Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 16

GV: TRẦN THỊ BÍCH NGỌC

VẾ PHỤ “TÂY TIẾN” – QUANG DŨNG


* Nhận xét bút pháp hiện thực và lãng mạn trong thơ Quang Dũng
- Chất hiện thực: hiện thực đến trần trụi, không né tránh hiện thực tàn khốc của chiến tranh ( khó
khăn, thiếu thốn, bệnh tật…); không né tránh cái chết.
→ Chất hiện thực tôn lên vẻ đẹp bi tráng của hình tượng.
- Bút pháp lãng mạn:
+ Thể hiện ở nỗi nhớ và tình yêu, gắn bó quê hương, giọng điệu ngợi ca, tự hào tràn ngập trong mỗi
dòng thơ về người lính
+ Tô đậm vẻ đẹp lãng mạn, bay bổng, hào hoa trong tâm hồn người lính Hà Thành qua thủ pháp đối
lập: vẻ ngoài dữ dội với tâm hồn bên trong dạt dào cảm xúc, bay bổng.
+ Tô đậm những cái phi thường, sử dụng thủ pháp đối lập: Hiện thực, thiếu thốn, bệnh tật, hi sinh >
< sức mạnh dữ dội , lẫm liệt và lý tưởng anh hùng cao cả, sự hi sinh bi tráng.
+ Bút pháp lý tưởng hóa hình tượng.
→ Hiện thực và lãng mạn cùng khắc tạc nên bức tượng đài độc đáo và cao đẹp của người lính chống
Pháp.
*Nhận xét về cảm hứng lãng mạn trong đoạn thơ
– Cảm hứng lãng mạn trước hết được thể hiện ở cái tôi của tác giả – Quang Dũng: nỗi nhớ của nhà
thơ với đoàn quân Tây Tiến.
– Được thể hiện trong bút pháp lãng mạn tài tình của tác giả. Những thủ pháp như cường điệu, đối
lập được sử dụng rộng rãi, sáng tạo đã tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hào
hùng, hùng vĩ và cái tuyệt mĩ của con người và thiên nhiên núi rừng Tây Bắc.
– Thiên nhiên vùng núi Tây Bắc qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng có vẻ đẹp vừa đa dạng,
vừa độc đáo, vừa hùng vĩ dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình…
– Những cuộc hành quân gian khổ qua những chặng đường núi non hiểm trở, thử thách ghê gớm với
các chiến sĩ Tây Tiến vốn là những thanh niên đất Hà Thành lần đầu tiên đến miền Tây Bắc.
– Những địa danh tên bản, tên mường như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch… được
nhắc đến không chỉ gợi bao nỗi nhớ vơi đầy mà còn để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi, heo hút,
hoang sơ.
*Nhận xét về cách nhìn hiện thực của nhà thơ Quang Dũng (đoạn 3)
Cảm hứng chủ đạo trong bài thơ là cảm hứng lãng mạn, nhưng qua ngòi bút đậm chất lãng
mạn Quang Dũng, người đọc vẫn nhận thấy những nét thô tháp của hiện thực cuộc sống, cuộc chiến
đấu nhiều gian khổ, hi sinh của người lính Tây Tiến.
Đã có một thời, người ta tránh nói về cái chết và về cái mất mát nhưng Quang Dũng đã không
né tránh điều đó, bởi lẽ có chiến thắng nào mà không trả giá bằng máu và nước mắt. Và "không có
gì cao cả hơn một nỗi đau buồn lớn" (An-phrét dơ Muýt-xê). Vậy nên, hơn một lần trong khổ thơ,
Quang Dũng đã nói về cái chết: "Rải rác biên cương mồ viễn xứ"; "Áo bào thay chiếu anh về đất".
Ông đã nhìn thẳng vào hiện thực để viết lên những khốc liệt của chiến tranh, dù điều này có khiến
bài thơ một thời từng bị gắn mác "ủy mị", "yếu đuối".
Nét đặc sắc của khổ thơ là viết về hiện thực, nói về cái chết nhưng không gợi cảm giác bi
thương, bi lụy. Cảm hứng lãng mạn, khiến ngòi bút của ông nói nhiều tới cái buồn, cái chết như là
những chất liệu thẩm mĩ tạo nên cái đẹp mang chất bi hùng. Hay nói cách khác, chính hiện thực về
sự hi sinh mất mát kia đã trở thành đòn bẩy để nâng tầm vóc oai hùng của người lính thêm một tầng
cao nữa.
GV: TRẦN THỊ BÍCH NGỌC

Chính vì vậy mà hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi dã bị
mờ đi trước lí tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến. Cái sự thật bi thảm những
người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả manh chiếu che thân qua cái nhìn của nhà
thơ, lại được bọc trong những tâm áo bào sang trọng. Và rồi cái bi thương ấy bị át hẳn đi trong tiếng
gầm thét dữ dội của dòng sông Mã.
Như vậy, khổ thơ đã thể hiện cách nhìn chân thực, dũng cảm của Quang Dũng về hiện thực
chiến tranh. Điều đặc biệt là hiện thực ấy đã được nâng đỡ bởi hồn thơ lãng mạn nên bi mà vẫn
hùng, đau thương mà không làm con người lui thoái..
*Nhận xét về đặc sắc trong hình ảnh thơ Quang Dũng (đoạn 14 câu đầu)
Đoạn mười bốn câu thơ đầu thể hiện những nét đặc sắc trong hình ảnh thơ Quang Dũng. Hình
ảnh trong đoạn thơ được sáng tạo bằng nhiều bút pháp khác nhau, tạo nên những sắc thái thẩm mỹ
phong phú. Đoạn thơ có hai hình ảnh chính: Thiên nhiên miền Tây và người lính Tây Tiến, đồng
thời cũng còn có hình ảnh về cụôc sống của đồng bào miền Tây gắn với người lính Tây Tiến. Ở mỗi
loại hình ảnh ta nhận thấy có những nét vẽ đối lập nhưng bổ sung cho nhau tạo nên sắc thái thẩm mỹ
đặc biệt.
Hình ảnh thiên nhiên vừa có cái dữ dội, khắc nghiệt, hoang sơ, hùng vĩ với "sương lấp" bao
phủ mênh mông, với dốc cao, vực sâu "khúc khuỷu", "thăm thẳm", với tiếng "gầm thét" của thác
ghềnh, với hiểm nguy rình rập đêm đêm "cọp trêu người".. lại vừa có những nét vẽ thơ mộng, trữ
tình: Cả một không gian tan loãng trong màn mưa núi, lãng đãng trong khói lam chiều, mơ màng
trong "đêm hơi" tĩnh lặng..
Hình ảnh con người cũng hiện ra với vẻ đẹp hào hùng và hào hoa, anh hùng và nghệ sĩ. Hào
hùng ở ý chí, tư thế hiên ngang, coi thường gian khổ. Hào hoa ở tâm hồn nhạy cảm trước thiên
nhiên, đằm thắm tình người..
Như vậy, hệ thống hình ảnh trong khổ thơ trên không làn lạt một màu, mà đa dạng, phong phú,
nhiều góc cạnh, tạo nên vẻ đẹp trọn vẹn, đầy đủ cho cảnh vật và con người.
*Nhận xét về đặc sắc trong ngôn ngữ thơ Quang Dũng (đoạn 14 câu đầu)
Nếu như âm nhạc tạo nên hình tượng bởi giai điệu, âm thanh, nếu như hội họa tạo nên hình
tượng bởi màu sắc, đường nét, nếu như kiến trúc tạo hình tượng bởi các mảng, khối.. thì văn học lại
xây dựng hình tượng bởi ngôn từ. Ngôn từ là chất liệu của tác phẩm văn học. Macxim Gorky đã nói:
"Ngôn từ là yếu tố thứ nhất của văn học". Ngôn từ là một trong những phương diện làm nên sức
sống của tác phẩm, đặc biệt là tác phẩm thơ. Sức sống của bài thơ "Tây Tiến" có sự đóng góp của
nghệ thuật ngôn từ.
Đặc sắc ngôn ngữ của Tây Tiến nói chung và đoạn mười bốn câu đầu nói riêng là sự phối hợp,
hòa trộn của nhiều sắc thái phong cách ngôn ngữ với những lớp từ vựng đặc trưng.
Đoạn thơ có lớp ngôn ngữ trang trọng, mang màu sắc cổ kính, chủ yếu miêu tả hình ảnh Tây
Tiến và sự hi sinh bi tráng của họ, lại có lớp từ ngữ sinh động của tiếng nói hàng ngày, in đậm
phong cách người lính.
Đặc biệt, nét độc đáo trong ngôn từ của đoạn thơ được tạo nên bởi những từ ngữ tạo hình, biểu
cảm, giàu chất họa, chất thơ. Khi viết về dốc núi miền Tây, Quang Dũng đã tung ra hàng loạt những
từ láy tạo hình: Khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút.. Khi miêu tả thiên nhiên miền Tây đậm chất trữ
tình, ông lại có những kết hợp từ độc đáo mới lạ tạo nghĩa mới hoặc sắc thái mới: Đêm hơi, hoa về,
mưa xa khơi, cơm lên khói..
Đoạn thơ còn sử dụng lớp từ chỉ địa danh vừa tạo ấn tượng về tính cụ thể, xác thực của bức
tranh thiên nhiên và cuộc sống con người vừa gợi được vẻ hấp dẫn của xứ lạ phương xa.
GV: TRẦN THỊ BÍCH NGỌC

