từ ấy khổ 2

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 17

I.

Mở bài:
- Giới thiệu khổ 2 bài thơ Từ ấy - Tố Hữu

Ví dụ:
Tố Hữu là một trong những nhà thơ cách mạng nổi tiếng nhất, ông có những tác phẩm thơ sống mãi
như tập Việt Bắc (1947-1954), tập Gió lộng (1955-1961), tập Ra trận (1962-1971), Máu và hoa
(1972-1977),…. Một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của ông là bài Từ ấy. Từ ấy là bài thơ mở
đầu cho con đường cách mạng, con đường thi ca của Tố Hữu, bài thơ đồng thời là một chân lý sống
của tác giả trong cuộc sống. Khổ 2 của bài thơ thể hiện sự nhận thức của tác giả về chân lý sống, lẽ
sống mới qua lí tưởng đảng. Chúng ta cùng đi tìm hiểu khổ 2 của bài thơ Từ ấy để hiểu rõ hơn
những vấn đề trong bài.

II. Thân bài:


1. Hai câu thơ đầu: Tôi buộc lòng tôi với mọi người / Để tình trang trải với trăm nơi
 Khẳng định quan niệm mới về lẽ sống của tác giả
 Thể hiện sự gắn bó giữa cái tôi và cái ta, giữa cái chung và cái riêng
 Ý thức tự nguyện của tác giả đóng góp cho lý tưởng đảng
 Niềm tin vào lý tưởng đảng
2. Hai câu sau: "Để hồn tôi với bao hồn khổ, Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”
 Bộc lộ tình yêu thương con người
 Nhà thơ trường thành trong thời kỳ chống Mỹ
 Khẳng định mối quan hệ sâu sắc giữa con người với văn học
III. Kết bài:
- Nêu cảm nhận của em về bài thơ Từ ấy

Ví dụ:

Qua khổ 2 bài thơ Từ ấy chúng ta có thể nhận thấy tình yêu, niềm tin đối với lý lẽ sống của tác giả
đối với đất nước và con người

Dàn ý số 2
I. Mở bài:
 Giới thiệu khái quát về bài thơ Từ ấy và tác giả Tố Hữu
 Dẫn dắt giới thiệu đoạn thơ thứ 2 của bài:
Nghĩ về Tố Hữu, Chế Lan Viên từng chia sẻ: "Tố Hữu là một nhà thơ có lý tưởng. Lý tưởng ấy khiến
cho nhà thơ luôn nghe được bên tai tiếng gọi của Tổ quốc, tự mình biến thành tiếng gọi ấy để thức
tỉnh lòng người". Khi đọc và cảm nhận bài thơ "Từ ấy" của Tố Hữu, ta lại càng thấm thía hơn lời chia
sẻ của nhà thơ Chế Lan Viên. Khổ thơ thứ hai trong bài thơ cũng là một đoạn thơ đặc sắc, giàu ý
nghĩa.

II. Thân bài:


1. Nêu ngắn gọn vị trí đoạn thơ:
 Đây là đoạn thơ thứ hai trong bài thơ "Từ ấy" .
 Sau khổ thơ thứ nhất diễn tả những xúc cảm mãnh liệt, dâng trào mạnh mẽ vì được là một phần trong
hàng ngũ những người sống và phấn đấu vì lý tưởng cao đẹp, nhân vật trữ tình đã tiếp tục chia sẻ niềm
vui sướng, hạnh phúc của mình với "trăm người", "trăm nơi".
2. Phân tích đoạn thơ:
 Những từ "buộc", "trang trải", "gần gũi" đã thể hiện sự tự nguyện gắn bó, san sẻ của nhân vật trữ tình.
"Buộc" là gắn kết bền chặt, không bao giờ có thể rạn nứt hay chia xa. "Trang trải" là chia sẻ, "gần gũi" là
gắn bó, giao cảm.
 Nhà thơ không những mở rộng thế giới tâm hồn mình, chủ động kết nối tâm hồn mình với thế giới của
những người lao động cần lao mà còn thấy mình đang ở giữa mọi người trong một vòng tay lớn.
 Ở mỗi dòng thơ, vòng tay ấy lại được nới rộng trong sự liên kết, bền chặt.
 Đại từ "tôi" được tác giả đặt trong mối liên hệ với "mọi người", với "trăm nơi" và với "bao hồn khổ".
Trong tình hữu ái giai cấp, nhân vật trữ tình không thấy mình riêng lẻ, cô đơn mà trở thành một phần
của khối đời lao khổ.
 Cái tôi cá nhân ấy một phần như muốn hòa chung vào với quần chúng nhân dân, một phần như tự ý
thức được trách nhiệm của mình đối với quần chúng những người lao động ấy.
 Dẫu biết rằng trong nhân dân còn biết bao nhiêu "hồn khổ", song người chiến sĩ Cách mạng ấy vẫn
không nhụt chí, nản lòng mà vững tin vào Đảng, vào bản thân có thể đóng góp làm "mạnh khối đời".
 Đằng sau niềm tin, ý chí, tinh thần của người chiến sĩ Cách mạng ấy ta thấy bóng dáng của người nghệ
sĩ, người chiến sĩ cần lao Tố Hữu luôn nhiệt thành góp công, góp sức vào hành trình giải phóng dân
tộc, xây dựng đất nước, đem lại cuộc sống hòa bình, ấm no cho nhân dân.
 Tố Hữu đã gắn kết đời sống mình với đời sống nhân dân một cách rất tự nhiên.
III. Kết bài:
 Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ:
Thơ Tố Hữu luôn sống mãi trong tim mỗi người dân Việt Nam. Niềm cảm hứng, tinh thần, ý chí quyết
tâm góp công sức cá nhân vào công cuộc xây dựng, đắp bồi cái chung ông gửi vào từng trang thơ
luôn lan tỏa mạnh mẽ đến từng thế hệ người Việt Nam. "Từ ấy" là một bài thơ tiêu biểu cho điều đó.

Phân tích Từ ấy khổ 2 - Mẫu 1


Những năm 30 của thế kỉ XX, khi những nhà thơ lãng mạn đang quẩn quanh với cảm giác cô đơn,
sự tù túng, sự nhỏ bé cạn hẹp của cái tôi cá nhân mà chưa có cách vượt thoát thì Tố Hữu, một học
trò trường Quốc học như đã tiếp nhận được không khí thời đại, sớm“băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”.
May mắn cho người con xứ Huế khao khát tìm kiếm lẽ sống ấy, “anh Lưu, anh Diểu dạy con đi,” chỉ
cho con đường tương lai, cũng là khai sinh một con đường thơ cho người chiến sĩ Cộng sản trẻ tuổi.
Sáng tác trong một hoàn cảnh đặc biệt, đánh dấu một mốc son chói lọi trong đời cách mạng, đời thơ
Tố Hữu, Từ ấy là bài thơ thể hiện rõ nét hình tượng tác giả người chiến sĩ cộng sản khi bắt gặp lý
tưởng cộng sản và những chuyển biến, thay đổi trong nhận thức và tình cảm của người thanh niên
cách mạng ấy. Điều này thể hiện rất rõ qua khổ thơ thứ 2 Từ ấy.

