng như đời sống vật chất tinh thần của người Hoa ở Nam Bộ.

Về ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số, trong quá trình tìm hiểu, nhóm tác giả đã
tìm hiểu được một số chính sách, sách, bài viết nghiên cứu về ngôn ngữ của các dân tộc
thiểu số ở Việt Nam. Trong cuốn “Ngôn ngữ học xã hội” của mình, Nguyễn Văn Khang
đã tập trung mô tả toàn cảnh bức tranh ngôn ngữ - dân tộc ở Việt Nam, cuốn sách hướng
đến một bức tranh toàn cảnh về tình hình ngôn ngữ ở Việt Nam gắn với thực tiễn của
xã hội Việt Nam cũng như với các tập tục. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Bức
tranh ngôn ngữ - dân tộc ở Việt Nam khá đa dạng. Hiện tượng song ngữ, đa ngữ phổ
6

biến ở tất cả các vùng. Tiếng Việt được coi là ngôn ngữ quốc gia, là phương tiện giao
tiếp giữa các dân tộc ở Việt Nam. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa các phương ngữ địa lí,
phương ngữ xã hội vẫn còn tồn tại. Mặt khác, không thể không học thêm các ngôn ngữ
nước ngoài như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Hán, tiếng Nga,... Điều này khiến cho bức
tranh ngôn ngữ - xã hội ở Việt Nam càng phức tạp hơn. Cuốn sách này góp phần vào
việc nghiên cứu các quyết sách về ngôn ngữ để giúp đất nước ta tiến lên sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Trong đề tài nghiên cứu “Xây dựng, sửa đổi chữ viết của các dân tộc người thiểu
số ở Việt Nam: Những quan niệm phiến diện về công năng của chữ” của Lý Tùng Hiếu
đã nói về vấn đề giữ gìn ngôn ngữ và chữ viết của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
Khái quát hơn, cuốn “Ngôn ngữ, chữ viết các dân tộc thiểu số ở Việt Nam (Những vấn
đề chung)” của Nguyễn Hữu Hoành đã giới thiệu một cách có hệ thống ngôn ngữ các
dân tộc thiểu số trên lãnh thổ Việt Nam, phác họa một bức tranh tổng thể đa dạng về
các ngôn ngữ cũng như cho thấy được thực trạng sử dụng ngôn ngữ của dân tộc thiểu
số hiện nay, nêu lên được các vấn đề về việc bảo tồn, giữ gìn các ngôn ngữ ấy.

Bên cạnh đó, còn có các nghiên cứu riêng về các nhóm ngôn ngữ ở các địa
phương ở Việt Nam như “Đặc điểm sử dụng ngôn ngữ của người Hoa ở thành phố Bạc
Liêu, tỉnh Bạc Liêu” của tác giả Hoàng Quốc hay “Việc sử dụng ngôn ngữ của cộng
đồng Chăm Islam ở An Giang” của nhóm sinh viên ngành Indonesia học, khoa Đông
phương học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn do Phù Châu Phú làm chủ
nhiệm. Những đề tài nghiên cứu trên đã tìm hiểu về đặc điểm, tình hình sử dụng ngôn
ngữ của các nhóm dân tộc và đồng thời đưa ra một vài kiến nghị, giải pháp cho việc bảo
tồn ngôn ngữ của các cộng đồng người này trong bối cảnh đa ngữ tại địa phương. Ngoài
ra còn có những đề tài nghiên cứu về sự tiếp xúc ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số
trong bối cảnh cùng sinh hoạt với người Kinh như “Tiếp xúc ngôn ngữ giữa tiếng Khmer
với tiếng Việt (trường hợp tỉnh Trà Vinh)” của Nguyễn Thị Huệ hay “Tiếp xúc ngôn
ngữ Việt (Kinh) - Tày ở vùng Đông Bắc Việt Nam” của Đặng Thanh Phương. Những
đề tài nghiên cứu trên đã cho thấy được một cách rõ nét về tình hình sử dụng ngôn ngữ
của các dân tộc thiểu số ở địa phương mà họ đang sinh sống. Từ đó, cho thấy được một
cái nhìn về sự quan trọng và tính cấp thiết trong việc nghiên cứu tình hình bảo tồn ngôn
ngữ và giữ gìn bản sắc dân tộc truyền thống của các nhóm dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
7

Đi sâu vào nghiên cứu ngôn ngữ của dân tộc thiểu số ở Việt Nam, ngôn ngữ của
người Hoa cũng là một đề tài nhận được sự quan tâm. Trong cuốn “Cảnh huống song
ngữ Việt – Hoa tại đồng bằng sống Cửu Long” tác giả Hoàng Quốc đã đưa ra một bức
tranh khá tổng quát về người Hoa và tiếng Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long. Tác giả đã
dành một chương để nói về đặc điểm sử dụng ngôn ngữ của người Hoa ở Sóc Trăng.
Cuốn “Cảnh huống và chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế” do Nguyễn Đức Tồn chủ biên đã đề xuất
những kiến nghị và giải pháp phục vụ cho việc xây dựng chính sách ngôn ngữ ở Việt
Nam giai đoạn mới (từ 2015 - 2020). Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả đã đề cập đến
trường hợp sử dụng ngôn ngữ của người Hoa ở tỉnh Sóc Trăng. Ngoài ra, còn có hai đề
tài nghiên cứu về việc dạy tiếng Hoa cho cộng đồng người Hoa nơi đây là “Dạy Hoa
văn của người Hoa nhóm Triều Châu tại đồng bằng sông Cửu Long (nghiên cứu trường
hợp xã Vĩnh Hải, huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng) của Trương Anh Tiến và “Giáo
dục khả năng song ngữ Hoa – Việt cho học sinh người Hoa ở Sóc Trăng trong bối cảnh
đa ngữ (Việt – Khmer – Hoa)” của Lê Huỳnh Như. Hai bài nghiên cứu này đã đưa ra
một cách có hệ thống những phương pháp dạy tiếng Hoa cho những thế hệ sau của cộng
đồng người Hoa nơi đây. Tuy nhiên, chỉ dừng lại ở nghiên cứu về việc dạy tiếng Hoa ở
trường và dạy tiếng Hoa trong bối cảnh đa ngữ (tiếng Khmer, tiếng Kinh, tiếng Hoa).

Tóm lại, những công trình nghiên cứu trên chỉ tập trung nghiên cứu một bức
tranh toàn cảnh về các khía cạnh của cộng đồng người Hoa ở Nam Bộ như nguồn gốc,
đặc điểm dân cư, xã hội, kinh tế,… Còn về cộng đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu,
tỉnh Sóc Trăng, chưa thực sự có công trình nghiên cứu về người Hoa nơi đây nhìn từ
góc độ văn hóa và ngôn ngữ. Cộng đồng người Hoa Triều Châu ở thị xã Vĩnh Châu,
tỉnh Sóc Trăng là một trong những cộng đồng người Hoa vẫn còn giữ được những nét
văn hóa Trung Hoa khá đậm nét và chưa chịu ảnh hưởng nhiều của sự giao lưu tiếp biến
văn hóa. Chính vì vậy, nhóm tác giả quyết định lựa chọn đề tài “Tìm hiểu tình hình
bảo tồn ngôn ngữ của cộng đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng” để
đi sâu tìm hiểu kỹ về việc bảo tồn và những phương thức giữ gìn ngôn ngữ - một trong
những nhân tố để giữ gìn bản sắc văn hóa của cộng đồng người Hoa Triều Châu nơi đây.
8

5. Phương pháp nghiên cứu

Để chứng minh cho giả thuyết nghiên cứu, nhóm tác giả đã sử dụng 4 phương
pháp nghiên cứu chủ yếu. Đó là:

- Phương pháp tổng hợp tư liệu: thu thập, phân tích và tổng hợp tài liệu từ sách
báo, các bài nghiên cứu, nhiều nguồn tư liệu khác nhau để có cơ sở lý luận khoa học
vững chắc, thông tin chính xác cho những phân tích trong đề tài, tạo nền tảng kiến thức
cần thiết về người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng. Trong nghiên cứu này, nhóm
tác giả đã nghiên cứu các tài liệu về lịch sử hình thành, đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội
của cộng đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng. Ngoài ra các chương
khác cũng có áp dụng phương pháp này để làm tiền đề dẫn nhập vào nội dung chính.

- Phương pháp điều tra phỏng vấn: phỏng vấn cộng đồng người Hoa Triều Châu
ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng thông qua danh sách câu hỏi đã được soạn trước để
thu thập được những thông tin về tình hình bảo tồn ngôn ngữ của cộng đồng người Hoa
nơi đây và kiểm chứng lại những thông tin thu thập được từ phương pháp tổng hợp tư
liệu nhằm tăng giá trị thực tiễn cho đề tài. Đây là phương pháp chủ yếu để thu thập dữ
liệu thực tế.

- Phương pháp khảo sát bằng bảng hỏi: phương pháp này được thực hiện bằng
việc sử dụng bảng hỏi để tiến hành điều tra cùng lúc nhiều hộ gia đình, từ đó thống kê
thành các con số cụ thể nhằm rút ra được tình hình tổng quan.

- Phương pháp thống kê: thông qua những số liệu thu thập được chúng tôi bằng
phương pháp điều tra phỏng vấn, chúng tôi đã tiến hành xử lý, phân tích những hoạt
động bảo tồn ngôn ngữ trong chương 2 và chương 3.

- Phương pháp quan sát, tham dự: chúng tôi áp dụng phương pháp thu thập thông
tin của nghiên cứu xã hội học thực nghiệm kết hợp với việc ghi chép lại thông tin từ
thực tế xã hội về nếp sống, sinh hoạt, lao động, sản xuất, phong tục, tập quán, tín
ngưỡng,… của cộng đồng người Hoa thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng.

- Phương pháp liên ngành: nhìn nhận vấn đề bảo tồn ngôn ngữ thuộc các ngành
khoa học khác nhau, cụ thể là văn hóa học, ngôn ngữ học, dân tộc học,… để có cái nhìn
toàn diện hơn về vấn đề đang tìm hiểu.
9

Ngoài các phương pháp trên chúng tôi còn sử dụng một số phương pháp của các
ngành khác như: điều tra tiếp cận của xã hội học, hồi cố của dân tộc học,… để làm rõ
hơn các vấn đề trong bảo tồn ngôn ngữ.

6. Ý nghĩa thực tiễn và ý nghĩa khoa học

Về mặt thực tiễn, bài nghiên cứu đưa ra được bức tranh toàn cảnh về tình hình
bảo tồn ngôn ngữ của cộng đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng. Đề tài
cho thấy được thực trạng bảo tồn ngôn ngữ hiện nay cũng như các phương thức giữ gìn
tiếng nói và chữ viết trên bình diện văn hóa và giáo dục của cộng đồng người Hoa ở địa
phương. Đồng thời, cho thấy được ý thức dân tộc, sự cố kết cộng đồng và ý thức bảo
tồn ngôn ngữ của lớp trẻ hiện nay ở cộng đồng người Hoa nơi đây. Từ đó, cung cấp
thêm các tư liệu về người Hoa đặc biệt là ngôn ngữ truyền thống của họ.

Về mặt khoa học, bài nghiên cứu cung cấp cho ngành khoa học xã hội cái nhìn
toàn diện hơn về tình hình bảo tồn ngôn ngữ của dân tộc Hoa. Đồng thời cung cấp luận
cứ cho các công trình nghiên cứu bảo tồn ngôn ngữ dân tộc tại Việt Nam và cụ thể là
việc bảo tồn ngôn ngữ của dân tộc Hoa.

7. Bố cục đề tài

Bên cạnh phần dẫn nhập, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, đề
tài được kết cấu thành 3 chương với những nội dung chính như sau:

+ Chương 1: Một số vấn đề cơ bản

Trong chương mở đầu này, nhóm tác giả trình bày các thông tin cơ bản về tiểu
cộng đồng người Hoa gốc Triều Châu tại thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng bao gồm
lịch sử hình thành và phát triển, đời sống kinh tế và đời sống văn hóa - tinh thần của họ.
Đồng thời, chúng tôi cũng khái quát về tình hình sử dụng ngôn ngữ hiện nay của cộng
đồng người Hoa nơi đây để làm nền tảng góp phần đi sâu vào nghiên cứu những vấn đề
trong các chương sau.
10

+ Chương 2: Tình hình bảo tồn ngôn ngữ của cộng đồng người Hoa ở thị xã
Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng trên bình diện văn hóa

Từ những thông tin được đề cập từ chương 1 kết hợp với thông tin thu được từ
các phương pháp điều tra xã hội học, chương 2 của bài nghiên cứu trình bày tình hình
bảo tồn ngôn ngữ của cộng đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu trên phương diện văn
hóa. Trong chương 2 này, chúng tôi đào sâu việc bảo tồn ngôn ngữ thông qua việc thờ
cúng trong gia đình, trong các cơ sở thờ tự công cộng và thông qua các hoạt động được
tổ chức trong ngày tết Nguyên Tiêu của họ.

+ Chương 3: Tình hình bảo tồn ngôn ngữ của cộng đồng người Hoa ở thị xã
Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng trên bình diện giáo dục

Trong chương 3 này chúng tôi tiếp tục trình bày việc bảo tồn ngôn ngữ trên
phương diện giáo dục. Chúng tôi tìm hiểu tầm quan trọng của việc giáo dục trong gia
đình và giáo dục trong trường học đối với việc bảo tồn ngôn ngữ của cộng đồng người
Hoa nơi đây.
11

CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN

Dân tộc Hoa là một trong 54 dân tộc anh em ở Việt Nam. Những tinh hoa văn
hóa của người Hoa đã làm phong phú thêm nền văn hóa của Việt Nam và đồng thời họ
cũng có rất nhiều những đóng góp trong công cuộc xây dựng đất nước, xã hội Việt Nam.
Do đó, nghiên cứu về các cộng đồng người Hoa ở Việt Nam cũng đã trở thành một đề
tài thu hút nhiều học giả quan tâm. Bên cạnh việc nghiên cứu về những giá trị văn hóa
thì việc nghiên cứu về ngôn ngữ của các cộng đồng người Hoa cũng có những giá trị
nhất định trong việc tìm hiểu và bảo tồn văn hóa của họ. Ở phần này, nhóm thực hiện
muốn cung cấp một bức tranh tổng quan về cộng đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu,
tỉnh Sóc Trăng cũng như làm rõ việc sử dụng ngôn ngữ của Cộng đồng này để phục vụ
cho những nghiên cứu tiếp theo.

1.1. Tổng quan về thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng

Hình 1: Bản đồ thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng


(Nguồn: Cổng thông tin điện tử thị xã Vĩnh Châu)
Vĩnh Châu là một trong những thị xã ven biển của tỉnh Sóc Trăng, phía Đông và
Nam giáp biển Đông, phía Tây giáp tỉnh Bạc Liêu, phía Bắc giáp huyện Mỹ Xuyên và
Trần Đề.

Thị xã Vĩnh Châu có bờ biển dài 43km, tổng diện tích 4.733.948 ha. Về đơn vị
hành chính, thị xã Vĩnh Châu có 4 phường (phường 1, phường 2, phường Vĩnh Phước,
phường Khánh Hòa) và 6 xã (Lai Hòa, Vĩnh Tân, Vĩnh Hiệp, Hòa Đông, Lạc Hòa, Vĩnh
12

Hải) với 97 ấp, khóm, 36.937 hộ dân và 165.334 người vào năm 2015. Trong số đó dân
tộc người Hoa có 6.384 hộ với 29.456 người, chiếm 17,81% dân số. Người Hoa tại
huyện Vĩnh Châu đa số là người Triều Châu.4

Với vị trí địa lý thuận lợi về hệ thống giao thông đường thủy, đường bộ thông
suốt đã tạo điều kiện cho việc giao lưu và phát triển nền kinh tế ven biển và là vị trí
chiến lược hết sức quan trọng trong bảo vệ quốc phòng - an ninh của tỉnh. Đây là điều
kiện cho Vĩnh Châu phát triển tiềm năng, thế mạnh về nông nghiệp, thuỷ hải sản và du
lịch; là tiền đề hình thành các vùng sinh thái trọng điểm, với khí hậu đặc thù phát triển
mạnh các nghề nuôi trồng, đánh bắt thuỷ hải sản và phát triển nông nghiệp đặc thù nổi
tiếng như: tôm sú, cá kèo, nghêu, artemia, muối, củ cải trắng, củ hành tím, tỏi …5

Hệ thống sông ngòi, kênh rạch tương đối chằng chịt. Sông Mỹ Thanh là tuyến
đường thủy quan trọng nối liền từ cửa biển Mỹ Thanh qua sông Vàm Lẽo đến trung tâm
tỉnh Bạc Liêu. Hệ thống giao thông đường bộ tuyến Quốc lộ Nam Sông Hậu là đầu mối
giao thông quan trọng trong việc phát triển kinh tế và giao lưu hàng hóa, dịch vụ nối kết
với vùng kinh tế phát triển ven sông Hậu và tuyến đường Tỉnh 935 (đi Sóc Trăng) đã
tạo điều kiện phát triển tiềm năng, lợi thế trong việc thúc đẩy nền kinh tế giữa các vùng
trong khu vực, hình thành tam giác kinh tế động lực của tỉnh Sóc Trăng.6

Đặc trưng văn hóa cộng đồng Vĩnh Châu là người Kinh, Khmer, Hoa sống đan
xen lẫn nhau và có truyền thống đoàn kết, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất
và đời sống. Địa hình người Hoa Triều Châu định cư tại Vĩnh Châu chủ yếu là trên đất
giồng, có đoạn là đất giồng cát, có đoạn là đất cát pha nhưng đất giồng cát là chủ yếu.
Dãy đất giồng cát dọc theo ven biển trải dài từ xã Vĩnh Hải đến phường Hiệp Thành,
thành phố Bạc Liêu, dài khoảng 50km.7

1.2. Khái quát về cộng đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng

Ở nội dung này, chúng tôi sẽ tập trung cung cấp những thông tin khái quát về
nguồn gốc hình thành, điều kiện kinh tế, xã hội... của cộng đồng người Hoa tại tỉnh Sóc
Trăng nói chung và thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng nói riêng.

4
Địa chí tỉnh Sóc Trăng
5
Cổng thông tin điện tử thị xã Vĩnh Châu
6
Cổng thông tin điện tử thị xã Vĩnh Châu
7
Trương Anh Tiến, Dạy Hoa văn của người Hoa nhóm Triều Châu tại Đồng bằng sông Cửu Long (nghiên cứu
trường hợp xã Vĩnh hải, huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng)
13

1.2.1. Nguồn gốc hình thành

Những dòng người Hoa từ miền Nam Trung Quốc đã di cư đến Nam Bộ nói
chung, đến vùng Đồng bằng sông Cửu Long và phần đất phía Tây sông Hậu nói riêng
vào khoảng cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII và kéo dài cho đến năm 1949, trước khi
nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập. Trong quá trình nhập cư ở tỉnh
Sóc Trăng , người Hoa thuộc các nhóm ngôn ngữ địa phương (chủ yếu là người Triều
Châu và người Quảng Đông) sớm đã hòa nhập vào người Khmer và người Kinh để xúc
tiến công cuộc khai khẩn đất đai, phát triển sản xuất và thúc đẩy việc trao đổi, buôn bán
với cả bên trong và ngoài cộng đồng.

Theo “Người Hoa ở Nam Bộ” của Phan An, người Hoa ở Nam Bộ có nguồn gốc
từ sự di dân của người Hán ở duyên hải phía Nam Trung Quốc nhập cư vào miền Nam
Việt Nam qua nhiều thời kỳ và kéo dài trong nhiều thế kỷ. Đó là những nông dân, thợ
thủ công, binh lính, thương nhân, quan lại,… mà đa số là do nghèo đói và loạn lạc, đã
rời bỏ đất nước Trung Hoa tìm đất mưu sinh. Cộng đồng người Hoa nơi đây hình thành
do sự gặp gỡ của hai nhóm Dương Ngạn Địch (Mỹ Tho) và Mạc Cửu (Hà Tiên). Sau
khi được chúa Nguyễn cấp phép thì hai nhóm người Hoa này đã cùng với một bộ phận
người Việt, người Khmer tiến hành công cuộc khai hoang và biến Mỹ Tho và Hà Tiên
trở thành những vùng đất trù phú, buôn bán tấp nập. Tuy nhiên người Hoa ở thị xã Vĩnh
Châu, tỉnh Sóc Trăng lại không thuộc hai nhóm người Hoa này.

Người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng di cư sang Việt Nam bắt đầu vào
đầu thế kỉ XX theo hai con đường là đường bộ và đường biển. Họ đi bằng đường bộ là
do chạy nạn và đi bằng đường biển là vì mưu sinh. Những người Hoa này chủ yếu đến
từ tỉnh Quảng Đông và họ di cư thẳng vào vùng đất Vĩnh Châu. Vĩnh Châu là nơi thuận
lợi đường thủy, đường biển, vì thế đã thu hút cộng đồng người Hoa gốc Triều Châu đến
định cư.

Thời gian đầu cộng đồng người Hoa nơi đây sống tập trung ở vùng ven biển, chủ
yếu là làm nông. Họ sống tập trung tại một khu vực riêng, chưa có sự cộng cư với các
dân tộc khác. Qua thời gian, các khu dân cư của người Hoa dần được hình thành. Họ có
vai trò rất quan trọng trong việc góp phần hình thành và phát triển các thị tứ, thành phố
ở tỉnh Sóc Trăng trong các thời kỳ lịch sử từ trước đến nay.
14

Quá trình hình thành cộng đồng người Hoa ở Vĩnh Châu còn là quá trình hòa
hợp giữa người Hoa với các dân tộc anh em khác. Đó là sự giao lưu kinh tế, văn hóa,
quan hệ cộng cư, quan hệ hôn nhân giữa người Hoa với người Việt và Khmer - các dân
tộc vốn có mặt ở đây từ khá sớm. Quá trình này tạo nên một bức tranh sinh động về
ngôn ngữ, phong tục tập quán,…

1.2.2. Dân số

Theo Niên giám thống kê tỉnh Sóc Trăng năm 2017, toàn thị xã Vĩnh Châu có
166.517 người, là nơi có số lượng người Hoa đông nhất ở tỉnh Sóc Trăng. Điều này
cũng dễ hiểu vì Vĩnh Châu là một trong những nơi mà người Hoa đặt chân đến đầu tiên.
Hơn nữa đây là vùng đất được xem là có điều kiện thuận lợi bậc nhất của tỉnh, người
Hoa đã đến đây sinh sống và định cư lâu dài. Ở thị xã Vĩnh Châu, người Kinh là 48.924
người chiếm 29,38%, người Khmer 88.006 người chiếm 52,85%, người Hoa 29.551
người chiếm 17,75%, còn lại là các dân tộc khác.

