Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 20

BÀI 1 : LÀNG

Kim Lân
A. KIẾN THỨC CƠ BẢN
Tác giả - Kim Lân tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài, (1920-2007), quê ở
huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
- Ông là nhà văn chuyên viết truyện ngắn và đã có sáng tác đăng
báo trước Cách mạng tháng Tám 1945. Vốn gắn bó và am hiểu sâu
sắc cuộc sống ở nông thôn, Kim Lân hầu như chỉ viết về sinh hoạt
làng quê và cảnh ngộ của người nông dân.
- Phong cách nghệ thuật : Kim Lân có một lối viết tự nhiên,
chậm rãi, nhẹ nhàng, hóm hỉnh và giàu cảm xúc ; cách miêu tả rất
gần gũi, chân thực. Đặc biệt ông có biệt tài phân tích tâm lí nhân
vật.
Hoàn cảnh “Làng” được viết vào giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống
sáng tác Pháp. Trong thời kì này thì người dân nghe theo chính sách của
chính phủ: kêu gọi nhân dân ta tản cư, những người dân ở vùng
địch tạm chiếm đi lên vùng chiến khu để chúng ta cùng kháng
chiến lâu dài. – Kim Lân kể lại: “Hồi ấy gia đình tôi cũng đi sơ
tán. Trên khu ở mới, có tin đồn làng tôi là làng Việt gian. Mọi
người đều nhìn những người dân làng với con mắt chế giễu, khinh
thường. Tôi yêu ngôi làng của tôi và không tin làng tôi lại có thể đi
theo giặc Pháp. Tôi viết truyện ngắn “Làng” như thể để khẳng
định niềm tin của mình và minh oan cho làng tôi”
Xuất xứ Đăng lần đầu trên tạp chí Văn nghệ năm 1948.
Ý nghĩa - Xuyên suốt tác phẩm, nhà văn kể về làng chợ Dầu nhưng không
nhan đề lấy tên tác phẩm là « Làng chợ Dầu ». Nếu lấy tên tác phẩm là «
Làng chợ Dầu » thì câu chuyện sẽ trở thành chuyện riêng của một
cái làng cụ thể ; ông Hai sẽ trở thành người nông dân cụ thể của
làng chợ Dầu ấy. Như vậy, chủ đề tư tưởng của truyện bị bó hẹp,
không mang ý nghĩa khái quát.
- Tác giả đã sử dụng một danh từ chung là « Làng » mang ý nghĩa
khái quát để đặt tên cho tác phẩm. Đó sẽ là câu chuyện về những
làng quê nước ta trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp ;
ông Hai sẽ trở thành nhân vật biểu tượng cho người nông dân Việt
Nam yêu làng, yêu nước. Như vậy, chủ đề tư tưởng, ý nghĩa của
truyện được mở rộng.
Thể loại Truyện ngắn
Bố cục - Đoạn 1: Từ đầu…đến… “ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui
3 đoạn quá!”: Ông Hai trước khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc.
- Đoạn 2: Tiếp…đến…”cũng vợi được đi đôi phần”: Tâm trạng
của ông Hai khi nghe tin làng mình theo giặc.
- Đoạn 3: Còn lại: Tâm trạng của ông Hai khi tin làng mình theo
giặc được cải chính.
Tóm tắt Câu chuyện kể về ông Hai Thu, người làng Chợ Dầu. Khi cuộc
kháng chiến chống Pháp bùng nổ, theo lời kêu gọi của cụ Hồ Chí
Minh, toàn dân tham gia kháng chiến, kể cả hình thức tản cư. Do
hoàn cảnh neo đơn, ông Hai đã cùng vợ con lên tản cư ở Bắc Ninh
dù rất muốn ở lại làng chiến đấu. Ở nơi tản cư, tối nào ông cũng
sang nhà bác Thứ bên cạnh để khoe về làng mình rằng làng ông có
nhà cửa san sát, đường thôn ngõ xóm sạch sẽ. Ông khoe cái phòng
thông tin, cái chòi phát thanh và phong trào kháng chiến của làng,
khi kể về làng ông say mê, háo hức lạ thường. Ở đây, ngày nào
ông cũng ra phòng thông tin để nghe tin tức kháng chiến, ông vui
mừng trước những chiến thắng của quân dân ta. Nhưng rồi một
hôm, ở quán nước nọ, ông nghe được câu chuyện của một bà dưới
xuôi lên tản cư nói rằng làng Dỗu của ông theo giặc. Ông vô cùng
đau khổ, xấu hổ, cúi gầm mặt đi thẳng về nhà, suốt ngày chẳng
dám đi đâu, chẳng dám nói chuyện với ai, chỉ nơm nớp lo mụ chủ
nhà đuổi đi. Buồn khổ quá, ông tâm sự với đứa con út cho khuây
khoả. Ông chớm có ý định về làng để xác minh sự thật nhưng lại
tự mình phản đối vì nghĩ về làng, làng là bỏ kháng chiến, bỏ cụ
Hồ bởi làng ông đã theo Tây mất rồi. Thế rồi một hôm có ông chủ
tịch dưới xã lên chơi cải chính tin làng ông theo giặc. Ông lão
sung sướng mùa tay đi khoe khắp làng rằng nhà ông đã bị đốt
nhẵn. Tối hôm ấy, ông lại sang nhà bác Thứ kể về làng mình.
Chủ đề Truyện nói về tình yêu Làng của ông Hai Thu khi phải xa làng đi
tản cư, qua đó ca ngợi tình yêu quê hương đất nước và nhiệt tình
tham gia kháng chiến chống Pháp của người nông dân Việt Nam
Ngôi kể - Truyện được kể theo ngôi thứ ba.
- Tác dụng : làm cho câu chuyện trở nên khách quan và tạo cảm
giác chân thực cho người đọc.
Giá trị nội Tình yêu làng quê và lòng yêu nước, tinh thần kháng chiến của
dung người nông dân phải dời làng đi tản cư đã được thể hiện chân thực,
sâu sắc và cảm động ở nhân vật ông Hai trong truyện “Làng”.
Giá trị Tác giả đã thành công trong việc xây dựng tình huống truyện,
nghệ thuật trong nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật.
B. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM
1. Tình huống truyện:
a. Khái niệm tình huống truyện:
- Tình huống truyện là một hoàn cảnh có vấn đề xuất hiện trong tác phẩm.
Trong hoàn cảnh đó, nhân vật sẽ có hành động bộc lộ rõ nhất, điển hình nhất bản
tính của mình. Tính cách nhân vật sẽ rõ, chủ đề tác phẩm sẽ bộc lộ trọn vẹn.
b. Tình huống truyện trong truyện ngắn “Làng”:
- Tình huống truyện đặc sắc: khi ông Hai nghe được tin làng Chợ Dầu theo giặc.
+ Tác giả đã đặt nhân vật ông Hai vào một tình huống đối nghịch với tình cảm,
niềm tự hào mãnh liệt về làng Chợ Dầu của ông Hai: Một con người vốn yêu làng
và luôn hãnh diện về nó thì bỗng nghe tin làng lập tề theo giặc.
+ Vai trò: tạo tâm lí, diễn biến gay gắt trong nhân vật, làm bộc lộ sâu sắc tình
cảm yêu làng, yêu nước ở ông Hai.
- Ý nghĩa của tình huống truyện:
+ Về mặt kết cấu của truyện: tình huống này phù hợp với diễn biến của truyện,
tô đậm tình yêu làng, yêu nước của người nông dân Việt Nam mà tiêu biểu là nhân
vật ông Hai.