Như một sự tự nhiên, yêu nước, bắt gặp chủ nghĩa Mác – Lênin, người thanh niên trí thức sau phút
giây bừng ngộ về lẽ sống, hạnh phúc vì như được hồi sinh trong tâm hồn, là thức nhận về hành động
của mình:

Tôi buộc lòng tôi với mọi người


Để tình trang trải tới trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời
Cả khổ thơ là một ý thức tự nguyện mới mẻ của người thanh niên xuất thân từ gia đình thuộc tầng
lớp trung lưu. Đó không hẳn chỉ là lí trí bởi người đọc nhận thấy sự chân thành trong cách nói. Giọng
thơ sôi nổi trong các điệp từ đầu câu, trong sự tiếp nối của dòng ý thức, trong cách bộc lộ trực tiếp,
tạo nên sự hồn nhiên thành thực của người thanh niên say mê lý tưởng. Dưới ánh sáng lý tưởng
cộng sản chủ nghĩa nhà thơ thấy tâm hồn mình gắn bó với nhân dân lao khổ. Các động từ-vị ngữ
như buộc; Trang trải”; “Gần gũi”… Diễn tả tình bạn gắn bó thiết tha của người chiến sĩ cách mạng
với quần chúng cần lao. Các từ ngữ Mọi người; Trăm nơi; Bao hồn khổ… Chỉ số đông nhân dân cần
lao mà nhà thơ hướng tới để xây dựng”Khối đời” khối liên minh Công-nông ngày thêm mạnh, thêm
gần gũi, chặt chẽ.

Ba chữ “tôi” xuất hiện trong khổ thơ 3 thể hiện một tình cảm chân thành, tiếng nói trái tim của người
cách mạng. Chủ nghĩa cá nhân luôn luôn đối lập với chủ nghĩa Cộng sản, cái tôi nhỏ bé hoàn toàn
đối lập với mọi người. Đó là những biểu hiện cụ thể của lối sống giai cấp tư sản và tiểu tư sản trước
cách mạng. Khi thực sự được giác ngộ lý tưởng cách mạng của giai cấp vô sản.

Tố Hữu biểu hiện và khẳng định quan niệm mới về lẽ sống. Đó là sự gắn bó giữa cái tôi riêng và cái
ta chung: “Tôi buộc lòng tôi với mọi người”, Sự gắn bó đó hoàn toàn có tính tự nguyện vượt qua giới
hạn của cái tôi để chan hòa với mọi người. Đó là biểu hiện tình thương với những người nghèo khổ.
Hai tiếng “hồn khổ” giúp người đọc liên tưởng tới quần chúng lao khổ.

Giác ngộ lý tưởng cộng sản ở Tố Hữu nghĩa là giác ngộ lập trường giai cấp, từ bỏ cái tôi cá nhân
của giai cấp tiểu tư sản để hòa nhập với khối đời chung của nhân dân lao khổ. Dù sao quan niệm
mới mẻ của Tố Hữu đã chứng tỏ nhà thơ đã thoát khỏi cái tôi cô đơn bế tắc, gắn bó với giai cấp cần
lao, tìm thấy niềm vui và sức mạnh ngay trong cuộc đời. Đặc biệt, Tố Hữu khẳng định mối liên hệ
sâu sắc giữa thơ nói riêng và văn học nói chung với cuộc sống. Nhất là cuộc sống của nhân dân lao
khổ.

Sống cùng thời đại nhà thơ có nhiều thanh niên chán nản đã quay lưng lại với cuộc đời để thu mình
trong cái tôi cô đơn. Như Chế Lan Viên:

Với tôi tất cả như vô nghĩa


Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau.
Lẽ sống của người chiến sĩ cộng sản, của một thi sĩ lớn luôn hướng về phía đất nước nhân dân và
thấm thía sức mạnh của nhân dân với đất nước như mối liên hệ bền chặt giữa nghệ sĩ với cuộc đời,
nghệ thuật với cuộc sống. Đó cũng là lẽ sống của biết bao chiến sĩ cùng thời, Xuân Diệu đã từng tâm
sự:
Tôi cùng xương thịt với nhân dân
Cùng đổ mồ hôi cùng sôi nước mắt
Tôi sống với cuộc đời chiến đấu
Của triệu người yêu dấu cần lao
Dẫu còn những nét hồn nhiên của cái nhìn về lý tưởng cách mạng, về lẽ sống, về cách mạng, dẫu
còn những nhận thức đơn giản về những người lao khổ song trong thời điểm những năm 30 của thế
kỉ trước, khi biết bao người bế tắc trong cảm giác lạc loài, thiếu quê hương hay quẩn quanh trong cái
tôi cô đơn, nhỏ bé. Thì Tố Hữu vẫn chứng mình cho mọi người thấy những nét đẹp, những chân lí
sáng lời của lí tưởng cách mạng đã giúp chàng thanh niên may mắn thấy được cuộc sống mới, cuộc
đời mới trong niềm hạnh phúc của tuổi trẻ

Phân tích Từ ấy khổ 2 - Mẫu 2


Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh năm 1920 ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng
Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Ông hoạt động cách mạng rất sớm, năm 16 tuổi gia nhập Đoàn Thanh
niên Cộng sản, năm 18 tuổi trở thành đảng viên Đảng Cộng sản. Đây là thời điểm có ý nghĩa quyết
định cả cuộc đời cách mạng và sự nghiệp thơ ca của Tố Hữu. Từ ấy là một trong những bài thơ hay
nhất được sáng tác vào giai đoạn đầu tác giả tham gia cách mạng. Bài thơ là tiếng reo vui của người
chiến sĩ say mê lí tưởng, yêu nước, yêu cuộc đời, nguyện hiến dâng tuổi thanh xuân cho Tổ quốc,
cho nhân dân. Có thể coi bài thơ là tuyên ngôn cho tập Từ ấy nói riêng và cho toàn bộ sự nghiệp thơ
ca của Tố Hữu nói chung. Đây là quan điểm, là nhận thức sâu sắc của nhà thơ về mối quan hệ mật
thiết giữa cá nhân với quần chúng lao khổ, với nhân loại cần lao dưới ánh sáng chói lọi của Đảng
Cộng sản. Điều đó được thể hiện rõ nhất ở khổ thơ thứ 2.

