Professional Documents
Culture Documents
Đánh Giá Năng L C NG Văn C A HS
Đánh Giá Năng L C NG Văn C A HS
GD&TĐ - Là một khâu trong quá trình dạy học, đánh giá vừa song song, vừa khép
lại quá trình ấy, đồng thời cũng định hướng, điều khiển, điều chỉnh, mở ra quá trình kế
tiếp.
Mọi sự đổi mới sẽ không thông đồng bén giọt, đạt được mục tiêu nếu như cái
“chốt” đánh giá không được khai thông và đồng hành cùng toàn bộ các khâu khác.
Bài viết tập trung vào việc đánh giá năng lực ngữ văn của học sinh trong các kì
thi/kiểm tra tập trung, từ đó mong muốn cùng nghĩ tiếp về một vấn đề được xem là trọng
điểm trong đề án đổi mới căn bản toàn diện giáo dục nước nhà những năm tới đây.
1. Chúng ta đang đánh giá như thế nào?
Thống kê lại các đề thi tốt nghiệp THPT và thi đại học khối C, D trong vài năm vừa
qua có thể nhận thấy một số điểm nổi bật sau đây:
- Về cấu trúc và nội dung: Mỗi đề thi gồm 3 câu, được chia làm 2 phần.
Câu 1 kiểm tra kiến thức văn học sử về tác giả, tác phẩm hoặc các chi tiết tiêu biểu
trong tác phẩm.
Câu 2 yêu cầu học sinh viết bài nghị luận xã hội ngắn trình bày ý kiến của bản thân
về một tư tưởng đạo lí, một hiện tượng đời sống, hoặc một vấn đề xã hội đặt ra từ tác phẩm
văn học (loại thứ ba này ít xuất hiện hơn trong các đề thi).
Câu 3 thuộc phần thứ 2 trong cấu trúc đề thi cho phép thí sinh của hai ban được
quyền lựa chọn để làm bài nghị luận văn học về các tác phẩm văn học trong chương trình
Ngữ văn lớp 12 (với đề thi tốt nghiệp THPT) và thêm một phần chương trình lớp 11 nữa
(đối với đề thi vào các trường đại học, cao đẳng).
- Về những động thái thay đổi so với cách kiểm tra, đánh giá trước đây:
Thứ nhất, đó là sự xuất hiện của các bài văn nghị luận xã hội, một trong những biểu
hiện rõ rệt nhất của quan điểm dạy học Ngữ văn trong nhà trường cần gắn với thực tiễn đời
sống và tính chất công cụ của môn học bên cạnh những thuộc tính đặc trưng khác vốn được
nhấn mạnh.
Đã có những vấn đề thời sự của đời sống, những giá trị căn cốt của con người,
những quan điểm lựa chọn hành động của cá nhân... được đưa vào đề nghị luận xã hội như
một cơ hội để học sinh được chứng tỏ vị thế của mình với tư cách một công dân có ý thức
trách nhiệm với bản thân và với cuộc đời.
Thứ hai, bắt đầu từ quan niệm về đọc hiểu văn bản và việc dạy học đọc hiểu văn
bản văn học, các đề thi có xu hướng quan tâm đến hoạt động cảm thụ văn học của học
sinh.
Câu hỏi thứ nhất trong các đề kiểm tra gần đây hầu như không kiểm tra thuần túy
về tri thức văn học sử mà quan tâm nhiều hơn đến chi tiết nghệ thuật và việc cắt nghĩa các
chi tiết ấy trong chỉnh thể tác phẩm.
Có thể quan niệm tri thức văn học sử về tác giả tác phẩm và nhiều kiến thức khác
chỉ là công cụ để học sinh sử dụng chiếm lĩnh văn bản mà có sự thay đổi ấy chăng?
Cũng có thể là từ nhận thức về thực trạng học sinh không chịu đọc văn bản, chỉ “ăn
theo, nói leo” nhớ ý rồi diễn dịch theo những điều thầy cô và sách tham khảo đã cung cấp
nên cách ra đề cũng là một kiểu để học sinh không thể “trên mây dưới gió”, mù mờ về tác
phẩm, mà cần bắt đầu từ chính câu chữ trong văn bản.
Thứ ba, xu hướng ra đề mở ít nhiều đã đem đến những đề văn/câu hỏi sáng tạo, đòi
hỏi người học cần động não, tư duy, tổ chức lại kiến thức, nhìn rộng ra các vấn đề của đời
sống, thay vì chỉ đóng khung thuần túy trong cánh cửa nhà trường.
Tuy vậy, phải thấy rằng những động thái trên đây chưa thực sự làm nên sinh khí
của đổi mới, chưa đủ sức để tác động ngược trở lại quá trình dạy học, thậm chí còn có
những “hiệu ứng ngược” cản bước những đổi thay mạnh mẽ của phương pháp dạy và học
trong nhà trường.