+ Về mặt nghệ thuật : tình huống truyện đã tạo nên một cái thắt nút cho câu
chuyện, tạo điều kiện để bộc lộ mạnh mẽ tâm trạng và phẩm chất của nhân vật, góp
phần thể hiện chủ đề của tác phẩm.
( Gây ra mâu thuẫn giằng xé tâm lí ông lão đáng thương và đáng trọng ấy; tạo ra
điều kiện để thể hiện tâm trạng và phẩm chất, tính cách của nhân vật thêm chân
thực và sâu sắc; góp phần giải quyết chủ đề tác phẩm: phản ánh và ca ngợi tình yêu
làng, yêu nước chân thành, giản dị của người nông dân Việt Nam trong cuộc kháng
chiến chống Pháp. Sự phát triển của câu chuyện sẽ bám theo cái tình huống oái
oăm này).
2. Diễn biến tâm trạng của ông Hai:
a. Trước khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc: ông là một người nông dân
mang tình yêu làng tha thiết.
- Trước Cách mạng tháng Tám: Ông tự hào, hãnh diện về làng và kể về nó với
niềm say mê, náo nức đến lạ thường: Ông khoe con đường làng lát đá xanh, trời
mưa đi chẳng lấm chân; ông khoe sinh phần của một vị quan tổng đốc trong làng;...
- Khi kháng chiến bùng nổ: ông khoe về một làng quê đi theo kháng chiến làm
cách mạng; ông kể một cách rành rọt những hố, những ụ , những giao thông hầm
hào;...
- Khi buộc phải tản cư, ông Hai đã rất nhớ về làng:
+ Ông thường xuyên chạy sang nhà bác Thứ để kể lể đủ thứ chuyện về làng, để vơi
đi cái nỗi nhớ làng.
+ Ông kể cho sướng cái miệng, cho vơi cái lòng mà không cần biết người nghe có
thích hay không.
+ Nhớ làng da diết – muốn về làng, muốn tham gia kháng chiến.
+ Ông thường xuyên theo dõi tình hình của làng cũng như tình hình chiến sự:
Mong nắng cho Tây chết, ở phòng thông tin, ông nghe được những tin chiến thắng
của quân ta -> Ruột gan ông cứ múa cả lên.
* Nhận xét: Ông Hai là người nông dân có tính tình vui vẻ, chất phác, có tấm
lòng gắn bó với làng quê và cuộc kháng chiến. Ông yêu thương, gắn bó với làng
quê, tự hào và có trách nhiệm với cuộc kháng chiến của làng.
Tạo ra một hoàn cảnh đặc biệt, Kim Lân đã thể hiện một cách rất tự nhiên, chân
thực tình cảm, niềm tự hào của ông Hai với làng chợ Dầu của mình.
b. Tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng theo giặc:
- Ông Hai nghe tin xấu về làng khi ông vừa ở phòng thông tin ra, còn đang lâng
lâng trong niềm vui chiến thắng của quân và dân ta. Khi nghe tin xấu ông Hai sững
sờ, xấu hổ, uất ức: “cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại,da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi
tưởng như không thở được”. Từ đỉnh cao của niềm vui, niềm tin ông Hai rơi xuống
vực thẳm của sự đau đớn, tủi hổ vì cái tin ấy quá bất ngờ. Khi trấn tĩnh lại được
phần nào,ông còn cố chưa tin cái tin ấy. Nhưng rồi những người tản cư đã kể rảnh
rọt quá, lại khẳng định họ “vừa ở dưới ấy lên” làm ông không thể không tin. Niềm
tự hào về làng thế là sụp đổ,tan tành trước cái tin sét đánh ấy. Cái mà ông yêu quí
nhất nay cũng đã quay lưng lại với ông. Không chỉ xấu hổ trước bà con mà ông
cũng tự thấy ông mất đi hạnh phúc của riêng ông, cuộc đời ông cũng như chết mất
một lần nữa.
- Từ lúc ấy trong tâm trí ông Hai chỉ còn có cái tin dữ ấy xâm chiếm, nó thành
một nỗi ám ảnh day dứt. Ông vờ lảng ra chỗ khác, rồi về thẳng nhà. Nghe tiếng
chửi bọn Việt gian, ông " cúi gằm mặt mà đi".
- Về đến nhà ông nằm vật ra giường rồi tủi thân nhìn lũ con “nước mắt ông lão
cứ giàn ra”.
+ Trong trạng thái khủng hoảng, giận dữ ông nắm chặt hai tay mà rít : "chúng bay
ăn miếng cơm hay ăn miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước
để nhục nhã thế này".
+ Niềm tin bị phản bội, những mối nghi ngờ bùng lên và giằng xé trong ông: " ông
kiểm điểm từng người trong óc".
=> Bao nhiêu điều tự hào về quê hương như sụp đổ trong tâm hồn người nông
dân rất mực yêu quê hương ấy. Ông cảm thấy như chính ông mang nỗi nhục của
một tên bán nước theo giặc, cả các con ông cũng sẽ mang nỗi nhục ấy.
- Sau giây phút ấy, tất cả dường như sụp đổ, tâm trí ông bị ám ảnh, lo lắng, day
dứt. Suốt mấy ngày ông không dám đi đâu. Ông quanh quẩn ở nhà,nghe ngóng tình
hình bên ngoài. “Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa
xa,ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý,
người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”. Thoáng nghe những tiếng Tây, Việt
gian, cam – nhông… là ông lủi ra một nhà,nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi!”
- Ông Hai rơi vào tình trạng bế tắc, tuyệt vọng khi nghĩ tới tương lai.
+ Ông lo cho số phận của những đứa con rồi sẽ bị khinh bỉ, hắt hủi vì là trẻ con
làng Việt gian: "Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị
người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu".
+ Ông lo cho bao nhiêu người tản cư làng ông sẽ bị khinh, tẩy chay, thù hằn, ghê
tởm: " Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian!... Suốt cái nước Việt Nam này
người ta ghê tởm, người ta thù hận cái giống Việt gian bán nước…"
+ Ông lo cho tương lai của gia đình rồi sẽ đi đâu, về đâu, làm ăn sinh sống ra sao:
"Rồi đi biết làm ăn, buôn bán làm sao? Ai người ta chứa".
- Nếu như trước đây, tình yêu làng và tình yêu nước hòa quyện trong nhau thì
lúc này, ông Hai buộc phải có sự lựa chọn. Quê hương và Tổ quốc, bên nào nặng
hơn? Đó không phải là điều đơn giản vì với ông, làng Chợ Dầu đã trở thành một
phần của cuộc đời, không dễ gì vứt bỏ; còn cách mạng là cứu cánh của gia đình
ông, giúp cho gia đình ông thoát khỏi cuộc đời nô lệ. Cuối cùng, ông đã quyết
định: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Như vậy, tình
yêu làng dẫu có thiết tha, mãnh liệt đến đâu cũng không thể mãnh liệt hơn tình yêu
đất nước. Đó là biểu hiện vẻ đẹp trong tâm hồn của con người Việt Nam, khi cần
họ sẵn sàng gạt bỏ tình cảm riêng tư để hướng tới tình cảm chung của cả cộng
đồng.