Như vậy, với vẻ đẹp và sức biểu đạt đặc biệt của ngôn ngữ thơ, đoạn trích đã tái hiện bức tranh
thiên nhiên vừa hùng vĩ, mĩ lệ, vừa thơ mộng trữ tình. Đằng sau bức tranh thiên nhiên ấy là những
chặng đường hành quân gian khổ của người lính Tây Tiến.
*Nhận xét về sự hài hòa giữa chất thơ, chất nhạc và chất họa trong đoạn 14 câu đầu bài thơ Tây
Tiến của Quang Dũng
Thi trung hữu họa, thi trung hữu nhạc là một trong những vẻ đẹp riêng của thơ. Chất liệu của
hội họa là đường nét, màu sắc, hình khối.. Chất liệu của âm nhạc là âm thanh, nhịp điệu, tiết tấu..
Khi nói đến nhạc và họa trong thơ, nghĩa là nhà thơ đã dùng màu sắc, đường nét, âm thanh làm
phương tiện diễn đạt tình cảm của mình.
Nếu văn học sử dụng chất liệu ngôn từ để xây dựng hình tượng nghệ thuật thì hội họa sử dụng
những gam màu, những nét vẽ để kiến tạo nên những bức tranh, âm nhạc lại dùng ca từ, giai điệu để
ngân lên bài ca tuyệt diệu. Mặc dù là những loại hình nghệ thuật riêng biệt nhưng giữa văn học, hội
họa và âm nhạc luôn có sự giao thoa, cộng hưởng.
Tây Tiến của Quang Dũng cũng có sự kết hợp hài hòa giữa nhạc và họa nhưng vẫn có những
nét riêng độc đáo.
Đoạn thơ mười bốn câu đầu sử dụng nhiều từ ngữ tạo hình, kết hợp với nghệ thuật tương phản
và những nét vẽ gân guốc: Khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút, súng ngửi trời, ngàn thước lên cao,
ngàn thước xuống.. Lớp ngôn từ giàu tính tạo hình đã khắc họa một bức tranh thiên nhiên mang đậm
chất hội họa với vẻ đẹp hùng vĩ qua những con đường quanh co, những dốc núi cheo leo hiểm trở
cùng những đỉnh đèo khuất sau làn sương của mây trời. Chất họa của đoạn thơ còn được thể hiện
qua sự thơ mộng, trữ tình của thiên nhiên tạo vật: Xen vào những nét vẽ gân guốc giàu tính tạo hình
là những nét vẽ mềm mại, gam màu lạnh xoa dịu cả khổ thơ.
Chất nhạc được tạo ra bởi những âm hưởng đặc biệt. Đó là lời gọi tha thiết trong câu thơ đầu
như ngân lên những giai điệu của nỗi nhớ. Mặt khác, những thanh trắc liên tiếp trong câu "Dốc lên
khúc khuỷu dốc thăm thẳm" còn tạo cảm giác trúc trắc, gồ ghề kết hợp với những thanh bằng "Nhà
ai Pha Luông mưa xa khơi" làm nhịp thơ trầm xuống tạo cảm giác thư thái, nhẹ nhàng. Cảm giác
đoạn thơ mang âm điệu của một đoạn nhạc, khi trầm khi bồng, khi dồn dập, lúc khoan thai..
Trong thơ có nhạc, trong thơ có họa là như thế!
*Nhận xét về giọng điệu thơ:
Cả bài thơ được bao trùm trong nỗi nhớ. Nỗi nhớ ấy gợi về những kỉ niệm, những hình ảnh với
nhiều trạng thái cảm xúc khác nhau, được diễn tả bằng những giọng điệu phù hợp với mỗi trạng thái
cảm xúc.
Đoạn 1 chủ đạo là giọng tha thiết, bồi hồi, được cất lên thành những tiếng gọi những từ cảm
thán.
Đoạn 2 tái hiện kỉ niện về những đêm liên hoan thắm tình quân dân, giọng điệu chuyển sang
hồn nhiên, tươi vui; sau đó bâng khuâng, man mác khi gợi lại một cảnh chia tay trong một chiều
sương mờ bao phủ Châu mộc.
Đoạn 3 giọng thơ trang trọng bi tráng, tái hiện hình ảnh người lính Tây Tiến và sự hi sinh cao
cả của họ.
Đoạn 4 tha thiết bồi hồi..
*Nhận xét về tinh thần bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến (đoạn 3)
Trong bức tượng đài nghệ thuật về đoàn binh Tây Tiến, vẻ đẹp lãng mạn đi đôi với tinh thần bi
tráng. Ngòi bút Quang Dũng đã rất mạnh dạn khi đề cập đến phương diện bi kịch của chiến tranh.
GV: TRẦN THỊ BÍCH NGỌC

Nhưng đồng thời nhà thơ cũng tô đậm vẻ đẹp hào hùng của những chàng lính trẻ. Cái bi và cái hùng
hòa quyện vào nhau tạo nên tinh thần bi tráng của hình tượng thơ.
Trong từng cặp câu thơ có sự sóng đôi giữa cái bi và cái hùng. Sau câu thơ nói về nỗi đau và
cái chết là lời thơ khẳng định ý chí chiến đấu quên mình của người lính. Người đọc không khỏi
ngậm ngùi khi tiếp nhận câu thơ nói về những nấm mồ chiến sĩ nơi rừng hoang biên giới. Nhưng ấn
tượng bi thảm này đã bị xóa mờ bởi tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh: "Chẳng tiếc đời
xanh". Câu thơ cuối đoạn lần nữa nhắc đến cái chết "anh về đất". Nhưng câu thơ "Sộng Mã gầm lên
khúc độc hành" như một tiếng khóc lớn của thiên nhiên dưa anh linh người lính vào cõi vĩnh hằng
đồng thời nâng sự hi sinh của họ lên tầm sử thi hùng tráng.
Như vậy, Quang Dũng không lẩn tránh cái bi, nhưng đem đến cho cái bi màu sắc và âm hưởng
tráng lệ, hào hùng để thành chất bi tráng. "Cái tráng" này là của Quang Dũng và cả một lớp trai trẻ
thời ấy, mang trong lòng một bầu máu nóng, "một ra đi là không trở về" - như hình mẫu những anh
hùng trong truyện cổ mà họ từng ôm ấp, lại được luồng gió yêu nước thời đại anh hùng rực lửa lúc
bấy giờ thổi vào, nên càng trở nên hào hùng, rực rỡ. Đúng là "bài thơ này đã được khí phách của
một thời đại ùa vào, chắp cánh" để chất bi tráng ấy bay lên như một nét đẹp hiếm có.
*Nhận xét về vẻ đẹp lí tưởng của người lính Tây Tiến (đoạn 3)
Khổ thơ thứ ba là những sự thật được viết lên bằng máu và nước mắt của các chiến binh.
Nhưng ấn tượng bi thảm này đã bị xóa mờ bởi tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh: "Chiến
trường đi chẳng tiếc đời xanh". Câu thơ là điểm hội tụ vẻ đẹp rực rỡ về lí tưởng sống của những
chàng lính Hà thành. Người lính Tây Tiến là những con người biết sống đẹp trong từng phút giây,
biết ước mơ và hi vọng nhưng khi Tổ quốc cần đến họ thì họ đã sẵn sàng hiến dâng tuổi xuân, thậm
chí cả sinh mạng mình cho đất nước, cho nghĩa vụ quốc tế cao cả. Dù sống và chiến đấu trong điều
kiện vô cùng khắc nghiệt, nhưng họ vẫn luôn giữ vững tinh thần anh dũng, lạc quan. Dù biết "Cổ lai
chính chiến kỉ nhân hồi" (xưa nay chinh chiến có mấy người trở về), nhưng họ vẫn không hề lung
lay quyết tâm, ý chí. Đó chính là vẻ đẹp lí tưởng hào hùng của người chiến binh Tây Tiến. Vẻ đẹp
ấy làm sáng bừng lên cả đoạn thơ, bài thơ, mang đến sức sống lâu bền cho bài thơ "Tây Tiến".
**********************
VẾ PHỤ “VIỆT BẮC” – TỐ HỮU
*Nhận xét về tính dân tộc trong thơ Tố Hữu:
– Về nội dung:
+ Đề tài: Thiên nhiên và con người Việt Bắc.
+ Chủ đề: Đoạn thơ thể hiện nỗi nhớ, ân tình cách mạng của người cán bộ Cách mạng và đồng
bào Việt Bắc.
+ Hình tượng nghệ thuật: Người cán bộ cách mạng và đồng bào Việt Bắc.
– Về nghệ thuật:
Tố Hữu đã khai thác triệt để những vốn quý trong kho tàng văn học dân gian của dân tộc: thể
thơ lục bát; hình thức đối đáp giao duyên; đại từ xưng hô mình – ta, giọng thơ tâm tình, ngọt ngào
đằm thắm …
* Nhận xét về đặc điểm tính trữ tình – chính trị trong thơ Tố Hữu
– Khái niệm thơ trữ tình – chính trị: Là thơ trực tiếp đề cập đến những vấn đề chính trị, những
sự kiện chính trị với cảm xúc mãnh liệt.
– Tính trữ tình – chính trị là một trong những đặc điểm nổi bật trong phong cách nghệ thuật
thơ Tố Hữu, được thể hiện rõ nét trong bài thơ Việt Bắc nói chung và đoạn thơ nói riêng:
GV: TRẦN THỊ BÍCH NGỌC