Số lượng (người) Tỉ lệ (%)

Kinh 48.924 29,38%

Khmer 88.006 52,85%

Hoa 29.551 17,75%

Khác 36 0.02%

Tổng 166.517 100


Bảng 1: Số lượng và tỉ lệ dân cư ở Thị xã Vĩnh Châu phân theo dân tộc năm 2017

(Nguồn: Niên giám thống kê Sóc Trăng 2017)


Người Hoa ở Vĩnh Châu phân bố khắp các phường xã trong thị xã. Tuy nhiên
mật độ giữa các phường xã là không giống nhau. Có nơi rất đông nhưng cũng có nơi rất
ít. Điển hình như người Hoa sinh sống đông nhất là ở phường 1 (6.629 người) và ít nhất
là ở xã Vĩnh Hiệp (48 người). Có thể hình dung dân số trung bình dân tộc phân theo
phường/xã của thị xã năm 2017 qua bảng số liệu sau:
15

Xã, phường Tổng số Kinh Khmer Hoa

Phường 1 16.810 6.715 3.466 6.629

Phường 2 22.387 1.036 16.843 4.499

Xã Lạc Hòa 15.510 2.758 8.383 4.369

Phường Vĩnh Phước 23.916 4.574 15.448 3.873

Xã Hòa Đông 10.772 5.284 3.773 1.718

Xã Lai Hòa 22.240 4.706 16.212 1.322

Xã Vĩnh Tân 15.384 4.536 9.795 1.053

Phường Khánh Hòa 10.796 7.317 3.171 305

Xã Vĩnh Hiệp 7.548 6.647 853 48

Tổng: 166.517 48.924 88.006 29.551


Bảng 2: Thống kê dân số các dân tộc ở thị xã Vĩnh Châu năm 2017

(Nguồn: Thống kê niên giám tỉnh Sóc Trăng, Nhà xuất bản Thống kê, 2018)

1.2.3. Đời sống kinh tế, văn hóa, giáo dục, xã hội
*Kinh tế

Người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng sống tập trung thành một địa bàn,
chủ yếu là khu vực chợ - trung tâm của các phường, xã của thị xã Vĩnh Châu. Người
Hoa nơi đây chủ yếu làm kinh doanh, mua bán. Họ kinh doanh những mặt hàng nhu yếu
phẩm cần thiết cho sinh hoạt hằng ngày. Ngoài ra, phần lớn các quán ăn trong địa bàn
cũng là của người Hoa với những thức ăn truyền thống của người Hoa như mì gia, hủ
tiếu,… Không chỉ kinh doanh những ngành cung cấp sản phẩm cho những sinh hoạt
trong đời sống hằng ngày, người Hoa nơi đây còn tham gia vào các ngành dịch vụ.
16

Hình 2: Tiếng Hoa được sử dụng khá phổ biến trên các bảng hiệu
(Nguồn: Nhóm tác giả)
*Văn hóa

Khi đến định cư ở thị xã Vĩnh Châu, cộng đồng người Hoa nơi đây cũng đã mang
theo những tinh hoa văn hóa của dân tộc đến mảnh đất mới, không ngừng giữ gìn và
phát triển. Cùng với quá trình sống và hòa nhập với người dân Việt Nam bản xứ, những
giá trị văn hóa đó không những không bị mất đi mà nó còn được tô điểm thêm để vừa
là một nét giá trị tinh thần đặc trưng của người Hoa vừa phù hợp, thích ứng với điều
kiện của vùng đất mới.

Cộng đồng người Hoa Triều Châu khi di cư đến Vĩnh Châu đã cố gắng tạo cho
mình một cuộc sống ổn định không chỉ về mặt vật chất mà còn cả đời sống tinh thần.
Văn hóa của cộng đồng người Hoa nơi đây là kết quả của quá trình chung sống với
người Việt, người Khmer trong công cuộc khai khẩn vùng đất Nam Bộ trong nhiều thế
kỷ qua. Trên vùng đất Vĩnh Châu, người Hoa đã chung nhau xây dựng các đền miếu, từ
đường, làm nơi thờ cúng thần linh, tổ tiên, nơi tụ tập của cộng đồng trong ngày tết, ngày
lễ. Họ lại cùng nhau mua đất làm nghĩa trang để có nơi chôn cất người chết. Nhu cầu
học hành của con em người Hoa cũng sớm được đặt ra và mọi người cùng nhau xây
trường, mời thầy giáo về dạy chữ Hoa. Người Hoa coi trọng các dịp lễ tết, hội hè trong
năm, nhất là các ngày Tết Nguyên Đán, Nguyên Tiêu, Thanh Minh, rằm tháng Bảy, rằm
17

tháng Tám,… Đó là dịp mọi người vui chơi, giải trí, thăm hỏi lẫn nhau. Múa rồng, múa
lân, biểu diễn sân khấu hát Tiều, Triều kịch,… là hoạt động dân gian của người Hoa.8

Người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng tôn thờ tín ngưỡng đa thần, phổ
biến là các loại hình tín ngưỡng thờ Bà Thiên Hậu (天后聖母), Ông Bổn hay còn gọi là
Phúc Đức Chánh Thần (福德正神) và Quan Thánh Đế Quân (關聖帝君) tại các miếu,
là cơ sở tín ngưỡng của cộng đồng. Thông thường trong các cơ sở tín ngưỡng của người
Hoa ở Sóc Trăng, có nhiều vị thần linh được thờ cúng. Ngoài vị thần chính còn có còn
thần tùng tự (phối tự) vai trò nhỏ hơn thần chính và thần phụ tự có vai trò thấp hơn thần
tùng tự.9 Các thần tùng tự và phụ tự là những nhân vật theo hầu hạ. Kiến trúc các miếu
của người Hoa thường theo một mô típ chung là tứ hợp viện, mái cong cao, trên móc có
trang trí hình rồng bay, ở các hàng cột có trang trí câu đối, hoành phi bằng chữ Hoa
hoặc vật tứ linh (long, lân, quy, phụng),… Ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng hơn 20
cơ sở tín ngưỡng thờ tượng của người Hoa và một nghĩa trang dành riêng cho cộng đồng
người Hoa Triều Châu ở đây. Hằng năm vào các dịp lễ lớn, cộng đồng người Hoa nơi
đây sẽ đến các chùa, miếu tiến hành các nghi thức tôn giáo, tín ngưỡng, tổ chức các sinh
hoạt văn nghệ dân gian, các hoạt động vui chơi giải trí. Các hoạt động tín ngưỡng, tôn
giáo, văn nghệ của người Hoa thường đi kèm với các hoạt động từ thiện, tương trợ giúp
đỡ người nghèo khổ.

Hình 3, 4: Các hoạt động sử dụng tiếng Hoa trong đêm Tết Nguyên Tiêu
tại chùa Ông Bổn

8
Phan An, Người Hoa ở Nam Bộ
9
Lâm Hoàng Viên (chủ biên), Tín ngưỡng dân gian tỉnh Sóc Trăng
18

(Nguồn: Nhóm tác giả)


*Giáo dục

Trước đây, việc học tập của con em người Hoa, chủ yếu là do cộng đồng người
Hoa tự tổ chức. Ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng có một số trường như Bồi Thanh,
Cảnh Thành, Tân Hưng,… do bà con người Hoa ở địa phương và có sự giúp đỡ của các
đoàn thể người Hoa ở Sài Gòn, nước ngoài xây dựng nên. Sau giải phóng, các trường
Hoa được chuyển sang hệ thống giáo dục thống nhất trong cả nước. Ngoài chương trình
phổ thông, các học sinh người Hoa được học thêm một số tiết tiếng Triều Châu như là
ngôn ngữ dân tộc và tiếng Hoa Phổ thông. Ở thị xã Vĩnh Châu, các em học sinh học của
một số trường dân lập như Bồi Thanh, Tân Hưng, Cảnh Thành,… sẽ được học cả tiếng
mẹ đẻ của mình là tiếng Triều Châu và tiếng Hoa phổ thông. Việc dạy thêm tiếng Hoa
được cộng đồng người Hoa nơi đây đón tiếp nồng nhiệt vì con cháu thế hệ đời sau của
họ có thể học tập và giữ gìn văn hóa của cha ông.

Hình 5, 6: Một lớp học tiếng Hoa tại trường Bồi Thanh
(Nguồn: Nhóm tác giả)
*Xã hội

Người Hoa tại thị xã (khu vực trung tâm) có một số hội đoàn thể: Hội Châu
Quang, Hội Đồng Hương, Hội phụ huynh học sinh trường Bồi Thanh, Hội Thanh minh
Cổ miếu, Hội từ thiện Nghĩa trang Triều Châu. Người Hoa nơi đây vẫn giữ được các lễ
hội truyền thống khi họ còn ở Trung Quốc như: Tết Nguyên Đán, Tết Nguyên Tiêu, Tết
Thanh Minh, vía cúng Thanh minh Cổ miếu, vía cúng Thiên hậu Cổ miếu. Các hội đoàn
của người Hoa có phân biệt rõ ràng khu vực và vấn đề mỗi hội phụ trách, nhưng vẫn có
điểm giao thoa như một người có thể làm ở nhiều hội đoàn khác nhau và các hội thương
xuyên hỗ trợ qua lại lẫn nhau những lúc có công việc lễ cúng. Mạng lưới xã hội người
19

Hoa tại đây không chỉ giới hạn trong thị xã Vĩnh Châu (khu vực trung tâm) mà mở rộng
ra nhiều khu vực trong thị xã, mở rộng ra khác xã phường khác như Vĩnh Hải, Lạc Hòa
và những huyện ngoài Vĩnh Châu như xã Lịch Hội Thượng của huyện Trần Đề và kéo
dài đến tận thành phố Bạc Liêu và thành phố Sóc Trăng. Mạng lưới xã hội này được
thiết lập từ rất lâu và được duy trì qua nhiều thế hệ. Yếu tố hệ thống thân tộc và kết hôn,
thân hữu, công việc kinh doanh, tất cả tổng hợp lại được kết hợp vận dụng để giúp cho
hoạt động quy trình văn hóa, tín ngưỡng lễ hội hoặc công việc kinh doanh được tốt hơn.
Điều này trong một số cộng đồng tộc người khác cũng có nhưng có lẽ cách duy trì mạng
lưới này của người Triều Châu có nhiều đặc thù. [19;42-43]

Tóm lại, qua những phong tục tập quán, đời sống tín ngưỡng, tôn giáo,… của
cộng đồng người Hoa Triều Châu ở tỉnh Sóc Trăng đã cho thấy được những nét văn hóa
vẫn còn mang đậm màu sắc của họ, đồng thời thấy được những nét văn hóa này vẫn còn
ảnh hưởng rất sâu sắc và chi phối những hoạt động sinh hoạt hằng ngày của cộng đồng
người Hoa nơi đây. Những nét văn hóa đặc trưng này còn giúp cộng đồng người Hoa
hòa nhập được với người Kinh, người Khmer đang cùng sinh sống trong khu vực. Ngoài
ra còn thấy được tỉnh Sóc Trăng có một màu sắc văn hóa vô cùng đặc trưng của một
vùng đất đa dân tộc, đa văn hóa, qua đó cho thấy tính thống nhất trong đa dạng do quá
trình giao thoa văn hóa giữa các dân tộc rõ nét.

Hình 7: Liên hoan mừng Xuân 2018 Hội Đồng Hương Vĩnh Châu lần thứ XII
(Nguồn: Cổng thông tin điện tử Hội Đồng Hương Vĩnh Châu)
20

1.3. Việc sử dụng ngôn ngữ của cộng đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh
Sóc Trăng

Mỗi một dân tộc trên thế giới đều có ngôn ngữ riêng của dân tộc mình. Ngôn ngữ
đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình hình thành, phát triển và giữ gìn văn
hóa của mỗi dân tộc. Người Hoa cũng vậy, họ cũng có ngôn ngữ riêng mình để duy trì,
phát triển những tinh hoa văn hóa của dân tộc mình và lưu truyền lại cho các thế hệ sau
này. Trong quá trình di cư đến Việt Nam, người Hoa cũng mang theo ngôn ngữ và văn
hóa của mình đến vùng đất mà họ định cư, cụ thể ở Vĩnh Châu, Sóc Trăng. Đồng thời,
trải qua nhiều biến đổi của xã hội, người Hoa ở đây đã sử dụng nhiều cách thức khác
nhau để bảo tồn và lưu giữ ngôn ngữ của mình. Trong phần này, chúng tôi sẽ mô tả khái
quát về ngôn ngữ hiện đang sử dụng, đối tượng và không gian sử dụng ngôn ngữ của
người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, Sóc Trăng để có được nền tảng cho những nghiên cứu
tiếp theo về tình hình bảo tồn ngôn ngữ của họ.

Tên nhóm địa Phương ngữ


phương Hệ phương ngữ
Tên học thuật Tên dân gian
(Bang)
Tiếng Quảng Châu Tiếng Quảng, tiếng
Quảng Đông Việt
(tiếng Quảng phủ) Quảng Đông
Tiếng Tiều, tiếng
Triều Châu Tiếng Triều Châu
Triều Châu
Mân
Phúc Kiến Tiếng Hạ Môn Tiếng Phúc Kiến

Hải Nam Tiếng Hải Khẩu Tiếng Hải Nam


Khách Gia Tiếng Mai Châu Tiếng Hẹ Khách Gia
Bảng 3: Hiện trạng các phương ngữ của người Hoa ở TP.HCM hiện nay

(Nguồn: Hồ Minh Quang, Du Quế Tiên, “Việc sử dụng ngôn ngữ của cộng đồng
người Hoa ở TP. HCM”, Kỷ yếu Tọa đàm Khoa học “Người Hoa ở Nam Bộ, Việt
Nam”, 2017)
Người Hoa ở Việt Nam thường có 5 nhóm ngôn ngữ chính là Quảng Đông, Triều
Châu, Phúc Kiến, Hải Nam và tiếng Khách Gia (Hakka, đôi khi còn gọi là tiếng Hẹ)
trong đó tiếng Quảng Đông được sử dụng rộng rãi nhất trong cộng đồng người Hoa ở
Việt Nam, nhiều nhất là ở khu vực Chợ Lớn, quận 5,6 thành phố Hồ Chí Minh. Cộng
21

đồng người Hoa ở Việt Nam còn có tiếng phổ thông, là ngôn ngữ được giảng dạy trong
trường lớp.

Ngôn ngữ chung của cộng đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng
chính là tiếng Triều Châu hay còn gọi là tiếng Tiều thuộc hệ phương ngữ Mân. Bởi tiểu
cộng đồng người Hoa Triều Châu chiếm tỉ lệ đông nhất trong các nhóm địa phương
người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng và trong thời gian dài định cư ở nơi đây,
nhóm Hoa Triều Châu đã thành công trong việc làm cho những nhóm Hoa địa phương
khác chấp nhận tiếng nói của họ là ngôn ngữ chung. Đây là một lợi thế rất lớn để tiếng
Hoa phương ngữ duy trì và phát huy chức năng giao tiếp trong phạm vi gia đình và
trong nội bộ cộng đồng. Bên cạnh đó, họ còn phải học ngôn ngữ chính thức của Việt
Nam là tiếng Việt và ngoại ngữ trong trường học, ở đây là tiếng Anh theo chương trình
đào tạo của Bộ giáo dục. Ngoài ra, một số gia đình người Hoa ở đây cho con em mình
theo học tại các trường dân lập do cộng đồng người Hoa thành lập như trường Bồi
Thanh, Cảnh Thành, Tân Hưng,… còn được học thêm tiếng Hoa Phổ thông. Chính vì
thế, bắt đầu từ thế hệ thứ ba có một số con em người Hoa còn biết thêm tiếng Hoa Phổ
thông.

Theo những thông tin nhận được từ phương pháp điều tra phỏng vấn và điều tra
bảng hỏi của nhóm tác giả, những bậc cao niên trong cộng đồng người Hoa ở thị xã
Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng đều có khả năng nghe hiểu, giao tiếp thuần thục bằng tiếng
Tiều. Đối với những người thuộc nhóm tuổi trung niên, mức độ sử dụng tiếng Tiều của
họ giảm đi so với thế hệ thứ nhất nhưng họ vẫn giữ được khả năng giao tiếp ngôn ngữ
Tiều do yêu cầu phải dùng tiếng Tiều để giao tiếp với các thành viên còn lại trong gia
đình. Ở thế hệ này, thời lượng sử dụng tiếng Tiều của họ trong giao tiếp vẫn được duy
trì ở mức cao. Đối với lớp trẻ trong cộng đồng người Hoa hiện nay, tác động từ môi
trường sống, các nhu cầu trong việc giao lưu học tập, đời sống thường nhật và phát triển
xã hội đã ảnh hưởng rất lớn đến việc sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ của nhóm đối tượng này.
Hiện nay, vẫn còn khoảng 90% gia đình vẫn còn duy trì lệ chỉ nói ngôn ngữ Tiều trong
gia đình, còn những khi giao tiếp trong trường học, trong kinh doanh hoặc trong cộng
đồng, họ sẽ ưu tiên sử dụng tiếng Việt. Nhóm tuổi này có mức độ sử dụng tiếng mẹ đẻ
và tiếng Việt là 50:50, họ sẽ sử dụng tiếng mẹ đẻ trong gia đình, trong cộng đồng người
Hoa và sẽ sử dụng tiếng Việt khi ra ngoài xã hội, khi có nhu cầu giao tiếp với các dân
tộc khác.
22

Phần lớn người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu đều rất thành thạo trong việc nói tiếng
Triều Châu, xét về khả năng đọc, viết chữ Hán thì có đến 48,2% số người được hỏi biết
đọc, viết chữ Hán với các mức độ biết khác nhau. Tuy nhiên, mục đích học tập tiếng
Hoa Phổ thông của phần lớn lớp trẻ hiện nay chỉ vì công việc sau này, biết thêm tiếng
Hoa phổ thông sẽ có lợi hơn trong việc tìm kiếm một công việc tốt. Chính vì thế, hiện
nay thời gian sử dụng tiếng Tiều của lớp trẻ trong cộng đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh
Châu, tỉnh Sóc Trăng đã ít lại càng ít hơn, do phải phân chia với nhiều thứ tiếng khác.
Do đó, người Hoa ở đây, đặc biệt là những người lớn tuổi, có trình độ học vấn, lo lắng thế
hệ con cháu họ sau này sẽ không nói được tiếng mẹ đẻ, vì thế hệ của họ qua đi thì chẳng
còn lại bao nhiêu người biết tiếng mẹ đẻ. Song, có một điều đáng mừng cho cộng đồng
người Hoa ở đây là hiện nay ở thị xã Vĩnh Châu có đài phát thanh phát cả 3 thứ tiếng:
Việt, Hoa (tiếng Triều Châu), Khmer, phát cùng một nội dung nhưng dịch ra 3 thứ tiếng,
để mỗi dân tộc hiểu về tình hình kinh tế xã hội của địa phương bằng tiếng dân tộc của
mình.10

Người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu không chỉ sống xen kẽ với người Kinh mà còn
cộng cư với người Khmer từ bao đời nay nên đa số người Hoa ở lứa tuổi trưởng thành
đều biết tiếng Khmer và chủ yếu là biết tiếng Khmer qua môi trường tự nhiên, theo đó
đã xuất hiện trạng thái song ngữ tự nhiên Hoa – Khmer. Động cơ của người Hoa biết
tiếng Khmer là để hòa nhập cộng đồng và để thuận tiện trong làm ăn buôn bán với người
Khmer, vì dân số Khmer tại huyện Vĩnh Châu đông gấp đôi dân số người Hoa. Ngoài
ra còn do yếu tố quan hệ hôn nhân khác tộc giữa người Hoa và người Khmer cũng là
một những lí do để người Hoa biết tiếng Khmer.

Như vậy, trải qua thời gian dài thích nghi với mội trường sống mới, giống như
những tộc người thiểu số khác ở Việt Nam, người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc
Trăng hiện nay trên cơ bản có khả năng sử dụng 3 loại ngôn ngữ: ngôn ngữ toàn dân –
tiếng Việt, ngôn ngữ dân tộc – tiếng Triều Châu và ngôn ngữ của người Khmer - tiếng
Khmer.

Nhìn chung, người Hoa thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng vẫn còn giữ gìn khá
tốt ngôn ngữ của mình. Tuy nhiên, hiện nay phạm vi sử dụng tiếng Triều Châu chỉ còn

10
Hoàng Quốc, Sự lựa chọn ngôn ngữ trong giao tiếp: Nghiên cứu trường hợp người Hoa ở huyện Vĩnh Châu,
tỉnh Sóc Trăng, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 5 (233) - 2014, tr.71 -78
23

được giới hạn trong phạm vi gia đình, sinh hoạt cộng đồng, xóm, ấp giữa những người
đồng tộc và một số bối cảnh giao tiếp hạn chế (cầu cúng, tế lễ, ca hát). Đồng thời trong
bối cảnh giao lưu, tiếp biến văn hóa với hai cộng đồng dân tộc khác ở khu vực là Kinh
và Khmer cũng đã làm cho tiếng Triều Châu - thứ tiếng có địa vị cao trong gia đình của
người lại trở thành một thứ tiếng ít được sử dụng trong đời sống xã hội. Do đó, cũng
như ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số khác, tiếng Triều Châu của cộng đồng người Hoa
ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng rất cần được bảo tồn và phát triển như một nét bản
sắc văn hóa.

Tóm lại trong phần này, chúng tôi đã khái quát được vấn đề thực trạng sử dụng
ngôn ngữ của người Hoa tại nơi đây với các tần suất sử dụng khác nhau tùy thuộc vào
từng đối tượng và từng hoàn cảnh. Tuy rằng hiện nay ngôn ngữ xã hội là tiếng Việt đang
chiếm ưu thế, thế nhưng việc sử dụng tiếng Tiều trong các môi trường sinh hoạt gia
đình, cộng đồng được xuất hiện khá nhiều và còn lưu giữ được nhiều nét văn hóa – xã
hội thông qua các hoạt động sử dụng tiếng Tiều của người dân địa phương. Những điều
này đã làm tiền đề giúp chúng tôi đi sâu vào việc mô tả các phương pháp bảo tồn ngôn
ngữ của người dân địa phương thông qua các hoạt động xã hội, tại các điểm trường học
và các nghị định khuyến học của nhà nước.

Tiểu kết chương 1

Trong chương 1, chúng tôi đã trình bày một cách khái quát về nguồn gốc hình
thành, những đặc điểm về khu vực sinh sống, về đời sống vật chất và tinh thần của cộng
đồng người Hoa Triều Châu ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng. Qua đó, cung cấp một
bức tranh toàn cảnh về đời sống văn hóa - xã hội cũng như tình hình lưu giữ những nét
văn hóa tinh hoa dân tộc cho đến ngay này của cộng đồng người Hoa nơi đây.

Cùng với việc tìm hiểu về cộng đồng người Hoa Triều Châu nơi đây và để trang
bị cho việc tìm hiểu về tình hình bảo tồn ngôn ngữ của họ, chúng tôi cũng đã đi sâu vào
tìm hiểu việc sử dụng ngôn ngữ hiện nay của họ. Trong chương 1 này, nhóm tác giả đã
trình bày một cách khái quát mức độ và không gian sử dụng tiếng mẹ đẻ của cộng đồng
người Hoa nơi đây. Từ đó, cho thấy được một cách khái quát tình hình bảo tồn ngôn
ngữ trong đời sống văn hóa - xã hội của cộng đồng người Hoa nơi đây vẫn còn diễn ra
khá mạnh mẽ, tuy nhiên lại bị hạn chế về mặt không gian.
24

Như vậy, trong chương 1 nhóm thực hiện đã trình bày hệ thống cơ sở lý luận làm
tiền đề để phục vụ cho quá trình tìm hiểu tình hình bảo tồn ngôn ngữ hiện nay cũng như
những hình thức bảo tồn ngôn ngữ của cộng đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh
Sóc Trăng đang được diễn ra trên hai bình diện chủ yếu là văn hóa và giáo dục.
25

CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH BẢO TỒN NGÔN NGỮ TRÊN BÌNH DIỆN
VĂN HÓA

Cộng đồng người Hoa Triều Châu ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng là một
cộng đồng bảo tồn rất tốt ngôn ngữ riêng của dân tộc mình. Các hoạt động bảo tồn ngôn
ngữ của họ luôn xuất hiện trong các sinh hoạt hằng ngày của đời sống. Đặc biệt là trong
những dịp lễ hội quan trọng hay trong hoạt động thờ cúng của cộng đồng người Hoa nơi
đây, chúng ta luôn nhìn thấy dù ít hay nhiều các hoạt động giữ gìn ngôn ngữ dân tộc.
Họ luôn cố gắng bảo tồn ngôn ngữ dân tộc mình trên cả hai phương diện là chữ viết và
tiếng nói trong các hoạt động của đời sống.