=> Quyết định của ông Hai đã khẳng định tình yêu nước mạnh mẽ, thiêng liêng,
rộng lớn, bao trùm lên tình cảm của làng quê. Điều gì đã khiến ông có sự lựa chọn
dứt khoát đó? Phải chăng chính niềm tin vào Đảng, cách mạng, kháng chiến đã
hướng ông có được sự lựa chọn đó.
- Nhưng dù đã dứt khoát như thế, ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm với nơi mà
ông đã sinh ra, lớn lên và gắn bó gần hết cuộc đời. Bởi vậy, ông muốn được tâm
sự, như để phân bua, để minh oan, cởi bỏ nỗi lòng.
+ Ông trút hết nỗi lòng vào những lời thủ thỉ, tâm sự với đứa con ngây thơ, bé
bỏng.
+ Tình yêu sâu nặng với làng, nên ông muốn lý trí và trái tim bé bỏng của con phải
khắc sâu, ghi nhớ câu: " Nhà ta ở làng chợ Dầu" - nơi chôn rau cắt rốn của bố con
ông.
+ Ông nhắc cho con về tấm lòng thủy chung với kháng chiến, với cụ Hồ của bố
con ông: " Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu, trên cổ soi xét
cho bố con ông".
+ Ông khẳng định tình cảm sâu nặng , bền vững và rất thiêng liêng ấy : " Cái lòng
của bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ
dám đơn sai".
-> Đó là một cuộc trò chuyện đầy xúc động. Nỗi nhớ quê, yêu quê, nỗi đau đớn
khi nghe tin quê hương theo giặc cứ chồng chéo đan xen trong lòng ông lão.
Nhưng trong ông vẫn cháy lên một niềm tin tưởng sắt đá, tin tưởng vào Cụ Hồ, tin
tưởng vào cuộc kháng chiến của dân tộc. Niềm tin ấy đã phần nào giúp ông có
thêm nghị lực để vượt qua khó khăn này. Dường như ông Hai đang nói chuyện với
chính mình, đang giãi bày với lòng mình và cũng như đang tự nhắc nhở: hãy luôn
“Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh”. Tình quê và lòng yêu nước thật sâu nặng và thiêng
liêng.
Dưới hình thức trò chuyện, tâm sự với đứa con, nhưng thực chất là lời tự vấn, để
tự minh oan và khẳng định tấm lòng thủy chung của mình với làng, kháng chiến,
cách mạng; để làm vơi đi phần nào những khổ tâm đã dằn vặt ông bấy lâu nay
* Nhận xét: Qua diễn biến tâm trạng của ông Hai, Kim Lân đã khám phá và làm
nổi bật những nét đẹp trong tâm hồn người nông dân cách mạng: hài hòa giữa lòng
yêu làng và tình yêu nước, nhiệt tình cách mạng.
c. Tâm trạng của ông Hai khi tin làng mình theo giặc được cải chính.
- Đúng lúc ông Hai có được quyết định khó khăn ấy thì cái tin làng Chợ Dầu phản
bội đã được cải chính. Sự đau khổ của ông Hai trong những ngày qua nhiều bao
nhiêu thì niềm phấn khởi và hạnh phúc của ông lúc này càng lớn bấy nhiêu, như có
một phép hồi sinh khiến thái độ ông Hai thay đổi hẳn: " Cái mặt buồn thiu mọi
ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên". Ông “bô bô” khoe với mọi người về cái tin
làng ông bị “đốt nhẵn”, nhà ông bị “đốt nhẵn”. Nội dung lời “khoe” của ông có vẻ
vô lí bởi không ai có thể vui mừng trước cảnh làng, nhà của mình bị giặc tàn phá.
Nhưng trong tình huống này thì điều vô lí ấy lại rất dễ hiểu: Sự mất mát về vật chất
ấy chẳng thấm vào đâu so với niềm vui tinh thần mà ông đang được đón nhận. Nhà
văn Kim Lân đã tỏ ra rất sắc sảo trong việc nắm bắt và miêu tả diễn biến tâm lí của
nhân vật. Đó là minh chứng hùng hồn, chứng minh cho làng ông, cho bố con gia
đình ông và những người tản cư trên đây không theo giặc, vẫn một lòng thủy
chung, tình nghĩa và sẵn sàng hy sinh tất cả cho kháng chiến.
Ông Hai chỉ là một người nông dân bình thường như bao người nông dân khác
nhưng ông đã biết hy sinh tài sản riêng của mình cho kháng chiến. Điều này cho
thấy cuộc kháng chiến chống Pháp đã đi sâu vào tiềm thức của người dân để trở
thành cuộc kháng chiến toàn dân.
=> Nhận xét: Từ một người nông dân yêu làng, ông Hai trở thành người công dân
nặng lòng với kháng chiến.Tình yêu làng, yêu nước đã hòa làm một trong ý nghĩ,
tình cảm, việc làm của ông Hai. Tình cảm ấy thống nhất,hòa quyện như tình yêu
nước được đặt cao hơn, lớn rộng lên tình làng. Đây là nét đẹp truyền thống mang
tinh thần thời đại. Ông Hai là hình ảnh tiêu biểu của người nông dân trong thời kì
kháng chiến chống Pháp.
Tình yêu làng và lòng yêu nước của ông Hai thực sự sâu sắc và khiến người đọc
vô cùng cảm động. Tin cải chính đã trả lại cho ông tình yêu, niềm tự hào sâu sắc về
làng. Nó đã xây dựng lên trong ông những " bức tường thành" vững chắc không
súng đạn nào có thể công phá, cháy rụi được.
3. Những đặc sắc về nghệ thuật
- Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện: Tác giả đặt nhân vật vào tình huống cụ
thể để thử thách nhân vật, để nhân vật tự bộc lộ chiều sâu tư tưởng và chủ đề của
truyện.
- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật:
+ Khắc họa thành công nhân vật ông Hai, một người nông dân yêu làng, yêu nước
tha thiết,...
+ Tác giả miêu tả rất cụ thể những diễn biến nội tâm từ suy nghĩ, hành động đến
ngôn ngữ,..
+ Với thủ pháp nghệ thuật đối thoại và độc thoại nội tâm đã diễn tả một cách chính
xác và mạnh mẽ những ám ảnh, day dứt của nhân vật.
Điều đó chứng tỏ Kim Lân am hiểu sâu sắc người nông dân và thế giới tinh thần
của họ .
- Nghệ thuật sử dụng ngôn từ rất đặc sắc:
+ Ngôn ngữ chuyện mang tính khẩu ngữ và lời ăn, tiếng nói hằng ngày của những
nông dân.
+ Lời kể chuyện và lời nói của nhân vật có sự thống nhất về sắc thái, giọng điệu.
+ Ngôn ngữ nhân vật vừa có nét chung của người nông dân Việt Nam cần cù, chịu
khó, lại vừa mang đậm những nét cá tính riêng của nhân vật nên rất sinh động.
- Cách trần thuật truyện tự nhiên, linh hoạt với những chi tiết sinh hoạt,đời sống
hàng ngày xen vào với mạch tâm trạng khiến cho chuyện sinh động hơn.
C. LUYỆN ĐỀ:
ĐỀ ĐỌC- HIỂU SỐ 1
Đọc phần trích sau rồi trả lời câu hỏi:
“Có người hỏi:
- Sao bảo làng Chợ Dầu tinh thần lắm cơ mà?
- Ấy thế mà bây giờ đổ đốn ra thế đấy!