+ Tính chính trị: Việt Bắc đề cập đến một sự kiện lịch sử có ý nghĩa lớn với cả dân tộc: Trung
ương Đảng và chính phủ rời căn cứ địa Việt Bắc để trở về Hà Nội sau chiến thắng Điện Biên Phủ
năm 1954. Cảm hứng của Tố Hữu trong đoạn thơ là hướng đến cuộc kháng chiến hào hùng và chiến
thắng vẻ vang của quân dân Việt Bắc trong kháng chiến chống Pháp.
+ Tính trữ tình: Niềm tự hào, niềm vui hân hoan của nhà thơ.
* Đánh giá về khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn (“Những đường Vb…đèo De núi
Hồng”
- Khuynh hướng sử thi là gì? Là những cảm xúc tự hào, ngợi ca của tác giả về những vấn đề
lớn lao cảu cả dân tộc mang tính lịch sử thời đại
=> Trong đoạn thơ trên được thể hiện qua các nhân vật được nhắc đến như: anh bộ đội cụ Hồ,
đoàn dân công hỏa tuyến mộc mạc nhưng hết lòng vì quê hương tổ quốc. Bên cạnh đó là một số
hình tượng như: ánh sa, đèn pha đoàn xe cơ giới…
- Cảm hứng lãng mạn là gì? Là một trào lưu nghệ thuật thịnh hành vào những năm 1945-1975,
nó là cảm hứng khẳng định cái tôi vượt lên hiện thực, thoát li với hiện thực, hướng tới niềm tin.
=> Trong đoạn thơ được thể hiện qua việc diễn tả khí thế hào hùng, oai dũng của đoàn quân;
sự lạc quan, niềm tin mãnh liệt vào tương lai phía trước…
=> Tố Hữu đã rất tài tình khi biết kết hợp những yếu tố dân tộc cùng phong cách nghệ thuật
thơ đậm dấu ấn riêng của mình để viết nên một bức tranh hùng tráng, tràn đầy khí thế chiến thắng
của quân dân ta.
* Nhận xét cái tôi trữ tình thể hiện qua đoạn thơ
- Cái tôi đã hoà chung với cái Ta của cộng đồng, dân tộc. Tố Hữu đã đặt mình vào vị trí của
những con người kháng chiến, nói về mình về người để bày tỏ những ân tình, lòng biết ơn sâu sắc
đối với những ân tình.
- Cái tôi trong đoạn thơ thể hiện sự gắn bó giữa nhân dân với cách mạng, mang tầm vóc lớn
lao, cao đẹp; cái tôi hài hoà gắn bó với thiên nhiên, con người và kháng chiến.
- Qua “Việt Bắc” nói chung và đoạn trích nói riêng, cái tôi trữ tình của Tố Hữu trong chặng
đường thơ này là cái tôi nhập vai nhằm làm nổi bật, tôn vinh lên hình tượng những con người kháng
chiến, bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình, niềm cảm phục trước sự hy sinh cao cả của người dân
kháng chiến.
**********************
VẾ PHỤ “ĐẤT NƯỚC” – NGUYỄN KHOA ĐIỀM
*Nhận xét về nghệ thuật sử dụng chất liệu văn hóa dân gian
+ Sử dụng nhuần nhuyễn và đậm đặc chất liệu văn hóa dân gian.
+Sử dụng sáng tạo chất liệu văn hóa dân gian:
Trích dẫn ca dao dân ca kết hợp giọng trữ tình-chính luận sâu lắng, thiết tha .
Cách trích dẫn nguyên văn kết hợp với dẫn ý.
Dẫn những câu thơ ý thơ tiêu biểu cho vẻ đẹp tâm hồn dân tộc.
Nhận xét về cách sử dụng chất liệu văn hoá dân gian của nhà thơ:
- Chất liệu dân gian được sử dụng rất đa dạng, phong phú, tất cả đều gần gũi, quen thuộc với
mỗi con người Việt Nam;
- Cách vận dụng độc đáo, sáng tạo ca dao, tục ngữ,...
- Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng đậm đặc đã tạo nên một không gian nghệ
thuật riêng của đoạn trích, vừa bình dị, gần gũi, hiện thực, lại vừa giàu tưởng tượng, bay bổng, mơ
GV: TRẦN THỊ BÍCH NGỌC

mộng. Hơn nữa, có thể nói chất dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng và cảm xúc của tác giả, tạo nên
một đặc điểm trong tư duy nghệ thuật của nhà thơ.
*Nhận xét chất sử thi trong sáng tác của nhà thơ.
– Chất sử thi trong văn học tập trung phản ánh những vấn đề có ý nghĩa sống còn của đất
nước: Tổ quốc còn hay mất, tự do hay nô lệ. Nhân vật chính là những con người đại diện cho phẩm
chất và ý chí của dân tộc; gắn bó số phận cá nhân với số phận đất nước; luôn đặt lẽ sống của dân tộc
lên hàng đầu. Giọng điệu sử thi là giọng ngợi ca, trang trọng và đẹp tráng lệ, hào hùng.
– Nguyễn Khoa Điềm hướng về những con người bình dị đã cần cù làm lụng và đánh giặc bảo
vệ đất nước giữa những ngày kháng chiến chống Mĩ ác liệt, đất nước còn chia cắt. Đoạn thơ được
viết bằng thể thơ tự do, giọng điệu tâm tình trò chuyện, từ ngữ giản dị, gần gũi nhằm khẳng định vai
trò to lớn của nhân dân vô danh.
* Nhận xét về cách xây dựng hình tượng Đất Nước:
Khác với các nhà thơ cùng thế hệ - thường tạo một khoảng cách khá xa để chiêm ngưỡng và
ngợi ca về đất nước với những ca từ, hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ và mang tính chất biểu tượng. Nguyễn
Khoa Điềm đã chọn điểm nhìn gần gũi để miêu tả một đất nước tự nhiên, bình dị mà không kém
phần thiêng liêng tươi đẹp. Hình ảnh đất nước trong đoạn thơ đầu hiện lên muôn màu muôn vẻ, sinh
động lạ thường, lắng đọng trong tâm tưởng ta qua những nét đẹp về phong tục, tập quán, văn hóa,
truyền thống mang đậm dấu ấn con người Việt. Đoạn thơ đã thể hiện cảm nghĩ mới mẻ của tác giả
về đất nước qua những vẻ đẹp được phát hiện ở chiều sâu trên nhiều bình diện: lịch sử, địa lý, văn
hóa,… Đóng góp riêng của đoạn trích là ở sự nhấn mạnh tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” bằng
hình thức biểu đạt giàu suy tư, qua giọng thơ trữ tình – chính trị sâu lắng, thiết tha.
*************************************
VẾ PHỤ “NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ” – NGUYỄN TUÂN
1. Nhận xét về đặc sắc trong ngôn ngữ tùy bút của Nguyễn Tuân:
- Ngôn ngữ phong phú, điêu luyện; giàu giá trị tạo hình, giàu tính thẩm mĩ; chính xác, súc tích;
đặc biệt phóng khoáng, tinh tế và mới mẻ…
- Câu văn trùng điệp, giàu hình ảnh, giàu tính nhạc; giọng văn thiết tha, sôi nổi, hào hứng,…
- Sử dụng linh hoạt, đa dạng các biện pháp tu từ; vận dụng tri thức tài hoa, uyên bác...
2. Nhận xét quan niệm về con người của Nguyễn Tuân
- Con người, bất kể địa vị hay nghề nghiệp gì, nếu hết lòng và thành thạo với công việc của
mình thì bao giờ cũng đáng trọng. Đồng thời qua cảnh tượng vượt thác của ông đò, Nguyễn Tuân
muốn nói với chúng ta một điều giản dị nhưng sâu sắc: Chủ nghĩa anh hùng đâu chỉ có ở nơi chiến
trường mà có ngay trong cuộc sống hàng ngày nơi mà chúng ta phải vật lộn với miếng cơm manh
áo. Tài hoa đâu chỉ có ở lĩnh vực nghệ thuật mà có ngay trong cuộc sống lao động đời thường.
- Quan niệm con người tài hoa nghệ sĩ
=> Nhận xét quan niệm về con người của Nguyễn Tuân: quan niệm độc đáo, quan niệm mang
tính nhân văn ngợi ca tôn vinh con người…
3. Nhận xét về tình cảm với quê hương đất nước của tác giả Nguyễn Tuân:
- Yêu say đắm, thiết tha cảnh sắc của thiên nhiên đất nước.
- Khám phá, phát hiện ra những vẻ đẹp độc đáo của cảnh sắc quê hương.
- Trân trọng, ngợi ca và tự hào trước những vẻ đẹp của thiên nhiên và con người đất nước
trong thời kì đổi mới.
4. Bình luận ngắn gọn nét độc đáo trong cách miêu tả sông Đà nói riêng, thiên nhiên Tây Bắc
nói chung của nhà văn Nguyễn Tuân.
GV: TRẦN THỊ BÍCH NGỌC