2.1. Trong hoạt động tín ngưỡng

Đối với cộng đồng người Hoa, các hoạt động liên quan đến tín ngưỡng truyền
thống là một việc rất thiêng liêng và đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần
của họ. Chính vì vậy, trong các hoạt động thờ cúng, người Hoa tại thị xã Vĩnh Châu,
tỉnh Sóc Trăng đã lưu lại khá nhiều những chất liệu màu mỡ mang đậm bản sắc dân tộc.
Việc chỉ sử dụng ngôn ngữ dân tộc trên các vật liệu thờ cúng như các câu đối liễn, lá
xăm,... là một phương thức bảo tồn ngôn ngữ bằng chữ viết được người dân nơi đây lưu
truyền qua nhiều thế hệ và không có dấu hiệu bị hòa lẫn với các văn hóa ngoại lai. Trong
phần này, chúng tôi sẽ giới thiệu các nét đặc trưng trong việc bảo tồn ngôn ngữ chữ viết
(cũng chính là chữ Hán) qua các hoạt động thờ cúng tại gia và tại các cơ sở thờ tự cộng
đồng để mô tả tình hình bảo tồn ngôn ngữ đang diễn ra trên bình diện văn hóa.

2.1.1 Trong gia đình


Các hoạt động tín ngưỡng là một phần không thể thiếu trong đời sống văn hóa của
người Hoa nói chung và cộng đồng người Hoa tại thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng nói
riêng. Trong gia đình, cộng đồng người Hoa nơi đây vẫn luôn sử dụng các vật dụng có
chữ Hán để bày trí cho căn nhà của mình. Những vật trang trí có chữ Hán luôn được để
ở những nơi bắt mắt trong nhà như bàn thờ ở chính giữa căn nhà hay những câu đối liễn
được dán hai bên cửa. Mặc dù chỉ là những chi tiết rất nhỏ trong cả căn nhà rộng lớn,
thế nhưng thông qua đó có thể thấy được họ luôn ý thức việc gìn giữ ngôn ngữ của mình.
Thông qua phương pháp điều tra phỏng vấn, chúng tôi không tìm thấy được chất liệu
ngôn ngữ của các văn hóa khác trên các vật dụng trong gia đình người Hoa. Từ đó, có
26

thể thấy được việc bảo tồn ngôn ngữ chữ viết qua các vật trang trí trong nhà vẫn còn
được lưu giữ mạnh mẽ, chưa có dấu hiệu bị mai một.

Hình 8: Cách bài trí bàn thờ phổ biến của một hộ gia đình người Hoa

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Đầu tiên nhóm tác giả sẽ khái quát các vấn đề xung quanh cách bày trí trên bàn
thờ của các hộ gia đình người Hoa tại địa phương. Phần lớn họ theo tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên. Đồng thời họ còn rất coi trọng việc bày trí trên bàn thờ. Thông thường họ sẽ chia
bàn thờ hai phần chính là thờ Tổ và thờ Thần. Đặc biệt, họ sử dụng rất nhiều chữ Hán
trên các vật dụng bày trí bàn thờ.

Đối với bàn thờ Tổ, họ sẽ đặt ở vị trí chính diện, trên đó được đặt một bức liễn
màu đỏ đề chữ “祖” hoặc là “祖堂” - nghĩa là tổ/tổ đường để thờ cúng ông bà. Phía bên
phải sẽ là bàn thờ Thần, trên đó họ cũng đặt một bức liễn màu đỏ ghi chữ “神”- có nghĩa
là thần, dành cho việc thờ cúng các vị thần theo tín ngưỡng của người dân địa phương.
100% gia đình người Hoa trên địa bàn mà nhóm tác giả có cơ hội tiếp xúc đều có bàn
thờ viết bằng chữ Hán. Ngoài ra, hai bên phần chữ trung tâm của bức liễn sẽ có hai câu
đối liễn được ghi bằng chữ Hán. Ý nghĩa của các câu đối liễn này không có sự đồng
nhất, đa phần mang các hàm ý như cầu mong cuộc sống trường thọ, tài lộc, gia đạo bình
an.
27

Hình 9: Bức liễn ghi chữ “神” (Thần) và hai câu đối liễn hai bên trên bàn thờ của một
người dân địa phương

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Hình 10: Bức liễn ghi chữ “祖” (Tổ) và hai câu đối liễn hia bên trên bàn thờ của một
người dân địa phương

(Nguồn: Nhóm tác giả)


28

Hình 11: Bức liễn ghi chữ “祖堂” (Tổ đường) và hai câu đối liễn hai bên trên bàn thờ
của một người dân địa phương

(Nguồn: Nhóm tác giả)


Tiếp theo là cách trang trí của các hộ gia đình người Hoa tại địa phương, họ
thường dùng những vật dụng màu đỏ và có chữ Hán trang trí bên trên như các câu đối
liễn, lồng đèn đỏ,... hoặc sử dụng những câu đối trắng khi nhà có tang sự. Khi người
Hoa di cư sang các vùng lãnh thổ ở Việt Nam, cụ thể là cộng đồng người Hoa tại thị xã
Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng, họ vẫn bảo lưu được nét văn hóa đặc trưng này.

Hình 12: Câu đối liễn được sử dụng trong nhà (心想事成家運興 - Tâm tưởng sự
thành gia vận hưng - Tạm dịch: Cầu mong vạn sự như ý, gia đì nh may mắn)

(Nguồn: Nhóm tác giả)


Đây được xem như là một vật trang trí mang hàm ý chúc phúc, những lời hay ý
đẹp hướng con người đến với chân, thiện, mỹ bằng những câu đối chữ Hán được viết
thư pháp nắn nót, tinh xảo trên nền giấy đỏ. Họ thường treo những câu đối liễn tại hai
29

bên cửa nhà. Nội dung của những câu đối liễn này thường rõ ràng, súc tích, ý tứ cô đọng
nhưng vẫn biểu đạt được tâm tư nguyện vọng, tình cảm của con người một cách khách
quan nhất ví dụ như mong cầu sự phú quý bình an, cuộc sống trường thọ, con cháu hòa
thuận, gia đình hạnh phúc.

Ví dụ như các nội dung như“作婦須知勤儉好, 治家應教子孫賢” (Tác phụ


tu tri cần kiệm tảo, Trị gia ưng giáo tử tôn hiền. Tạm dịch “Làm vợ nên hay cần kiệm
giỏi, Trị nhà phải dạy cháu con hiền.”), “德承先祖千年盛, 福荫兒孙百世荣” (Đức
thừa tiên tổ thiên niên thịnh, Phúc ấm nhi tôn bách thế gia. Tạm dịch “Tổ tiên tích đức
ngàn năm thịnh, con cháu nhờ ơn vạn đại vinh), “天長地久心相印,花好月圓情永
結”(Thiên trường địa cửu tâm tương ấn, Hoa hảo nguyệt viên tình vĩnh kết. Tạm dịch:
Cầu mong tình yêu mãi trường tồn theo thời gian),... Và còn nhiều các nội dung đa dạng
khác nhau thể hiện các ý nguyện cầu mong cho gia chủ.

Hình 13: Cặp câu đối liễn được sử dụng trong gia đình (年年順景福星到, 歲歲平安
好運來 - Niên niên thuận cảnh phúc tinh đáo, tuế tuế bình an hảo vận lai - Tạm dịch:
Gia đình mọi năm đều gặp nhiều thuận lợi, bình an, may mắn và hạnh phúc)

(Nguồn: Nhóm tác giả)


Cách bài trí trong nhà và trên bàn thờ cúng gia tiên của người Hoa có thể minh
chứng cho việc bảo tồn ngôn ngữ chữ viết vẫn còn trong giai đoạn mạnh mẽ. Vì khi còn
chữ viết thì vẫn có khả năng lưu giữ văn hóa dân tộc. Mặc dù hiện nay, 85% thế hệ thứ
hai, ba của cộng đồng người Hoa Triều Châu có những hạn chế trong việc hiểu rõ ý
nghĩa của các chữ trên bàn thờ và các câu đối liễn thế nhưng họ vẫn giữ được ý thức
trong việc trang trí nhà cửa theo cái cách cha ông của họ đã làm từ bao đời nay.
30

Hình 14: Bàn thờ Thần của một hộ gia đình người Hoa gần khu vực chợ Vĩnh Châu

(Nguồn: Nhóm tác giả)


Ngoài việc bảo tồn ngôn ngữ bằng cách gìn giữ hình thức bày trí liễn và câu đối
liễn tiếng Hoa, người dân địa phương còn sử dụng chất liệu ngôn ngữ dân tộc để khấn
vái trong khi thờ cúng. Cũng giống việc sử dụng tiếng Tiều để giao tiếp, người Hoa sẽ
dùng ngôn ngữ này để cầu xin khi thờ cúng ông bà. Điều này sẽ tạo thêm không gian sử
dụng cho ngôn ngữ Tiều dẫn đến việc bảo tồn ngôn ngữ có nhiều điều kiện để phát triển.

Tóm lại, cách người Hoa bảo tồn ngôn ngữ mẹ đẻ của họ thông qua việc thờ cúng
tại nhà vẫn còn trong giai đoạn bảo lưu mạnh mẽ, chưa có dấu hiệu hòa lẫn văn hóa của
người Kinh và người Khmer trong khu vực, được thể hiện qua bàn thờ gia tiên nói chung
và các chất liệu trang trí thờ cúng nói riêng. Ngoài ra, cách bài trí truyền thống thì cộng
đồng người Hoa nơi đây vẫn sử dụng ngôn ngữ Tiều của mình trong các hoạt động khấn
vái và dùng chữ Hán trên các vật dụng thờ cúng. Chính vì vậy, ngôn ngữ ở đây đã phát
huy được vai trò chất truyền dẫn những nét văn hóa đặc trưng thông qua chữ viết (chữ
Hán) và những lời cầu khấn bằng tiếng Tiều. Điều này dẫn đến khả năng lưu truyền tục
thờ cúng và ngôn ngữ dân tộc tại địa phương được giữ vững và phát triển qua các thế
hệ sau.
31

2.1.2. Trong các cơ sở thờ tự công cộng


Tín ngưỡng thờ cúng dân gian là sự sùng bái và thờ cúng các vị thần dân gian.
Tín ngưỡng thờ cúng dân gian phổ biến trong các cộng đồng người Hoa trên cả nước và
người Hoa Triều Châu ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng cũng không ngoại lệ. Người
Hoa Triều Châu ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng tôn thờ các vị thần linh dân gian
mà họ gọi một cách thân thiết là Ông và Bà. Việc thờ Ông và Bà của người Hoa không
chỉ đơn thuần là tín ngưỡng dân gian, mà trong đó còn pha lẫn các hình thức của Đạo
giáo, Phật giáo và cả tư tưởng Nho gia. Họ thờ các vị thần này ở các cơ sở thờ tự do
cộng đồng người Hoa trên địa bàn cùng nhau xây dựng nên, có người được phân công
trông nom và quản lý bài bản. Nhóm tác giả đã tiến hành khảo sát hai cơ sở thờ tự là
Thanh Minh Cổ Miếu (清明古廟) mà cộng đồng người Hoa nơi đây gọi là chùa Ông và
Thiên Hậu Cổ Miếu (天後古廟) mà cộng đồng người Hoa nơi đây gọi là chùa Bà nằm
ở phường 1, thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng.

Hình 15: Chùa Ông Bổn (Phước Đức Chánh Thần)


(Nguồn: Nhóm tác giả)
Qua các cuộc khảo sát thực tế, chúng tôi nhìn thấy được tại các ngôi chùa thờ
Ông và Bà, chữ Hán xuất hiện và tồn tại với tần suất cao. Tại các cơ sở thờ tự này có
thể thấy, ngay từ khi đặt chân vào cổng chùa, ngôn ngữ của họ xuất hiện trên bảng tên
chùa và các câu đối trước cửa. Trên bàn thờ của các vị thần trong chùa Ông Bổn, bao
gồm bàn thờ chính của Phước Đức Chánh Thần (福德正神) và bàn thờ của các vị thần
phối tự, tên các vị thần đều được thể hiện bằng chính ngôn ngữ mẹ đẻ của họ. Có nhiều
32

cặp câu đối được khắc lên hai bên tường trái, phải và những cây cột bên trong chùa Ông
và chùa Bà. Hầu hết trong việc trang trí kiến trúc chùa, người Hoa nơi đây sử dụng hoàn
toàn bằng chữ viết dân tộc. Trong chùa Bà có tổng cộng 7 cặp đối và 15 bức hoành, toàn
bộ đều sử dụng chữ Hán. Trong chùa Ông có tổng cộng 14 bức hoành và 20 cặp đối,
ngoài ra còn có thêm 8 lồng đèn trang trí, toàn bộ đều sử dụng chữ Hán. Song qua khảo
sát, chỉ có một số ít bậc cao niên và trung niên trong cộng đồng có thể đọc và hiểu được
ý nghĩa của những bức hoành và cặp đối này. Còn lớp trẻ hiện nay chỉ dừng lại ở việc
nhận diện mặt mà chữ mà không hiểu được ý nghĩa.

Hình 16: Trang trí trước cửa chùa Ông


Hoành phi từ phải sang trái: 風調雨順 - Phong điều vũ thuận, 恭賀新禧 - Cung hỉ
tân hi, 國泰民安 - Quốc thái dân an (Tạm dịch: mưa thuận gió hòa, chúc mừng năm mới,
đất nước thái bình thì dân an lành)
Câu đối liễn từ trái sang phải: 風調雨順民安樂 - Phong điều vũ thuận dân an lạc, 海
晏河清世太平 - Hải yến hà thanh thế thái bình (Tạm dịch: cuộc sống nhân dân bình an,
thuận lợi thì đất nước thái bình)

(Nguồn: Nhóm tác giả)


33

Hình 17: Hai bức hoành ở chùa Ông


Bức hoành đầu tiên là 德普南天 - Đức phổ Nam thiên (Tạm dịch: Đức thánh phổ độ
chúng sinh ở phía Nam)
Bức hoành thứ hai là 澤及萬方 - Trạch cập vạn phương (Tạm dịch: Sông ngòi trải
dải khắp mọi nơi)
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Bên cạnh đó, cộng đồng người Hoa nơi đây còn sử dụng chữ Hán viết tên những
người có đóng góp cho chùa Ông, chùa Bà và tên của các thành viên nằm trong ban
quản lý ngôi chùa. Có thể nói, các cơ sở thờ tự là nơi bảo tồn chữ viết tốt nhất của cộng
đồng người Hoa. Tại đây lưu trữ số lượng lớn chữ viết mẹ đẻ của họ mà có thể không
nơi nào có. Người Hoa ý thức được rằng nơi thờ tự là một không gian có vai trò quan
trọng trong việc truyền tải thông điệp gìn giữ ngôn ngữ dân tộc.
34

Hình 18: Bảng ghi tên các thành viên trong Ban quản lý chùa Ông và chùa Bà
(Nguồn: Nhóm tác giả)
Ngoài ra, trong chùa Ông và chùa Bà còn có hoạt động xin xăm. Trên các xăm
có đề số, người xin xăm sẽ dựa vào con số mình xin được để giải xăm, sách giải xăm
Ông được viết bằng tiếng Việt, còn sách giải xăm Bà có cả 2 phiên bản tiếng Hoa và
tiếng Việt. Tuy nhiên, tồn tại một vấn đề đó là hiện tại đa số người Hoa tại địa bàn đều
không đọc hiểu được hoàn toàn ý nghĩa của sách giải xăm Bà bằng tiếng Hoa. Cũng vì
vậy mà cộng đồng người Hoa tại đây luôn mong muốn có thể duy trì và nỗ lực nuôi
dưỡng, gìn giữ ngôn ngữ dân tộc.

Hình 19: Sách giải xăm Bà bằng tiếng Hoa tại chùa Ông

(Nguồn: Nhóm tác giả)


35

Đối với người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng, nơi thờ tự các vị thần là
nơi thể hiện ước vọng, niềm tin, cũng là không gian để cộng đồng cùng nhau sinh hoạt
đồng dân tộc và giao lưu hội nhập với các cộng đồng dân tộc khác. Vì vậy, chùa Ông,
chùa Bà tại đây là không gian mang ý nghĩa hết sức quan trọng đối với họ, có thể nói
chùa Ông và chùa Bà là bộ mặt của người Hoa ở đây. Do đó, tại một địa điểm đóng vai
trò bộ mặt của cộng đồng, họ sử dụng ngôn ngữ dân tộc như một hình thức thể hiện sự
tự hào về nét đẹp văn hóa của tộc người Hoa. Đồng thời, trong quá trình cộng cư với
các dân tộc khác, họ cần phải có một nơi đánh dấu bản sắc riêng của dân tộc mình với
các dân tộc khác và hạn chế sự ảnh hưởng của quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa đang
diễn ra mạnh mẽ trong xã hội hiện nay.

Hình 20: Người dân tham dự Tết Nguyên Tiêu tại chùa Ông Bổn

(Nguồn: Du Quế Tiên11)


Tóm lại, ý thức gìn giữ ngôn ngữ dân tộc của người Hoa được thể hiện trên tất
cả các phương diện trong xã hội. Trong đó, tín ngưỡng là một phương diện vô cùng
quan trọng để họ gửi gắm những hi vọng về tinh thần lẫn bản sắc văn hóa. Cụ thể là
ngôn ngữ dân tộc mà muôn đời nay họ vẫn cố gắng bảo tồn. Tín ngưỡng đã đi cùng
cộng đồng người Hoa xuyên suốt quá trình định cư, cùng với ngôn ngữ đã trở thành
phương tiện giúp người Hoa phân biệt với các cộng đồng khác. Nơi thờ tự của người
Hoa nơi đây không chỉ là nơi thờ cúng các vị thần dân gian, mà còn là nơi góp phần to

11
Thạc sĩ, giảng viên bộ môn Trung Quốc học, khoa Đông phương học, trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
36

lớn trong việc giáo dục truyền thống, nuôi dưỡng truyền thống dân gian, giữ gìn phong
tục tập quán và quan trọng nhất là nơi bảo tồn ngôn ngữ của cộng đồng người Hoa ở địa
phương này. Thông qua đó, bảo tồn và khuyến khích những người trẻ nhận thức được
tầm quan trọng của nét truyền thống dân tộc.

2.2. Trong các hoạt động lễ hội

Lễ hội là hoạt động mang tính tập thể và thường có liên quan đến tín ngưỡng, tôn
giáo trên một địa bàn dân cư có thời gian và không gian xác định nhằm nhắc lại sự kiện,
nhân vật lịch sử hay huyền thoại, đồng thời cũng thể hiện cách ứng xử văn hóa của con
người với thiên nhiên, thần thánh và con người trong xã hội. Thông qua việc nghiên cứu
khảo sát tại các nơi sinh hoạt cộng đồng, chùa, miếu và trực tiếp tham dự lễ hội của
người Hoa trên địa bàn thị xã Vĩnh Châu tỉnh Sóc Trăng, nhóm chúng tôi nhận thấy
được khả năng bảo tồn ngôn ngữ của người Hoa Triều Châu nơi đây còn được thể hiện
sâu sắc thông qua các lễ hội. Cụ thể là trong các lễ hội tại địa phương, thông qua cách
bày trí, tổ chức, sắp xếp, chúng tôi có thể thấy ngôn ngữ dân tộc của họ tồn tại và xuất
hiện với mật độ cao và đóng vai trò rất quan trọng.

Người Hoa một năm có 8 ngày lễ quan trọng: Tết Nguyên Đán, Tết Nguyên Tiêu,
Tết Thanh Minh, Tết Đoan Ngọ, Thất Tịch, Tết Trung Thu, Trùng Dương và Đông Chí.
Trong những ngày lễ tết này, ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng tết Nguyên Tiêu là
ngày lễ được tổ chức lớn nhất. Trong ngày này, cộng đồng người Hoa nơi đây sẽ mang
đồ cúng đến chùa Ông Bổn tọa lạc trên địa bàn để cúng tế. Tết Nguyên Tiêu của cộng
đồng người Hoa nơi đây gồm đầy đủ cả hai phần là lễ và hội. Trong phần lễ có tục "lên
xác ông Bổn" là nét văn hóa đặc biệt của địa phương, được thực hiện với mong muốn
cầu mưa thuận gió hoà, vạn sự hanh thông trong năm. Phần hội là phần thu hút đông
người tham gia nhất với các hoạt động gồm biểu diễn nghệ thuật hát Tiều, trò chơi đố
chữ dân gian, biểu diễn và giao lưu thư pháp. Những hoạt động này được tổ chức với
mục đích chính là đem lại sự giải trí và giúp cộng đồng người Hoa nơi đây có cơ hội
được giao lưu với nhau, tăng tính cố kết cộng đồng. Mặc dù là những hoạt động thuần
vui chơi, giải trí, thế nhưng trong những hoạt động, ban tổ chức vẫn rất khéo léo đem
vào những nét văn hóa đẹp của dân tộc, giúp cộng đồng người Hoa giữ gìn và phát huy
những nét văn hóa truyền thống của mình. Hoạt động bảo tồn ngôn ngữ của cộng đồng
người Hoa nơi đây cũng được thể hiện thông qua những hoạt động này.
37

*Tục “lên xác Ông Bổn”

Trong quá trình tìm hiểu về các hoạt động bảo tồn ngôn ngữ của cộng đồng người
Hoa nơi đây, nhóm tác giả đã may mắn được tham gia tết Nguyên Tiêu được diễn ra tại
chùa Ông và được tận mắt nhìn thấy tục “lên xác Ông Bổn” diễn ra ở phần lễ của Tết
Thanh Minh. Trong suốt quá trình “lên xác”, người đàn ông được Ông Bổn nhập vào sẽ
vừa đi vừa thực hiện các nghi thức đặc biệt, khi thực hiện các nghi thức đó người được
Ông Bổn mượn xác sẽ nói bằng tiếng Triều Châu cổ, cần phải có các bậc cao niên nghe
hiểu tiếng Triều Châu và am hiểu văn hóa Triều Châu để lắng nghe lời phán truyền của
Ông Bổn. Tuy việc nói tiếng Triều Châu chỉ là một chi tiết rất nhỏ trong hoạt động này
nhưng thông qua nó, chúng ta có thể thấy được rằng cộng đồng người Hoa nơi đây rất
coi trọng ngôn ngữ của mình. Họ tôn trọng ngôn ngữ của cha ông mình và giữ gìn nó
cho đến tận ngày nay.