Ông Hai trả tiền nước, đứng dậy, chèm.chẹp miệng, cười nhạt một tiếng, vươn
vai nói to:
- Hà, nắng gớm, về nào…
Ông lão vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác, rồi đi thẳng. Tiếng cười nói xôn xao của
đám người mới tản cư lên cứ vẫn dõi theo. Ông nghe rõ cái giọng chua lanh
lảnh của người đàn bà cho con bú:
- Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó! Đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn
thương. Cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát!
Ông Hai cúi gằm mặt xuống mà đi.Ông thoáng nghĩ đến mụ chủ nhà.
Về đến nhà, ông Hai nằm vật ra giường, mấy đứa trẻ thấy bố hôm nay có vẻ
khác, len lén đưa nhau ra đầu nhà chơi sậm chơi sụi với nhau.
Nhìn lũ con tủi thân, nước mắt ông lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con
làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Khốn
nạn, bằng ấy tuổi đầu…”
(Trích Làng – Kim
Lân)
Câu 1: Xác định nội dung của phần trích trên?
Câu 2: Tâm trạng đau đớn, tủi hổ của ông Hai được biểu hiện qua những chi tiết
nào trong phần trích.
Câu 3: Xác định ngôn ngữ độc thoại và độc thoại nội tâm có trong đoạn trích
trên? Các hình thức ngôn ngữ ấy có tác dụng thế nào trong việc thể hiện diễn
biến tâm lí nhân vật ông Hai?
Câu 4: Trong hai lời thoại được in đậm sau, phương châm hội thoại nào đã
không được tuân thủ
“Có người hỏi:
- Sao bảo làng Chợ Dầu tinh thần lắm cơ mà?
- Ấy thế mà bây giờ đổ đốn ra thế đấy!
Ông Hai trả tiền nước, đứng dậy, chèm. chẹp miệng, cười nhạt một tiếng,
vươn vai nói to:
-Hà, nắng gớm, về nào…
Ông lão vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác, rồi đi thẳng. […]
Câu 5: Từ tình yêu làng quê gắn liền với tình yêu đất nước của nhân vật ông Hai
và câu nói của nhà văn I-li-a Ê-ren-bua:
“Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào dãi trường giang Von-ga, con sông
Von-ga đi ra biển. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu làng quê trở nên lòng yêu
Tổ quốc”
Hãy viết một văn bản nghị luận ngắn (khoảng một trang giấy thi) trình bày
suy nghĩ của em về lòng yêu nước.
Hướng dẫn làm bài:
Câu 1: Nội dung của phần trích: Tâm trạng đau đớn tủi hổ của ông Hai khi nghe
mọi người chửi làng Chợ Dầu của ông việt gian bán nước
Câu 2: Xác định những chi tiết: vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác rồi đi thẳng, cúi
gằm mặt xuống mà đi, nằm vật ra giường, nước mắt giàn ra.
Câu 3: Độc thoại: - Hà, nắng gớm, về nào…
Độc thoại nội tâm: Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó
cũng bị người ta rẻ rung hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu…
* Tác dụng: Khắc họa sâu sắc tâm trạng đau đớn, dằn vặt của ông Hai; làm cho
câu chuyện sinh động hơn
Câu 4:
- Ấy thế mà bây giờ đổ đốn ra thế đấy! : vi pham phương châm về chất
- Hà, nắng gớm, về nào… : vi phạm phương châm quan hệ
Câu 5:
Yêu cầu về kỹ năng
- Nắm phương pháp làm văn nghị lận xã hội
- Bố cục rõ ràng
- Biết vận dụng các phương pháp nghị luận
- Văn phong trôi chảy, trong sáng, lập luận chặt chẽ, thuyết phục
Yêu cầu về kiến thức
Giới thiệu được vấn đề nghị luận: lòng yêu quê hương, đất nước.
Lòng yêu nước là gì?
- Nêu được một vài biểu hiện cụ thể của lòng yêu nước. (có dẫn chứng)
+ Trong lịch sử
+ Trong hoàn cảnh đất nước, xã hội hiện nay
+ Biểu hiện về lòng yêu nước ở một học sinh.
- Bàn bạc mở rộng và phê phán mặt trái của vấn đề.
3. Khẳng định ý kiến, quan điểm của bản thân về lòng yêu nước và nêu
phương hướng hành động.

ĐỀ ĐỌC- HIỂU SỐ 2
Đọc đoạn trích dưới đây và trả lời câu hỏi từ 1 đến 3:
“Ông lão bỗng ngừng lại, ngờ ngợ như lời mình không được đúng lắm (1). Chả lẽ
cái bọn ở làng lại đổ đốn đến thế được (2). Ông kiểm điểm từng người trong óc
(3). Không mà, họ toàn là những người có tinh thần cả mà (4). Họ đã ở lại làng,
quyết tâm một sống một chết với giặc, có đời nào lại can tâm làm cái điều nhục
nhã ấy!...(5)”
Câu 1: Đoạn trích trên nằm trong tác phẩm nào? Tác giả là ai?
Câu 2: “Ông lão” trong đoạn trích trên là nhân vật nào? Điều “nhục nhã” được nói
đến là điều gì?
Câu 3: Trong đoạn trích trên, những câu văn nào là lời trần thuật của tác giả,
những câu văn nào là lời độc thoại nội tâm của nhân vật? Những lời độc thoại nội
tâm ấy thể hiện tâm trạng gì của nhân vật?
Hướng dẫn làm bài:
Câu 1: Đoạn văn trên nằm trong tác phẩm Làng.- Tác giả là Kim Lân.
Câu 2:
- "Ông lão" trong đoạn trích trên là nhân vật ông Hai.
- "Điều nhục nhã" được nói đến là làng Chợ Dầu theo giặc.
Câu 3:
- Những câu văn là lời trần thuật của tác giả: (1), (3).
- Những câu văn là lời độc thoại của nội tâm của nhân vật: (2), (4), (5).
- Những lời độc thoại nội tâm ấy thể hiện tâm trạng của ông Hai: băn khoăn, day
dứt nhưng vẫn tin tưởng vào lòng trung thành của người dân làng Chợ Dầu với
cách mạng.
ĐỀ ĐỌC- HIỂU SỐ 3
“Dứt lời ông lão lại lật đật đi thẳng sang gian bác Thứ.
Chưa đến bực cửa, ông lão đã bô bô:
- Bác Thứ đâu rồi? bác Thứ làm gì đấy? Tây nó đốt nhà tôi rồi, đốt nhẵn! Ông chủ
tịch làng tôi vừa lên trên này cải chính, ông ấy cho biết... cải chính cái tin làng
Chợ Dỗu chúng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả.
Bác Thứ chưa nghe thủng câu chuyện ra sao, ông lão lại lật đật bỏ lên nhà trên.
- Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn. ông chủ tịch làng em vừa lên cải
chính... cải chính cái tin làng Chợ Dầu chúng em Việt gian ấy mà. Ra láo! Láo hết,
chẳng có gì sất. Toàn là sai sự mục đích cả!
Cũng chỉ được bằng ấy câu, ông lão lại đật bỏ đi nơi khác”.
( Ngữ văn 9 – tập 1)
( Tài liệu: Nguyễn Nga- nhóm ngữ văn THCS)
Câu 1: Đoạn trích trên trích trong văn bản nào? Tác giả là ai? Nêu hoàn cảnh sáng
tác?
Câu 2: Xác định từ xưng hô trong đoạn trích?
Câu 3: Tìm lời dẫn của nhân vật có trong đoạn trích. Cho biết đó là lời dẫn trực
tiếp hay gián tiếp?