- Nhà văn nhìn Sông Đà không chỉ là một dòng sông tự nhiên, vô tri vô giác mà còn là một
sinh thể có sự sống, có tâm hồn, tình cảm. Với Nguyễn Tuân, sông Đà nói riêng, thiên nhiên Tây
Bắc nói chung cũng là một tác phẩm nghệ thuật vô song của tạo hóa. Vẻ đẹp của Sông Đà hòa
quyện vào vẻ đẹp của núi rừng Tây Bắc nên càng trở nên đặc biệt. …
- Cách miêu tả độc đáo này cho thấy Nguyễn Tuân có sự gắn bó sâu nặng, tình yêu mến tha
thiết đối với thiên nhiên Tây Bắc, với quê hương đất nước, đồng thời cho thấy được ngòi bút tài hoa,
uyên bác, lịch lãm của ông.
5. Cái tôi Nguyễn Tuân:
- Cái tôi Nguyễn Tuân với cá tính mạnh, độc đáo
- Cái tôi Nguyễn Tuân tài hoa, uyên bác
- Cái tôi Nguyễn Tuân yêu thiên nhiên, khát khao hoà nhập với cuộc đời
6. Nhận xét những đặc sắc trong nghệ thuật miêu tả của nhà văn Nguyễn Tuân
- Đoạn trích đã cho thấy công phu lao động nghệ thuật nghiêm túc, khó nhọc của nhà văn.
Nguyễn Tuân đã phải dành nhiều tâm huyết và công sức để làm hiện lên những vẻ đẹp và sắc thái
khác nhau của thiên nhiên Tây Bắc.
- Nhà văn đã huy động tối đa các giác quan thị giác, xúc giác, thính giác và vận dụng tri thức
của nhiều lĩnh vực để tái hiện hình ảnh sông Đà gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc
- Nhà văn cũng đã thể hiện tài năng điêu luyện của một người nghệ sĩ ngôn từ trong việc tái tạo
những kì công của tạo hóa.
7. Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân:
– Tài hoa và độc đáo: khám phá thiên nhiên ở phương diện thẩm mĩ với những liên tưởng,
tưởng tượng bất ngờ, thú vị…
– Uyên bác và lịch lãm: vốn tri thức phong phú và vốn ngôn ngữ giàu có; vận dụng những tri
thức ở nhiều lĩnh vực như địa lí, lịch sử, quân sự, võ thuật, điện ảnh, văn học, hội họa…
– Văn phong phóng túng, ngôn ngữ điêu luyện, giàu tính tạo hình, hình ảnh giàu sức gợi…
– Cảm hứng mãnh liệt trước thiên nhiên kì thú.
8. Nhận xét cái tôi tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân:
- Tài hoa: Ở lối viết uyển chuyển, linh hoạt; cách so sánh, liên tưởng nhiều tầng bậc, bất ngờ,
độc đáo. Ông nhìn sự vật bằng con mắt của người họa sĩ, dưới góc độ thẩm mĩ; tài hoa thể hiện ở
những rung động, say mê của nhà văn trước vẻ đẹp mĩ lệ của thiên nhiên đất nước.
- Uyên bác: thể hiện ở cách nhìn và khám phá hiện thực theo chiều sâu, ở sự vận dụng kiến
thức sách vở và các tri thức của đời sống một cách đa dạng, phong phú; ở sự giàu có về chữ nghĩa.
Hình ảnh dòng sông Đà được nhà văn miêu tả, tái hiện một cách ấn tượng từ nhiều góc nhìn, với
những chi tiết điển hình, tiêu biểu; những liên tưởng, so sánh bất ngờ, thú vị. Tất cả đều cho thấy
khả năng quan sát và sử dụng ngôn ngữ hết sức điêu luyện của Nguyễn Tuân.
9. Bình luận về suy nghĩ, tình cảm của nhà văn Nguyễn Tuân đối với người lao động Việt Nam.
- Qua hình tượng ông đò, Nguyễn Tuân ngợi ca và khẳng định sức mạnh, sự vĩ đại của con
người đồng thời ông cũng đưa ra triết lý sống: giữa cái thế giới độc dữ và nham hiểm, cái thế giới
đầy sức mạnh man dại và lập lờ cạm bẫy, con người ta vẫn đủ trí tuệ để vươn lên tìm thấy sự sống.
Cũng qua cảnh tượng vượt thác của ông đò, Nguyễn Tuân muốn nói với chúng ta 1 điều giản dị
nhưng sâu sắc: Chủ nghĩa anh hùng đâu chỉ có ở nơi chiến trường mà có ngay trong cuộc sống hàng
ngày mà chúng ta phải vật lộn với miếng cơm manh áo. Tài hoa đâu chỉ có ở lĩnh vực nghệ thuật mà
có ngay trong cuộc sống lao động đời thường. Phẩm chất anh hùng, và chất nghệ sĩ thể hiện trong
việc họ phải đương đầu với thử thách.
GV: TRẦN THỊ BÍCH NGỌC

- Nhà văn thể hiện tình cảm yêu mến, trân trọng, tự hào, ngợi ca sự vĩ đại của gười lao động
Tây Bắc và người lao động Việt nam nói chung. Ca ngợi lao động vinh quang đã đưa con người tới
thắng lợi trước sức mạnh hoang dại của thiên nhiên.
10. Cảm hứng nghệ thuật của Nguyễn Tuân
– Trong cái nhìn Nguyễn Tuân, Sông Đà hiện lên với những tính cách đối lập: vừa dữ dội vừa
duyên dáng, như công trình nghệ thuật tuyệt mĩ giữa thiên nhiên. Nhà văn ca ngợi núi rừng Tây Bắc
vừa hùng vĩ vừa thơ mộng.
– Vẻ đẹp đầy cá tính của dòng sông chính là “chất vàng mười” của thiên nhiên Tây Bắc tác
giả muốn khám phá, kiếm tìm.
– Tình yêu tha thiết, say mê với thiên nhiên, đất nước; sự tài hoa, uyên bác của tác giả thể hiện
qua cái nhìn tinh tế và sự cảm nhận độc đáo.
*****************************
VẾ PHỤ “AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG” - HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
1. Bình luận ngắn gọn về cái tôi tài hoa, uyên bác của Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Quan sát tinh tường, tỉ mỉ, tưởng tượng phong phú (miêu tả sông Hương từ góc nhìn địa lí,
hành trình sông Hương tìm về với Huế như về với tình nhân của mình )
- Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vận dụng những tri thức phong phú, những hiểu biết sâu sắc về
nhiều mặt (địa lý, thơ ca, âm nhạc, hội họa…) để làm giàu cho giá trị nhận thức của đoạn trích nói
riêng và tác phẩm nói chung.
- Tác giả đã có một hồn thơ thật sự trong văn xuôi để làm đẹp cho ngôn từ, để viết nên những
câu văn rất hay (“chiếc cầu trắng…nhỏ nhắn như những vành trăng non”, “sông Hương uốn một
cánh cung rất nhẹ… một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”…)
2. Chất thơ của một ngòi bút tài hoa:
- Chất thơ toát ra từ những hình ảnh đẹp, từ độ nhòe mờ của hình tượng nghệ thuật: “những
xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”, “lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một
linh hồn mô tê xưa cũ…” ; qua cách so sánh liên tưởng gợi cảm: “Chiếc cầu trắng của thành phố in
ngần trên nền trời nhỏ nhắn như những vầng trăng non”.
- Chất thơ còn lấp lánh ở cách Hoàng Phủ Ngọc Tường điểm xuyết ca dao, lời thơ Tản Đà, Cao
Bá Quát, Bà Huyện Thanh Quan.
- Chất thơ còn tỏa ra từ nhan đề bài kí gợi mãi những âm vang trầm lắng của dòng sông : “Ai
đã đặt tên cho dòng sông?”
3. Nhận xét về nghệ thuật miêu tả
- Lựa chọn những chi tiết nghệ thuật tiêu biểu, đắt giá để miêu tả vẻ đẹp của sông Hương
- Sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhạc điệu.
- Khả năng quan sát tinh tế, trí tưởng tượng phong phú.
- Vốn hiểu biết sâu rộng cùng với sự say mê vẻ đẹp sông Hương của HPNT.
4. Nhận xét về văn phong
- Bố cục văn bản theo trình tự mạch lạc, chặt chẽ: miêu tả, kết hợp thuyết minh, bình luận, biểu
cảm về những đặc sắc của sông Hương từ thượng nguồn, vào thành phố Huế rồi đổ ra biển, giúp
người đọc dễ theo dõi nắm được nội dung văn bản, ý tưởng tác giả.
- Về dùng từ và các biện, pháp tu từ: Tác giả phối hợp phương thức miêu tả, thuyết minh...
thông qua nhiều từ tượng hình chỉ màu sắc, tượng thanh và những biện pháp tu từ so sánh, ẩn dụ,
nhân hoá khiến dòng sông, vôn là tạo vật vô tri bỗng hiện thành người, khi là "cô gái Di-gan", lúc là
GV: TRẦN THỊ BÍCH NGỌC