Hình 21: Tục “lên xác ông Bổn”

(Nguồn: Du Quế Tiên)


38

*Hát Tiều

Hát Tiều hay còn gọi là Triều kịch (潮剧), “là loại hình ca kịch cổ truyền mang
tính tổng hợp của người Triều Châu, tích hợp nhiều loại hình nghệ thuật dân gian, âm
nhạc dân gian (chủ yếu là ban nhạc xã), nhằm làm phong phú thêm cho phương tiện
biểu hiện, truyền thống khai đài bằng những vở diễn mang ý nghĩa chúc tụng, đặc biệt
là trong dịp tết Nguyên Tiêu với màn “Bát tiên chúc thọ”, được đông đảo người Hoa
yêu thích.”12

Hình 22: Hoạt động biểu diễn nghệ thuật hát Tiều vào lễ Nguyên Tiêu được tổ chức
tại chùa Ông Bổn ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng ngày 19/02/2019

(Nguồn: Du Quế Tiên)


Hát Tiều của người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng thường được tổ chức
ở sân chùa Ông hay chùa Bà vào các dịp lễ lớn như tết Nguyên Tiêu, vía Ông, vía Bà,...
Đặc điểm của dàn nhạc Triều Châu là có rất nhiều nhạc cụ gõ gồm trống lớn, trống nhỏ,
phèng la, chập chã, xim bo, đàn tam thập lục,... Dàn nhạc đó gọi là đại la cổ (“la” là phèng
la, chập chã, còn “cổ” là trống), người Hoa quen gọi theo tiếng Triều Châu là Tùa Lồ cố13.
Mỗi lần đến cao trào, các thanh la và trống đánh hết cỡ, làm vang động cả một góc trời,
ở bên ngoài rạp hát và các nhà kế cận đều nghe tiếng. Điều này trái ngược hẳn với dàn

12
Lâm Hoàng Viên, Tín ngưỡng dân gian người Hoa ở Sóc Trăng, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Trung tâm
Văn hóa tỉnh Sóc Trăng, 2017
13
Lâm Hoàng Viên (chủ biên), Tín ngưỡng dân gian người Hoa ở Sóc Trăng, 2017
39

nhạc Quảng Đông, chủ yếu gồm nhạc cụ thổi, như kèn, sáo, tiêu… nên người nghe âm
thanh ò í e rõ hơn tiếng trống.14 Đoàn hát Tiều của cộng đồng người Hoa nơi đây hiện
nay chịu sự quản lý của hội Châu Quang.15

Hình 23: Ban nhạc lễ

(Nguồn: Hồ Minh Quang16)


Trong phần biểu diễn nghệ thuật hát Tiều ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng,
ngôn ngữ sử dụng là tiếng Triều Châu hay còn gọi là tiếng Tiều. Theo những thông tin
nhóm tác giả khảo sát trong ngày tết Nguyên Tiêu diễn ra vào ngày 19/02/2019, cộng
đồng người Hoa nơi đây nói rằng họ rất thích nghe hát Tiều, tuy nhiên lại không hiểu
được nội dung của những bài hát Tiều này. Trong bài phỏng vấn người dân địa phương
của nhóm tác giả vào ngày tết Nguyên Tiêu (diễn ra vào ngày 19/02/2019) tại chùa Ông,
một thầy giáo giảng dạy ngôn ngữ và văn hóa ở trường dân lập Bồi Thanh cho biết từ
ngữ sử dụng trong những bài hát Tiều này thuộc lớp từ văn hóa, không phải ngôn ngữ
sinh hoạt hằng ngày. Đồng thời được thể hiện dưới hình thức hát xướng nên thường nếu
không được tiếp xúc qua văn bản thì sẽ không hiểu. Và theo hiểu tìm hiểu của chúng
tôi, ngôn ngữ được sử dụng trong lời ca của nhạc Tiều là văn ngôn. Văn ngôn là một
dạng văn viết cổ của tiếng Hoa, do đó nó gây ra sự khó khăn nhất định trong việc nghe
hiểu.

14
https://tuoitre.vn/xem-hat-tieu-o-mien-tay-nam-bo-363687.htm
15
Hội Châu Quang là một đoàn thể do cộng đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng tự lập nên, hội
có vai trò giữ gìn, phát huy nghệ thuật và các hoạt động thể dục thể thao của cộng đồng người Hoa nơi đây.
16
Tiến sĩ, trưởng khoa Đông phương học, giảng viên bộ môn Trung Quốc học, trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
40

Theo những thông tin nhóm tác giả tìm hiểu và thu thập được, sở dĩ cộng đồng
người Hoa nơi đây không hiểu được ngôn ngữ trong hát Tiều là do 2 lý do sau:

Ngôn ngữ dân tộc của người Hoa có lịch sử phát triển lâu đời, được sử dụng
trong một phạm vi rộng lớn nên có sự phân hóa thành nhiều hệ phương ngữ khác nhau,
mỗi hệ phương ngữ lại bao gồm nhiều nhánh phương ngữ, mỗi nhánh phương ngữ lại
bao gồm nhiều thổ ngữ. Tuy có cùng hệ thống văn tự là chữ Hán, nhưng giữa các biến
thể ngôn ngữ của tiếng Hán lại có sự khác biệt nhất định trên ba bình diện còn lại (ngữ
pháp, từ vựng, ngữ âm), đặc biệt là bình diện ngữ âm. Chính vì lý do trên, phương ngữ
của tiếng Hoa có đặc điểm là thường không có văn viết, nếu có thì cũng có rất ít người
được học. Điều này làm cho phần lớn những cộng đồng người Hoa có phương ngữ có
thể nói được nhưng lại hạn chế trong việc đọc hiểu chữ Hán bằng phương ngữ. Tiếng
Tiều của cộng đồng người Hoa Triều Châu chính là một trong các loại hình phương ngữ
như vậy. Chỉ một số ít những bậc cao niên trong Cộng đồng là hiểu được nội dung của
những bài hát Tiều và những thành viên còn lại trong cộng đồng phải thông qua sự giải
thích của những bậc cao niên này mới có thể hiểu được.

Hát Tiều là một loại hình nghệ thuật thuộc loại hình hát xướng diễn kịch, ngôn
ngữ được sử dụng chính là văn ngôn (文言文)17. Khi học tập và tìm hiểu về tiếng Hoa
và chữ Hán theo chuẩn ngôn ngữ học, chúng ta đều biết tiếng Hoa có hiện tượng “文白
分家” (Văn bạch phân gia), nghĩa là tiếng Hoa cổ ngày xưa và tiếng Hoa được sử dụng
hiện nay không còn giống nhau. Hiện tượng này đã làm cho văn viết và văn nói không
còn cùng nằm trên một mặt phẳng. Điều này chính là nguyên nhân thứ hai gây ra khó
khăn trong việc có thể nghe hiểu được nội dung của các loại hình biểu diễn nghệ thuật
của Trung Quốc.

Hát Tiều là một loại hình biểu diễn nghệ thuật tiêu biểu của cộng đồng người
Hoa Triều Châu ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng bởi những nét văn hóa truyền thống
được ẩn chứa trong nó. Mặc dù hiện nay cộng đồng người Hoa nơi đây không thể hiểu
được ngôn ngữ mà loại hình nghệ thuật này sử dụng hay nội dung mà nó truyền tải, thế
nhưng họ vẫn cố gắng sử dụng tiếng Tiều trong hát xướng và điều này đã có những

17
Văn ngôn là ngôn ngữ chữ viết ghi lại lời ăn tiếng nói của người Trung Quốc thời Tiên Tần. Ví dụ các tác
phẩm kinh điển như Thi Kinh (詩經), Tứ Thư Ngũ Kinh (四書五經), Hàn Phi Tử (韓非子), Lão Tử (老子),
Trang Tử (莊子), Mặc Tử (墨子) ,Tuân Tử (荀子), Tôn Tư Binh Pháp (孫子兵法)...
41

đóng góp to lớn vào phần gìn giữ ngôn ngữ dân tộc đối với người Hoa tại đây. Đồng
thời, nghệ thuật hát Tiều đã làm cho nét đẹp văn hóa của cộng đồng người Hoa Triều
Châu ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng khác biệt với các nhóm cộng đồng người Hoa
khác, giúp nét đẹp văn hóa của họ vẫn được tiếp tục phát huy và phát triển.

*Trò chơi đố chữ dân gian (燈謎)

Trong phần hội của ngày lễ Nguyên Tiêu được tổ chức tại chùa Ông, ngoài hoạt
động biểu diễn nghệ thuật là hát Tiều thì còn một hoạt động giải trí khác đó chính là trò
chơi đố chữ dân gian. Trò chơi đố chữ dân gian có lẽ đã quá quen thuộc với chúng ta,
trong trò chơi này sẽ có những câu hỏi được đưa ra và các người chơi sẽ nhanh tay thi
đua với nhau trả lời câu đố. Áp dụng hình thức trò chơi dân gian này, cộng đồng người
Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng đã tổ chức hoạt động giải trí cho bà con nhân
dịp lễ Nguyên Tiêu.

Hình 24: Trò chơi đố vui dân gian trong phần hội của tết Nguyên Tiêu tại chùa Ông
Bổn ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng ngày 19/02/2019

(Nguồn: Du Quế Tiên)


Cuộc thi này được tổ thức ngay sau khi tục “lên xác ông Bổn” kết thúc. Bất kỳ
đối tượng nào cũng có thể tham gia kể cả người Kinh và người Khmer. Trong hoạt động
này, sẽ có khoảng từ 40 - 50 câu đố tùy thuộc vào số lượng phần quà của năm đó. Do
tết Nguyên Tiêu là ngày lễ lớn của người Hoa, phần lớn người đến tham gia là người
Hoa, vì vậy một nửa số câu hỏi trong đây sẽ là tiếng Việt và một nửa còn lại sẽ là tiếng
Hoa. Trong quá trình chơi, các câu hỏi sẽ được đọc bằng cả ba thứ tiếng là tiếng Việt,
42

tiếng Tiều và tiếng Hoa phổ thông. Câu hỏi bằng tiếng Việt, đáp án phải được viết bằng
tiếng Việt và những câu hỏi bằng tiếng Hoa cũng như thế. Tất cả những câu hỏi trong
trò chơi đố vui này đều là những câu hỏi đố mẹo, yêu cầu người chơi phải linh hoạt
trong cả tiếng Việt lẫn tiếng Hoa.

Hình 25: Hai MC tiếng Việt và tiếng Hoa đang lần lượt đọc câu hỏi bằng ba thứ tiếng

(Nguồn: Nhóm tác giả)


Những câu hỏi này phần lớn đều là những câu đố mẹo và nó không chỉ gói gọn
trong lớp từ giao tiếp sinh hoạt hằng ngày của cộng đồng người Hoa nơi đây. Lớp từ
của cộng đồng người Hoa nơi đây là chủ yếu là lớp từ dùng trong sinh hoạt hằng ngày,
họ có rất ít cơ hội được tiếp xúc với những lớp từ văn hóa, lớp từ chỉ động vật hay những
từ ngữ chuyên sâu hơn. Chính vì vậy cuộc thi này đã giúp cộng đồng người Hoa nơi đây
có thêm nhiều cơ hội để tiếp xúc và sử dụng những lớp từ ngoài lớp từ sinh hoạt.

Hình 26: Một trong những câu hỏi trong trò chơi đố chữ dân gian

(Nguồn: Nhóm tác giả)


43

Tuy rằng đây là một hoạt động được tổ chức với mục đích chính là vui chơi giải
trí, thế nhưng thông qua hoạt động này có thể thấy được rằng, cộng đồng người Hoa nơi
đây vẫn rất coi trọng việc bảo tồn ngôn ngữ của mình. Chỉ thông qua những câu đố nho
nhỏ đã giúp cho cộng đồng người Hoa có thêm môi trường, thêm không gian sử dụng
ngôn ngữ dân tộc. Như đã trình bày tình hình sử dụng ngôn ngữ của cộng đồng người
Hoa thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng, giới trẻ hiện nay đã không còn ý thức cao trong
việc bảo vệ ngôn ngữ riêng của dân tộc. Đây là một hoạt động vô cùng có ý nghĩa
khuyến khích lớp trẻ trong cộng đồng người Hoa sử dụng ngôn ngữ và chữ viết của
mình. Hoạt động này tuy nhỏ nhưng đã góp phần lớn vào việc bảo tồn ngôn ngữ của
cộng đồng người Hoa nơi đây. Đặc biệt, hoạt động này đã đưa tiếng Tiều có nhiều mục
đích sử dụng hơn mà không chỉ dừng lại ở mức độ giao tiếp.
*Biểu diễn và giao lưu thư pháp
Thư pháp là một nghệ thuật viết chữ có truyền thống lâu đời ở Trung Quốc. Sự
phát triển của nó có quan hệ mật thiết với diễn biến của thể chữ và sự thay đổi của dụng
cụ viết. Về thể chữ, chữ Hán bắt đầu từ chữ Giáp cốt, sau đó dần xuất hiện các kiểu đại
Triện, tiểu Triện, Lệ thư, về sau phát triển cải biến thành loại Khải thư như ngày nay.
Nghệ thuật thư pháp đã xuất hiện và thành thục trong quá trình đó, trở thành một tài sản
quý báu trong kho tàng nghệ thuật Trung Quốc. Thư pháp Trung Quốc thường được thể
hiện trên 5 thể chữ: Triện thư, Lệ thư, Khải thư, Thảo thư và Hành thư. Cũng vì lẽ này
nên các tác phẩm thư pháp vô cùng đa dạng và phong phú.
Viết thư pháp là nét văn hóa vô cùng đặc sắc của người Hoa, nó ẩn chứa nhiều
giá trị và tiểu cộng đồng người Hoa Triều Châu cũng rất yêu thích loại hình nghệ thuật
này. Để tiện cho việc giao lưu, học hỏi thư pháp, cộng đồng người Hoa nơi đây đã thành
lập một câu lạc bộ thư pháp đó là câu lạc bộ thư pháp Châu Quang nằm dưới sự quản
lý của hội Châu Quang. Bất kỳ ai cũng có thể tham gia câu lạc bộ chỉ cần yêu thích việc
viết thư pháp. Tuy nhiên câu lạc bộ lại không có địa điểm và lịch sinh hoạt cố định. Khi
tỉnh Sóc Trăng tổ chức những cuộc thi viết thư pháp giữa các xã, huyện trong tỉnh thì
câu lạc bộ mới tập trung lại và cử người đi giao lưu thi đấu.
Trong ngày lễ Nguyên Tiêu, hội đã phối hợp với ban quản trị chùa Ông Bổn để
tổ chức một cuộc giao lưu viết thư pháp. Bất kỳ đối tượng nào cũng được tham gia, có
thể sử dụng cả chữ Hán và chữ Việt để viết. Hoạt động này diễn ra xuyên suốt phần hội,
không giới hạn số lượng bài viết và các thể chữ được dùng. Câu lạc bộ thư pháp Châu
44

Quang sẽ hỗ trợ giấy, bút, nghiên và mực. Hoạt động này không phải là một cuộc thi
nên đã thu hút rất đông người Hoa trên địa bàn tham gia, tuy nhiên phần lớn là những
bậc cao niên và trung niên. Theo phương pháp quan sát, tham dự của nhóm tác giả, hầu
như không có lớp trẻ trong cộng đồng người Hoa tham gia hoạt động này, họ chỉ đứng
ở ngoài vây xem và thưởng thức các tác phẩm thư pháp của những người lớn tuổi hơn.

Hình 27: Ban tổ chức đang chuẩn bị cho cuộc giao lưu thư pháp trong tết Nguyên
Tiêu được tổ chức tại chùa Ông Bổn ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng

(Nguồn: Nhóm tác giả)


Ngoài chức năng là một hoạt động giao lưu học hỏi cho cộng đồng người Hoa
nơi đây, hoạt động viết thư pháp này đã đóng góp một phần không nhỏ vào việc bảo tồn
ngôn ngữ và chữ viết của họ. Thông qua hoạt động này, người Hoa nơi đây có không
gian để thể hiện tài năng của mình, đồng thời giúp thế hệ trẻ có thể tiếp xúc cự ly gần
với nét đẹp văn hóa truyền thống của ông cha mình. Đa số những người tham gia viết
thư pháp là những người từng học tiếng Hoa, học viết chữ và có sự đầu tư trong việc
chữ viết. Rõ ràng việc viết chữ Hán và viết được thư pháp là này có thể nhìn thấy cộng
đồng người Hoa nơi đây rất coi trọng giáo dục, ý thức bảo tồn tiếng mẹ đẻ trên phương
diện chữ viết vô cùng mạnh mẽ.
45

Hình 28: Giao lưu thư pháp được tổ chức vào tết Nguyên Tiêu tại thị xã Vĩnh Châu,
tỉnh Sóc Trăng ngày 19/02/2019

(Nguồn: Du Quế Tiên)

Hình 29: Các bài thư pháp giao lưu trong tết Nguyên Tiêu

(Nguồn: Nhóm tác giả)


46

Tiểu kết chương 2


Tóm lại, trong chương 2, nhóm tác giả đã mô tả được khả năng bảo tồn ngôn ngữ
của người dân địa phương trên thông qua các loại hình chữ viết trong các hoạt động văn
hóa. Điều này đã khái quát lên được những tiềm năng trong việc bảo tồn ngôn ngữ của
dân tộc người Hoa tại địa phương. Tuy nhiên, việc bảo tồn qua các hoạt động văn hóa
này lại có giới hạn trong việc bảo tồn số lượng chữ viết, do chỉ bảo tồn được một số chữ
thường xuyên xuất hiện trên bàn thờ hay trên các câu đối liễn. Hơn nữa, số lượng người
Hoa hiện nay có thể hiểu rõ phần nghĩa sâu của các chữ viết không nhiều. Nhìn chung,
từ các hoạt động trong đời sống hằng ngày như chọn câu đối liễn dán lên bàn thờ gia
tiên, xin xăm giải quẻ bằng tiếng Hoa hoặc trong các dịp thưởng thức lễ hội lớn có các
hoạt động nhỏ như giải câu đố vui, nghe các ca khúc cổ truyền bằng ngôn ngữ dân tộc,...
thì người Hoa tại tỉnh Vĩnh Châu, Sóc Trăng đã cho thấy tình hình lưu giữ truyền thống,
bảo tồn ngôn ngữ của dân tộc mình vẫn còn khá tốt và không chịu nhiều sự ảnh hưởng
từ những nét văn hóa của các dân tộc khác cùng chung sống tại địa phương này. Thông
qua khía cạnh bảo tồn ngôn ngữ này, ta có thể thấy được ý thức dân tộc và cố kết của
cộng đồng người Hoa nơi đây vô cùng mạnh mẽ. Họ luôn chung tay vào những hoạt
động chung của cộng đồng và cố gắng nâng cao ý thức bảo tồn tiếng mẹ đẻ.
47

CHƯƠNG 3: TÌNH HÌNH BẢO TỒN NGÔN NGỮ TRÊN BÌNH DIỆN
GIÁO DỤC

Giáo dục là một nhân tố quan trọng trong việc hình thành nên một con người.
Giáo dục là yếu tố quan trọng trong việc hoàn thiện bản thân của mỗi cá nhân, đây cũng
là mục tiêu sâu xa của giáo dục; người giáo dục, hay có thể gọi là thế hệ trước, có nghĩa
vụ phải dẫn dắt, chỉ hướng, phải truyền tải lại cho thế hệ sau tất cả những gì có thể nhằm
định hướng cho thế hệ sau trở nên phát triển hơn, hoàn thiện hơn. Và nhờ có giáo dục,
ngôn ngữ của một dân tộc được lưu giữ, truyền lại và phát huy. Cộng đồng người Hoa
ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng cũng thế, họ cũng thông qua giáo dục để bảo tồn
ngôn ngữ của mình.

3.1. Trong gia đình

Cộng đồng người Hoa là cộng đồng có ý thức cao về vấn đề giáo dục cho con
em của mình, nên song song với việc lập nghiệp, họ cũng không quên tạo điều kiện cho
thế hệ sau được học hành, đặc biệt là học tập ngôn ngữ dân tộc. Vì vậy, việc giáo dục
ngôn ngữ tộc người từ trong gia đình là điểm xuất phát vô cùng quan trọng trong việc
giữ gìn được nét văn hóa đặc trưng của tộc người, qua đó làm phong phú thêm bức tranh
đa dân tộc, đa văn hóa của Việt Nam. Thông qua việc tìm hiểu tình hình bảo tồn ngôn
ngữ ở đây, nhóm tác giả đã tiến hành tổng hợp và phân tích những tư liệu, những ý kiến
đã thu thập được từ các hộ người Hoa gốc Triều Châu trên địa bàn thị xã Vĩnh Châu,
tỉnh Sóc Trăng. Từ đó, mô tả một bức tranh toàn cảnh về tình hình bảo tồn ngôn ngữ
dân tộc của cộng đồng người Hoa nơi đây thông qua việc giáo dục trong gia đình.