Câu 4: Ông Hai nói: ”Làng chợ Dầu chúng em Việt gian” - tác giả sử dụng nghệ
thuật gì?
Câu 5: Nêu nội dung của đoạn trích trên?
Câu 6: Tại sao tác giả lại để ông Hai nói “sai sự mục đích”?
Câu 7: Nhân vật ông lão trong đoạn truyện trên nhà bị tây đốt thế mà lại đi thông
báo với mọi người như khoe về một chiến công. Hãy nêu cảm nhận của em về
hành động đó.
Hướng dẫn làm bài:
Câu 1: Đoạn truyện trên nằm trong tác phẩm “Làng”. Tác giả là Kim Lân.
Hoàn cảnh sáng tác: Truyện ngắn Làng được viết vào thời kì đầu của cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và đăng lần đầu tiên trên tạp chí Văn nghệ năm 1948
Câu 2: Từ xưng hô: tôi- ông chủ, em
Câu 3: Lời dẫn:
- Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn. Ông chủ tịch làng em vừa lên cải
chính....cải chính cái tin làng Chợ Dầu chúng em Việt gian ấy mà. Ra láo! Láo hết,
chẳng có gì sất. Toàn là sai mục đích cả.
( Lời dẫn trực tiếp)
Câu 4: Nói ”Làng Chợ Dầu chúng em Việt gian” là cách nói hoán dụ - lấy làng để
chỉ những người dân làng Chợ Dầu
Câu 5: Nội dung của đoạn trích: Ông Hai thông báo về việc làng ông không theo
Tây.
Câu 6: Sai sự mục đích: dùng với nghĩa là sai sự thật. Đúng ra phải dùng từ ”mục
kích” (nhìn thấy rõ ràng, tận mắt). Tác giả để ông Hai thích nói chữ nhưng dùng từ
không chính xác. Điều này cho ta thấy ngôn ngữ của nhân vật trong truyện rất đặc
sắc. Ngôn ngữ của nhân vật ông Hai vừa có nét chung của người nông dân, vừa
mang đậm cá tính của nhân vật nên rất sinh động
Câu 7:
Yêu cầu về kỹ năng
- Nắm phương pháp làm văn nghị luận văn học.
- Bố cục rõ ràng
- Biết vận dụng các phương pháp nghị luận
- Văn phong trôi chảy, trong sáng, lập luận chặt chẽ, thuyết phục
Yêu cầu về nội dung:
* Đoạn văn tham khảo:
Đối với người nông dân, căn nhà là cơ nghiệp của cả một cuộc đời. Vậy mà ông
Hai sung sướng hể hả loan báo cho mọi người biết cái tin ”Tây nó đốt nhà tôi rồi
bác ạ” một cách tự hào như khoe về một chiến công. Hành động này không bình
thường nhưng lại hoàn toàn chân thực. Cái sự việc phũ phàng kia là minh chứng
khẳng định làng ông không theo giặc. Dường như ông coi đó là một đóng góp cho
kháng chiến, là một niềm hạnh phúc. Trong niềm vui lớn lao ấy, sự mất mát kia
chẳng thấm vào đâu. Trong sự cháy rụi của nhà ông có sự hồi sinh của làng Chợ
Dầu, cái làng xứng đáng với tình yêu, niềm tự hào trong ông. Tài sản riêng bị phá
huỷ nhưng danh dự của làng được bảo toàn. Làng Chợ Dầu vẫn là làng anh dũng
kháng chiến. Đó là niềm vui kì lạ, thể hiện một cách đau xót và cảm động tinh thần
yêu nước và cách mạng của người dân VN trong kháng chiến.

ĐỀ ĐỌC- HIỂU SỐ 4
“… Nhưng sao lại nảy ra cái tin như vậy được? Mà thằng chánh Bệu thì đích là
người làng không sai rồi. Không có lửa làm sao có khói? Ai người ta hơi đâu bịa
tạc ra những chuyện ấy làm gì. Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian! Rồi
đây biết làm ăn, buôn bán ra sao? Ai người ta chứa. Ai người ta buôn bán mấy.
Suốt cả cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt
gian bán nước... Lại còn bao nhiêu người làng, tan tác mỗi người một phương
nữa, không biết họ đã rõ cái cơ sự này chưa?.”
Câu 1: Đoạn trích trên thuộc văn bản nào? Do ai sáng tác? Nêu hoàn cảnh sáng
tác?
Câu 2: Đoạn văn trên là suy nghĩ của nhân vật nào? Nhân vật đó đang ở trong
hoàn cảnh nào?
Câu 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong đoạn văn trên có gì đặc sắc?
Câu 4: Tìm một câu rút gọn có trong đoạn văn và chỉ rõ cách rút gọn?
Câu 5: Viết đoạn văn (khoảng 200 từ) trình bày cảm nhận của em về đoạn trích
trên?
Hướng dẫn làm bài:
Câu 1:
- Đoạn trích trên thuộc văn bản "Làng" do Kim Lân sáng tác.
- Hoàn cảnh sáng tác tác phẩm: sáng tác năm 1948 thời kì đầu của cuộc kháng
chiến chống Pháp.
Câu 2:
- Suy nghĩ đó là của nhân vật ông Hai.
- Ông đang trong hoàn cảnh đau khổ, nhục nhã khi nghe tin làng Chợ Dầu làm Việt
gian theo Tây.
Câu 3:
- Nghệ thuật tự sự trong đoạn trích trên rất đặc sắc trong việc khắc họa nhân vật
của tác giả:
- Xây dựng nhân vật qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm (sử dụng nhiều câu hỏi tu từ)
nhằm mục đích nói lên những suy nghĩ của nhân vật.
- Làm nổi bật quá trình đấu tranh nội tâm của ông Hai sau khi nghe tin làng mình
theo giặc: băn khoăn không tin, rồi bắt buộc phải tin vì có bằng chứng và rồi nhục
nhã, lo lắng cho tương lai của gia đình, của người làng...
Câu 4:
- Câu rút gọn trong đoạn văn: Rồi đây biết làm ăn buôn bán ra sao?
- Bộ phận chủ ngữ được rút gọn .
Câu 5:
Học sinh viết được đoạn văn theo yêu cầu sau:
* Về hình thức: Đảm bảo kết cấu một đoạn văn, không mắc lỗi diễn đạt, dùng từ,
ngữ pháp
* Về nội dung: Trình bày được cảm nhận về tâm trạng của nhân vật ông Hai, đó là
sự nửa tin, nửa ngờ của ông Hai khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc. Buộc phải
tin đó là sự thật nên ông Hai lo sợ cho tương lai của những người làng Chợ Dầu
đang tản cư ở khắp nơi.
ĐỀ ĐỌC- HIỂU SỐ 5
“Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây…”, cái câu nói của người đàn bà tản cư
hôm trước lại dội lên trong tâm trí ông.
Hay là quay về làng?…
Vừa chớm nghĩ như vậy, lập tức ông lão phản đối ngay. Về làm gì ở cái làng ấy
nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ…
Nước mắt ông lão giàn ra. Về làng tức là chịu quay lại làm nô lệ cho thằng Tây
(…)
Ông Hai nghĩ rợn cả người. Cả cuộc đời đen tối, lầm than cũ nổi lên trong ý nghĩ
ông. Ông không thể về cái làng ấy được nữa. Về bây giờ ra ông chịu mất hết à?
Không thể được! Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù.”
Câu 1: Đoạn trích trên thuộc tác phầm nào, của tác giả nào? Ghi rõ thời gian sáng
tác tác phẩm.