Khổ thơ thứ 2 là hệ quả của sự giác ngộ chân lí, là lời tâm niệm được nói lên như một lẽ sống, một
quyết tâm, một lời hứa thiêng liêng. Đó là thái độ tự nguyện hiến dâng cho cách mạng, tự nguyện
gắn bó với quần chúng lao khổ:

Tôi buộc lòng tôi với mọi người


Để tình trang trải khắp trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.
Nếu ở khổ thơ trước với biện pháp tu từ ẩn dụ (nắng hạ, mặt trời chân lí, vườn hoa lá) với lời thơ
bay bổng, lãng mạn thì ở khổ thơ này tác giả sử dụng ngôn ngữ giản dị mộc mạc, âm điệu nhẹ
nhàng, sâu lắng. Đó là lời bộc bạch trực tiếp ước vọng chân thành của nhà thơ; là tâm niệm của “cái
tôi trữ tình cách mạng”. Tôi buộc lòng tôi với mọi người là hành động hoàn toàn tự nguyện của nhà
thơ đối với giai cấp cần lao. Nhà thơ muốn tình cảm của mình được trang trải với trăm nơi, trở thành
sợi dây liên kết chặt chẽ với những trái tim của lớp người cùng khổ để tạo nên một khối đời vững
chắc, trở thành sức mạnh to lớn phá tan chế độ thực dân phong kiến, xây dựng một chế độ mới tốt
đẹp hơn.

Trong quan niệm về lẽ sống của giai cấp tư sản và tiểu tư sản có phần đề cao “cái tôi cá nhân”. Khi
được giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu khẳng định quan niệm mới về lẽ sống là sự gắn bó hài hoà giữa “cái
tôi cá nhân” và “cái ta tập thể”. Động từ buộc thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm cao độ
của Tố Hữu muốn vượt qua giới hạn của “cái tôi cá nhân” để sống chan hoà với mọi người. Từ trang
trải thể hiện tâm hồn nhà thơ trải rộng ra với cuộc đời, đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của mỗi con
người.

Hai câu thơ sau cho thấy tình yêu thương con người của Tố Hữu không phải là thứ tình thương
chung chung mà là tình cảm hữu ái giai cấp. Trong mối liên hệ với mọi người, nhà thơ đặc biệt quan
tâm đến quần chúng lao khổ. Khối đời là ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo cùng chung cảnh ngộ
trong cuộc đời, đoàn kết chặt chẽ với nhau, cùng phấn đấu vì một mục tiêu chung. Có thể hiểu: khi
“cái tôi” chan hòa trong “cái ta”, khi cá nhân hòa mình vào tập thể có cùng lí tưởng thì sức mạnh sẽ
nhân lên gấp bội. Tố Hữu đã đặt mình vào giữa dòng đời, vào môi trường rộng lớn của quần chúng
lao khổ. Ở đấy, nhà thơ đã tìm thấy niềm vui và sức mạnh mới không chỉ bằng nhận thức mà còn
bằng tình cảm mến yêu, bằng sự giao cảm của những trái tim. Qua đoạn thơ, Tố Hữu cũng khẳng
định mối liên hệ sâu sắc giữa văn học và cuộc sống, mà chủ yếu là cuộc sống của đông đảo quần
chúng nhân dân.

Khổ 2 Từ ấy tiêu biểu cho bút pháp lãng mạn cách mạng trong giai đoạn sáng tác đầu tiên của Tố
Hữu. “Cái tôi trữ tình” lắng đọng trong từng ý thơ, từng hình ảnh, lúc bay bổng, lúc lắng đọng, lúc là
lời bộc bạch trực tiếp, chân thành những ước vọng, tâm tư khi tìm thấy lí tưởng. Từ ấy là tiếng hát
yêu thương, tin tưởng, là tiếng lòng tha thiết của một thanh niên bắt đầu giác ngộ lí tưởng, tự nguyện
dấn thân vào con đường cách mạng đầy chông gai, gian khổ, hi sinh của toàn dân tộc. Vượt thời
gian, sau hơn nửa thế kỉ ra đời, Từ ấy vẫn tươi xanh chất trữ tình cách mạng. Bài thơ đã tạo được
sự đồng cảm, mến mộ của nhiều thế hệ yêu thích thơ Tố Hữu.

Phân tích Từ ấy khổ 2 - Mẫu 3


Tố Hữu là nhà thơ nổi tiếng và trưởng thành theo cách mạng. Thơ của Tố Hữu là sự pha trộn hài
hòa giữa chất trữ tính và chính trị. Ông cho ra đời rất nhiều tác phẩm thơ sống mãi và nổi tiếng như
Việt Bắc, Gió Lộng, Ra Trận, Máu và Hoa… Một trong những tác phẩm nổi tiếng trong tập thơ của
Tố Hữu phải kể đến Từ Ấy. Từ Ấy là tác phẩm mở đầu con đường cách mạng, con đường thi ca của
Tố Hữu. Bài thơ cũng là chân lý sống của tác giả thông qua lý tưởng cách mạng. Đặc biệt ở hai khổ
thơ đầu của bài thơ thể hiện rõ những vấn đề trong bài.
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
Mọi người đều có những giây phút trọng đại của cuộc đời và có những cảm xúc riêng hạnh phúc
khôn tả. Trong tình yêu, hạnh phúc là khi yêu và được yêu, trong tình cảm gia đình, hạnh phúc là khi
có mẹ có cha ở bên... Có thể nói, hạnh phúc với mỗi người là khác nhau nhưng đều chung một cảm
giác, đó là tuyệt vời, là nắng ấm dịu dàng. Và với Tố Hữu, thì hạnh phúc tuyệt vời lúc này đây chính
là gặp được lý tưởng cách mạng, khiến cho tâm hồn của tác giả như nở hoa, hạnh phúc không thể
thốt thành lời.

“Từ ấy” là một khoảng thời gian không xác định nhưng nó cũng có nghĩa là rất lâu rồi, từ khoảnh
khắc ấy, khoảnh khắc nhận ra chân lí của cuộc đời mình. Đó là khoảnh khắc tác giả thấy được ánh
sáng cách mạng, thấy được con đường cứu nước đúng đắn và ông tin theo nó. Mặt trời ở đây chính
là mặt trời chân lý, ánh sáng cách mạng.

Nếu trái đất tồn tại được vì có ánh sáng của mặt trời soi sáng, khiến cho vạn vật đâm chồi nảy lộc,
sự sống hình thành. Thì ánh sáng cách mạng cũng chính là mặt trời rọi chiếu vào trái tim tác giả,
khiến cho trái tim, khối óc của người chiến sĩ như bừng sáng, xóa tan đi mọi u tối và tìm được cho
mình con đường đi đúng đắn. Vì vậy, tâm hồn của người chiến sĩ cách mạng lúc này đây mới rộn
ràng tiếng chim, đậm hương thơm và là một vườn hoa lá. Tâm hồn hay chính xác là niềm vui, niềm
vui khôn xiết. Ánh sáng cách mạng rọi chiếu khiến cho trái tim người cộng sản rạo rực, hạnh phúc
khôn tả không khác gì tình yêu đôi lứa và có lẽ còn cao hơn cả tình yêu. Đó là tình yêu lí tưởng, tình
yêu cách mạng dành cho dân tộc, cho đất nước.

Khi bạn đang bế tắc trước cuộc đời, con đường đi tăm tối không biết nên đi hướng nào cho đúng,
bạn gặp được chân lí cuộc đời, gặp được ánh sáng dẫn bạn đi đúng hướng thì còn gì tuyệt hơn. Và
người chiến sĩ cách mạng cũng vậy.