3.1.1. Hình thức bảo tồn ngôn ngữ

Cộng đồng người Hoa gốc Triều Châu trên địa bàn thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc
Trăng sống tập trung chủ yếu ở khu vực trung tâm của thị xã như chợ, vùng cửa sông
và trên vùng đất giồng ven biển, hình thành nên một “tiểu Triều Châu” ngay trong lòng
tỉnh Sóc Trăng. Hiện nay, cộng đồng người Hoa Triều Châu ở thị xã Vĩnh Châu sống
tập trung thành một khu chợ người Hoa gần chùa Ông Bổn, chủ yếu làm kinh doanh,
buôn bán các nhu yếu phẩm hằng ngày phục vụ cho cuộc sống và các nghề dịch vụ. Bên
cạnh đó, cộng đồng Hoa Triều Châu nơi đây còn cùng với người Khmer, người Kinh
vẫn nối tiếp truyền thống canh tác rẫy trồng hoa màu, chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi
48

trồng thủy sản và sản xuất các nghề thủ công mang tính gia truyền như nấu rượu, chế
tác kim hoàn,…

Mặc dù trong cuộc sống phải tiếp xúc nhiều, phải làm kinh doanh buôn bán với
người Kinh và người Khmer, thế nhưng cộng đồng người Hoa nơi đây rất chú trọng việc
giữ gìn ngôn ngữ riêng của dân tộc mình. Đối với cộng đồng người Hoa nơi đây, việc
bảo tồn ngôn ngữ khá dễ dàng do số lượng người Hoa trên địa bàn rất đông lại còn sống
tập trung thành một khu vực. Ở các thế hệ đầu, khi ý thức tộc người còn tồn tại mãnh
liệt, hiện tượng kết hôn giữa các nhóm Hoa địa phương khác nhau là rất ít. Do đó, phần
lớn các gia đình người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng đều giữ được truyền
thống nói tiếng Tiều trong gia đình. Các gia đình người Hoa nơi đây phần lớn là có từ
ba đến bốn thế hệ cùng chung sống với nhau. Chính vì thế tạo ra rất nhiều điều kiện
thuận lợi cho việc giữ gìn ngôn ngữ. Trong những gia đình này, 100% ông bà lẫn con
cháu đều dùng phương ngữ của mình để giao tiếp với nhau. Vì các thế hệ ông bà có ý
thức tộc người một cách mãnh liệt nên con cháu trong nhà cũng được thừa hưởng tinh
thần này và cũng luôn sử dụng phương ngữ trong đời sống sinh hoạt hằng ngày. Trong
số 58 gia đình mà nhóm tác giả khảo sát, có 9 gia đình (chiếm 15%) bắt buộc cả gia
đình họ phải sử dụng tiếng Tiều, mức độ sử dụng tiếng Tiều giữa những người trong
nhà là 100%. Khi lớp trẻ có xu hướng sử dụng ngôn ngữ khác thì sẽ được người lớn
nhắc nhở, chỉnh đốn, vì người Hoa cho rằng việc giữ gìn duy trì ngôn ngữ cũng là giữ
gìn và duy trì bản sắc văn hóa dân tộc của mình. Đây là hình thức bảo tồn ngôn ngữ mà
hầu hết cộng đồng người Hoa ở đây thực hiện, tuy nhiên không ở mức độ bắt buộc 100%.
Hơn nữa, đa phần người Hoa trên địa bàn đều kinh doanh buôn bán tại nhà và các thế
hệ cùng chung sống trong một hộ nên có nhiều điều kiện thuận lợi để tương tác và giao
tiếp với nhau. Ngay từ lúc còn bé, các bậc phụ huynh đã tập thói quen sử dụng tiếng
Hoa ở nhà và duy trì nó cho con em của mình, để dễ dàng hơn trong việc giáo dục nhận
thức về ý thức tộc người cho các thế hệ con cháu đời sau.
49

Hình 30: Người mẹ nói chuyện với đứa con bằng tiếng Tiều từ bé

(Nguồn: Nhóm tác giả)


Có thể nói rằng, năng lực nghe nói tiếng mẹ đẻ của người Hoa ở thị xã
Vĩnh Châu rất cao, tuy nhiên mức độ sử dụng lại có sự khác biệt qua từng nhóm tuổi.
Theo những thông tin nhận được từ phương pháp điều tra phỏng vấn và điều tra bảng
hỏi của nhóm tác giả, trong 15 bậc cao niên (>60 tuổi) mà nhóm tác giả có cơ hội phỏng
vấn, tất cả họ đều có khả năng nghe hiểu, giao tiếp thuần thục bằng tiếng Tiều. Trong
đó có 12 người còn biết thêm tiếng Hoa Phổ thông được học thông qua trường Phổ
thông cơ sở (PTCS) Dân lập Bồi Thanh, có 8 người nghe nói ở mức trung bình (>50%)
và 4 người nghe nói ở mức yếu (>25%). Về chữ viết, có 9/15 người có thể nhận diện
mặt chữ và viết được, họ đều là những người có tham gia, giữ những chức vụ trong các
hội nhóm của người Hoa ở địa phương và được cộng đồng người Hoa nơi đây kính
trọng. Đối với những người thuộc nhóm tuổi trung niên (>30 tuổi), mức độ sử dụng
tiếng Tiều của họ giảm đi so với thế hệ thứ nhất nhưng họ vẫn giữ được khả năng giao
tiếp ngôn ngữ Tiều do yêu cầu phải dùng tiếng Tiều để giao tiếp với các thành viên còn
lại trong gia đình. Ở thế hệ này, thời lượng sử dụng tiếng Tiều của họ trong giao tiếp
vẫn được duy trì ở mức cao. Trong 25 người thuộc độ tuổi trung niên mà nhóm tác giả
có cơ hội phỏng vấn, 100% đều sử dụng tiếng Tiều khi giao tiếp với người lớn trong gia
đình, tuy nhiên con số này giảm xuống 75% khi giao tiếp với người cùng vai vế và giảm
còn 50% khi giao tiếp với người có vai vế thấp hơn. Trong đó có 11 người biết thêm
tiếng Hoa Phổ thông được học tại trường PTCS Bồi Thanh, có 5 người nghe nói ở mức
trung bình (>50%) và 6 người nghe nói ở mức yếu (>25%). Về chữ viết, có 7/25 người
có thể nhận diện được mặt chữ và viết được, họ cũng đều là những người có tham gia
50

và giữ chức vụ trong các hội nhóm của cộng đồng người Hoa ở địa phương. Đối với lớp
trẻ (<30 tuổi) trong cộng đồng người Hoa hiện nay, tác động từ môi trường sống, các
nhu cầu trong việc giao lưu học tập, đời sống thường nhật và phát triển xã hội đã ảnh
hưởng rất lớn đến việc sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ của nhóm đối tượng này. Trong số các
gia đình mà nhóm tác giả phỏng vấn, có 48/58 gia đình (chiếm 82,7%) vẫn còn duy trì
lệ chỉ nói ngôn ngữ Tiều trong gia đình, còn những khi giao tiếp trong trường học, trong
kinh doanh hoặc trong cộng đồng, họ sẽ ưu tiên sử dụng tiếng Việt. Nhóm tuổi này có
mức độ sử dụng tiếng mẹ đẻ và tiếng Việt là 50:50, họ sẽ sử dụng tiếng mẹ đẻ trong gia
đình, trong cộng đồng người Hoa và sẽ sử dụng tiếng Việt khi ra ngoài xã hội, khi có
nhu cầu giao tiếp với các dân tộc khác. Trong số 18 người thuộc lớp tuổi này mà nhóm
tác phỏng vấn có 12 là giáo viên và học sinh trường Phổ thông cở sở Dân lập Bồi Thanh
nên họ còn biết thêm tiếng Hoa Phổ thông, trình độ nghe nói đọc viết tiếng Hoa Phổ
thông đều ở mức khá (>60%) do được đào tạo chính quy.

Khi xét về khả năng đọc, viết chữ Hán, thì có tới khoảng 42% số người được hỏi
biết đọc, viết chữ Hán với các mức độ biết khác nhau. Những bậc cao niên và trung niên
biết chữ trong cộng đồng người Hoa nơi đây có đọc hiểu được hết những câu đối và bức
hoành trong các cơ sở thờ tự Thiên Hậu Thánh Mẫu (天後聖母) hay Phúc Đức Chánh
Thần (福德正神) của cộng đồng. Ngoài ra, những bậc cao niên và trung niên còn thành
lập câu lạc bộ thư pháp nhằm giao lưu thư pháp, đóng góp một phần vào việc bảo tồn
nét văn học của dân tộc nói chung và chữ viết nói riêng. Song, lớp trẻ chỉ trong cộng
đồng hiện nay có thể nhận diện mặt chữ mà không hiểu được ý nghĩa của các câu đối
và bức hoành này, do chỉ học Bạch thoại (白話文)18 mà không học Văn ngôn (文言
文)19.

Tuy nhiên, cũng có một vài trường hợp đặc biệt xuất hiện, do những tác động
khách quan và chủ quan của môi trường xung quanh như thông hôn với những dân tộc
khác hay do ngôn ngữ chung của xã hội là tiếng Việt, một số gia đình không còn nghiêm
khắc về việc giao tiếp bằng một ngôn ngữ cụ thể nào. Trong 58 gia đình mà nhóm tác
giả khảo sát, có 26 gia đình có quan hệ hôn nhân thông hôn với các dân tộc khác trên
địa bàn như người Kinh và người Khmer. Hiện nay, trong các gia đình này tồn tại hai

18
Bạch thoại (白話文): là văn nói hiện nay của Trung Quốc
19
Văn ngôn (文言文): là văn viết thời Tiên Tần của Trung Quốc
51

tiếng nói là tiếng Tiều và tiếng Việt. Trong những cuộc họp gia đình có người dân tộc
khác, họ sẽ ưu tiên sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp. Trên thực tế, ở những gia đình
thông hôn như thế này, ý thức này đang dần mai một ở lớp trẻ. Dựa theo những thông
tin thu thập được từ phương pháp điều tra phỏng vấn, có 8 trong tổng số hộ gia đình
được khảo sát (chiếm 13,7%) bày tỏ không nhất thiết phải cho con theo học tại trường
do người Hoa trên địa bàn thành lập, không ép buộc con cái phải dùng phương ngữ nên
sử dụng song song tiếng Tiều và tiếng Việt khi giao tiếp trong gia đình. Thêm nữa, có
một vài hộ đã định hướng cho con học cao lên để duy trì nghề nghiệp gia đình nên không
nhất thiết phải học thêm ngôn ngữ. Qua đó, có thể nhận thấy hiện nay việc học tiếng
phương ngữ đã không còn là lựa chọn tuyệt đối của người Hoa gốc Triều Châu trên địa
bàn này.

Hình 31: Đôi chồng Tiều vợ Kinh đang nói chuyện bằng tiếng Việt

(Nguồn: Nhóm tác giả)


Mặc dù hiện nay bắt đầu xuất hiện một số ít những hộ gia đình đã không còn đặt
nặng việc bảo giữ gìn ngôn ngữ dân tộc nhưng nhìn chung đại đa số người Hoa gốc
Triều Châu ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng đều đang cố gắng lưu giữ tiếng mẹ đẻ
của mình. Mỗi một gia đình người Hoa ở đây đều đang nỗ lực duy trì việc sử dụng tiếng
Hoa và khuyến khích con em sử dụng tiếng Hoa trong sinh hoạt gia đình hằng ngày.
Đây chính là tiền đề quan trọng để việc bảo tồn ngôn ngữ dân tộc trong cộng đồng người
Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng trở nên dễ dàng hơn, góp phần gìn giữ và phát
triển các giá trị văn hóa của cộng đồng người Hoa nơi đây.

Người Hoa ở Vĩnh Châu thường chung sống nhiều thế hệ với nhau trong một
nhà. Đồng thời, ý thức cố kết cộng đồng trong họ vẫn còn rất mạnh mẽ. Vì vậy, tạo điều
52

kiện thuận lợi để truyền thừa và duy trì ngôn ngữ của một dân tộc. Bởi việc sử dụng
ngôn ngữ mẹ đẻ trong gia đình không chỉ là thói quen mà còn là quy định của các gia
đình người Hoa. Thói quen không phải sinh ra đã có mà cần được hình thành và duy trì.
Nhờ vậy, tiếng mẹ đẻ trong gia đình người Hoa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Nói cách khác, nhờ những điều này, mà nhóm người Hoa duy trì được phương
ngữ của mình trước quá trình Việt hóa ngày càng mạnh mẽ.

3.1.2. Khó khăn trong việc bảo tồn ngôn ngữ trong gia đình

Theo thời gian, người Hoa cũng không còn quá khắt khe trong quan niệm hôn
nhân, mà cụ thể là đã không còn quá đòi hỏi việc hôn nhân chỉ được thực hiện trong
phạm vi đồng tộc. Nguyên nhân chủ yếu là do sự tác động của thời đại, sự thay đổi trong
quan niệm lẫn môi trường sống đã làm cho thông hôn giữa người Hoa với các dân tộc
khác ngày càng tăng. Điều này đã làm nảy sinh các vấn đề về ngôn ngữ trong giao tiếp
gia đình. Hơn nữa, tiếng Việt mới là ngôn ngữ được toàn dân sử dụng, bắt buộc trong
môi trường giao tiếp ngoài gia đình, người Hoa phải tiếp xúc và sử dụng tiếng Việt, lâu
dần hình thành thói quen sử dụng tiếng Việt song song với phương ngữ của mình. Do
vậy khi giao tiếp trong gia đình, đôi khi sẽ xuất hiện trường hợp hai ngôn ngữ cùng tồn
tại trong một câu nói, sự xuất hiện của tiếng Việt trong gia đình cũng không còn là điều
hiếm thấy nữa. Điều này đã gây khó khăn cho việc gìn giữ ngôn ngữ riêng của cộng
đồng người Hoa, họ sẽ bị mất đi những lớp từ liên quan đến những sinh hoạt hằng ngay
do tiếp xúc nhiều với tiếng Việt và những lớp từ liên quan đến văn hóa do ít tiếp xúc
với những lớp từ này.

Ngoài ra, mục đích học tập tiếng Hoa Phổ thông và chữ Hán của phần lớn lớp trẻ
hiện nay chỉ vì công việc sau này, biết thêm tiếng Hoa phổ thông sẽ có lợi hơn trong
việc tìm kiếm một công việc tốt. Chính vì thế, hiện nay thời gian sử dụng tiếng Tiều của
lớp trẻ trong cộng đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng đã ít lại càng ít
hơn, do phải phân chia với nhiều thứ tiếng khác. Do đó, người Hoa ở đây, đặc biệt là
những người lớn tuổi, có trình độ học vấn, lo lắng thế hệ con cháu họ sau này sẽ không
nói được tiếng mẹ đẻ. Vì thế hệ của họ qua đi thì chẳng còn lại bao nhiêu người biết
tiếng mẹ đẻ.

Việc bảo tồn tiếng mẹ đẻ của cộng đồng người Hoa là vô cùng quan trọng vì đối
với một dân tộc nói chung và cộng đồng người Hoa nói riêng, việc mất đi ngôn ngữ của
53

dân tộc cũng đồng nghĩa với việc mất đi bản sắc văn hóa truyền thống. Không những
vậy ngôn ngữ còn là một trong những phương tiện cơ bản để chuyển tải và tiếp nhận
văn hóa giữa các dân tộc khác nhau, là điều kiện hạn chế việc hòa tan vào các tộc người
khác. Vì vậy, trong ý thức giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống của người Hoa thì
việc giữ gìn ngôn ngữ có ý nghĩa sống còn. Ngôn ngữ còn là đặc điểm để người Hoa
nhận biết lẫn nhau, đồng thời cũng là dấu hiệu để các dân tộc khác nhận diện họ. Nhận
biết được tầm quan trọng của của việc duy trì ngôn ngữ dân tộc, nên bất cứ ở đâu, đặc
biệt là môi trường đắc thụ ngôn ngữ đầu tiên của mỗi con người như gia đình, người
Hoa cũng xây dựng nên hệ thống giáo dục cho con em họ. Sự tồn tại của việc giáo dục
từ trong gia đình đã góp phần không nhỏ vào công tác bảo tồn ngôn ngữ tộc người tại
địa phương. Nhờ vậy, đến nay, ngôn ngữ dân tộc vẫn được người Hoa ở thị xã Vĩnh
Châu, tỉnh Sóc Trăng lưu truyền cho đến các thế hệ sau dù rằng ngôn ngữ xã hội là tiếng
Việt đang chiếm ưu thế.

3.2. Trong trường học

Cộng đồng người Hoa Việt Nam nói chung và cộng đồng người Hoa tại Vĩnh
Châu nói riêng là cộng đồng có ý thức cao về vấn đề bảo tồn ngôn ngữ dân tộc. Vì vậy,
việc giáo dục tiếng Hoa cho mọi thế hệ luôn là nhu cầu thiết yếu của mỗi gia đình, đi
đôi với việc định cư và lập nghiệp. Có thể nói, trong việc học ngôn ngữ dân tộc, môi
trường gia đình là yếu tố quan trọng nhất quyết định khả năng sử dụng ngôn ngữ dân
tộc của thế hệ con cháu. Xếp sau gia đình là môi trường trường học, đây cũng là một
môi trường có đóng góp không nhỏ trong việc tạo điều kiện cho cộng đồng người Hoa
duy trì tiếng mẹ đẻ của mình. Vì vậy, đối với cộng đồng người Hoa thì trường học là
một môi trường giao tiếp quan trọng cần được điều tra để làm rõ tình hình bảo tồn ngôn
của cộng đồng này.

3.2.1. Quá trình duy trì việc giảng dạy ngôn ngữ trong trường học

Người Hoa có tinh thần cố kết cộng đồng cao và luôn đặt yếu tố gia đình lên vị
trí vô cùng quan trọng. Do đó, họ luôn ý thức được tầm quan trọng trong việc duy trì
tiếng nói của dân tộc mình. Cộng đồng người Hoa tại thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng
luôn nỗ lực trong vấn đề duy trì sử dụng tiếng nói và chữ viết của thế hệ cha ông. Đây
cũng là nguyên nhân chủ yếu khiến cho hệ thống trường dạy tiếng Hoa tại địa bàn lần
lượt được thành lập.
54

Tại Vĩnh Châu hiện nay tồn tại 3 ngôi trường dạy tiếng Hoa là trường Tiểu học
Dân lập Tân Hưng, trường Tiểu học dân lập Cảnh Thành và trường PTCS Dân lập Bồi
Thanh. Theo nhóm nhóm tác giả tìm hiểu, trường PTCS Dân lập Bồi Thanh là một nhân
tố quan trọng trong việc góp phần bảo tồn ngôn ngữ dân tộc Hoa vì nơi đây tập trung
đông đảo con em người Hoa theo học cả ba cấp học là mầm non, tiểu học và trung học
cơ sở, ngoài ra trường Bồi Thanh còn tổ chức lớp tiếng Hoa tăng cường cho học sinh
lớp 10 và 11. Do đó ở đây chúng tôi tập trung mô tả quá trình duy trì việc giảng dạy
ngôn ngữ trong trường học song song với quá trình phát triển của trường PTCS Dân lập
Bồi Thanh.20

Sau 93 năm hoạt động thì trường PTCS Dân lập Bồi Thanh đã phải bước qua
nhiều bước ngoặc lớn, nhiều giai đoạn thăng trầm trong quá trình hình thành và phát
triển trường học, cụ thể là:

+ Giai đoạn 1926 – 1975:

Vào năm 1926, người Hoa tại thị xã Vĩnh Châu đã mượn khuôn viên của chùa
Ông Bổn hay còn gọi là Thanh Minh cổ miếu làm nơi dạy học tiếng Hoa. Đến năm 1940,
trường lấy tên là “Trường Tiểu học Công lập Hoa Kiều Quốc Huê” hay gọi tắt là
“Trường Tiểu học Công lập Quốc Huê”.

Do thời gian thành lập nằm trong quãng thời gian diễn ra Chiến tranh thế giới
thứ 2 nên việc dạy học tại trường Tiểu học Công lập Quốc Huê xảy ra nhiều biến cố,
trường Tiểu học Công lập Quốc Huê cũng vì vậy mà ngừng hoạt động trong suốt 3 năm.
Sau khi phục hồi, trường Quốc Huê chuyển sang hệ “nửa công lập nửa tư thục” với giáo
trình giảng dạy bắt đầu đan xen giữa tiếng Việt và tiếng Hoa. Song, tiếng Hoa vẫn được
ưu tiên hàng đầu.

Tuy nhiên, nhà trường lại tiếp tục gặp phải một vấn đề lớn khi chính quyền Ngô
Đình Nhiệm triển khai chính sách “bài Hoa”. Do đó, trường đổi tên từ “Quốc Huê”
thành “Bồi Thanh”. Tuy nhiên, không lâu sau đó thì trường học bị buộc phải ngừng hoạt
động và tịch thu, những chi nhánh khác của trường cũng theo đó mà lần lượt đóng cửa.

Đến năm 1964, thế hệ cha ông người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu tìm mọi cách để
phục dựng lại trường, cộng với việc kêu gọi sự quyên góp từ khắp nơi với mục đích xây

20
Căn cứ theo Kỷ yếu khánh thành trường PTCS Dân lập Bồi Thanh, Vĩnh Châu, 2015.
55

dựng trường học mới từ phía lãnh đạo, thì vào năm 1973, trường mới chính thức được
xây dựng và lấy tên là “Trường Trung học Bồi Thanh”.

+ Giai đoạn 1975 – 1990:

Năm 1975, do đời sống nghề nhà giáo khó khăn, không đủ để đảm bảo nhu cầu
duy trì cuộc sống nên nhiều người bắt đầu tìm công việc khác để mưu sinh. Các trường
dạy tiếng Hoa dần bị nhà nước thu hồi và trưng dụng nên việc dạy tiếng Hoa cũng do
đó mà trở nên hạn chế. Khi chính phủ triển khai chính sách cải cách mở cửa, thu hút
nguồn đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam. Trong đó có nhiều công ty cần lực lượng
nhân công biết tiếng Hoa dồi dào để làm công việc phiên dịch. Vì lý do như thế nên thị
xã Vĩnh Châu đã cho mượn lại trường Trung học Bồi Thanh để mở lớp học tiếng Hoa
vào buổi tối. Nguồn kinh phí để duy trì hoạt động này đến từ phía các thương nhân và
hội đồng hương ở nước ngoài. Học viên theo học trong thời gian này có cả học viên
người Hoa và người Việt. Tuy nhiên, cứ mỗi khi đến lúc các kỳ thi của trường người
Việt được tổ chức hay đến thời gian trả nợ năm, thì số lượng học viên lại giảm quá nửa.
Chính vì nguyên nhân này mà các giáo viên cùng với ban lãnh đạo nhà trường đã bàn
bạc với nhau về việc mở lớp học vào ban ngày. Năm 1990, chủ tịch ban điều hành nhà
trường ông Trần Tín Thành (陳信成) dẫn dắt đoàn đến thành phố Hồ Chí Minh với mục
đích là chiêu mộ sự hỗ trợ về mặt kinh phí cũng như là nguồn nhân lực từ những người
tài.

Giai đoạn 1926 – 1990 là một gia đoạn đầy rẫy biến cố đối với các trường dạy
tiếng Hoa nói chung và trường PTCS Bồi Thanh nói riêng. Trong giai đoạn này, do các
trường liên tục ngừng hoạt động nên dẫn đến một hậu quả là việc bảo tồn ngôn ngữ dân
tộc đối với thế hệ thứ hai và thế hệ thứ ba của cộng đồng người Hoa bị hạn chế về mặt
chữ viết. Cũng vì lẽ đó mà tại thị xã Vĩnh Châu có nhiều người Hoa có khả năng nói
tiếng Hoa tốt, nhưng về phương diện chữ viết thì có nhiều hạn chế nhất định. Đây cũng
là nguyên nhân chủ yếu thúc đẩy cộng đồng người Hoa tại địa phương ra sức hỗ trợ
nhau về vấn đề duy trì ngôn ngữ trong những giai đoạn sau:

+ Giai đoạn 1991 – 2015:

Vào năm 1991, trường Trung học Bồi Thanh chính thức mở lớp với chế độ dạy
học cả ngày, chương trình giảng dạy là chương trình dạy song ngữ Việt – Hoa, số lượng
học sinh người Hoa nhập học tại trường là vô cùng đông đảo. Việc này cũng kéo theo
56

một vấn đề lớn nữa đối với trường Bồi Thanh, đó là số lượng lớp học không đủ để đáp
ứng nhu cầu dạy học. Thế nên nhà trường đã cho xây thêm 4 phòng học tạm giữa sân
bóng rổ để bổ sung vào số lượng phòng học bị thiếu.

Năm 1995, số lượng học sinh tăng lên đến con số 700 em, với số lượng học sinh
quá lớn thì việc chi tiền cho lương bổng cho giáo viên, tiền cơ sở vật chất,... gặp nhiều
rắc rối. Cho đến khi nhận được sự hỗ trợ của một người có tên là Vương Dụ Viêm (陳
裕炎) từ Mỹ trở về và ông Trần Đôi Hiền (陳堆賢) đến từ một doanh nghiệp tại New
Zealand, những vấn đề về kinh phí mới được giải quyết ổn thỏa. Ngoài ra ông Vương
Dụ Viêm còn đặc biệt trao tặng cho những học sinh có thành tích học tập xuất sắc đối
với cả 2 thứ tiếng với tên gọi là “Học bổng Vương Dụ Viêm”. Bên cạnh đó nhà trường
còn nhận được nhiều sự hỗ trợ khác phục vụ cho mục tiêu gia tăng số lượng lớp học tại
trường.

Năm 2001, thầy Triệu Quảng Chương (nay là hiệu trưởng trường PTCS Dân lập
Bồi Thanh) sau khi trở về từ chuyến đi đến TP.HCM để chiêu mộ thêm giáo viên giảng
dạy tại trường thì phát hiện số lượng học sinh từ con số hơn 700 giảm xuống còn khoảng
430 em.21

Đến năm 2004, chính quyền trao trả lại trường Trung học Bồi Thanh rồi xây thêm
5 lớp học mới. Tuy nhiên, Nhà trường vẫn tiếp tục gặp phải vấn đề không đủ phòng học.
Đầu năm 2008, chính quyền lên kế hoạch cải tạo lại ngôi trường, việc xây dựng lại
trường cần tiêu tốn thêm nhiều năm sau đó. Kết quả là đến năm 2015, trường Phổ thông
Dân lập Bồi Thanh chính thức khánh thành.