Câu 2: Nêu nội dung của đoạn trích?
Câu 3: Câu “Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây..” là lời dẫn trực tiếp hay gián
tiếp?
Câu 4: Có bạn cho rằng đoạn trích trên đã sử dụng chủ yếu hình thức ngôn ngữ
độc thoại, lại có bạn cho rằng đó là đọc thoại nội tâm. Ý kiến của em thế nào?
Câu 5: Câu văn: “Hay là quay về làng?...” thuộc kiểu câu nào chia theo mục đích
nói? Dấu ngoặc kép trong đoạn văn tác dụng gì?
Câu 6: Có ý kiến cho rằng: Thành công trong cách xây dựng tình huống truyện
ngắn Làng là nhà văn đã đặt ông Hai vào những giằng xé nội tâm để buộc nhân vật
phải lựa chọn giữa tình yêu làng và tình yêu nước. Em hãy viết một đoạn văn
khoảng 12 câu lý giải ý kiến trên. Trong đoạn văn có sử dụng một câu hỏi tu từ và
một câu có chứa thành phần khởi ngữ.
Hướng dẫn làm bài:
Câu 1: Đoạn trích đó nằm trong truyện Làng của nhà văn Kim Lân, truyện được
viết năm 1948, thời kì đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Câu 2: Nêu nội dung của đoạn trích: sự giằng xé nội tâm của nhân vật ông Hai
giữa việc quay về làng hay ở lại.
Câu 3: Câu “Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây..” là lời dẫn trực tiếp
Câu 4: Đoạn văn trích này chủ yếu dùng ngôn ngữ độc thoại nội tâm, đó là những
lời nói bên trong của nhân vật, không nói ra thành tiếng.
Câu 5: Câu văn: “Hay là quay về làng?...” thuộc kiểu câu nghi vấn. Dấu ngoặc kép
trong đoạn văn tác dụng đánh dấu lời thoại trực tiếp.
Câu 6:
Yêu cầu về kỹ năng
- Nắm phương pháp làm văn nghị luận văn học.
- Bố cục rõ ràng
- Biết vận dụng các phương pháp nghị luận
- Văn phong trôi chảy, trong sáng, lập luận chặt chẽ, thuyết phục
Yêu cầu về nội dung: làm rõ tình yêu làng và tình yêu nước của ông Hai trước và
sau khi nghe tin làng Dầu theo giặc.
* Đoạn văn tham khảo:
(1) Truyện đã xây dựng được một tình huống đặc sắc, đó là khi ông Hai nghe được
tin làng Chợ Dầu theo giặc.
(2) Tác giả đã đặt nhân vật ông Hai vào một tình huống đối nghịch với tình cảm,
niềm tự hào mãnh liệt về làng Chợ Dầu của ông Hai: Một con người vốn yêu làng
và luôn hãnh diện về nó thì bỗng nghe tin làng lập tề theo giặc.
(3) Tình huống đó đã tạo nên nút thắt cho câu chuyện, tạo điều kiện để bộc lộ
mạnh mẽ tâm trạng và phẩm chất của nhân vật, góp phần thể hiện chủ đề của tác
phẩm.
(4) Đồng thời, gây ra mâu thuẫn giằng xé tâm lí nhân vật, tạo ra điều kiện để thể
hiện tâm trạng và phẩm chất, tính cách của nhân vật thêm chân thực và sâu sắc.
(5) Tình huống truyện góp phần giải quyết chủ đề tác phẩm: phản ánh và ca ngợi
tình yêu làng, yêu nước chân thành, giản dị của người nông dân Việt Nam trong
cuộc kháng chiến chống Pháp.
ĐỀ ĐỌC- HIỂU SỐ 6
Cho đoạn trích sau:
Ông nằm vật trên giường vắt tay lên trán nghĩ ngợi vẩn vơ. Ông lại nghĩ về cái
làng của ông, lại nghĩ đến những ngày cùng làm việc với anh em. Ồ, sao mà độ
ấy vui thế. Ông thấy mình như trẻ ra. Cũng hát hỏng, bông phèng, cũng đào,
cũng cuốc mê man suốt ngày. Trong lòng ông lão lại thấy náo nức hẳn lên. Ông
lại muốn về làng, lại muốn được cùng anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân
đá… Không biết cái chòi gác ở đầu làng đã dựng xong chưa? Những đường
hầm bí mật chắc còn là khướt lắm. Chao ôi! Ông lão nhớ làng, nhớ cái làng
quá.
(Ngữ văn 9, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2016)
Câu 1: Đoạn văn trên được trích từ truyện ngắn nào? Của ai? Nêu hoàn cảnh ra
đời của truyện ngắn này.
Câu 2: Dòng cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật ông lão được thể hiện qua việc nhắc
lại các từ, cụm từ nào trong đoạn trích? Trong dòng cảm xúc, suy nghĩ ấy có
những kỉ niệm nào của ông với làng kháng chiến?
Câu 3: Xét mục đich nói, câu văn “Không biết cái chòi gác ở đầu làng đã dựng
xong chưa?” thuộc kiểu câu gì? Vì sao nỗi trăn trở của ông lão trong câu văn đó
lại là một biểu hiện tình cảm công dân.
Câu 4: Với hiểu biết của em về truyện ngắn trên, hãy viết một đoạn văn quy nạp
khoảng 15 câu, (có sử dụng thành phần phụ chú) để khẳng định: Truyện đã khắc
họa thành công hình ảnh những người nông dân trong kháng chiến .
Hướng dẫn làm bài:
Câu 1:
- Đoạn văn được trích từ truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân
- Hoàn cảnh ra đười của tác phẩm: Truyện ngắn được viết trong thời kì đầu của
cuộc kháng chiến chống Pháp và được đăng trên tạp chí văn nghệ năm 1948.
Câu 2:
- Dòng cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật ông lão được thể hiện qua việc nhắc lại
những từ, cụm từ trong đoạn trích: nghĩ ngợi, nghĩ về, nghĩ đến, muốn, nhớ.
- Trong dòng cảm xúc ấy, có những kỉ niệm của ông Hai với làng kháng chiến:
những ngày cùng làm việc với anh em, cũng hát hỏng bông phèng, cũng đào, cũng
cuốc, đào đường đắp ụ, xẻ hào, khuân đá…
Câu 3:
- Xét về mục đích nói, câu văn “Không biết cái chòi gác ở đầu làng đã dựng xong
chưa?”: Thuộc kiểu câu nghi vấn.
- Nỗi trăn trở của ông lão thể hiện tình cảm công dân vì:
+ Hình ảnh cái chòi gác ở đầu làng là hình ảnh tiêu biểu, là biểu hiện sống động và
thực tế không khí kháng chiến ở làng Chợ Dầu, ở nông thôn Việt Nam thời kì
kháng chiến chống Pháp.
+ Nỗi trăn trở của ông lão về cái chòi gác không biết đã dựng xong chưa chính là
sự quan tâm, nỗi niềm lo lắng đầy trách nhiệm của một công dân yêu nước với
phong trào cách mạng của làng ông, cho cuộc kháng chiến của dân tộc.
Câu 4:
a. Về hình thức:
- Học sinh viết đúng yêu cầu của một đoạn văn nghị luận văn học: lập luận chặt
chẽ, thuyết phục.
- Cách trình bày nội dung đoạn viết theo đúng cách quy nạp.