"bà mẹ phù sa", là "người gái đẹp ngủ mơ màng" và "người tài nữ đánh đàn.... Đặc biệt, có những
chi tiết so sánh, liên tưởng rất độc đáo, đầy ấn tượng.
- Về viết câu: Nhà văn phôi hợp câu dài, câu ngắn, nhịp khoan thai và dồn dập miêu tả những
thay đổi trong sóng nước sông Hương thật gợi cảm, quyến rũ
- Đặc biệt là trong quá trình miêu tả, thuyết minh, biểu cảm về sông Hương, nhà văn đã sử
dụng những liên tưởng, suy ngẫm bằng rất nhiều tri thức sâu rộng. Điều đó chứng tỏ Hoàng Phủ
Ngọc Tường không chỉ là một nghệ sĩ đa tình mà còn có phẩm chất của nhà khoa học, một triết gia.
=> Có thể nói văn tuỳ bút của nhà văn xứ Huế ấy có nhiều nét gần gũi Nguyễn Tuân (uyên
bác, tài hoa...) song vẫn mang nét riêng: trẻ trung, lãng mạn và lắng sâu...
5. Phong cách nghệ thuật mê đắm, tài hoa của HPNT
*Mê đắm: viết về đối tượng với tất cả niềm đam mê, nhiệt thành, tâm huyết, bằng tất cả tình
cảm, nỗi lòng rung cảm của nhà văn.
*Tài hoa thể hiện ở việc khám phá đối tượng từ nhiều góc độ, phương diện thẩm mĩ khác nhau.
- Lối ví von, so sánh, liên tưởng độc đáo, đầy ấn tượng, gần gũi và xác thực, nhân hóa mới mẻ,
sử dụng nhuần nhuyễn cách nói của người Huế.
- Hình ảnh chân thực đầy ấn tượng mà gợi cảm, câu văn kéo dài với nhiều ý, thanh điệu hài
hòa, tiết tấu nhịp nhàng.
- Cây bút tài năng, giàu chất trí tuệ và văn hóa.
- Kiến thức uyên bác nhiều mặt, cách viết đầy chất thơ.
- Tình yêu sâu nặng và niềm tự hào về quê hương xứ sở…(so sánh sông Hương với các dòng
sông nổi tiếng trên thế giới) làm hiện lên sông Hương với vẻ đẹp vừa dữ dội, bí ẩn, sâu thẳm nhưng
lại vừa dịu dàng say đắm qua cách viết thật gợi cảm bởi óc quan sát tinh tế, ngôn từ giàu hình ảnh,
sắc cạnh.
6. Nhận xét về tính trữ tình của bút kí Hoàng Phủ Ngọc Tường
- “Trữ tình” là nội dung phản ánh hiện thực bằng cách biểu hiện ý nghĩ, cảm xúc, tâm trạng
riêng của con người, nghệ sĩ trước cuộc sống.
“Tính trữ tình” biểu hiện ở tâm trạng, cảm nhận của riêng tác giả trước hiện thực
khách quan.
- Tính trữ tình trong bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường:
+ Cái “tôi” mê đắm, tài hoa: không miêu tả sông Hương như một dòng chảy thông thường mà
đặt sông Hương trong dòng chảy văn hóa, lịch sử của Huế, mỗi lần sông Hương uốn mình chuyển
dòng là một lần sông Hương mang vẻ đẹp riêng.
+ Cái “tôi” lịch lãm, uyên bác: khám phá những đặc điểm độc đáo của sông Hương trên
phương diện lịch sử, thơ ca.
+ Niềm tự hào, tình yêu quê hương đất nước nồng nàn, thiết tha, sâu lắng.
7. Đánh giá về phong cách bút kí Hoàng Phủ Ngọc Tường
Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn chuyên về bút kí, từng được nhà văn Nguyên Ngọc đánh
giá là “một trong mấy nhà văn viết kí hay nhất của văn học ta hiện nay”. Ông là cây bút tài
hoa, uyên bác, kí Hoàng Phủ Ngọc Tường vừa giàu chất trí tuệ, vừa giàu chất thơ và thường gắn
liền với xứ Huế. Bài kí thể hiện rõ phong cách bút kí của ông ở các đặc điểm:
a. Đậm chất Huế: Chất Huế trong bài kí thể hiện ở tình yêu và sự gắn bó sâu sắc của nhà văn
với dòng sông quê hương. Vì yêu Huế, yêu sông Hương nên Hoàng Phủ Ngọc Tường đã chọn sông
Hương làm đối tượng chính cho bài kí của mình. “ Phải lòng” dòng sông, nhà văn viết về nó với tất
GV: TRẦN THỊ BÍCH NGỌC