21
Trích nguồn biên bản phỏng vấn tại trường PTCS Dân lập Bồi Thanh sáng ngày 19/2/2019.
57

Hình 32: Trường PTCS Dân lập Bồi Thanh

(Nguồn: Nhóm tác giả)


+ Giai đoạn từ 2015 – nay:

Sau khi khánh thành ngôi trường Bồi Thanh mới khang trang hơn, nhà trường
nhận được nhiều sự hỗ trợ từ các nhà hảo tâm. Đến năm học 2018 – 2019, tại trường
PTCS Dân lập Bồi Thanh có số lượng học sinh theo học lên đến tận 1269 em. Trong đó,
học sinh người Hoa chiếm 88%, học sinh người Việt chiếm 10%, còn lại là học sinh
Khmer với tỷ lệ 2%.22

Từ năm 1991 đến nay là giai đoạn phát triển mạnh mẽ của quá trình duy trì hoạt
động giảng dạy tiếng Hoa trong trường học. Ý thức cố kết cộng đồng của người Hoa
được thể hiện vô cùng mạnh mẽ trong các hoạt động hỗ trợ các trường dạy tiếng Hoa
nhằm tạo điều kiện tối ưu nhất để con em người Hoa được tiếp xúc với ngôn ngữ dân
tộc. Dù cho hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn, tuy nhiên các hoạt động duy trì
ngôn ngữ dân tộc của người Hoa vẫn đang diễn ra vô cùng bền bỉ và lâu dài.

Ngoài trường PTCS Dân lập Bồi Thanh, trên địa bàn thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc
Trăng còn có 2 trường nữa cũng đóng góp công sức vào việc giảng dạy và gìn giữ tiếng
mẹ đẻ cho cộng đồng người Hoa nơi đây. Đó là trường Tiểu học và Trung học cơ sở
Dân lập Cảnh Thành và trường Tiểu học Dân lập Tân Hưng.

22
Trích nguồn biên bản phỏng vấn tại trường PTCS Dân lập Bồi Thanh sáng ngày 19/2/2019.
58

Trường Tiểu học và Trung học cơ sở Dân lập Cảnh Thành thuộc xã Vĩnh Hải
thành lập vào năm 1945 với chương trình giảng dạy song ngữ Hoa – Việt, đồng thời dạy
tiếng Hoa Phổ thông xen kẽ với các tiết học tiếng Tiều. Giai đoạn 1976, trường được
chuyển giao cho nhà nước quản lí và không tiếp tục chương trình dạy tiếng Hoa Phổ
thông và tiếng Tiều nữa mà chỉ dạy tiếng Việt. Đến khi Hội người Hoa thuộc nhà trường
được hình thành, nhà nước đã tiến hành trao trả trường lại cho hội người Hoa vào năm
1991 và chương trình giảng dạy song ngữ Hoa – Việt được tiếp tục sử dụng cho đến
hiện nay. Trường chiêu sinh cấp tiểu học và mở lớp dạy thêm tiếng Hoa Phổ thông cho
cấp trung học cơ sở. Tổng số học sinh ở học kì đầu năm 2019 là 398 học sinh.23

Trường Tiểu học Dân lập Tân Hưng tọa lạc ngay tại xã Vĩnh Tân, từ khi thành
lập trường thì đã dạy theo chương trình song ngữ Hoa – Việt, giảng dạy tiếng Hoa Phổ
thông song song với tiếng Tiều. Khoảng thời gian khi trường mới thành lập, cơ sở vật
chất của trường khá thiếu thốn. Mãi đến những năm gần đây, nhờ sự giúp đỡ của các
mạnh thường quân, cựu học sinh và Hội người Hoa tại trường, họ đã cùng nhau xây
dựng nên trường Tiểu học Dân lập Tân Hưng ngày nay. Tương tự với trường Bồi Thanh
và Cảnh Thanh, trường cũng từng có thời gian bị ngưng hoạt động và được trao trả lại.
Theo số liệu năm 2019, trường có tổng cộng 156 học sinh và chỉ dạy ở cấp tiểu học.

Hình 33: Trường Tiểu học Dân lập Tân Hưng

(Nguồn: Nhóm tác giả)

23
Trích nguồn biên bản phỏng vấn tại trường Tiểu học và Trung học cơ sở Dân lập Cảnh Thành sáng ngày
22/2/2019.
59

Hình 34: Thông báo chiêu sinh năm học 2018 - 2019 của trường Tiểu học Dân lập
Cảnh Thành

(Nguồn: Nhóm tác giả)


3.2.2. Mô hình tổ chức

Trường PTCS Dân lập Bồi Thanh hiện tại có 2 hiệu trưởng điều hành 2 chương
trình dạy học là tiếng Hoa và tiếng Việt. Về đội ngũ giáo viên, công nhân viên với số
giáo viên dạy tiếng Hoa là 36 người, giáo viên dạy tiếng Việt là 36 người và số lượng
công nhân viên hiện tại là 18 người, tổng cộng biên chế trường Bồi Thanh hiện nay có
tất cả là 90 người. Tuy nhiên, giáo viên giảng dạy tiếng Hoa tại đây đa số là giáo viên
theo hợp đồng được cử từ thành phố đến thị xã Vĩnh Châu giảng dạy và số ít trong đó
có văn bằng hệ Sư phạm. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hiện tượng này là vì thế hệ trẻ
của thị xã Vĩnh Châu hiện nay đa số đều định hướng là sẽ đi làm các công ty nước ngoài
hay kết hôn ở các nước như Đài Loan, Trung Quốc,… vì vậy số lượng giáo viên tốt
nghiệp hệ Sư phạm có gốc gác tại Vĩnh Châu là rất ít. Về phía 2 trường là trường Tiểu
học Dân lập Tân Hưng và trường Tiểu học Dân lập Cảnh Thành, cả 2 đều chỉ có 1 hiệu
trưởng nắm quyền điều hành và có số lượng biên chế ít hơn trường PTCS Bồi Thanh.
Song, cả 3 trường đều gặp phải những vấn đề tương tự. Dù vậy, các trường vẫn luôn nỗ
lực trong việc chiêu mộ thêm lực lượng giáo viên có trình độ giảng dạy để đảm bảo chất
lượng của học sinh.
60

3.2.3. Phương thức giảng dạy, tiêu chuẩn và thành tích của trường

Tại trường PTCS Dân lập Bồi Thanh, sau khi khánh thành trường vào năm 2015
vẫn giữ nguyên chương trình giảng dạy theo chuẩn nhà với những môn tiếng Việt theo
chuẩn nhà nước là những môn học chính, tiếng Hoa Phổ thông chỉ chiếm khoảng 15-16
tiết một tuần. Ngoài ra, các môn tiếng Hoa sẽ thay đổi theo cấp học của học sinh.

Hiện nay, trường hoạt động với chế độ dạy 2 buổi dành cho lớp mẫu giáo cho
đến lớp Trung học Cơ sở và dạy 1 buổi cho lớp tiếng Hoa Phổ thông tăng cường cho
học sinh học lớp 10 và 11, trường không dạy tiếng Hoa cho lớp 12 để các học sinh của
địa bàn tập trung vào việc thi tốt nghiệp cấp Trung học Phổ thông. Chương trình và chế
độ giảng dạy tại các lớp như sau:

Lớp tiểu học lên lớp suốt tuần với chế độ học 2 buổi, số lượng học sinh tiểu học
hiện nay là 526 em, chia thành 13 lớp với chương trình học tiếng Việt theo chuẩn của
Bộ Giáo dục và Đào tạo. Chương trình tiếng Hoa sẽ giảng dạy theo giáo trình Tiếng
Hoa (华语) cũng thuộc Bộ Giáo dục và đào tạo, đồng thời các em còn được dạy tiếng
Tiều song song với tiếng Hoa phổ thông.

Hình 35: Sách 华语 của Bộ Giáo dục và đào tạo

(Nguồn: Nhóm tác giả)


61

Hình 36: Giáo trình tiếng Tiều của trường PTCS Dân lập Bồi Thanh

(Nguồn: Nhóm tác giả)


Lớp trung học Cơ sở cũng tương tự như lớp tiểu học về chế độ học, từ lớp 6 đến
lớp 9 cũng sẽ học 2 buổi, số lượng học sinh hiện tại là 312 em, chia thành 8 lớp với
chương trình học tiếng Việt theo chuẩn của Bộ Giáo dục và đào tạo. Chương trình dạy
tiếng Hoa sẽ giảng dạy theo giáo trình Hán ngữ Boya (博雅汉语) của Nhà xuất bản Đại
học Quốc gia Hà Nội, một vài giáo trình tiếng Hoa riêng của trường. Ngoài ra, chương
trình học tiếng Tiều của các em học sinh sẽ kết thúc vào năm lớp 6.24 Giáo viên nhà
trường chia sẻ rằng chương trình học chính của các em vẫn là tiếng Hoa Phổ thông, nhà
trường dạy tiếng Tiều chỉ để cung cấp kiến thức để các em tự học.25

24
Theo chương trình học tiếng Hoa, cấp Tiểu học sẽ bắt đầu từ lớp 1 và kết thúc vào năm lớp 6.
25
Trích nguồn biên bản phỏng vấn tại trường PTCS Dân lập Bồi Thanh sáng ngày 19/2/2019.
62

Hình 37: Giáo trình Hán ngữ Boya của nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội

(Nguồn: Nhóm tác giả)


Lớp tiếng Hoa tăng cường dành cho học sinh lớp 10 và lớp 11 sẽ được tổ chức
một cách linh hoạt thông qua sự liên hệ của trường PTCS Dân lập Bồi Thanh và trường
Trung học Phổ thông Nguyễn Khuyến nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho các em được tiếp
tục theo học tiếng Hoa. Vì vậy, những lớp tăng cường này sẽ được tổ chức theo chế độ
học 1 buổi. Ví dụ như học sinh lớp 10 tại trường Trung học Phổ Thông Nguyễn Khuyến
học tiếng Việt vào mỗi buổi chiều hàng tuần thì các lớp tăng cường cho học sinh lớp 10
tại Bồi Thanh sẽ được mở vào buổi sáng. Số lượng học sinh theo học lớp tăng cường
tiếng Hoa khá thấp với con số hiện nay là 128 em, chia thành 4 lớp. Giáo trình phục vụ
cho việc học tiếng Phổ thông gồm có giáo trình Hán ngữ Boya (博雅汉语) của Nhà
xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội và một số giáo trình học dịch thuật, học văn học,...
được lưu hành nội bộ trường.
63

Hình 38: Lớp tiếng Hoa nâng cao tại trường PTCS Dân lập Bồi Thanh

(Nguồn: Nhóm tác giả)


Từ khi thành lập trường đến hiện nay, chương trình học tiếng Phổ thông của
trường vẫn luôn đào tạo kỹ lưỡng cả bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết cùng các hình
thức kiểm tra, thi cử thường xuyên. Trước đây, tại trường Bồi Thanh còn có chương
trình giảng dạy “chữ phồn thể” theo giáo trình của Đài Loan, nhưng hiện nay chủ yếu
chỉ dạy chương trình “chữ giản thể” 26. Sách vở, dụng cụ học tập (sách Tiếng Hoa của
Bộ Giáo dục và Đào tạo, bút lông học thư pháp,...) tại trường đa số đều được đầu tư mua
về từ thành phố (thường là nhà sách Bồi Trí Hãng, Quận 5, TPHCM). Tiêu chuẩn đạt
được của một học sinh sau khi hoàn thành chương trình học tại đây là chứng chỉ quốc
gia tiếng Hoa A, B, C. Các học sinh đủ điều kiện sẽ thông qua trường để đăng kí dự thi
các tín chỉ, nhà trường sẽ hợp tác cũng đội ngũ giáo viên tại Thành phố (thông qua sự
hỗ trợ từ trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP.HCM, trường Đại học Khoa học xã hội
và Nhân văn TP.HCM).27

Trường PTCS Dân lập Bồi Thanh luôn ý thức nhắc nhở học sinh của trường sử
dụng tối đa tiếng Hoa Phổ thông, chế độ thưởng phạt tùy thuộc vào giáo viên mỗi lớp.
Khi giao tiếp với nhau, giáo viên và học sinh sẽ ưu tiên sử dụng tiếng Hoa Phổ thông.
Đối với các em học sinh học tiểu học, giáo viên sẽ dùng thêm tiếng Tiều hay tiếng Việt

26
“Chữ phồn thể” và “chữ giản thể”: chữ có phần âm và phần nghĩa giống nhau, chữ nhiều nét gọi là “chữ phồn
thể”, chữ ít nét gọi là “chữ giản thể”. — Trần A Bảo (chủ biên), Khái luận tiếng Hán hiện đại, NXB Đại học
Ngôn ngữ và Văn hóa Bắc Kinh, 2002, tr. 79. (《现代汉语概论》,陈阿宝主编,北京语言文化大学出版
社,2002。)
27
Trích nguồn biên bản phỏng vấn tại trường PTCS Dân lập Bồi Thanh sáng ngày 19/2/2019.
64

tùy trường hợp, nhưng cố gắng hạn chế sử dụng tiếng Việt tối đa nhất có thể. Giáo trình
được Bồi Thanh lựa chọn để phục vụ cho công tác giảng dạy cũng hoàn toàn được biên
soạn bằng Hán tự, trừ giáo trình Hán Ngữ Boya xuất hiện cả chữ Hán và chữ Việt. Song,
giáo viên vẫn giảng dạy theo chủ trương hạn chế tiếng Việt, đẩy mạnh giảng dạy bằng
tiếng Hoa Phổ thông với mục đích là tạo ra một môi trường hoàn toàn tiếng Trung để
nâng cao trình độ học sinh.

Mỗi buổi học, vì phải cân bằng với thời gian chương trình học tiếng Việt chuẩn
nhằm phục vụ cho việc các em đều hợp cách tốt nghiệp Trung học Phổ thông nên việc
học tiếng Hoa bị hạn chế về mặt thời gian. Chính vì nguyên nhân này nên nhà trường
không đủ thời gian để dạy sâu vào từng kĩ năng, do đó, trình độ tiếng Hoa Phổ thông
của các em cũng chỉ đạt được mức trung bình là đọc được, viết được, nghe được và nói
thì chỉ mới dừng ở mức căn bản. Còn về các em học sinh Tiểu học, vì đây là độ tuổi tiếp
thu kiến thức tốt nhất nên giáo viên rất cố gắng dạy các em học tốt về mặt phát âm và
viết chữ, giai đoạn dạy học này vô cùng quan trọng và không thể nào không gặp phải
những khó khăn nhất định. Nhất là khi các em còn phải học chương trình tiếng Việt,
tiếng Tiều và tiếng Hoa Phổ thông trong cùng 1 giai đoạn nên việc sử dụng lẫn lộn các
ngôn ngữ ở đối tượng học sinh này là một điều hiển nhiên. Song, chương trình học và
phương pháp giảng dạy chỉ là nguyên nhân thứ yếu, chủ yếu vẫn là do môi trường, ngôn
ngữ cộng đồng tác động lên khả năng sử dụng ngôn ngữ dân tộc của các em học sinh,
đồng thời còn phải suy xét đến một vấn đề là khả năng tiếp thu của mỗi học sinh không
giống nhau. Ý thức được vấn đề này, đội ngũ giáo viên tại trường không quá đặt nặng
vấn đề hình thức đối với học sinh của mình, chỉ cần các em nắm rõ được những kiến
thức cơ bản cần thiết về 4 kĩ năng nghe, nói, đọc và viết tiếng Hoa Phổ thông, không
làm các em bị “ngộp” kiến thức trong môi trường đa ngôn ngữ tại địa phương, tạo tiền
đề cho tương lai của các em học sinh sau này.

Ngoài ra, Nhà trường còn tổ chức nhiều hoạt động ngoại khóa dành riêng cho
học sinh. Nhằm tạo ra sân chơi bổ ích cho học sinh, các hoạt động được tổ chức vô cùng
phong phú và đa dạng, ví dụ như thi viết thư pháp, thi hùng biện, các hoạt động văn
nghệ,... Các hoạt động đều hướng đến việc tạo ra môi trường tốt nhất cho học sinh toàn
trường được tiếp xúc với tiếng Hoa, từ đó nâng cao trình độ tiếng Hoa Phổ thông cho
các em học sinh. Qua đó, ta thấy được sự vận hành của các trường dạy tiếng Hoa có một
65

vị trí vô cùng quan trọng trong việc thực hiện bảo tồn ngôn ngữ dân tộc đối với thế hệ
trẻ của cộng đồng người Hoa tại thị xã Vĩnh Châu.

Hình 39: Hoạt động văn nghệ tại trường

(Nguồn: Kỷ yếu khánh thành trường PTCS Dân lập Bồi Thanh, Vĩnh Châu, 2015)

So sánh với 2 trường người Hoa còn lại là trường Tiểu học Dân lập Tân Hưng và
trường Tiểu học Dân lập Cảnh Thành thì chương trình đào tạo ở Bồi Thanh phong phú
hơn cả. Về trường Tiểu học Dân lập Tân Hưng, vì trường chỉ dạy chương trình tiểu học
nên giáo trình chính của trường là sách 华语 của bộ Giáo dục và Đào tạo và trường chỉ
tổ chức kiểm tra, thi khảo sát trình độ với qui mô cấp trường. Còn về trường Tiểu học
Dân lập Cảnh Thành, giáo trình cấp tiểu học cũng tương tự như trường Bồi Thanh và
Tân Hưng, nhưng về giáo trình tiếng Hoa cấp trung học thì nhà trường sử dụng giáo
trình lưu hành nội bộ, còn về khảo sát trình độ, ngoài tổ chức kiểm tra và thi ở qui mô
trường học thì nhà trường còn tổ chức thi tín chỉ tiếng Hán quốc gia A, B, C.
66

Hình 40: Lớp học tại trường Tiểu học Dân lập Cảnh Thành

(Nguồn: Nhóm tác giả)

Hình 41: Lớp học tại trường Tiểu học Dân lập Tân Hưng

(Nguồn: Nhóm tác giả)


67

Hình 42: Thời khóa biểu lớp 6 của trường PTCS Dân lập Bồi Thanh

(Nguồn: Nhóm tác giả)


3.2.4. Chi phí duy trì, nguồn bảo trợ và các hoạt động của nhà trường

Người Hoa với tinh thần cố kết dân tộc cao của cộng đồng này nên ý thức duy
trì ngôn ngữ tại địa bàn này cũng vô cùng mạnh mẽ. Mặc dù cuộc sống người Hoa tại
xen lẫn với nếp sinh hoạt của người Việt và người Khmer, tuy nhiên sự hỗ trợ từ 2 cộng
đồng dân tộc này là không quá thường xuyên trong vấn đề bảo tồn ngôn ngữ dân tộc
Hoa.

Từ khi Bồi Thanh còn được gọi với cái tên là Quốc Huê thì phần lớn nguồn hỗ
trợ từ người Hoa bản xứ trong việc xây dựng trường học, phục dựng lại trường khi
trường chịu sự phá hoại to lớn của chiến tranh. Theo dòng chảy của thời gian, xuyên
suốt quá trình hình thành và phát triển của trường PTCS Dân lập Bồi Thanh luôn nhận
được sự hỗ trợ mạnh mẽ từ cộng động người Hoa trong và ngoài nước, trong đó có
những nhà tài trợ điển hình như hội Cha mẹ học sinh Vĩnh Châu Sóc Trăng, hội Đồng
hương Vĩnh Châu trong và ngoài nước, công ty cổ phần Tập đoàn Vạn Thịnh Phát Quận
1 TP.HCM, cộng đồng người Hoa ở địa bàn Sóc Trăng và hội đồng hương ở hải ngoại
(Mỹ, Đài Loan, Trung Quốc...)... Vì sự nghiệp giáo dục ngôn ngữ dân tộc đối với con
em người Hoa, hội Cha mẹ học sinh và ban lãnh đạo nhà trường “đã hoàn thành thủ tục
xây dựng cơ sở mới với 3.789m2 đất và đã tiến hành thi công từ ngày 08/09/2013, nay
đã hoàn công và đưa vào giảng dạy vầo năm học 2015 – 2016 với kinh phí lên đến 24
tỷ đồng bằng sự nỗ lực vận động của những con người tâm huyết với sự nghiệp GD đã
tổ chức thành tổ, nhóm trực tiếp vận động đến các nhà hảo tâm, các mạnh thường quân ,
68

các cơ quan xí nghiệp, các cựu học sinh... trong và ngoài nước.”28 Ngoài ra, trường còn
nhận được sự hỗ trợ về phương diện cơ sở vật chất phục vụ cho việc dạy và học của sở
Giáo dục và Đào tạo Sóc Trăng khi nhà trường rơi vào tình cảnh thiếu hụt trang thiết bị
dạy học, phòng học... “Sở GD&ĐT Sóc Trăng đã đề xuất đến UBND tỉnh hỗ trợ cho
trường trang thiết bị phục vụ giảng dạy như bàn ghế, học sinh, giáo viên, bảng chống
lóa, máy tính để bàn tổng giá trị gần 01 tỷ đồng.”29 Tuy vậy, theo điều tra của chúng
tôi tại trường PTCS Dân lập Bồi Thanh, hiện nay chính quyền chính quyền địa phương
không hỗ trợ nhiều về chính sách hay kinh phí hoạt động trường mà chỉ hỗ trợ chi phí
học tập cho học sinh trường Bồi Thanh như những chính sách trao học bổng, hỗ trợ bảo
hiểm y tế miễn phí,...

Một nhân tố quan trọng trong công tác bảo trợ hoạt đồng của nhà trường không
thể không nhắc đến chính là công ty cổ phần Tập đoàn Vạn Thịnh Phát. Tập đoàn Vạn
Thịnh Phát (VTP Group). Vào năm 2017, Vạn Thịnh Phát đã xây tặng cho nhà trường
thư viện Vạn Thịnh Phát với kinh phí lên tới 1,7 tỷ đồng thông qua sự kêu gọi hỗ trợ
trực tiếp từ phía nhà trường. Vào năm 2018, tập đoàn còn hỗ trợ chi phí học tập cho học
sinh theo học tại trường với số tiền là 100 triệu đồng một năm. Mục đích là tạo điều
kiện học tập tốt nhất cho con em người Hoa tại địa bàn.