- Diễn đạt trong sáng, lưu loát, không mắc lỗi chính tả, lỗi dùng từ, lỗi viết câu;
trình bày rõ ràng, sạch đẹp.
- Độ dài đúng quy định: khoảng 15 câu.
b. Về thực hành tiếng Việt:
- Học sinh sử dụng thích hợp, chính xác, gạch chân và chú thích rõ ràng: Sử dụng
thành phần phụ chú.
c. Về nội dung:
- Truyện khắc họa thành công hình ảnh những người nông dân trong kháng chiến
* Đoạn văn tham khảo:
(1) Ông Hai trong truyện ngắn “ Làng” của nhà văn Kim Lân là một người nông
dân có tình yêu làng, hòa quyện với tình yêu đất nước.
(2) Hình ảnh ông Hai được miêu tả chủ yếu qua diễn biến nội tâm trước và sau khi
nghe tin làng Dầu (quê hương ông) theo giặc.
(3) Ở nơi tản cư, ông luôn nhớ làng, theo dõi tin tức kháng chiến.
(4) Ông đón nhận tin đồn làng chợ Dầu theo Tây giữa lúc tâm trạng đang vui
sướng vì những tin thắng trận của quân ta.
(5 Khi nghe tin, ông Hai sững sờ, xấu hổ và uất ức, niềm tự hào về làng thế là sụp
đổ tan tành trước cái tin sét đánh ấy.
(6) Về đến nhà ông nằm vật ra giường, rồi tủi thân nhìn đàn con, “nước mắt ông
lão cứ giàn ra”.
(7) Bao nhiêu câu hỏi dồn về xoắn xuýt, bủa vây làm tâm trạng ông rối bời trong
cơn đau đớn, hụt hẫng đến mê dại, dữ dằn và gay gắt.
(8) Suốt mấy ngày sau, ông bị ám ảnh nặng nề, không dám đi đâu…
(9) Những đau đớn, dằn vặt, sự hổ thẹn đến tột cùng đã đẩy ông Hai vào một tình
huống phải lựa chọn.
(10) Tình yêu quê hương và tình yêu tổ quốc xung đột dữ dội trong lòng ông.
(11) Cuối cùng ông đã quyết định: “không thể được! Làng thì yêu thật, nhưng làng
theo Tây mất rồi thì phải thù”.
(12) Như vậy, tình yêu làng dẫu có thiết tha, mãnh liệt đến đâu, cũng không thể
mạnh hơn tình yêu đất nước.
(13) Tâm sự với đứa con, ông Hai muốn bảo con nhớ câu “Nhà ta ở làng chợ
Dầu”, đồng thời ông nhắc con, cũng là tự nhắc mình “ủng hộ cụ Hồ Chí Minh”.
(14) Tấm lòng thuỷ chung với kháng chiến, với cách mạng thật sâu nặng, bền vững
và thiêng liêng.
(15) Ông Hai sung sướng khi tin đồn được cải chính: hả hê khoe Tây đốt nhà mình,
nỗi mất mát riêng chẳng thấm vào đâu so với hạnh phúc vì đó là minh chứng làng
ông theo kháng chiến, ủng hộ cách mạng.
(16) Hình ảnh ông Hai trong tác phẩm Làng của Kim Lân là hình ảnh tiêu biểu cho
những người nông dân Việt Nam yêu làng, yêu nước thời kì kháng chiến chống
Pháp.
- Thành phần phụ chú: (quê hương ông)
LÀNG
I.Tìm hiểu chung
1. Tác giả: Kim Lân
-Tên khai sinh Nguyễn Văn Tài (1920-2007),quê Từ Sơn – Bắc Ninh.
– Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, Kim Lân chỉ được học hết bậc tiểu học rồi phải
đi làm. Kim Lân bắt đầu viết văn từ năm 1941.
– Ông là nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Vốn am hiểu và gắn bó sâu sắc cuộc
sống nông thôn, Kim Lân hầu như chỉ viết về đề tài sinh hoạt ở làng quê và cảnh
ngộ của người nông dân.
– Một số truyện đã thể hiện được không khí tiêu điều, ảm đạm của nông thôn Việt
Nam và cuộc sống lam lũ, vất vả của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám.
– Ông được dư luận chú ý nhiều hơn khi đi vào những đề tài độc đáo như tái hiện
sinh hoạt văn hóa phong phú ở thôn quê, qua đó góp phần biểu hiện vẻ đẹp tâm
hồn của người nông dân.
– Sau cách mạng tháng Tám, Kim Lân tiếp tục làm báo, viết văn và vẫn viết về
làng quê Việt Nam – mảng hiện thực mà từ lâu ông đã hiểu biết sâu sắc.
-Ngoài hoạt động sáng tác, nhà văn Kim Lân còn tham gia sân khấu và điện
ảnh,ông kịch, đóng phim. ( Tiêu biểu là vai Lão Hạc trong bộ phim “Làng Vũ Đại
ngày ấy”)
– Năm 2001, Kim Lân được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ
thuật. Ông mất năm 2007, sau một thời gian dài chống chọi với căn bệnh hen
suyễn.
– Các tác phẩm tiêu biểu: Nên vợ nên chồng, Vợ nhặt,Con chó xấu xí, Làng,…
2. Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sáng tác:
– “Làng” được viết và đăng báo trên tạp chí Văn nghệ năm 1948 – giai đoạn đầu
của cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong thời kì này thì người dân nghe theo chính
sách của chính phủ: kêu gọi nhân dân ta tản cư, những người dân ở vùng địch tạm
chiếm đi lên vùng chiến khu để chúng ta cùng kháng chiến lâu dài.
– Kim Lân kể lại: “Hồi ấy gia đình tôi cũng đi sơ tán. Trên khu ở mới, có tin đồn
làng tôi là làng Việt gian. Mọi người đều nhìn những người dân làng với con mắt
chế giễu, khinh thường. Tôi yêu ngôi làng của tôi và không tin làng tôi lại có thể đi
theo giặc Pháp. Tôi viết truyện ngắn “Làng” như thể để khẳng định niềm tin của
mình và minh oan cho làng tôi”.
b. Bố cục: 3 đoạn:
– Đoạn 1: Từ đầu…đến… “ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá!”: Ông Hai
trước khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc.
– Đoạn 2: Tiếp…đến…”cũng vợi được đi đôi phần”: Tâm trạng của ông Hai khi
nghe tin làng mình theo giặc.
– Đoạn 3: Còn lại: Tâm trạng của ông Hai khi tin làng mình theo giặc được cải
chính.
c. Chủ đề:Tình yêu quê hương, đất nước.
d. Tóm tắt văn bản:
Ông Hai là người làng Chợ Dầu. Trong kháng chiến chống Pháp, ông phải đưa gia
đình đi tản cư. Ở đây, lúc nào ông cũng nhớ làng và luôn dõi theo tin tức cách
mạng.Khi nghe tin đồn làng Chợ Dầu theo giặc, ông vô cùng đau khổ, cảm thấy
xấu hổ, nhục nhã. Ông không đi đâu, không gặp ai, chỉ sợ nghe đồn về làng ông
theo giặc. Nỗi lòng buồn khổ đó càng tăng lên khi có tin người ta không cho những
người làng ông ở nhờ vì là làng Việt gian. Ông không biết bày tỏ với ai,không dám
đi ra ngoài. Thế là ông đành nói chuyện với thằng con út cho vơi nỗi buồn, cho nhẹ
bớt những đau khổ tinh thần. Khi nhận tin cải chính, vẻ mặt ông tươi vui, rạng rỡ
hẳn lên. Ông chia quà cho các con, và tất bật báo tin cho mọi người rằng nhà ông
bị Tây đốt, làng ông không phải là làng Việt gian. Ông thêm yêu và tự hào về cái
làng của mình.