cả sự gắn bó, đắm say của một người con với dòng sông quê hương, với vẻ đẹp của quê hương, xứ
sở.
b. Sự hòa quyện giữa chất trí tuệ và chất thơ
Chất trí tuệ thể hiện qua sự nghiêm túc, cẩn trọng trong tìm kiếm, phát hiện; sự kết hợp giữa
nghị luận và suy tư đa chiều và vốn hiểu biết phong phú trên nhiều lĩnh vực…. Những kiến thức liên
ngành đã giúp nhà văn khám phá vẻ đẹp đa dạng của sông Hương trên nhiều phương diện: địa lí,
lịch sử, văn hóa…
Chất thơ trong kí Hoàng Phủ Ngọc Tường trước hết thể hiện ở phương diện nghệ thuật: Hình
tượng sông Hương được miêu tả bằng ngôn ngữ tinh tế, giàu chất thơ; nghệ thuật so sánh, nhân hóa
sáng tạo, những liên tưởng độc đáo,… sử dụng rộng rãi đặc sắc những phép tu từ gợi cảm vốn là
quen thuộc trong thơ như so sánh kết hợp với nhân hóa, ẩn dụ. Vẻ đẹp nên thơ của Hương
giang được bộc lộ khi Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ tái hiện lại một cách chân thực dòng chảy
địa lí tự nhiên của con sông mà quan trọng hơn biến cái thủy trình ấy thành “hành trình đi tìm người
yêu” của một người con gái đẹp, duyên dáng và tình tứ. Đây cũng chính là cảm nhận riêng, độc đáo
và rất đặc sắc của nhà văn về sông Hương trước khi nó chảy vào lòng thành phố thân yêu. Chất thơ
của đoạn kí còn thể hiện rõ qua cái tôi đầy xúc cảm của tác giả. Cảm hứng xuyên suốt trong
đoạn trích cũng như trong tác phẩm là niềm say sưa tìm kiếm và khẳng định vẻ đẹp riêng, sức cuốn
hút, quyến rũ riêng của con sông xứ Huế. Rõ ràng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem tình yêu đằm
thắm lắng sâu và những cảm xúc sôi nổi say sưa phổ vào trang viết để rồi mỗi dòng văn như một bài
ca tôn vinh vẻ đẹp của sông Hương. Vì thế cái dễ nhận thấy từ những trang văn là chất thơ, chất trữ
tình đậm đà, đằm thắm.
c. Lối hành văn hướng nội, súc tích, lãng mạn và mê đắm
Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thể hiện vẻ đẹp của dòng sông ở các lớp trầm tích, văn
hóa. Không chỉ cảm nhận vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng mà còn viết về sông Hương từ góc nhìn lịch sử,
khai thác vẻ đẹp anh hùng của con sông từ những sự kiện còn vang bóng trong tâm hồn mỗi con
người Huế và nhìn sông Hương như một dòng sông khơi nguồn cảm hứng dạt dào cho thi ca. Lối
văn hướng nội xúc tích, lãng mạn và mê đắm đã làm nên nét riêng rất độc đáo cho kí Hoàng Phủ
Ngọc Tường.
8. Đánh giá về tình cảm của Hoàng Phủ Ngọc Tường dành cho xứ Huế
Nếu chỉ là cảm xúc rung động nhất thời trước vẻ đẹp của con sông xứ Huế, Hoàng Phủ Ngọc
Tường sẽ không thể viết lên được những trang văn mê đắm và rất đỗi tài hoa như thế. Yêu Huế, yêu
Hương giang, nhà văn mới có được những rung cảm mãnh liệt để tình cảm đặc biệt ấy hóa thành
những dòng chảy trong tâm hồn nhà văn, tạo nên cả cái tôi mê đắm, tài hoa và uyên bác. Bằng con
mắt tình yêu, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm hiện lên những vẻ đẹp khác nhau của sông Hương
trong một văn phong tao nhã, hướng nội, tài hoa. Với cảm hứng ngợi ca, bút kí Ai đã đặt tên cho
dòng sông? như lời cảm tạ của tác giả đối với đất mẹ Huế nơi nuôi dưỡng tâm hồn nhà văn. Tình
yêu Hoàng Phủ Ngọc Tường dành cho Hương giang và xứ Huế rộng hơn chính là tình yêu quê
hương, đất nước tha thiết.
******************************
VẾ PHỤ LIÊN QUAN ĐẾN “VỢ CHỒNG A PHỦ” – TÔ HOÀI
1. Nhận xét dụng ý nghệ thuật của chi tiết Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ
– Qua cách miêu tả những diễn biến tâm trạng rất tinh tế, đa dạng của Mị trong đêm
cắt dây cởi trói cho A Phủ, tác phẩm cho thấy được quá trình đấu tranh nội tâm vô cùng
GV: TRẦN THỊ BÍCH NGỌC

gay gắt và sự trỗi dậy mạnh mẽ của sức sống tiềm tàng, mãnh liệt ở một người phụ nữ bị
đoạ đày cả về thể xác lẫn tinh thần, tưởng chừng như mất đi hết đời sống tâm hồn.
– Khẳng định sự tài tình trong xây dựng nhân vật, miêu tả diễn biến tâm trạng của
Tô Hoài.
– Hành động cắt dây cởi trói diễn ra dứt khoát và quyết liệt cho thấy nhân vật đã tự
giải thoát bản thân thoát khỏi sự trói buộc của cường quyền và thần quyền.
2. Nhận xét về nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn Tô Hoài.
– Tài năng xây dựng nhân vật: nhà văn đi sâu vào đời sống nội tâm để khắc họa tính
cách và miêu tả tinh tế, sâu sắc diễn biến tâm lý của nhân vật Mị.
– Lối kể chuyện lôi cuốn, hấp dẫn, cách dựng cảnh sinh động mang đậm màu sắc
dân tộc vùng Tây Bắc. Với giọng văn nhẹ nhàng, vốn ngôn ngữ phong phú, giàu tính tạo
hình, giàu chất thơ và sáng tạo.
3. Nhận xét về tư tưởng nhân đạo của nhà văn Tô Hoài được thể hiện trong tác
phẩm Vợ chồng A Phủ.
– Niềm cảm thông sâu sắc của Tô Hoài đối với những số phận bất hạnh, bị tước đoạt
quyền sống, bị lăng nhục, đày đọa.
– Tố cáo gay gắt thế lực phong kiến miền núi tàn bạo đã chà đạp lên quyền sống,
quyền tự do của người lao động.
– Phát hiện, nâng niu những sức sống tiềm tàng, tươi đẹp trong tâm hồn con người…
– Nhà văn đã chỉ ra con đường giải phóng thực sự của người lao động…
4. Nhận xét cái nhìn hiện thực về cuộc sống của người lao động nghèo miền núi trước
Cách mạng của nhà văn Tô Hoài
– Hiện thực cuộc sống của người lao động nghèo miền núi trước Cách mạng với cuộc
đời thống khổ, bị áp bức bởi thế lực cường quyền – dần mất ý thức về sự sống, ý thức, về
hạnh phúc và tự do.
– Nhận xét:
+ Với tư cách là một tác phẩm hiện thực, đoạn trích đã phản ánh một cách tương đối
chân thực cuộc sống của người lao động nghèo miền núi trước Cách mạng.
+ Đó là bức tranh đời sống chân thực nhất được người nghệ sĩ cải biến đưa vào trang
văn của mình, từ đó phản ánh những sự thực ở đời đến người đọc.
5. Đánh giá ý nghĩa của tiếng sáo (đêm tình mùa xuân)
– Chi tiết tiếng sáo qua 2 lần miêu tả có vai trò hết sức quan trọng đối với việc làm hồi
sinh tâm hồn Mị, làm trỗi dậy sức sống tiềm tàng mãnh liệt trong cô. Nó giống như một tác
nhân làm sống dậy trong Mị những cảm xúc rạo rực của tuổi trẻ, làm bùng lên niềm khao
khát sống, khao khát yêu đương. Nếu không có không khí ngày tết nhộn nhịp ở Hồng Ngài,
đặc biệt là tiếng sáo gọi bạn tình không cất lên thì có lẽ Mị vẫn mãi chìm đắm trong những
tháng ngày câm lặng, vô thức. Ngay cả khi cô bị trói đứng thì âm thanh của tiếng sáo như ma
lực làm bùng cháy trong Mị niềm khao khát yêu, khao khát sống.
– Sự xuất hiện của chi tiết âm thanh tiếng sáo còn góp phần tô đậm thêm những giá
tri nhân đạo của tác phẩm. Nhà văn muốn ca ngợi và khẳng định sức sống tiềm tàng trong
GV: TRẦN THỊ BÍCH NGỌC

tâm hồn người lao động miền núi không có một thế lực nào có thể hủy diệt được. Và chỉ cần
âm thanh của tiếng sáo ấy có thể làm thức dậy nguồn sức sống ấy.
– Chi tiết tiếng sáo cũng đóng vai trò không nhỏ trong việc tạo nên hơi thở miền núi
cho truyện ngắn. Cũng nhờ có sự xuất hiện của âm thanh này mà các trang văn mà Tô Hoài
xây dựng đẫm chất thơ. Tiếng sáo ấy quả là âm thanh gây nhiều ấn tượng không chỉ đối với
các nhân vật trong truyện mà còn gây ấn tượng, hút người đọc mạnh mẽ.
6. Nhận xét về nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật trong truyện ngắn của Tô Hoài.
- Miêu tả tâm lý đặc sắc, đặt nhân vật trong sự vận động, thể hiện những diễn biến
tâm lý hết sức tự nhiên.
- Xây dựng những đối lập để tạo nên sự chuyển biến tâm lý trong nhân vật, thể hiện
rõ số phận và khát khao của nhân vật.
7. Nhận xét về chất thơ trong sáng tác của nhà văn Tô Hoài (đêm tình mùa xuân)
- Biểu hiện:
+ Chất thơ trong sáng tác của Tô Hoài hiện lên trước hết qua hình ảnh thiên nhiên
với những núi non, nương rẫy, sương giăng…
+ Đoạn trích cũng miêu tả rất tinh tế một phong tục rất đẹp, rất thơ của đồng bào vùng
cao là lễ hội mùa xuân tràn ngập màu sắc và âm thanh.
+ Nét đặc sắc nhất của chất thơ biểu hiện ở tâm hồn nhân vật Mị. Ẩn sâu trong tâm
hồn Mị, một cô gái tưởng chừng như héo hắt, sống một cuộc đời lầm lũi “đến bao giờ chết
thì thôi” ấy, có ai ngờ, vẫn le lói những đốm lửa của khát vọng tự do, của tình yêu cuộc sống.
+ Ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn với hàng loạt các âm thanh, các hình ảnh gợi
hình, gợi cảm rất nên thơ và đậm màu sắc.
+ Bên cạnh nghệ thuật sử dụng ngôn từ, Tô Hoài còn để lại ấn tượng sâu đậm trong
lòng người đọc bởi khả năng diễn đạt tài tình những rung động sâu xa, tinh tế trong thế giới
đa cung bậc và muôn vàn sắc thái của tình cảm.
– Ý nghĩa: Chất thơ trong đoạn trích không những bộc lộ tài năng nghệ thuật của nhà văn
Tô Hoài mà còn thể hiện tình yêu thiên nhiên và tấm lòng nhân đạo của ông với con người
Tây Bắc, góp phần làm sáng tỏ cảm hứng lãng mạn cách mạng của văn xuôi Việt Nam 1945-
1975.
8. Nhận xét (bình luận) về phong vị miền núi trong tác phẩm hoặc một đoạn trích
Định hướng: Phong vị miền núi trong tác phẩm: Nhận xét về những yếu tố tạo nên
phong vị miền núi cho đoạn trích hay tác phẩm: Phong tục, tập quán, thói quen sinh hoạt, nếp
sống thường nhật, cách nghĩ, cách làm.. của các nhân vật; những yếu tố như thiên nhiên,
cảnh vật, sự vật được nhà văn miêu tả..
Tác phẩm đã mang đến những thông tin phong phú về phong tục tập quán, thói
quen sinh hoạt, nếp sống nếp nghĩ.. với những nét rất riêng của đồng bào Tây Bắc như
khung cảnh đón xuân với trai gái trẻ con ra sân tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi
khèn, nhảy múa.. cảnh đêm tình mùa xuân với tiếng sáo gọi bạn tình réo rắt, cảnh uống rượu
ngày Tết, cảnh xử kiện ngập trong khói thuốc phiện, tục cướp vợ, tục cúng trình ma..
Phong vị miền núi còn gợi lên từ nghệ thuật miêu tả thiên nhiên miền núi với
những chi tiết, hình ảnh đặc trưng của miền rẻo cao: Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa
GV: TRẦN THỊ BÍCH NGỌC

gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho. Trẻ em đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những
lều canh nương để sưởi lửa. Ở Hồng Ngài người ta thành lệ cứ ăn Tết khi gặt hái vừa xong,
không kể ngày, tháng nào. Ăn Tết như thế cho kịp lúc mưa xuân xuống thì đi vỡ nương mới.
Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội.
Nhưng trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như
con bướm sặc sỡ..
Ngoài ra, ngôn ngữ kể chuyện, ngôn ngữ nhân vật, lời bài hát xen kẽ.. cũng góp
phần tạo nên phong vị Tây Bắc rất riêng cho những trang văn Tô Hoài.
9. Nhận xét về giá trị hiện thực của tác phẩm
Phản ánh số phận đầy bất công của những người lao động nghèo miền núi dưới ách
thống trị.. (Mị, A Phủ)
Phơi bày sự tàn bạo, độc ác của giai cấp thống trị miền núi (thống lí Pá Tra, A Sử)
Hiện thực của những phong tục tập quán…(Tết, bắt vợ, xử kiện,…)
Hiện thực của con người tìm đến với cách mạng.
=> Chân thực về cuộc sống của con người, ngột ngạt, bất công cũng như những khát
vọng bình thường nhưng rất chính đáng ở con người…
********************************
VẾ PHỤ LIÊN QUAN ĐẾN “CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA” – NGUYỄN MINH CHÂU
1. Nhận xét (bình luận) về quan niệm của tác giả về nghệ thuật
Đoạn văn trên [..] thể hiện những ấn tượng của Phùng về bức ảnh anh thu được trên bãi biển
miền Trung. Những ấn tượng ấy đã thể hiện quan điểm nghệ thuật sâu sắc, đúng đắn của tác giả:
Nghệ thuật phải bắt nguồn từ cuộc sống, nghệ thuật không thể xa cách với hiện thực nhọc nhằn, cay
cực của con người. Nghệ thuật "không phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối.."
(Nam Cao). Nghệ thuật phải dành ưu tiên trước hết cho con người, phải góp phần giải phóng con
người khỏi sự cầm tù của đói nghèo, tăm tối và bạo lực. Người nghệ sĩ phải có tấm lòng biết trăn trở
về số phận ; phải nhìn cuộc đời sâu sắc, đa chiều, không giản đơn, dễ dãi và và phải dũng cảm nhìn
thẳng vào hiện thực. Không những vậy, một tác phẩm nghệ thuật chân chính phải là tác phẩm thể
hiện được chiều sâu, bản chất của hiện thực đằng sau cái vẻ ngoài đẹp đẽ, lãng mạn. Để làm được
điều đó đòi hỏi người nghệ sĩ phải có cái nhìn đa chiều, sâu sắc, toàn diện về hiện thực, phải có sự
trải nghiệm và quá trình lao động nghệ thuật nghiêm túc, gian khổ.
2. Đánh giá bài học nhân sinh của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
– Qua quá trình chuyển biến nhận thức của nhân vật Phùng, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã
mang đến bài học đúng đắn, sâu sắc, toàn diện, mới mẻ về nhân sinh:
+ Cuộc sống, con người vốn dĩ phong phú, kì diệu song phức tạp và đầy nghịch lí. Vì vậy, hãy
có cái nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng;
không thể nhìn đơn giản, sơ lược, một chiều mang tính lí tưởng hoá.
+ Nghệ thuật và người nghệ sĩ hãy đến gần với cuộc đời, với con người; người nghệ sĩ không
chỉ cần có tài năng mà còn cần có tấm lòng yêu thương, dũng cảm đấu tranh chống lại sự bất công,
sẵn sàng bảo vệ những con người bất hạnh và đem lại giá trị tốt đẹp cho cuộc sống… Đó chính là
nghệ thuật vị nhân sinh, nghệ thuật chân chính, cái tạo nên giá trị đích thực của một tác phẩm, và
khẳng định tầm vóc của một tác giả.
– Bài học về cách nhìn nhận cuộc sống và con người của nhà văn đã tạo nên một truyện ngắn
xuất sắc, có chiều sâu nhận thức, có giá trị phát hiện bằng những nghịch lí, có quan niệm mới mẻ.
GV: TRẦN THỊ BÍCH NGỌC

Với triết lí nhân sinh đó, Nguyễn Minh Châu xứng đáng là người mở đường tài năng, tinh anh cho
văn học Việt Nam thời kì đổi mới; xứng đáng là cây bút bản lĩnh, tài hoa.
3. Nhận xét về cách nhìn nhận cuộc sống của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
Cuộc sống vốn phức tạp, bản chất và hiện tượng không phải bao giờ cũng là một, thậm chí
mâu thuẫn đối lập. Nghệ thuật thường đẹp bởi được quan sát từ xa trong khi hiện thực cuộc đời bao
giờ cũng rất gần và thường là hiện thực khắc nghiệt, phũ phàng… Chúng ta đừng bao giờ đơn giản,
một chiều, phiến diện khi nhìn nhận cuộc sống và con người…
4. Nhận xét ngắn gọn về cách nhìn cuộc sống và con người của nhà văn Nguyễn Minh Châu
trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa.
– Khám phá bản chất cuộc sống và con người ở góc độ thế sự bằng cái nhìn đa diện, nhiều
chiều.
– Niềm thương cảm, thấu hiểu, chia sẻ trước số phận vất vả của kiếp người đói nghèo, bế tắc bị
cầm tù trong những nỗi đau thể xác và tinh thần.
– Phát hiện những vẻ đẹp đời thường mà nhân văn trong mỗi con người, trân trọng những
phẩm chất đáng quý ở họ.
5. Nhận xét ngắn gọn quan niệm về nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
– Nghệ thuật không thể xa cách với hiện thực nhọc nhằn, cay cực của con người. Nghệ thuật
phải dành ưu tiên trước hết cho con người, phải góp phần giải phóng con người khỏi sự cầm tù của
đói nghèo, tăm tối và bạo lực. Người nghệ sĩ phải có tấm lòng biết trăn trở về số phận; phải dũng
cảm nhìn thẳng vào hiện thực.
– Không những vậy, một tác phẩm nghệ thuật chân chính phải là tác phẩm thể hiện được chiều
sâu, bản chất của hiện thực đằng sau cái vẻ ngoài đẹp đẽ, lãng mạn. Để làm được điều đó đòi hỏi
người nghệ sĩ phải có cái nhìn đa chiều, sâu sắc, toàn diện về hiện thực, phải có sự trải nghiệm và
quá trình lao động nghệ thuật nghiêm túc, gian khổ.
6. Nhận xét về nghệ thuật khắc họa nhân vật của nhà văn.
- Người kể chuyện là nhân vật Phùng, cũng chính là sự hóa thân của tác giả, tạo điểm nhìn trần
thuật sắc sảo, giúp lời kể chuyện trở nên khách quan, chân thật, giàu sức thuyết phục
- Sử dụng ngôn ngữ linh hoạt, sáng tạo … phù hợp với việc thể hiện tính cách nhân vật.
- Nghệ thuật khắc họa nhân vật thông qua cách tạo tình huống mang ý nghĩa khám phá, phát
hiện về cuộc đời từ dó giúp cho Phùng có sự thay đổi trong nhận thức, suy ngẫm, để anh có cách
nhìn đời khác hẳn, anh hiểu sâu thêm về tính cách người đàn bà, chị em thằng Phác, người bạn-
đồng đội của mình (Đẩu) và hiểu thêm chính mình.
7. Thông điệp mà nhà văn Nguyễn Minh Châu gửi gắm qua câu chuyện.
– Nguyễn Minh Châu cho chúng ta thấy đằng sau bức tranh thuyền và biển tuyệt diệu là cuộc
đời đầy khắc nghiệt với những mảnh đời tội nghiệp. Nhà văn muốn thể hiện cái đẹp của nghệ thuật
dễ nắm bắt hơn cái đẹp của cuộc sống. Vì cái đẹp của cuộc sống cần có thêm hạnh phúc và tình
thương. Và đôi cánh khi cái đẹp của ngoại cảnh làm khuất lấp cái xấu tồn tại ở đời sống.
– Cuộc đời không đơn giản xuôi chiều mà chứa đựng nhiều nghịch lí với những mảng sáng tối,
xấu đẹp, thiện ác, thật giả. Quan trọng là chúng ta đừng nhầm lẫn giữa hình thức bên ngoài và bản
chất bên trong, chúng ta phải có cái nhìn đa diện, đa chiều về cuộc sống. Nghệ thuật vốn nảy sinh từ
cuộc đời nhưng cuộc đời không phải bao giờ lúc nào cũng đẹp như nghệ thuật.
8. Đánh giá bài học nhân sinh của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
– Qua quá trình chuyển biến nhận thức của nhân vật Phùng, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã
mang đến bài học đúng đắn, sâu sắc, toàn diện, mới mẻ về nhân sinh:
GV: TRẦN THỊ BÍCH NGỌC