Hình 43: Thư viện do tập đoàn Vạn Thịnh Phát tài trợ cho trường Bồi Thanh

(Nguồn: Nhóm tác giả)

28
Kỷ yếu khánh thành trường PTCS Dân lập Bồi Thanh, Vĩnh Châu, 2015, tr.17.
29
Kỷ yếu khánh thành trường PTCS Dân lập Bồi Thanh, Vĩnh Châu, 2015, tr.18.
69

Ngoài những hoạt động hỗ trợ từ những đơn vị kể trên, trường PTCS Bồi Thanh
còn nhận được sự giúp sức từ tịnh xá Ngọc Châu Như. Tịnh xá Ngọc Châu Như là một
đơn vị quan trọng trong việc bảo trợ nền giáo dục và cuộc sống người dân tại địa bàn.
Với chủ trương cưu mang tất cả những người có đời sống khó khăn, nên đối tượng nhận
được sự hỗ trợ của tịnh xá là không cố định. Tuy nhiên, tịnh xá Ngọc Châu Như không
trực tiếp đứng ra hỗ trợ chi phí sinh hoạt, học tập cho người dân Vĩnh Châu mà thông
qua các mạnh thường quân từ khắp nơi có lòng hảo tâm muốn đóng góp cho thị xã. Đối
với riêng trường PTCS Dân lập Bồi Thanh, tịnh xá đảm nhiệm việc nhận tiền hỗ trợ từ
các cộng đồng, các mạnh thường quân người Hoa, khách vãng lai qua thị xã Vĩnh Châu
có ý muốn hỗ trợ nhà trường. Thời gian và số tiền hỗ trợ không cố định và chỉ tiến hành
hỗ trợ khi nhà trường có nhu cầu.

Bên cạnh đó, về phía nhà trường cũng thực hiện chính trợ hỗ trợ những em học
sinh có điều kiện khó khăn nhưng hiếu học. Vào năm học 2018 – 2019, nhà trường tiến
hành chính sách giảm nửa phí30 cho 374 em bao gồm học sinh nghèo, con công nhân
viên và giáo viên của trường, chiếm 27,1% số học sinh đang học tập tại trường với tổng
giá trị là 405.750.000 triệu đồng. Ngoài ra trường còn triển khai miễn giảm 100% cho
62 em học sinh hoàn toàn không đủ khả năng đi học, con số này chiếm 4,89% tổng học
sinh toàn trường, tổng giá trị lên đến 134.800.000 triệu đồng. (số liệu bao gồm cả học
sinh người Hoa, người Việt và người Khmer đang theo học tiếng Hoa Phổ thông tại
trường) Tổng số tiền thâm hụt cho chính sách này là 540.550.000 triệu đồng. Đồng thời
mỗi học kì, trường còn trích một số tiền hỗ trợ từ phía mạnh thường quân để khen
thưởng cho học sinh học giỏi cả 2 chương trình tiếng Việt và tiếng Hoa Phổ thông với
giá trị mỗi phần học bổng là 1.000.000 đồng. Mặc dù đã cố gắng hết sức trong việc hỗ
trợ cho con em địa bàn theo học tại trường nói chung và con em người Hoa nói riêng,
phía nhà trường vẫn gặp phải trường hợp “bùng” tiền học phí. Tuy nhiên, để khuyến
khích học sinh tiếp tục theo học tại trường, ban lãnh đạo nhà trường không truy cứu về
vấn đề này. Kết quả là trong năm học 2018 – 2019, nhà trường thống kê được số tiền
hao hụt trong năm rơi vào khoảng 436.000.000 đồng. Mục đích của chính sách này là
để tạo điều kiện đi học chương trình tiếng Việt chính qui và khuyến khích thế hệ trẻ của
thị xã Vĩnh Châu theo học chương trình tiếng Hoa Phổ thông của nhà trường.31

30
Giảm nửa phí: nhà trường không thu học phí mà chỉ thu tạp phí.
31
Trích nguồn biên bản phỏng vấn tại trường PTCS Dân lập Bồi Thanh sáng ngày 19/2/2019.
70

May mắn hơn, theo ban lãnh đạo của 3 trường tiếng Hoa trong địa bàn là Cảnh
Thành, Tân Hưng hay Bồi Thanh đều chia sẻ rằng trong những năm gần đây, nhiều
trường Đại học từ Đài Loan, Trung Quốc đã đến địa phương và bàn bạc về việc liên kết
với nhau trong việc hỗ trợ việc học và việc làm của học sinh học tiếng Hoa tại Vĩnh
Châu. Điều này tạo nên một tiền đề rất lớn trong việc phát triển tiếng Hoa tại thị xã Vĩnh
Châu.

Nói thêm về thực trạng của 2 trường còn lại. Về phía 2 trường Tiểu học Dân lập
là Tân Hưng và Cảnh Thành, tuy cũng nhận được sự hỗ trợ của cộng đồng người Hoa
và chính quyền địa phương, nhưng vì sự khó khăn về địa bàn cư trú, vị trí địa lý nên các
chương trình hỗ trợ học sinh không phong phú như trường PTCS Dân lập Bồi Thanh.
Về trường Tiểu học Dân lập Cảnh Thành, do kinh phí eo hẹp nên nhà trường chỉ miễn
giảm cho học sinh theo học tối đa là 50%. Còn về trường Tiểu học Dân lập Tân Hưng
thì có chính sách không thu học phí, chỉ thu tạp phí.

Hình 44: Hội đồng hương Vĩnh Châu - lan tỏa hoạt động vì an sinh xã hội

(Nguồn: http://soctrangtv.vn/t/hoi-dong-huong-vinh-chau-lan-toa-hoat-dong-vi-an-
sinh-xa-hoi)
71

Hình 45: Logo công ty cổ phần Tập đoàn Vạn Thịnh Phát
(Nguồn: https://vtpgroup.com.vn)

Hình 46: Tịnh xá Ngọc Châu Như

(Nguồn: Nhóm tác giả)


3.2.5. Những khó khăn của việc bảo tồn ngôn ngữ trong giáo dục trường học

Vì nhu cầu tiếng Hoa của người dân thị xã Vĩnh Châu ngày càng đông đảo, nên
trường liên tục gặp phải vấn đề thiếu hụt nhân lực và cơ sở vật chất. Việc chiêu mộ thêm
đội ngũ giáo viên hay trang bị thêm trang thiết bị dạy học, xây dựng thêm lớp học sẽ
tiêu tốn nhiều kinh phí của trường. Đây cũng là vấn đề vô cùng nhức nhối đối với ban
lãnh đạo nhà trường hiện tại.

Mặc dù các trường dạy tiếng Hoa đã vô cùng nỗ lực trong vấn đề giảng dạy tiếng
Hoa Phổ thông và bảo tồn ngôn ngữ dân tộc. Trên thực tế về phía nhà trường vẫn chưa
thực sự tạo ra một môi trường tối ưu trong việc vận dụng tiếng Hoa Phổ thông. Nguyên
nhân chủ yếu là do sự tác động của ngôn ngữ xã hội hiện tại – tiếng Việt, kéo theo hiện
tượng do không có nhiều cơ hội sử dụng kiến thức được học nên nhiều học sinh của
trường có khả năng viết và nói chỉ đạt mức trung bình. Đồng thời trình độ đọc hiểu của
thế hệ thứ 3 trở đi của cộng đồng người Hoa Vĩnh Châu, Sóc Trăng chỉ dừng lại ở trình
72

độ đọc hiểu và nghe hiểu văn bạch thoại. Lí do là vì nhà trường bị hạn chế về thời lượng
và số lượng bài giảng liên quan đến cổ văn (tiếng Hán cổ đại) nhằm cân bằng thời gian
với chương trình dạy tiếng Việt chính qui. Vì vậy, tại cộng đồng người Hoa xuất hiện
hiện tượng có người viết được chữ Hán, nhưng sau khi viết xong một câu hoàn chỉnh
thì không hiểu ý nghĩa của câu đó. (câu đối trước cổng chùa, đối liễn,...)

Một khó khăn khác liên quan về ý thức trong việc học tiếng Hoa Phổ thông là
xuất hiện hiện tượng nhiều học sinh đột ngột ngừng việc học tiếng Hoa tại trường, dù
vậy trường hợp này chỉ chiếm thiểu số trong tổng số học sinh học tiếng Hoa tại trường.
Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này có thể là do yếu tố gia đình, có thể là do học sinh
không còn muốn theo học tiếng Hoa Phổ thông nữa, cũng có thể là do sự áp lực từ
chương trình học. Ngoài ra, còn có trường hợp nhiều gia đình người Hoa không cho con
em theo học trường tiếng Hoa do học phí quá cao so với thu nhập. Về phía nhà trường,
trường PTCS Bồi Thanh ngoài việc cố gắng hết sức khuyến khích con em người Hoa
học ngôn ngữ của dân tộc thì chưa có biện pháp cụ thể để xử lý những trường hợp này,
nguyên nhân chủ yếu là do nhà trường không bắt buộc học sinh phải học tiếng Hoa Phổ
thông.

Về tiêu chuẩn năng lực tiếng Hoa của học sinh trong địa bàn, trường PTCS Dân
lập Bồi Thanh đã từng suy xét đến việc tổ chức thi chứng chỉ HSK – chứng chỉ Hán
Ngữ quốc tế, viết tắt của cụm từ Hanyu Shuiping Kaoshi (汉语水平考试) do Văn Phòng
Hán Ngữ Trung Quốc tổ chức thi và cấp bằng, là kỳ thi kiểm tra trình độ ngôn ngữ tiếng
Hoa của người học, có giá trị quốc tế và thời hạn của chứng chỉ là 2 năm kể từ ngày
cấp.32 Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân mà chủ yếu là do vị trí địa lý của thị xã Vĩnh
Châu nên Nhà trường chỉ có thể kết hợp với các trường Đại học ở Thành phố tổ chức
thi chứng chỉ Hán ngữ cấp quốc gia A, B, C cho các em học sinh tại đây.

Suy cho cùng, tuy phải đối mặt phải nhiều khó khăn nhưng về phía nhà trường
đã hoàn thành tốt nhiệm vụ duy trì khả năng nghe, nói, đọc, viết tiếng Hoa Phổ Thông
của thế hệ trẻ cộng đồng người Hoa Vĩnh Châu, thể hiện được giá trị của việc duy trì
ngôn ngữ dân tộc. Tuy rằng các trường dạy tiếng Hoa ở khu vực thị xã Vĩnh Châu, Sóc
Trăng trong quá trình hình thành và phát triển đã không ít lần gặp phải tình trạng đóng
cửa, thiếu kinh phí về mọi mặt. Nhưng mối liên hệ của các trường đối với cộng đồng

32
https://hoavanshz.com/tin-tuc-tieng-hoa-shz/nhung-dieu-can-biet-ve-chung-chi-hsk.html
73

người hoa không chỉ vỏn vẹn trong không gian thị xã Vĩnh Châu mà còn ở các khu vực
khác. Trên thực tế, nhờ vào khả năng làm ăn, kinh doanh của người Hoa nên nguồn kinh
phí hỗ trợ trợ trường là rất nhiều. Cộng đồng người Hoa gốc Vĩnh Châu cả ở trong nước
và ngoài nước đã, đang và sẽ tìm cách để duy trì hoạt động giảng dạy của trường. Những
thành viên của cộng đồng người Hoa này ý thức được về trách nhiệm của mình là phải
nỗ lực gắn bó với nhau, góp sức duy trì bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc và đặc
biệt là về phương diện ngôn ngữ. Từ đây, có thể thấy được mối quan hệ “mật thiết” của
thị xã Vĩnh Châu và cộng đồng người Hoa khắp nơi, đây là nơi đoàn kết cộng đồng
người Hoa này lại với nhau với cùng chung một mục đích chung là bảo tồn ngôn ngữ tổ
tiên.

Tiểu kết chương 3

Có thể thấy việc bảo tồn ngôn ngữ dân tộc của người Hoa tại thị xã Vĩnh Châu
tỉnh Sóc Trăng chịu tác động to lớn đến từ phương diện giáo dục mà cụ thể là giáo dục
trong gia đình và giáo dục tại nhà trường. Từ xuất phát điểm là gia đình, họ đã được rèn
luyện tiếng nói dân tộc, rèn luyện ý thức bảo vệ tiếng mẹ đẻ của mình, họ được khuyên
dạy về giá trị ngôn ngữ của dân tộc mình, từ đó trong mỗi người Hoa tại địa bàn này,
họ biết được rằng ngôn ngữ dân tộc là một điều quý báu cần được gìn giữ và bảo tồn.
Khi lớn hơn thì họ sẽ tiếp xúc với một môi trường giáo dục mới, đó là nhà trường. Nhà
trường đóng vai trò quan trọng trong việc nuôi dưỡng ý thức và kiến thức về ngôn ngữ
dân tộc, người Hoa họ sớm hiểu được muốn gìn giữ được tiếng nói và chữ viết của dân
tộc thì bắt buộc phải trải qua con đường học vấn. Bên cạnh các trường công lập, ở Vĩnh
Châu họ còn xây dựng nên các trường dân lập mà trong đó con cháu họ hoặc chính bản
thân họ đã và đang theo học. Ngoài học những bộ môn cơ bản trong chương trình phổ
thông thì ở các trường này, học sinh sẽ được bổ sung kiến thức về tiếng Hoa, về cả chữ
viết và tiếng nói. Người Hoa hi vọng con cháu họ sẽ gìn giữ và phát triển được ngôn
ngữ của dân tộc mình nhờ vào môi trường giáo dục chuyên nghiệp ở nhà trường. Hơn
nữa, nhờ có phương diện giáo dục kết hợp với tính cố kết cộng đồng chặt chẽ của người
Hoa, khi rời quê hương họ sẽ cùng nhau xây dựng một hội nhóm đoàn thể ủng hộ, giúp
đỡ cho thế hệ về sau có điều kiện tiếp xúc với nền giáo dục một cách tốt nhất nhằm đảm
bảo việc duy trì và gìn giữ ngôn ngữ dân tộc được bảo tồn và phát huy một cách mạnh
mẽ nhất.
74

KẾT LUẬN
Ngôn ngữ là một yếu tố quan trọng khi tìm hiểu về một cộng đồng người và nền
văn hóa của họ. Ngôn ngữ là một sợi dây liên kết chủ yếu những giá trị truyền thống,
những nét văn hóa lâu đời của dân tộc Hoa và trên hết là sự nhắc nhở các thế hệ sau của
cộng đồng người Hoa nơi đây về gốc gác, cội nguồn dân tộc. Vì vậy, việc nghiên cứu
về những hoạt động bảo tồn ngôn ngữ của cộng đồng này rất có ý nghĩa trong việc bảo
tồn ngôn ngữ dân tộc.

Cộng đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng bảo tồn được tiếng mẹ
đẻ của mình trên cả hai phương diện chữ viết và tiếng nói. Người Hoa nơi đây luôn cố
gắng tận dụng mọi không gian, thời gian để có thể sử dụng chữ Hán. Tuy nhiên, vì việc
bảo tồn chữ viết của họ còn tồn tại những khó khăn nhất định nên việc bảo tồn chỉ dừng
lại ở việc nhận biết mặt chữ mà không hiểu rõ ý nghĩa đằng sau mỗi chữ này. Đồng thời,
lớp từ được bảo tồn cũng chỉ dừng lại ở lớp từ liên quan đến thờ cúng, thể hiện ước
mong và sinh hoạt hằng ngày.

Việc bảo tồn tiếng nói của cộng đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc
Trăng được bảo tồn mạnh mẽ hơn so với chữ viết. Tiếng nói xuất hiện ở mọi lúc, mọi
nơi, mọi thời điểm và trên các phương diện trong đời sống của cộng đồng người Hoa.
Người Hoa nơi đây hiểu rõ ràng sự cần thiết trong việc duy trì tiếng mẹ đẻ, vì chỉ khi
còn tiếng mẹ đẻ thì những nét văn hóa truyền thống, những nét đặc trưng riêng của họ
mới được gìn giữ và truyền lại cho các thế hệ sau. Tuy nhiên, hiện nay ở lớp trẻ, ý thức
bảo tồn tiếng mẹ đẻ đã không còn mạnh mẽ nữa. Từ thế hệ thứ ba trở đi, do quá trình
thông hôn diễn ra mạnh mẽ và việc sử dụng tiếng Việt trong các giao tiếp ngoài gia đình
tăng lên, trong các gia đình người Hoa đã xuất hiện hiện tượng song ngữ Việt – Hoa.
Hiện tượng bố mẹ nói tiếng Tiều, con cháu trả lời bằng tiếng Việt đang ngày càng nhiều
hơn.

Ngoài ra, do hệ thống ngữ âm của tiếng Tiều chịu nhiều sự tác động của ngôn
ngữ môi trường là tiếng Việt và tiếng Khmer. Nên tiếng Triều Châu ở đây hoàn thành
tốt chức năng giao tiếp xã hội, còn về quy chuẩn ngôn ngữ trong giáo dục chuyên nghiệp
thì chưa được thật sự chú ý.

Mặt khác, sự cố kết của cộng đồng người Hoa nơi đây rất mạnh mẽ. Họ kết nối
được hội đồng hương ở khắp các nước trên thế giới. Cộng đồng người Hoa nơi đây có
75

được một sự hậu thuẫn to lớn từ những người thành đạt trong cộng đồng, điều này giúp
cho họ duy trì trường học một cách mạnh mẽ. Trường học còn, nghĩa là mạch sống của
ngôn ngữ vẫn còn tồn tại. Vì thế, nhìn chung, quá trình bảo tồn ngôn ngữ dân tộc của
cộng đồng người Hoa ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng vẫn còn diễn ra vô cùng tích
cực.

Song, nội dung của bài nghiên cứu còn nhiều thiếu sót và chưa hoàn thiện, chẳng
hạn như việc khảo sát chưa được thực hiện với số lượng lớn, thao tác thu thập dữ liệu
của chúng tôi còn non kém nên các con số thống kê chưa mang tính khái quát cao, chưa
thể bao quát mọi trường hợp. Một vài phương diện và về vấn đề bảo tồn chữ viết và
tiếng nói vẫn chưa được khai thác triệt để. Thông qua bài nghiên cứu, các thành viên đã
tích lũy được những kinh nghiệm trong việc thực hiện nghiên cứu khoa học. Nhóm tác
giả mong rằng sẽ có cơ hội để quay lại tiếp tục nghiên cứu đề tài sâu hơn, tìm hiểu việc
bảo tồn ngôn ngữ ở trên nhiều bình diện hơn mà không chỉ dừng lại ở bình diện văn hóa
và giáo dục./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

*Tiếng Việt

1. Phan An, Người Hoa ở Nam Bộ, Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ, Nhà xuất bản
Khoa học xã hội, thành phố Hồ Chí Minh, 2005

2. Đào Duy Anh, Từ điển Hán - Việt, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996

3. Hoàng Dũng, Bùi Mạnh Hùng, Giáo trình Dẫn luận ngôn ngữ học, Nhà xuất bản
Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2007

4. Mạc Đường, Người Hoa ở Đồng bằng sông Cửu Long, Vấn đề dân tộc ở đồng bằng
sông Cửu Long, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, thành phố Hồ Chí Minh, 1991,
tr.215 - 241

5. Nguyễn Hữu Hoành (chủ biên), Ngôn ngữ, chữ viết các dân tộc thiểu số ở Việt Nam
(Những vấn đề chung), Nhà xuất bản Từ Điển Bách Khoa, Hà Nội, 2013

6. Tô Duy Hợp, Lương Hồng Quang, Phát triển cộng đồng lý thuyết và vận dụng, Nhà
xuất bản Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2000

7. Diệp Đình Hoa, Thờ Mẫu ở người Việt, Khmer, Hoa ở vùng Sóc Trăng, tạp chí Văn
hóa các dân tộc, số 7, 1999, tr.7

8. Nguyễn Thị Huệ, Tiếp xúc ngôn ngữ giữa tiếng Khmer với tiếng Việt (trường hợp
tỉnh Trà Vinh), luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học so sánh - đối chiếu, trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2010

9. Trần Hồng Liên, Văn hóa người Hoa ở Nam Bộ - Tín ngưỡng và Tôn giáo, Nhà
xuất bản Khoa học Xã hội, thành phố Hồ Chí Minh, 2005

10. Trương Tú Nhân, Giao lưu văn hóa Việt – Hoa – Khmer tại phường Vĩnh Phước,
thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng, luận văn Thạc sĩ Văn hóa học, Đại học Trà Vinh,
2015

11. Lê Huỳnh Như, Giáo dục khả năng song ngữ Hoa - Việt cho học sinh người Hoa ở
Sóc Trăng trong bối cảnh đa ngữ (Việt - Khmer - Hoa), luận văn Thạc sĩ, trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh,
2017
12. Đặng Thanh Phương, Tiếp xúc ngôn ngữ Việt (Kinh) - Tày ở vùng Đông Bắc Việt
Nam, luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2004

13. Hồ Minh Quang, Du Quế Tiên, Việc sử dụng ngôn ngữ của cộng đồng người Hoa
ở TP. HCM, Kỷ yếu Tọa đàm Khoa học “Người Hoa ở Nam Bộ, Việt Nam”, 2017

14. Hoàng Quốc, Cảnh huống song ngữ Việt – Hoa tại đồng bằng sống Cửu Long, Nhà
xuất bản Khoa học Xã hội, thành phố Hồ Chí Minh, 2015

15. Hoàng Quốc, Đặc điểm sử dung ngôn ngữ của người Hoa ở thành phố Bạc Liêu,
tỉnh Bạc Liêu, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 8 (226) - 2014, tr.1 - 9

16. Hoàng Quốc, Sự lựa chọn ngôn ngữ trong giao tiếp: Nghiên cứu trường hợp người
Hoa ở huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 5 (233)
- 2014, tr.71 -78

17. Nguyễn Cẩm Thúy, Định cư của người Hoa trên đất Nam Bộ: từ thế kỷ XVII đến
năm 1945, Nhà xuất bản khoa học Hà Nội, Hà Nội, 2000

18. Trương Anh Tiến, Dạy Hoa văn của người Hoa nhóm Triều Châu tại Đồng bằng
sông Cửu Long (nghiên cứu trường hợp xã Vĩnh hải, huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc
Trăng), luận văn Thạc sĩ, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2017

19. Nguyễn Đức Tồn, Cảnh huống và chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, Nhà xuất bản Khoa
học xã hội, thành phố Hồ Chí Minh, 2016

20. Nguyễn Lân Trung, Nhận thức về người học và phương pháp học ngoại ngữ: Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội: Nghiên
cứu nước ngoài, tập 31, số 1 (2015), tr.1 –16

21. Lâm Hoàng Viên (chủ biên), Tín ngưỡng dân gian tỉnh Sóc Trăng, Bộ văn hóa, thể
thao và du lịch, Trung tâm văn hóa tỉnh Sóc Trăng, 2017

22. Cục thống kê tỉnh Sóc Trăng, Thống kê niên giám 2014, Nhà xuất bản Thống kê,
thành phố Hồ Chí Min,h 2015
23. Địa chí tỉnh Sóc Trăng, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, thành phố Hồ Chí Minh,
2012

24. Kỷ yếu khánh thành trường PTCS Dân lập Bồi Thanh, thị xãVĩnh Châu, tỉnh Sóc
Trăng, 2015.

*Tiếng Trung

26. 陈阿宝(主编),《现代汉语概论》,北京语言文化大学出版社,2002
(Trần A Bảo (chủ biên), Khái luận tiếng Hán hiện đại, Nhà xuất bản Đại học Ngôn ngữ
và Văn hóa Bắc Kinh, 2002)