Tôi buộc lòng tôi với mọi người


Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời
Sau những giây phút sung sướng nhận ra lý tưởng cuộc đời và cần phải đi, người cộng sản phải xác
định một tâm thế, một hành động thật xứng đáng. Đó chính là trách nhiệm đối với cuộc đời, những
kiếp người khốn khổ.
Tác giả sử dụng động từ “buộc” cho thấy sự chủ động, ràng buộc và xóa đi cái tôi cá nhân, thay vào
đó là cái tôi hướng đến những kiếp người. Sự hẹp hòi ích kỉ không có mặt ở đây. Trên con đường
cách mạng mà người chiến sĩ đã lựa chọn chỉ có sự hi sinh, đồng lòng, đoàn kết và thấu hiểu. Tác
giả tự cho mình là con của mọi nhà, là anh của vạn kiếp phôi pha, là anh của vạn đầu em nhỏ… Tác
giả đã “buộc” nghĩa là dứt khoát, mạnh mẽ, lí trí sáng suốt cuộc đời mình với người dân. Dù đó là ai,
thì người chiến sĩ cách mạng cũng sẽ hết lòng phụng sự. Đây chính là tinh thần tự nguyện, tình nhân
ái làm cho mỗi người hòa vào cuộc đời và trở thành con người theo nghĩa của nó.

Khi con người đoàn kết, sống vì nhau sẽ tạo nên một khối thống nhất. Có lẽ vì vậy mà dân tộc Việt
Nam bé nhỏ đã có thể “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” vì tình tương thân tương ái, hòa quyện vào nhau.
Và có lẽ, chính những con người cộng sản ấy đã là sợi dây kết nối vô hình để gần gũi hơn với những
mảnh đời bất hạnh, để hiểu và dẫn dắt họ đứng lên, đấu tranh tìm hạnh phúc.

Từ ấy là bản đàn dạo vui đầu tiên của người cộng sản khi gặp ánh sáng cách mạng. Trong hai khổ
thơ đâu cũng chính là niềm vui, là trách nhiệm cao cả mà người chiến sĩ cảm nhận và thấy được.
Tâm hồn bừng sáng cũng là lúc trái tim lí trí phải mạnh mẽ, dứt khoát và quyết tâm. Cho dù con
đường đó chông gai khó khăn nhưng vẫn tiến về phía trước để thay đổi những cuộc đời bất hạnh.

Phân tích khổ 2 bài thơ Từ ấy - Mẫu 4


Tố Hữu là một nhà thơ lớn của cách mạng Việt Nam. Ông đã có những đóng góp không nhỏ cho nền
thơ ca nước nhà. Thơ ông mang đậm khuynh hướng sử thi, trữ tình gắn với chính trị.

Bài thơ “Từ ấy” in trong tập thơ đầu tay của ông, là một trong những bài thơ xuất sắc của nhà thơ.
Đặc biệt, hai khổ thơ đầu của bài thơ thể hiện niềm vui sướng, hạnh phúc tột cùng của Tố Hữu khi
sớm giác ngộ lý tưởng cách mạng, đồng thời cũng cho thấy những nhận thức về lẽ sống và trách
nhiệm của bản thân nhà thơ:

‘Hồn tôi là một vườn hoa lá


Rất đậm hương và rộn tiếng chim
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”
Bài thơ mở đầu với những câu thơ viết theo lỗi tự sự, thể hiện niềm say sưa, hạnh phúc như bừng
tỉnh tâm hồn khi nhà thơ nhận thấy lý tưởng của Đảng:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ


Mặt trời chân lí chói qua tim”
Nhà thơ kể lại một mốc lịch sử đáng nhớ của cuộc đời mình “từ ấy”. “Từ ấy” là từ khi người thanh
niên tuổi mười tám, đôi mươi được giác ngộ lý tưởng cộng sản và đứng trong hàng ngũ của Đảng.
Tác giả đã sử dụng thành công hình ảnh ẩn dụ “nắng hạ”, mặt trời chân lý” để chỉ lý tưởng cộng sản,
lý tưởng cách mạng. Bởi lẽ, “nắng hạ” là cái nắng rực rỡ còn “mặt trời” tròn trịa là cội nguồn của ánh
sáng vĩnh hằng.

Đối với nhà thơ, điều đó cũng giống như tầm quan trọng của cách mạng, là nguồn sống đối với nhà
thơ, với dân tộc Việt Nam đang chịu áp bức, sống trong cảnh nước mất nhà tan. Động từ “bừng” gợi
một ánh nắng mùa hạ chói chang, đột nhiên sáng bừng lên, cũng giống như tâm hồn nhà thơ bất
chợt được khai sáng, được nảy nở sau bao chuỗi ngày “bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước”.

Chính “mặt trời chân lý” của cách mạng đã mang ánh nắng mới ấm áp, rực rỡ “chói” qua trái tim của
Tố Hữu. Mang đến ánh sáng với trái tim của một tuổi trẻ đầy nhiệt huyết để khát khao mãnh liệt
được cống hiến. Nhà thơ đã sử dụng động từ mạnh “chói” ở giữa câu thơ để thể hiện sự tác động
mạnh mẽ của lý tưởng cộng sản đến với cuộc đời mình.

Nhà thơ đã tiếp tục diễn tả niềm hạnh phúc vô bờ của mình từ bước ngoặt cuộc đời ấy bằng giọng
thơ đầy háo hức cùng những hình ảnh giàu sức gợi hình, gợi cảm:

“Hồn tôi là một vườn hoa lá


Rất đậm hương và rộn tiếng chim”
Nhà thơ đã dùng biện pháp tu từ so sánh, ví tâm hồn mình như “một vườn hoa lá”. Từ khi có ánh
sáng của mặt trời chân lý cách mạng chiếu soi, tâm hồn nhà thơ đầy niềm khát khao, vui vẻ ngập
tràn giống như một vườn hoa “rất đậm hương” và “rộn tiếng chim”. Hình ảnh sống động “đậm
hương”, “rộn tiếng chim” càng khẳng định đó là một vườn hoa lá rực rỡ đầy sức sống mãnh liệt, tỏa
hương thơm ngào ngạt, rộn ràng vươn lên đón nắng mới. Câu thơ cho thấy một niềm náo nức, say
mê và hạnh phúc ngập tràn như tiếng hoan ca trong tâm hồn người chiến sĩ cách mạng, người thi sĩ.

Niềm vui sướng, say mê của nhà thơ Tố Hữu khi giác ngộ lý tưởng cách mạng cũng giống bao hồn
thơ khác nảy nở tâm hồn sau bao tháng ngày tăm tối.