+ Cuộc sống, con người vốn dĩ phong phú, kì diệu song phức tạp và đầy nghịch lí. Vì vậy, hãy
có cái nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng;
không thể nhìn đơn giản, sơ lược, một chiều mang tính lí tưởng hoá.
+ Nghệ thuật và người nghệ sĩ hãy đến gần với cuộc đời, với con người; người nghệ sĩ không
chỉ cần có tài năng mà còn cần có tấm lòng yêu thương, dũng cảm đấu tranh chống lại sự bất công,
sẵn sàng bảo vệ những con người bất hạnh và đem lại giá trị tốt đẹp cho cuộc sống… Đó chính là
nghệ thuật vị nhân sinh, nghệ thuật chân chính, cái tạo nên giá trị đích thực của một tác phẩm, và
khẳng định tầm vóc của một tác giả.
– Bài học về cách nhìn nhận cuộc sống và con người của nhà văn đã tạo nên một truyện ngắn
xuất sắc, có chiều sâu nhận thức, có giá trị phát hiện bằng những nghịch lí, có quan niệm mới mẻ.
Với triết lí nhân sinh đó, Nguyễn Minh Châu xứng đáng là người mở đường tài năng, tinh anh cho
văn học Việt Nam thời kì đổi mới; xứng đáng là cây bút bản lĩnh, tài hoa.
**************************
VẾ PHỤ LIÊN QUAN ĐẾN “HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT” – LƯU QUANG VŨ
* Nhận xét triết lý nhân sinh được Lưu Quang Vũ gửi gắm qua tác phẩm Hồn Trương Ba, da
hàng thịt.
– Con người chỉ thực sự hạnh phúc khi được sống là chính mình, được hoà hợp giữa xác và
hồn, trong và ngoài, nội dung và hình thức… trong một thể thống nhất toàn vẹn chứ không phải là
cuộc sống chắp vá, bất nhất, gượng ép.
– Trong cuộc sống chúng ta phải biết đấu tranh với sự dung tục tầm thường và chiến thắng
nghịch cảnh để hoàn thiện nhân cách của bản thân. Có như vậy chúng ta mới được là mình – được là
chính mình toàn vẹn. Tác giả một mặt phê phán những dục vọng tầm thường, sự dung tục của con
người, mặt khác ông vạch ra quan niệm phiến diện, xa rời thực tế khi coi thường giá trị vật chất và
những nhu cầu của thể xác.
– Con người cần có sự ý thức chiến thắng bản thân, chống lại những nghịch cảnh số phận,
chống lại sự giả tạo để bảo vệ quyền sống đích thực và khát vọng hoàn thiện nhân cách.
Thông điệp vở kịch:
– Lưu Quang Vũ muốn phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ: con
người đang có nguy cơ chạy theo những ham muốn tầm thường về vật chất chỉ thích hưởng thụ đến
nỗi trở nên phàm phu thô thiển.
– Lấy cớ tâm hồn là quý đời sống tinh thần là đáng trọng mà chẳng chăm lo thích đáng đến
sinh hoạt vật chất không phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn. Cả hai quan niệm cách sống trên đều cực
đoan đáng phê phán.
– Tình trạng con người phải sống giả không dám và cũng không được sống là bản thân mình.
Đấy là nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha hóa do danh và lợi.
*Ý nghĩa triết lí về cuộc sống của vở kịch:
– Trương Ba được sống nhưng là sống nhờ sống gửi, sống vay mượn đáng hổ thẹn vì phải sống
chung với sự dung tục và bị sự dung tục đồng hóa. Tác giả cảnh báo khi con người phải sống trong
dung tục thì cái dung tục sẽ ngự trị, sẽ dần thắng thế, lấn át và sẽ tàn phá những gì trong sạch, đẹp
đẽ, cao quý trong con người.
– Cuộc sống đáng quý, được sống là hạnh phúc nhưng được sống là mình là điều đáng quý
hơn. Muốn vậy, mỗi người cần phải đấu tranh để tự hoàn thiện về nhân cách, sống hài hòa giữa thể
xác và linh hồn, hài hòa giữa cái bên trong và cái bên ngoài. Không thể có một linh hồn thanh cao
trong một thể xác phàm tục, tội lỗi. Đừng bao giờ cho rằng tâm hồn là thứ đáng quý nên chỉ biết
GV: TRẦN THỊ BÍCH NGỌC

chăm lo cho tâm hồn mà không chú ý đến những giá trị vật chất. Hay cũng đừng quan tâm đến thể
xác mà bỏ bê đời sống tâm hồn. Hồn và Xác cả hai đều đáng quý…
* Nhận xét về sự thay đổi của nhân vật Hồn Trương Ba qua màn đối thoại giữa hồn – xác và
hồn – Đế Thích
– Hai đoạn độc thoại nội tâm không chỉ gợi lên hoàn cảnh trớ trêu bi kịch của Hồn Trương Ba mà
còn cho thấy những suy nghĩ sâu sắc, thể hiện khả năng tự ý thức về giá trị bản thân, đề cao ý nghĩa
sự sống ngay thẳng, trong sạch, thanh cao của nhân vật.
– Qua hai đoạn độc thoại nội tâm, ta nhận thấy sự thay đổi rõ rệt của nhân vật Hồn Trương Ba: Ở
đoạn độc thaoị nội tâm thứ nhất, Hồn Trương Ba buồn rầu, chán nản, muốn trốn chạy, né tránh hiện
thực, không muốn thừa nhận sự chi phối lấn át của thể xác hàng thịt phàm tục đối với linh hồn thanh
cao của mình, chỉ mong được giải thoát trong sự khắc khoải, tuyệt vọng, bế tắc. Đến đoạn độc thoại
nội tâm thứ hai, Hồn Trương Ba đã dám đối diện và thừa nhận sự chế ngự của thể xác đối với linh
hồn nhưng lên tiếng thách thức, quyết không chịu thua, không chịu khuất phục và tự đánh mất mình,
Hồn Trương Ba đã chủ động tìm ra cách giải thoát sáng suốt để bảo tồn phần người quý giá. Đây là
sự thay đổi quan trọng và cần thiết trong suy nghĩ dẫn đến sự thay đổi trong hành động nhưng thực
chất lại để khẳng định, đề cao một giá trị vĩnh viễn không thay đổi, đó là sự ngay thẳng, thanh cao,
trong sạch, những phẩm chất đẹp đẽ rất đáng nâng niu, trân trọng của con người. Cuộc đấu tranh của
Hồn Trương Ba với xác hàng thịt thực chất là cuộc đấu tranh giữa phần người với phần con, phần ý
thức với phần bản năng để giữ gìn lương tri nhân phẩm. Đó cũng là một trong những thông điệp
nhân văn sâu sắc mà tác giả muốn gửi tới người đọc.

You might also like