Phạm vi thi tốt nghiệp và đại học chỉ thu hẹp trong các văn bản thuộc chương trình
lớp 12 và một phần của lớp 11. Nội dung kiểm tra, nhất là với các đề nghị luận văn học, lặp
đi lặp lại từ năm này sang năm khác với bấy nhiêu tác phẩm, bấy nhiêu vấn đề đã được cày
đi xới lại.
Mức độ kiểm tra đánh giá chủ yếu dừng lại ở việc tái hiện kiến thức, đòi hỏi học
sinh phải nhớ được vị trí, nội dung của từng chi tiết nghệ thuật, phải nắm chắc những gì đã
được thầy cô dạy dỗ để trả lại đầy đủ trong các bài thi.
Hệ quả tất yếu là tình trạng học tủ, học lệch, lò luyện thi và những kiểu học ôn theo
lối “diễn xướng”, những bài văn “nhân bản vô tính” không khỏi làm cho chúng ta thấy giật
mình.
2. Chúng ta muốn đánh giá điều gì và nên đánh giá ra sao?
Rõ ràng câu trả lời là muốn đánh giá năng lực ngữ văn của học sinh chứ không chỉ
dừng lại ở việc yêu cầu người học tái hiện lại những gì đã được giáo viên truyền trao và ôn
tập theo lối ghi nhớ máy móc.
Đánh giá năng lực là đánh giá khả năng biết làm một cách độc lập, sáng tạo, có ý
thức từ những kiến thức đã biết, những kĩ năng đã được vận dụng thuần thục.
Người có năng lực ngữ văn là người có khả năng đọc hiểu các văn bản văn hóa
thông tin nhật dụng của đời sống, các văn bản văn học có giá trị phù hợp với trình độ của
bản thân để có thể mở rộng hiểu biết, để vận dụng vào đời sống cá nhân và cộng đồng, để
giải trí, để thưởng thức, bồi dưỡng năng lực thẩm mĩ, làm phong phú, giàu có đời sống tâm
hồn, phát triển xúc cảm nhân văn, góp phần tạo nên một con người vừa hiểu biết về trí tuệ,
vừa giàu có về trái tim.
Có năng lực ngữ văn là có khả năng tạo lập các loại văn bản đáp ứng nhu cầu, mục
đích giao tiếp của bản thân và phù hợp với các điều kiện khác để đảm bảo đạt hiệu quả như
mong muốn.
Qua môn học, học sinh biết luyện khả năng nghe như là một kênh tiếp nhận thông
tin và thưởng thức thẩm mĩ, biết diễn đạt, sử dụng lời nói để trình bày và giao tiếp hiệu
quả.
Tóm lại, năng lực trong môn học Ngữ văn gắn liền với các kĩ năng nghe, nói, đọc,
viết, mở rộng ra là trình bày và xem (quan sát). Từ đó, môn học giúp học sinh biết sử dụng
ngôn ngữ như một công cụ giao tiếp đời sống và giao tiếp thẩm mĩ.
Không quan tâm đến giao tiếp đời sống sẽ dẫn đến việc người ta chỉ thấy học văn
chương là trốn vào thế giới của lầu ngà tháp ngọc, xa rời hơi thở của cuộc sống hàng ngày
và thờ ơ với việc chuẩn bị những gì có tính chất hành dụng cho người học.
Ngược lại, coi nhẹ giao tiếp thẩm mĩ có nguy cơ dung tục hóa, triệt tiêu khả năng
và sức mạnh riêng của văn học đối với đời sống tâm hồn con người.
Nhiều bài viết về lĩnh vực văn học trong nhà trường của một số học giả Nga trong
cuốn sách Một nền văn hóa biết xấu hổ đã cảnh báo và đau buồn về tình trạng này.
Còn Todorov cũng đã gióng lên tiếng chuông về một “nền văn chương đang lâm
nguy” và “bên kia biên giới là nhà trường” đáng để cho chúng ta phải suy nghĩ.
Trong các kì kiểm tra/ thi tập trung như hiện nay, do yêu cầu nhất định về tổ chức,
những năng lực ngữ văn cơ bản nhất chúng ta có thể đánh giá học sinh là năng lực đọc và
năng lực viết, và thực ra phương thức để đánh giá đọc cũng qua con đường viết.
Vì vậy, trước mắt hãy tập trung vào đổi mới đánh giá các năng lực này của học
sinh, tạo cơ sở để trao đổi, rút kinh nghiệm, suy nghĩ thêm các phương án đánh giá toàn
diện đối với bộ môn Ngữ văn ở nhà trường trong một tương lai gần.
Với cả hai năng lực này, cần xác định đánh giá ở hai mức độ: năng lực đọc, viết cơ
bản (literacy) và đọc, viết hồi ứng văn học (literary). Tùy vào tính chất, mục tiêu của từng
kì thi mà xác định trọng số cho từng mức độ/ phạm vi đó.
Chẳng hạn với các kì thi tốt nghiệp quốc gia tỉ lệ có thể là 50% cho mỗi nội dung,
còn trong các kì thi có tính chất lựa chọn, tinh tuyển hơn, con số tỉ lệ có thể là 30/70.