Từ khi được giác ngộ lý tưởng cách mạng, với sự nhiệt huyết chân thành, người thanh niên tuổi trẻ
Tố Hữu đã bắt đầu có những nhận thức thay đổi trong lẽ sống cao đẹp, trách nhiệm cuộc đời mình:

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người


Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”
Nhờ chân lý cách mạng soi sáng, nhà thơ có những nhận thức mới trong gắn bó với mọi người.
Động từ “buộc” thể hiện sự ràng buộc của bản thân nhà thơ đối với môi trường rộng lớn mọi giai cấp,
bỏ đi cái tôi cá nhân để hòa vào cái ta rộng lớn. Cụm từ “trang trải” và “trăm nơi” nói lên tình yêu
thương giai cấp trong trái tim nhà thơ với mong muốn đồng cảm sâu sắc với người lao động nghèo
khó.

Sự đồng cảm của nhà thơ với bao “hồn khổ” là tiếng lòng thiết tha yêu thương, gần gũi với những
người bị bóc lột trong xã hội, đó là em nhỏ, những bà mẹ nghèo, những người không nhà cửa…Câu
thơ cuối là niềm ước ao, khát khao cháy bỏng của nhà thơ không phân biệt giai cấp, gần gũi, bao
bọc nhau để thêm “mạnh khối đời”. Điều đó thể hiện mong ước đoàn kết mọi giai cấp để tạo nên một
khối thống nhất với sức mạnh cực kỳ to lớn.

Điệp từ “để” được điệp lại hai lần cùng nhịp thơ nhịp nhàng, giọng thơ hân hoan, háo hức càng thể
hiện được sự thay đổi mạnh mẽ, sôi nổi trong lý tưởng sống của nhà thơ. Gấp trang sách lại mà hình
ảnh một vườn hoa lá rộn tiếng chim cùng mặt trời chân lý chói chang, rực rỡ vẫn in sâu trong trái tim
người đọc.

Bài thơ Từ ấy nói chung cũng như đoạn thơ nói riêng đã thể hiện một cách sâu sắc và thành công
niềm say mê, vui sướng và hạnh phúc vô bờ của nhà thơ khi được giác ngộ lý tưởng cách mạng. Dù
đất nước đã hòa bình thống nhất nhưng bài thơ mãi là tiếng ca reo vui của người thanh niên trẻ giàu
nhiệt huyết và khát khao cống hiến tuổi trẻ cho đất nước, để lại những dư âm sâu lắng trong trái tim
mọi độc giả.

Phân tích khổ 2 bài Từ ấy - Mẫu 5


Nghĩ về Tố Hữu, Chế Lan Viên từng chia sẻ: "Tố Hữu là một nhà thơ có lý tưởng. Lý tưởng ấy khiến
cho nhà thơ luôn nghe được bên tai tiếng gọi của Tổ quốc, tự mình biến thành tiếng gọi ấy để thức
tỉnh lòng người". Khi đọc và cảm nhận bài thơ "Từ ấy" của Tố Hữu, ta lại càng thấm thía hơn lời chia
sẻ của nhà thơ Chế Lan Viên. Khổ thơ thứ hai trong bài thơ cũng là một đoạn thơ đặc sắc, giàu ý
nghĩa.

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người


Để tình trang trải với muôn nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”
Đây là đoạn thơ thứ hai trong bài thơ "Từ ấy". Sau khổ thơ thứ nhất diễn tả những xúc cảm mãnh
liệt, dâng trào mạnh mẽ vì được là một phần trong hàng ngũ những người sống và phấn đấu vì lý
tưởng cao đẹp, nhân vật trữ tình đã tiếp tục chia sẻ niềm vui sướng, hạnh phúc của mình với "trăm
người", "trăm nơi".
Nếu như các nhà thơ lãng mạn cùng thời chưa có một nhân sinh quan sống đúng, họ sống chán nản
hoặc tách biệt với nhân dân. Chẳng hạn như Xuân Diệu viết:

“Ta là một là riêng là thứ nhất


Không có ai bè bạn nổi cùng ta”.
Hay như Chế Lan Viên thì nói:

“Nhân dân ở quanh ta mà ta chẳng biết


Thơ xuôi tay như nước chảy xuôi dòng”.
Thì Tố Hữu lại có một nhận thức mới mẻ đúng đắn đó là:

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người


Để tình trang trải với muôn nơi”.
Buộc là một cách nói ngoa dụ nhưng nhằm nhấn mạnh sự gắn bó đoàn kết với mọi người với nhân
dân. Và Tố Hữu xác định gắn bó đoàn kết chưa đủ mà phải trang trải tình cảm, chia sẽ yêu thương
với trăm nơi với mọi nhà. Hai chữ “buộc” và “trang trải” tình cảm với mọi người với trăm nơi đã thể
hiện cái nhận thức khá toàn diện về một quan niệm sống mới, tức là một nhân sinh quan mới.

Sau nhận thức buộc và trang trải tình cảm nhà thơ còn thể hiện một nhận thức mới cụ thể hơn, đó là
buộc và trang trải tình cảm với bao hồn khổ là với những con người lao khổ, để không ngoài mục
đích là cho “mạnh khối đời” cho mạnh đội ngũ chiến đấu. Như vậy quan niệm về gắn bó và chia sẻ
tình cảm của Tố Hữu có địa chỉ cụ thể và có mục đích cụ thể.

Khổ thơ thứ hai nhà thơ đã phản ánh kết quả của lý tưởng Đảng được soi chiếu vào tâm hồn nhà
thơ ở khổ thơ thứ nhất. Đó là sự hình thành một nhân sinh quan mới, đó là quan niệm sống vì mọi
người vì cách mạng.

Thơ Tố Hữu luôn sống mãi trong tim mỗi người dân Việt Nam. Niềm cảm hứng, tinh thần, ý chí quyết
tâm góp công sức cá nhân vào công cuộc xây dựng, đắp bồi cái chung ông gửi vào từng trang thơ
luôn lan tỏa mạnh mẽ đến từng thế hệ người Việt Nam. "Từ ấy" là một bài thơ tiêu biểu cho điều đó.

Phân tích khổ 2 bài thơ Từ ấy - Mẫu 6


Tố Hữu là một trong những nhà thơ cách mạng nổi tiếng nhất, ông có những tác phẩm thơ sống mãi
như tập Việt Bắc (1947-1954), tập Gió lộng (1955-1961), tập Ra trận (1962-1971), Máu và hoa
(1972-1977),…. Một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của ông là bài Từ ấy. Từ ấy là bài thơ mở
đầu cho con đường cách mạng, con đường thi ca của Tố Hữu, bài thơ đồng thời là một chân lý sống
của tác giả trong cuộc sống. Khổ 2 của bài thơ thể hiện sự nhận thức của tác giả về chân lý sống, lẽ
sống mới của lí tưởng đảng. Chúng ta cùng đi tìm hiểu khổ 2 của bài thơ Từ ấy để hiểu rõ hơn
những vấn đề trong bài.
Khi giác ngộ lý tưởng Tố hữu đã khẳng định quan niệm mới về lẽ sống. Đó là sự gắn bó hài hòa giữa
cái tôi cá nhân và cái ta chung của mọi người:

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người


Để tình trang trải với muôn nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”
Động từ “buộc” thể hiện một ý thức tự nguyện và quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn vượt qua giới
hạn của cái tôi cá nhân để sống chan hòa với mọi người. “Buộc” còn có nghĩa là tự mình phải có
trách nhiệm gắn bó với cộng đồng. Mọi người ở đây là những người lao khổ, những con người cùng
chung giai cấp vô sản.