*Tài liệu mạng

27. https://tuoitre.vn

28. https://vtpgroup.com.vn

29. https://hoavanshz.com

30. http://lib.hcmussh.edu.vn

31. http://thuviensoctrang.org.vn

32. https://portal.soctrang.gov.vn/wps/portal/vinhchau/
PHỤ LỤC

1. Danh sách cộng tác viên tham gia phỏng vấn

Số thứ Giới
Tên Tuổi Nghề nghiệp
tự tính
Giáo viên trường PTCS
1 Thầy Trần Tư Nghệ Nam 75
Dân lập Bồi Thanh
Giáo viên trường PTCS
2 Thầy Ong Khai Triết Nam 67
Dân lập Bồi Thanh
Thầy Triệu Quảng Hiệu trưởng trường PTCS
3 Nam
Chương Dân lập Bồi Thanh
Giáo viên trường PTCS
4 Cô Dung Nữ 28
Dân lập Bồi Thanh
Học sinh trường PTCS Dân
5 Em Hán Hưng Nam 16
lập Bồi Thanh
Học sinh trường PTCS Dân
6 Em Su Thẹp Nữ 16
lập Bồi Thanh
Học sinh trường PTCS Dân
7 Em Gia Hân Nữ 16
lập Bồi Thanh
Học sinh trường PTCS Dân
8 Em Loan Nữ 16
lập Bồi Thanh
Học sinh trường PTCS Dân
9 Em Thoa Nữ 16
lập Bồi Thanh
10 Cô Bảy Nữ Buôn bán
11 Anh Bảo Nam Buôn bán
12 Cô Tỷ Nam Buôn bán
13 Cô Chùi Nữ Nông dân
Học sinh trường PTCS Dân
14 Bé Tâm Nữ 7
lập Bồi Thanh
Hiệu trưởng trường Tiểu
15 Thầy Hứa Từ Tường Nam 75
học Dân lập Cảnh Thành
Hiệu trưởng trường Tiểu
16 Cô Khưu Mỹ Ngọc Nữ 60
học Dân lập Tân Hưng
Phó trưởng phòng sở Giáo
17 Thầy Lý Văn Luân Nam dục và Đào Tạo thị xã Vĩnh
Châu
18 Chị Thảo Nữ Buôn bán
Giáo viên trường PTCS
19 Thầy Vương Hoàng Đệ Nam 60
Dân lập Bồi Thanh

20 Cô Trần Thị Ban Nữ 66 Buôn bán

21 Cô Tô Thị Hồng Nữ 44 Buôn bán

22 Chú Phương Đức Chí Nam 74 Buôn bán

23 Chị Bích Liên Nữ 30 Buôn bán

24 Cô Út Nữ 41 Buôn bán

25 Em Trần Lài Nghía Nữ 20 Sinh viên

26 Anh Trịnh Trung Tài Nam 37 Buôn bán

27 Chú Châu Kiến Tính Nam 68 Bán thuốc tây

28 Chú Quách Cẩm Long Nam 42 Bác sĩ

29 Chị Lý Như Ý Nữ 24 Buôn bán

30 Chị Vưu Mộng Tuyền Nữ 22 Sinh viên

31 Chú Trần Hiếu Phong Nam 40 Buôn bán

32 Chú Trần Thuận Gia Nam Buôn bán

33 Cô Bích Ngọc Nữ 58 Buôn bán

Học sinh THPT


34 Em Trịnh Sử Yến Nữ 19 Nguyễn Khuyến + PTCS
Dân lập Bồi Thanh
35 Chú Kmẩu Kuh Nam 69 Ban quản lý chùa Ông

Học sinh trường PTCS


36 Em Hồ Mai Thanh Nữ 12
Dân lập Bồi Thanh

37 Anh Đỗ Minh Nghĩa Nam 24 Buôn bán

38 Chú Cảo Nam 52 Buôn bán

39 Cô Lâm Thị Chư Nữ 50 Buôn bán

40 Chị Mai Nữ 34 Buôn bán

Học sinh THPT


41 Em Trần Phù Día Nữ 20 Nguyễn Khuyến + PTCS
Dân lập Bồi Thanh

42 Cô Trịnh Khển Nữ 73 Nội trợ

43 Em Trần Tú Mẫn Nữ 19 Sinh viên

44 Chị Trịnh Bội Ngọc Nữ 22 Buôn bán

45 Chị Khu Tố Nga Nữ 35 Buôn bán

46 Cô Trần Hoa Linh Nữ 62 Buôn bán

2. Danh sách câu hỏi phỏng vấn

*Khai thác thông tin cá nhân

1. Cô/chú/anh/chị/em tên gì? Bao nhiêu tuổi?

2. Mình là người dân tộc nào? Người Hoa, người Việt hay Khmer?

3. Gia đình mình có bao nhiêu thế hệ sống chung? Mình là đời thứ mấy trong gia tộc?

4. Quê gốc của ông/bà/cha/mẹ của mình là người ở đâu tại Trung Quốc? (Nếu 1 đời
trước không phải là từ Trung Quốc tới thì hỏi thêm về gốc gác trước nữa)
*Về phương diện ngôn ngữ

1. Mình có thường dùng tiếng Tiều để giao tiếp không? Ngoài tiếng Tiều, mình còn có
thể sử dụng tiếng nào để nói chuyện (giao tiếp) không? (nói được hay chỉ nghe hiểu).
Các thành viên trong gia đình thì sao? Mình thấy việc dùng tiếng Hoa và tiếng Việt để
nói chuyện cái nào thoải mái hơn? Vì sao?

2. Mình học tiếng Tiều từ đâu? (trường học, cha mẹ, ông bà…) Hồi xưa mình có dùng
tiếng này để nói không? Nó có khác gì so với bây giờ không khi đã học được tiếng Việt
(giải thích là do mình có nghe những người nói tiếng Tiều bồi thêm những từ tiếng Việt,
tiếng Khơ-me)

3. Trong gia đình, mọi người thường dùng tiếng gì để giao tiếp? Bao nhiêu người biết
sử dụng tiếng Hoa/tiếng Tiều để giao tiếp (nói chuyện)? Bắt đầu nói thứ tiếng đó từ bao
giờ?

+ Ông bà nói chuyện với con/cháu bằng tiếng gì?

+ Cha mẹ nói chuyện với con/cháu bằng tiếng gì?

+ Con cháu nói chuyện với ông/bà/cha/mẹ bằng tiếng gì?

+ Tại sao có sự khác biệt nào trong vấn đề giao tiếp ngôn ngữ giữa các thế hệ đó?

4/ Nếu nhà làm ăn kinh doanh thì mình thường nói chuyện với khách bằng tiếng gì?

5/ Bà con hàng xóm thường dùng tiếng gì? Khi đi chùa, sự kiện tụ họp cộng đồng (đám
cưới, tiệc mừng, ma chay,...) thường dùng tiếng gì? Nếu có sự khác biệt thì hỏi vì sao
có sự khác biệt về việc sử dụng ngôn ngữ trong từng hoàn cảnh như vậy?

+ Nếu hàng xóm là người gốc Hoa thì có nói chuyện bằng tiếng Hoa hay tiếng Việt?
Tại sao?

6/ Mình có cho con em đi học tiếng Tiều không, hay chỉ cần học tại nhà (cha mẹ tự dạy
là được)? Có ý định cho con em đi học tiếng Hoa phổ thông không? Nếu có thì có mong
muốn con em mình học đến trình độ nào không?

7/ Mình có ý kiến gì về việc phải học tiếng Tiều? Có xem việc học và lưu truyền tiếng
Tiều trong gia đình, mỗi thế hệ quan trọng không?

8/ Trong gia đình có ai không nói được tiếng Việt không? Nếu nói được thì có nói thành
thạo không? Có viết được chữ Việt/ chữ Hán không?
9/ Về vấn đề hôn nhân, con dâu/con rể; chồng/vợ thường lấy người dân tộc nào?

+ Nếu là người đồng tộc Hoa, thì có thường dùng tiếng Hoa để giao tiếp không?

+ Nếu là người ngoại tộc Hoa, thì có bắt buộc họ học tiếng trong gia đình mình không?
Có bắt buộc con cháu sinh ra học tiếng Tiều không?

10/ Trong các lễ cưới, ma chay, chôn cất còn sử dụng các hình thức ngôn ngữ Tiều
không? Nếu còn thì hỏi tiếp, nếu sử dụng ngôn ngữ khác thì hỏi vì sao lại thay đổi không
dùng tiếng Hoa nữa.

*Về phương diện cộng đồng

1/ Bà con xung quanh có tổ chức sinh hoạt, tổ chức lễ hội, hội họp, sự kiện tại một địa
điểm nào chung không? Ở đâu?

2/ Ở đây có địa điểm, trường học nào hỗ trợ cho con em trong việc học tiếng Hoa hay
không? Có những hoạt động hỗ trợ cộng đồng nào nổi bật không? (VD: học bổng
khuyến học,...) Lấy kinh phí từ đâu? Học sinh trong trường có bắt buộc là người dân tộc
Hoa không?

4/ Nhà nước có chính sách khuyến khích hỗ trợ người dân tộc Hoa học tiếng Hoa hay
không?

*Phần hỏi nhà trường

1. Hoàn cảnh trước khi có trường như thế nào? Số người Hoa lúc đó có đông không? Số
người biết nói/chữ Hoa?

2. Mô hình ban đầu của trường như thế nào? Hiện giờ có những đổi mới gì về mô hình?

3. Có sự liên hệ, trao đổi với các trường tiếng Hoa/trung tâm dạy tiếng Hoa hay không?
(trong và ngoài khu vực)

4. Hiện nay chi phí duy trì như thế nào? Nhà trường nhận được sự tài trợ từ những nguồn
nào? Chính sách nhà nước có giúp đỡ gì trong việc dạy học tiếng Hoa ở trường không?

5. Mức độ sử dụng tiếng Hoa của những học sinh, gia đình có con em theo học?

6. Tình hình của những học sinh khi đã hoàn thành chương trình học, đang theo học?

7. Trong quá trình giảng dạy tiếng Hoa tại trường có gặp những khó khăn gì không?
8. Mình có cảm thấy việc lưu truyền tiếng dân tộc cho các thế hệ sau là cần thiết hay
không? Vì sao?

9. Thái độ của phụ huynh và các em học sinh về việc học tiếng Hoa ở trường?

*Phần hỏi học sinh

1. Gia đình em có thường nói tiếng Hoa Phổ thông ở nhà không? Có nói tiếng tiếng khác
khác không? Thường nói ở tần suất như thế nào? Người khác đáp lại ra sao?

2. Em có tên tiếng Hoa/Tiều không? Ở nhà gọi em là gì?

3. Có phải gia đình đã khuyến khích em học tiếng Hoa không? Vì sao?

4. Từ lúc học bắt đầu tiếng Hoa Phổ thông đến nay, em có thường xuyên dùng tiếng
Hoa không?

5. Ngoài tiếng Hoa Phổ thông ra, em còn học và sử dụng ngôn ngữ nào?

6. Em có thể nói hoặc viết tiếng Tiều được không?

7. Giữa tiếng Hoa và tiếng Việt, em thích sử dụng tiếng nào hơn? Vì sao?

8. Giữa tiếng Hoa Phổ thông học ở nhà trường và tiếng Tiều em thích sử dụng tiếng nào
hơn? Vì sao?

9. Em nghĩ học tiếng Hoa để làm gì?

3. Các tờ trình về chính sách hỗ trợ học sinh


4. Phụ lục hình ảnh

Hình ảnh: Danh sách nhà hảo tâm đóng góp cho trường PTCS Bổi Thanh bằng chữ
Hán

Hình: Nhóm tác giả cùng cô Dung trường PTCS Dân lập Bồi Thanh
Hình: Nhóm tác giả phỏng vấn bé Loan trường PTCS Dân lập Bồi Thanh

Hình: Nhóm tác cùng thầy Triệu Quảng Chương trường PTCS Dân lập Bồi Thanh

Hình: Nhóm tác giả phỏng vấn thầy cô tại trường PTCS Dân lập Bồi Thanh
Hình: Nhóm tác giả phỏng vấn em Hưng và em Thoa

Hình: Nhóm tác giả và người nhà nhà cô Bảy

Hình: Đoàn thực tập thực tế tại tịnh xá Ngọc Châu Như
Hình: Nhóm tác giả cùng học sinh học lớp tiếng Hoa tang cường tại trường PTCS
Dân lập Bồi Thanh

Hình: Nhóm tác giả cùng anh Bảo thị xã Vĩnh Châu
HẬU KÝ

Đây là những dòng chúng tôi viết riêng cho Vĩnh Châu và viết riêng cho khoảng
thời gian tươi đẹp mà chúng tôi vô cùng trân quý ở đây.

Khi chúng tôi viết đoạn hồi ký này cũng là lúc thời gian làm quen và tạm biệt
Vĩnh Châu dường như bằng nhau, vừa đủ để chúng tôi biết yêu thương và lưu luyến
vùng đất này. Những “đứa trẻ” hơn 20 tuổi một ít đã cùng nhau lớn lên trong chuyến
hành trình này. Đối với chúng tôi có lẽ đây không chỉ là một chuyến thực tập thực tế mà
mỗi sinh viên có trách nhiệm thực hiện, mà còn là một món quà tinh thần các thầy cô
đã dành tặng riêng cho những “đứa trẻ” của mình.

17/2/2019, chuyến xe xuất phát từ Đại Học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại
học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh mang theo 29 sinh viên khóa 16 ngành Trung
Quốc học, khoa Đông Phương học là chúng tôi và 5 giáo viên hướng dẫn cùng nhau lăn
bánh hướng về một thị xã ven biển của tỉnh Sóc Trăng, thị xã Vĩnh Châu.

Nói qua một chút về những suy nghĩ của chúng tôi trước chuyến hành trình dài
14 ngày tại nơi đây. Khi nhận được thông báo nơi lớp chúng tôi đến để nghiên cứu về
cộng đồng người Hoa là một tỉnh thuộc vùng Tây Nam Bộ xa lạ, phản ứng chung của
tất cả mọi người đều mang theo một chút thất vọng và hoang mang, vì vốn nghĩ nơi thực
tập sẽ là một địa danh nổi tiếng. Vậy mà Vĩnh Châu lại trở thành một phần quan trọng
trong quãng đường sinh viên của chúng tôi, vùng đất xa lạ này đã trở thành một phần
ký ức mà có lẽ chúng tôi sẽ không bao giờ quên.

Vĩnh Châu đón chúng tôi bằng cái nắng gắt của một vùng đất ven biển, cái nắng
nóng khô nhưng không khó chịu như nắng gắt đầy bụi của Sài Gòn cũng đã giúp chúng
tôi dịu đi phần nào những suy nghĩ tiêu cực về vùng đất này. Đúng là Vĩnh Châu không
có khí hậu mát mẻ như vùng núi hay có những điểm vui chơi nổi tiếng mà chúng tôi
luôn hy vọng, nhưng Vĩnh Châu lại đẹp một cách bất ngờ. Đẹp trong từng khoảnh khắc
dù là vô tình bắt gặp, đẹp từ văn hóa đến từng con người nơi đây, tất cả đều khiến chúng
tôi phải ghen tị.

Điều làm chúng tôi vô cùng bất ngờ khi đặt chân đến thị xã Vĩnh Châu là sự xuất
hiện của phương ngữ một cách dày đặc tại đây, họ cho chúng tôi thấy tinh thần yêu dân
tộc, ngôn ngữ của cộng đồng mình một cách mãnh liệt. Khi chọn đề tài về vấn đề ngôn
ngữ, chúng tôi đã phải lường trước được các trường hợp tại địa phương và
phải tham khảo qua những bài nghiên cứu về vấn đề này ở các địa phương khác. Quả
nhiên, Vĩnh Châu chưa bao giờ thất bại khi làm chúng tôi đi từ bất ngờ này sang bất ngờ
khác. “Tiểu Triều Châu” không phải chỉ là cái tên hình thức, nó được hình thành từ sâu
trong mỗi người, trong mỗi gia đình, trong ý thức tộc người, ý thức bảo tồn nét đẹp dân
tộc mãnh liệt của họ. Cộng đồng người Hoa ở Vĩnh Châu có ý thức giữ gìn ngôn ngữ
rất cao, họ biết được rằng ngôn ngữ là thứ không thể mất đi của một dân tộc, nên từ
trong gia đình đến ngoài xã hội, việc phương ngữ xuất hiện dày đặc là một đặc điểm
nhận dạng rất đáng tự hào của người Hoa tại Vĩnh Châu.

Bên cạnh đó, Vĩnh Châu đem lại cho chúng tôi cảm giác như một gia đình, ở đâu
cũng là nhà và mỗi người ở đây là một người thân. Những khó khăn ban đầu trong hành
trình hoàn thành bài nghiên cứu dường như đều được người dân ở đây giúp đỡ một cách
nhiệt tình, họ luôn tìm cách hỗ trợ cho chúng tôi một cách tốt nhất. Không thể phủ định
rằng, Vĩnh Châu trong mắt chúng tôi trở nên rực rỡ hơn là vì chính những con người
nơi đây, có phải hay không do nhịp sống chậm rãi hiền hòa nên họ có nhiều thời gian
để quan tâm đến những người xung quanh không nhỉ? Nhưng có lẽ dù nguyên nhân gì,
thì chúng tôi luôn muốn gửi lời cảm ơn đến các cô chú, các anh chị đã giúp đỡ chúng
tôi một lời cảm ơn sâu sắc nhất. Có lẽ đây là lần “vay mượn” đặc biệt mà chúng tôi
không biết khi nào có thể trả được, chúng tôi chỉ có thể gửi những lời chúc tốt đẹp nhất
đến họ, những người đã yêu thương chào đón chúng tôi khi đến mảnh đất phía tây nam
Tổ quốc này.

Lần thứ hai quay trở lại, Vĩnh Châu đã vào mùa đốt đồng. Trên chuyến xe từ Thành
phố Hồ Chí Minh về Sóc Trăng, chúng tôi nghe những người con xa quê tâm sự chuyện
đời, kể cho nhau nghe những thăng trầm mà họ đã trải, họ chẳng phải người thân nhưng
có chung một đất mẹ, cái gắn kết thân thương giữa những người đồng hương đó làm
chúng tôi nao nao khi nhớ về những ngày đã cũ. Chúng tôi vốn chỉ là mối quan hệ gặp
nhau trên giảng đường đại học, trò chuyện đôi ba lời sách vở, bỗng một ngày Vĩnh Châu
nối chúng tôi lại bằng sự yên bình và dịu dàng của mình, giờ đây cảm giác xa nhau tự
dưng biến thành trống trải. Dù là lần đầu tiên hay lần thứ hai, cái nắng đen da xứ Tây
Nam vẫn không làm chúng tôi thất vọng về sự gay gắt. Nói thân thiết là vậy nhưng đối
với những người dân chất phác thì sự xuất hiện bất ngờ của chúng tôi là một sự đe dọa
trong tư tưởng. Họ sợ bị lừa gạt, sợ “sinh viên đại học” làm thay đổi cuộc sống an yên
của họ hoặc sợ cái mác dân tộc Hoa sẽ ảnh hưởng đến họ
trong thời điểm dịch nCovid vừa tạm kết thúc. Hơn nữa, lần này chúng tôi quay lại
với mục đích thu thập số liệu cho nhóm nên không có sự tham gia của thầy cô. Từ hoàn
cảnh và điều kiện đều gây khó khăn cho chúng tôi trong việc tiếp cận các đối tượng
nghiên cứu. Nhưng cuối cùng thì chúng tôi, “những đứa trẻ” năm nào được thầy cô dẫn
lối cũng đã tự hoàn thành nhiệm vụ của mình và dĩ nhiên dù cho còn nghi hoặc nhưng
bằng sự đôn hậu của mình, người dân ở đây đã giúp chúng tôi kết thúc bài nghiên cứu
với những số liệu chân thật nhất.

Quãng thời gian ở đây không nhiều nhưng cũng đủ làm chúng tôi lớn lên thêm
một chút. Có những thứ ngỡ như chúng ta biết thật rõ nhưng khi phải xa gia đình, rời
vòng tay của ba mẹ thì cũng trở nên xa lạ. Những lúc này, giữa những con người cùng
độ tuổi với nhau, cùng hoàn cảnh với nhau như chúng tôi ít nhiều không thể thoát khỏi
sự bỡ ngỡ. Luôn đồng hành với chúng tôi trong khoảng thời gian này chính là thầy Hồ
Minh Quang, cô Đoàn Thị Quỳnh Như, thầy Nguyễn Phan Tuấn, cô Nguyễn Thị Quỳnh
Chi, cô Du Quế Tiên và thầy Phan Thanh Hoàng. Chúng em xin được cảm ơn thầy cô
luôn là hậu phương vững chắc, luôn giúp đỡ, khuyên bảo chúng em trong suốt khoảng
thời gian này.

Và những dòng này tôi dành cho các bạn - những người đã cùng tôi đi qua một
chặng đường dài.

Thời gian của chúng ta là có hạn nên cảm ơn các bạn vì đã yêu thương và sống
với nhau thật lòng. Có lẽ qua chuyến đi này, chúng ta sẽ nhận ra thực chất chúng ta đã
không còn là những đứa trẻ, đã đủ lớn để biết rằng bất kỳ mối quan hệ nào cũng đáng
trân trọng và việc gìn giữ nó còn khó hơn. Chúng ta đã học được cách chia sẻ với nhau,
học được cách nói chuyện với những người chưa từng giao tiếp, học được rằng chúng
ta phải dựa vào nhau để có thể cùng vượt qua thử thách. Chuyến đi này có lẽ không chỉ
giúp chúng ta học được những kiến thức chuyên ngành, mà còn dạy cho chúng ta biết
sống cùng nhau và vì nhau hơn. Cho dù sau này không còn là những người đồng hành
trên con đường của nhau thì có lẽ khi nhớ về những ngày này, chúng ta sẽ còn nhớ đến
sự hiện diện của nhau trong đời. Tôi mong rằng chúng ta sẽ đều là những “đứa trẻ”
thành công và hạnh phúc, hồi ức về Vĩnh Châu, về những ngày tuổi trẻ sẽ đến lúc khép
lại, chúng ta sẽ tiếp tục đi trên con đường của mỗi người nên khi chia tay
nhau hãy khóc thật nhiều, ai cũng sẽ buồn, tôi cũng vậy mà bạn cũng thế, vì sau này
chúng ta không thể ở bên nhau, để buồn nữa…

Lời cuối của hồi ký, chúng tôi muốn nói rằng thực chất, bên cạnh nỗi lo lắng,
chúng tôi vẫn luôn hào hứng với chuyến đi này, vì trong suốt những năm tháng đại học
và sau này nữa, chúng tôi biết được rằng chỉ có khoảng thời gian này, chúng tôi mới
thực sự không vội vã mà ở bên nhau thật chậm, nhìn thấy sự trưởng thành của nhau và
hiểu nhau hơn. Dù thời gian có ngắn ngủi nhưng như thế đối với chúng tôi đã rất đủ để
một Vĩnh Châu hiếu khách, một Vĩnh Châu với những điều tốt đẹp nhất lưu lại thật sâu
trong tâm trí của chúng tôi. Một lần nữa, chúng tôi muốn gửi đến Vĩnh Châu, đến những
người dân đôn hậu, mến khách của vùng đất này lời cảm ơn chân thành nhất. Sau này,
trong 29 sinh viên đã từng đến đây nhất định sẽ có người lần nữa quay lại, có thể không
còn đông đủ như lúc này nhưng xin Vĩnh Châu hãy nhớ, Vĩnh Châu sẽ luôn rất đẹp
trong lòng chúng tôi.

Gửi lời tạm biệt đến Vĩnh Châu, đến những con người nơi đây, chúng tôi trở về
với sự tấp nập của Sài Gòn, nhưng sẽ không bao giờ quên miền đất xinh đẹp này, cho
chúng tôi gửi gắm lại những kỷ niệm tuổi trẻ lại đây và ngày nào đó, khi gặp lại nhau,
hi vọng Vĩnh Châu vẫn sẽ yêu thương chúng tôi như bây giờ nhé!

You might also like