Từ “trang trải” khiến ta liên tưởng tới tâm hồn của nhà thơ đang trải rộng với cuộc đời: tạo ra khả
năng đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của từng con người cụ thể. “Gần gũi nhau thêm mạnh khối
đời” là tác giả nói đến tinh thần đoàn kết. “Khối đời” là hình ảnh ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo
cùng chung một cảnh ngộ, cùng chung một lý tưởng, đoàn kết với nhau, gắn bó chặt chẽ với nhau,
cùng phấn đấu vì một mục đích chung: đấu tranh giành lại quyền sống và quyền độc lập dân tộc.

Như vậy, toàn bộ khổ thơ trên bằng lối sử dụng những từ ngữ chính xác, giàu ẩn ý, nhà thơ đã gửi
gắm một cách sâu sắc về tư tưởng, tình cảm của mình. Đó là tình yêu thương con người của Tố
Hữu gắn với tình cảm hữu ái giai cấp. Nó thể hiện niềm tin của tác giả vào sức mạnh đoàn kết, câu
thơ trên cũng là một lời khẳng định: khi cái tôi chan hòa với cái ta, khi cá nhân hòa vào tập thể cùng
lí tưởng thì sức mạnh nhân lên gấp bội.

Những câu thơ cũng là biểu hiện nhận thức mới về lẽ sống chan hòa cá nhân và tập thể, giữa cái tôi
và cái ta. Trong lẽ sống ấy con người tìm thấy niềm vui và sức mạnh. Sự thay đổi nhận thức ấy, nó
bắt nguồn sâu xa từ sự tự giác ngộ lý tưởng của nhà thơ Tố Hữu.

Phân tích khổ 2 bài thơ Từ ấy - Mẫu 7


Tố Hữu được mệnh danh là nhà thơ của dân tộc. Thơ ca của ông có ảnh hưởng rất lớn tới đời sống
của nhân dân những năm Cách Mạng. Tập thơ “Từ ấy” mở đầu cho chặng đường thơ ca Cách mạng
của ông. Bài thơ cùng tên sáng tác năm 1938 như khúc hát sôi nổi về nhiệt huyết, tình yêu niềm tin
với Đảng và Cách mạng. Mở đầu bài thơ là những câu thơ diễn tả cảm xúc dạt dào của người thanh
niên trẻ tuổi, thì những vẫn thơ tiếp vẫn là mạch cảm xúc đó tác giả nói lên tiếng nói tình cảm gắn kết
khối đại đoàn kết của dân tộc trong ánh sáng Cách mạng Đảng.

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người


Để tình trang trải với muôn nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”
Tố Hữu tự nguyện“ buộc” lòng mình với long mọi người. Dưới ánh sáng của Cách Mạng, tác giả như
hòa mình vào với muôn triệu trái tim Việt Nam. Từ “buộc” thể hiện sự gắn bó chặt chẽ, đoàn kết. Tác
giả nguyện cùng đứng trong đau khổ, cùng đói nghèo, cùng vui sướng cùng hạnh phúc với người
dân Việt Nam. Ông không ngại khổng ngại khó.

Cũng từ chữ “buộc” ta như thấy được sự trách nhiệm của ông đối với dân tộc, đất nước. Trách
nhiệm của một người dân Việt Nam là bảo vệ nền độc lập dân tộc. Trách nhiệm của người chiến sĩ
Cách mạng là yêu thương lấy đồng bào, bảo vệ nhân dân thoát khỏi chiến tranh, thoát khỏi đói
nghèo.

Tác giả “để tình trang trải với muôn nơi”. Phải chăng cái tình của tác giả bao la rộng lớn có thể “trang
trải” tới muôn nơi? Đúng thế, đó là tình yêu với muôn vàn người dân đất Việt. Tình yêu đó bao la,
tình yêu đó rộng lớn. Tác giả cuốn tình yêu của mình được hòa cùng tính yêu của muôn người. Đó là
tình yêu to lớn, tình yêu gắn bó.

Không chỉ “trang trải tới muôn nơi” mà Tố Hữu còn muốn “Để hồn tôi với bao hồn khổ”. “ Hồn khổ” đó
là cách nói hình ảnh về những con người Việt Nam thời kì này bị chiến tranh làm cho đói nghèo, bị
thực dân đàn áp, cuộc sống khó khăn, vất vả. Những con người đó sống trong những tháng ngày
tăm tối của nô lệ, của đàn áp. Tác giả nguyện để mình sống cùng những đau khổ, sống cùng những
khó khăn để san sẻ những nỗi khổ, nỗi đau của triệu người dân.

Điệp từ “để” đứng ở đầu câu nhấn mạnh tình cảm, sự vị tha của một con người không chỉ yêu Cách
Mạng mà yêu cả những con người xung quanh. Đó là lí tưởng mới khi ánh sáng Đảng đã soi chiếu.
Sống không chỉ vì ta mà còn vì mọi người.

Câu thơ cuối vang lên đầy cảm xúc:

“Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”


“Khối đời” một cách nói trừu tượng về tình đoàn kết, sự gắn bó chặt chẽ của mọi người dân đất Việt
Nam. Đó là những con người cùng chung cảnh ngộ khó khăn, cùng chung hoàn cảnh đau khổ. Đó
cũng là cũng con người chung lý tưởng, chung chí hướng: sống vì đất nước, vì dân tộc, đấu tranh
cho một hòa bình độc lập dân tộc. Tố Hữu muốn nhấn mạnh trong khó khăn gian khổ, con người
cùng nhau gần gũi, cùng nhau sát cánh, cùng nhau đứng lên chiến đấu thể hiện tình đoàn kết, tình
dân tộc thì mọi điều đều vượt qua dễ dàng.

Khổ thơ với cách sử dụng từ ngữ hình ảnh chính xác, hình ảnh, thơ mộng lãng mạn đã thể hiện rõ tư
tưởng tình cảm, lý tưởng của tác giả. Khi cái tôi hòa vào cùng cái ta, khi cái riêng tư hòa cùng cái
chung của cộng đồng thì lý tưởng ý chí được nhân lên, được củng cố thêm mạnh mẽ, vững chắc. Và
ánh sáng của Đảng của Cách Mạng đã soi sáng cho lý tưởng, cho ý chí đó.

Phân tích khổ 2 bài thơ Từ ấy - Mẫu 8


Tố Hữu là một trong những cánh chim đầu đàn trong nền thơ ca, văn học Việt Nam. Cả cuộc đời sự
nghiệp sáng tác của ông đều hướng tới tư tưởng yêu nước, tự hào dân tộc và lý tưởng cách mạng
chiến đấu của nhân dân ta. Trong vô vàn những tập thơ tiêu biểu, chắc hẳn những người yêu thơ
không thể quên được tập thơ đầu tay của ông mang tên “ Từ ấy”. Đặc biệt, qua hai khổ thơ đầu của
bài thơ “ từ ấy”, tác giả đã gửi gắm, thể hiện trọn niềm vui của người thanh niên trẻ khi được giác
ngộ với cách mạng.

Bài thơ được sáng tác vào năm 1938, trong giai đoạn Tố Hữu được kết nạp vào Đảng cộng sản
Đông Dương. Đây được xem là một trong những dấu mốc quan trọng nhất cuộc đời nhà thơ, khi ông
tìm được con đường chân lý sẽ đi trong những tháng năm tuổi trẻ. Luôn trong tâm thế khát vọng
được chiến đấu, cống hiến cho sự nghiệp giải phóng nước nhà, tác giả đã viết nên bằng tất cả niềm
say mê, hạnh phúc khi có đảng qua những câu thơ đầu tiên:

“Từ ấy” là khoảng thời gian từ khi tác giả được giác ngộ lý tưởng cộng sản, ông cảm thấy vô cùng
vui sướng, hạnh phúc biết bao. Hình ảnh “ bừng nắng hạ” bừng lên biết bao cảm xúc vỡ òa của tác
giả khi được trải qua những khoảnh khắc thiêng liêng ấy. Một luồng ánh sáng chói sáng, hòa mình
cũng hình ảnh ẩn dụ “ mặt trời chân lí chói qua tim” cho lí tưởng cách mạng.

Tố Hữu đặc biệt sử dụng động từ “ bừng” và “ chói” đã gợi tả nên ánh sáng rực rỡ, mạnh mẽ từ khi
Đảng mang lại cho cuộc đời ông. Trái tim ông như được tiếp thêm ngọn lửa rực cháy. Khi trái đất
không thể tồn tại khi không có sự hiện diện của mặt trời, tựa như cuộc đời của nhà thơ sẽ chẳng thể
nào có lối sáng, nhận được những điều tốt lành nếu như không có sự soi đường dẫn lối của cách
mạng.

Tiếp nối mạch cảm xúc, bằng tâm hồn và bút pháp trữ tình lãng mạn, giàu sức tạo hình, Tố Hữu đã
tiếp tục diễn tả nỗi niềm vui mừng vô hạn trong những phút giây đầu tiên được sánh vai trong hàng
ngũ của Đảng:

Hồn tôi là một vườn hoa lá


Rất đậm hương và rộn tiếng chim
Những cặp hình ảnh ẩn dụ như “vườn hoa lá” và “ rộn tiếng chim” đại diện cho một thế giới mới tràn
đầy hương sắc và sức sống. Phía sâu trong tâm hồn của người con người trẻ tuổi là những mong
muốn, khát vọng đang thi nhau “đâm chồi nảy nở” tựa như hoa lá mùa xuân. Nó là một hình ảnh so
sánh trừu tượng nhưng tác giả vẫn khiến cho người đọc như cũng cảm nhận được vô cùng chân
thực của chính nhà thơ.

Đối với Tố Hữu, lí tưởng cách mạng không chỉ mang đến ngọn nguồn sức sống mới mà còn mang
đến những niềm đam mê cho tác giả. Rồi ngày mai đây, ta sẽ còn có nhiều cơ hội được trải lòng
mình đón ánh nắng sớm mai, cùng hương thơm ngào ngạt trong gió thoảng và tiếng chim lảnh lót
bên tai. Những cảnh sắc yên bình, hài hòa và đẹp tươi mà đất nước sẽ được đón chào nhờ có Đảng
sẽ là động lực lớn lao cho tác giả phấn đấu.

Khi giác ngộ lý tưởng ấy, Tố Hữu đã khẳng định quan niệm về lẽ sống mới. Ta với Đảng tuy hai mà
một, đã là một đảng viên, cần phải biết hòa chung cái tôi cá nhân và cái ta chung của tập thể:

Tôi buộc lòng tôi với mọi người


Để tình trang trải với muôn nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời
Ngay từ khi ấy, nhà thơ đã tự nguyện “ buộc” lòng mình với mọi người, mọi người chính là cả nhân
dân, những người dân máu đỏ da vàng luôn hướng về lá cờ đỏ sao vàng. “ Buộc” còn có nghĩa là tự
mình phải có trách nhiệm gắn bó với cộng đồng. Từ những người nông dân cần cù lao động, đến
những người cùng chung giai cấp, họ đều ở đây, cùng nhau chiến đấu vì đất nước. Tâm hồn nhà thơ
đang được “ trang trải” khắp bốn bề tổ quốc, để góp chút sức mạnh vào khối đoàn kết của dân tộc.

“Khối đời” là hình ảnh ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo cùng chung cảnh ngộ, lý tưởng , gắn bó
với nhau và cùng phấn đấu vì một lợi ích chung của toàn dân tộc. Toàn bộ khổ thơ trên, nhà thơ đã
bộc bạch hết những nỗi lòng, tâm tư thương yêu mến mộ đồng bào. Tình yêu giữa người với người,
tình thương khi đất nước bị chia cắt, giặc thù xâm hại sẽ thôi thúc những con người ấy đoàn kết, gắn
bó nhau hơn. Khi ta có thể gạt bỏ cái tôi cá nhân, những mưu cầu cá thể để hướng đến mục đích
chung của một dân tộc, thì “kẻ thù nào cũng bị tiêu diệt, khó khăn nào cũng có thể vượt qua”.

Chỉ qua những câu thơ ngắn ngủi nhưng hết mực chân thành, từ niềm vui, hân hoan của tác giả khi
được bắt gặp ánh sáng chân lý của Đảng đã khiến cuộc đời Tố Hữu bừng sáng biết bao. Những
hình ảnh ẩn dụ hết sức gần gũi và giàu ý nghĩa đã giúp người đọc cảm nhận được hết lòng quyết
tâm, lời thề trung thành với nước với dân của nhà thơ.

Phân tích khổ 2 bài thơ Từ ấy - Mẫu 9


Tố Hữu là một trong những nhà thơ cách mạng nổi tiếng nhất, ông có những tác phẩm thơ sống mãi
như tập Việt Bắc (1947-1954), tập Gió lộng (1955-1961), tập Ra trận (1962-1971), Máu và hoa
(1972-1977),…. Một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của ông là bài Từ ấy. Từ ấy là bài thơ mở
đầu cho con đường cách mạng, con đường thi ca của Tố Hữu, bài thơ đồng thời là một chân lí sống
của tác giả trong cuộc sống. Khổ 2 của bài thơ thể hiện sự nhận thức của tác giả về chân lí sống, lẽ
sống mới qua lí tưởng đảng. Chúng ta cùng đi tìm hiểu khổ 2 của bài thơ Từ ấy để hiểu rõ hơn
những vấn đề trong bài.

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người


Để tình trang trải khắp muôn nơi”
Động từ “buộc” được sử dụng một cách rất “đắt” trong câu thơ này. Nó là sự tự nguyện, là thái độ
mong muốn được gắn kết sẻ chia. Nhà thơ tự kết dính tấm lòng của mình với tất cả mọi người. Ông
xem mọi người đều là người thân của mình, đều là đồng chí anh em cùng chung hoạn nạn sướng
vui, để chính ông tự muốn ràng buộc bản thân mình với họ. Sự ràng buộc này không phải là một mối
quan hệ cụ thể, nó chính là sợi dây ân tình ân nghĩa sâu nặng mà Tổ Hữu muốn gắn kết giữa muôn
người. Ông muốn mọi người vui chung với niềm vui của ông, cùng chiêm nghiệm và giác ngộ lý
tưởng cách mạng để con đường kháng chiến thêm những anh hùng. Tố Hữu đã đi từ cái “tôi” cá
nhân đến cái “ta”chung ở tất cả mọi người. “Buộc” còn có nghĩa là tự mình phải có trách nhiệm gắn
bó với cộng đồng. Thân làm nam nhi sinh ra giữa đất trời, trách nhiệm nặng nề và vinh hạnh luôn
trên đôi vai người chiến sĩ, chính là nhiệm vụ giải phóng, bảo vệ tổ quốc. Mọi người ở đây là những
người nông dân Việt Nam, những con người hiền lành khổ cực, những con người cùng chung giai
cấp vô sản. Ta bỗng nhớ đến những câu thơ nói về chí làm trai:

“Đã mang tiếng ở trong trời đất


Phải có danh gì với núi sông”.
Tố Hữu muốn ánh sáng cách mạng được lan tỏa khắp nơi nơi, chiếu soi cho những cuộc đời đau
khổ, soi sáng cho những con đường còn mù mịt tăm tối, để cuối cùng, sức mạnh toàn dân tộc được
gắn chặt, trỗi dậy và hành động thực sự. Từ “trang trải” khiến ta liên tưởng tới tâm hồn của nhà thơ
đang trải rộng với cuộc đời: tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của từng con người cụ
thể. Nhà thơ tìm về sức mạnh của sự đoàn kết toàn dân tộc, cùng nhau nắm chặt tay chiến đấu để
trả nợ mối thù non sông. Điều này xuất phát từ ý thức giác ngộ cách mạng của người chiến sĩ Tố
Hữu lúc bấy giờ.

Có thể thấy rằng toàn bộ đoạn thơ là lời bộc bạch chân thành về tâm trạng của nhà thơ khi gặp ánh
sáng của cuộc đời mình. Với lối viết giản dị chân thành, Tố Hữu giúp độc giả hiểu và cảm nhận được
niềm vui sướng mãnh liệt đang trào dâng trong trái tim người lính anh hùng.

Phân tích khổ 2 bài thơ Từ ấy - Mẫu 10


Lý tưởng Cách mạng là ngọn đèn soi đường chỉ lối cho dân tộc ta, dẫn cả đất nước ta qua đêm
trường đen tối. Và đối với người thanh niên trẻ Tố Hữu, lí tưởng ấy đã cho ông một nguồn sống mới,
dạt dào, mạnh mẽ, chiếu rọi lên trái tim còn đang bơ vơ của ông. Và "Từ ấy" ra đời như một kết quả
tất yếu, đánh dấu lại trang đời bước sang trưởng thành của người thanh niên Cách mạng, đồng thời
nó còn là tiếng reo vui, hân hoan mà rộn rã Tố Hữu được lần đầu tiên đứng trong hàng ngũ của
Đảng. Điều đó được thể hiện rất rõ qua khổ thơ thứ 2 bài Từ ấy.

Tôi buộc lòng tôi với mọi người


Để tình trang trải khắp trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.
Khổ thơ thứ 2 của bài thơ là biểu hiện những nhận thức, lẽ sống mới của cái tôi trữ tình. Nhà thơ
nguyện dấn thân vào cuộc đời nhân dân, “cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu” với nhân dân. Đó là
nhận thức, là giác ngộ, là lẽ sống lớn. Nhà thơ kết nối “những tù nhân khốn nạn của bần cùng”, kết
nối “kiếp phôi pha” để rồi cuối cùng làm cho “mạnh khối đời” - khối đại đoàn kết dân tộc.

Giác ngộ lí tưởng, giác ngộ nhận thức, lẽ sống đối với người cộng sản, trước hết là giác ngộ về chỗ
đứng. Nhà thơ chủ động, tự giác hòa “cái tôi” với “cái ta” chung của mọi người, tự nguyện đứng
trong hàng ngũ những người lao khổ. Từ “buộc” thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm cao
độ của Tố Hữu nguyện gắn bó mật thiết, sống chan hòa với “mọi người”, với “trăm nơi”, với quần
chúng đông đảo khắp mọi miền đất nước. Nhóm từ “để tình trang trải” thể hiện tâm hồn nhà thơ như
muốn trải rộng với cuộc đời rộng lớn, tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với mọi cảnh ngộ của những
cuộc đời cần lao. Đây là điều khác biệt với các nhà thơ Mới đương thời, trong khi Tố Hữu giác ngộ
cách mạng và đi theo con đường lý tưởng thì các nhà thơ mới lại đang đau buồn với cái tôi bé nhỏ,
cô đơn, chôn chặt niềm đau trong những vần thơ bi lụy.

Nhận thức mới của Tố Hữu cũng thật khác xa với nhân vật Hạ Du (Thuốc – Lỗ Tấn), Hạ Du xa rời
quần chúng nhân dân để rồi ôm nỗi đau bi kịch của người cách mạng còn Tố Hữu lại biết đứng về
nhân dân lao khổ và giác ngộ trong hàng ngũ ấy.

“Để hồn tôi với bao hồn khổ


Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”
Hai câu thơ này đã khẳng định tình cảm hữu ái giai cấp của Tố Hữu. Tâm hồn của thi sĩ từ đây sẽ
nghiêng về phía “bao hồn khổ” để cảm thông, chia sẻ, để cá nhân hòa vào tập thể, tạo nên một sức
mạnh quần chúng đông đảo, vĩ đại. Sau này, khi đã trải qua gần 40 năm đời thơ, đời cách mạng, Tố
Hữu cũng đã viết: “Tất cả cùng tôi. Tôi với muôn người. Chỉ là một. Nên cũng là vô số!”. Thật đáng
quý biết bao tâm hồn cao đẹp ấy.

Nói tóm lại bài thơ “Từ ấy” là một bài thơ của một cái tôi tràn đầy cảm xúc. Đó là cái Tôi lần đầu
được giác ngộ lý tưởng và nguyện đem tất cả tinh thần và tuổi trẻ của mình phụng sự cho lý tưởng
cao cả ấy. Bài thơ còn là một tuyên ngôn nghệ thuật và mang đậm phong cách thơ Tố Hữu. Nó xứng
đáng là một tiếng hát lạc quan, yêu đời, đắm say lí tưởng, ngày nay vẫn làm xúc động hàng triệu trái
tim độc giả.

You might also like