II – Đọc – hiểu văn bản
1. Tình huống truyện:
a. Khái niệm tình huống truyện:
– Tình huống truyện là một hoàn cảnh có vấn đề xuất hiện trong tác phẩm. Trong
hoàn cảnh đó, nhân vật sẽ có hành động bộc lộ rõ nhất, điển hình nhất bản tính của
mình. Tính cách nhân vật sẽ rõ, chủ đề tác phẩm sẽ bộc lộ trọn vẹn.
b. Tình huống truyện trong truyện ngắn “Làng”:
– Đó là khi ông Hai nghe được tin làng Chợ Dầu theo giặc.
=> tình huống đối nghịch với tình cảm tự hào mãnh liệt về làng Chợ Dầu của ông
Hai. Khác với suy nghĩ về một làng quê “Tinh thần cách mạng lắm” của ông.
=> Vai trò: tạo tâm lí, diễn biến gay gắt trong nhân vật, làm bộc lộ sâu sắc tình
cảm yêu làng,yêu nước ở ông Hai.
Xét về mặt hiện thực, chi tiết này rất hợp lí. Xét về mặt nghệ thuật nó tạo nên một
nút thắt cho câu chuyện; gây ra mâu thuẫn giằng xé tâm lí ông lão đáng thương và
đáng trọng ấy; tạo ra điều kiện để thể hiện tâm trạng và phẩm chất, tính cách của
nhân vật thêm chân thực và sâu sắc; góp phần giải quyết chủ đề tác phẩm: phản
ánh và ca ngợi tình yêu làng, yêu nước chân thành, giản dị của người nông dân
Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp.Sự phát triển của câu chuyện sẽ bám
theo cái tình huống oái oăm này.
2. Diễn biến tâm trạng của ông Hai:
a. Trước khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc:
– Nhớ làng da diết – muốn về làng, muốn tham gia kháng chiến.
– Mong nắng cho Tây chết.
=> Yêu thương, gắn bó với làng quê, tự hào và có trách nhiệm với cuộc kháng
chiến của làng.
– Ở phòng thông tin, ông nghe được nhiều tin hay -> những tin chiến thắng của
quân ta -> Ruột gan ông cứ múa cả lên -> Quan tâm tha thiết, nồng nhiệt đến cuộc
kháng chiến.
=> Ông Hai là người nông dân có tính tình vui vẻ, chất phác, có tấm lòng gắn bó
với làng quê và cuộc kháng chiến.
b. Tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng theo giặc:
– Khi nghe tin xấu ông Hai sững sờ,xấu hổ, uất ức: “cổ ông lão nghẹn ắng hẳn
lại,da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi tưởng như không thở được”. Từ đỉnh cao của
niềm vui,niềm tin ông Hai rơi xuống vực thẳm của sự đau đớn, tủi hổ vì cái tin ấy
quá bất ngờ. Khi trấn tĩnh lại được phần nào,ông còn cố chưa tin cái tin ấy. Nhưng
rồi những người tản cư đã kể rảnh rọt quá, lại khẳng định họ “vừa ở dưới ấy lên”
làm ông không thể không tin. Niềm tự hào về làng thế là sụp đổ,tan tành trước cái
tin sét đánh ấy. Cái mà ông yêu quí nhất nay cũng đã quay lưng lại với ông. Không
chỉ xấu hổ trước bà con mà ông cũng tự thấy ông mất đi hạnh phúc của riêng
ông,cuộc đời ông cũng như chết mất một lần nữa.
-Từ lúc ấy trong tâm trí ông Hai chỉ còn có cái tin dữ ấy xâm chiếm,nó thành một
nỗi ám ảnh day dứt. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông“cúi gằm mặt mà đi”. Về
đến nhà ông nằm vật ra giường rồi tủi thân nhìn lũ con “nước mắt ông lão cứ giàn
ra”. Bao nhiêu điều tự hào về quê hương như sụp đổ trong tâm hồn người nông dân
rất mực yêu quê hương ấy. Ông cảm thấy như chính ông mang nỗi nhục của một
tên bán nước theo giặc, cả các con ông cũng sẽ mang nỗi nhục ấy.
– Suốt mấy ngày ông không dám đi đâu. Ông quanh quẩn ở nhà,nghe ngóng tình
hình bên ngoài. “Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa
xa,ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý,
người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”. Thoáng nghe những tiếng Tây, Việt
gian, cam – nhông… là ông lủi ra một nhà,nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi!”
– Ông Hai rơi vào tình trạng bế tắc, tuyệt vọng khi nghĩ tới tương lai. Ông không
biết đi đâu, về làng thi không được, vì về làng lúc này là đồng nghĩa với theo
Tây,phản bội kháng chiến. Ở lại thì không xong, vì mụ chủ nhà đã đánh tiếng xua
đuổi.Còn đi thi biết đi đâu bởi ai người ta chưa chấp dân làng Chợ Dầu phản bội.
Nếu như trước đây , tình yêu làng và tình yêu nước hòa quyện trong nhau thì lúc
này, ông Hai buộc phải có sự lựa chọn.Quê hương và Tổ quốc,bên nào nặng hơn?
Đó không phải là điều đơn giản vì với ông, làng Chợ Dầu đã trở thành một phần
của cuộc đời, không dễ gì vứt bỏ; còn cách mạng là cứu cánh của gia đình ông,
giúp cho gia đình ông thoát khỏi cuộc đời nô lệ. Cuối cùng, ông đã quyết định:
“Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Như vậy, tình yêu
làng dẫu có thiết tha, mãnh liệt đến đâu cũng không thể mãnh liệt hơn tình yêu đất
nước. Đó là biểu hiện vẻ đẹp trong tâm hồn của con người Việt Nam, khi cần họ
sẵn sàng gạt bỏ tình cảm riêng tư để hướng tới tình cảm chung của cả cộng đồng.
– Để ông Hai vợi bớt nỗi đau đớn,dằn vặt trong lòng và yên tâm về quyết định của
mình, tác giả đã cho nhân vật trò chuyện với đứa con út(thằng cu Húc), giúp ông
bày tỏ tình yêu sâu nặng với làng Chợ Dầu(nhà ta ở làng Chợ Dầu),bày tỏ tấm lòng
thủy chung son sắt với kháng chiến, với Cụ Hồ(chết thì chết có bao giờ dám đơn
sai). -> Đó là một cuộc trò chuyện đầy xúc động. Nỗi nhớ quê, yêu quê, nỗi đau
đớn khi nghe tin quê hương theo giặc cứ chồng chéo đan xen trong lòng ông lão.
Nhưng trong ông vẫn cháy lên một niềm tin tưởng sắt đá, tin tưởng vào Cụ Hồ, tin
tưởng vào cuộc kháng chiến của dân tộc. Niềm tin ấy đã phần nào giúp ông có
thêm nghị lực để vượt qua khó khăn này. Dường như ông Hai đang nói chuyện với
chính mình, đang giãi bày với lòng mình và cũng như đang tự nhắc nhở: hãy luôn
“Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh”. Tình quê và lòng yêu nước thật sâu nặng và thiêng
liêng.
=> Đau khổ tột cùng khi nghe tin làng mình theo giặc nhưng tấm lòng thủy chung,
son sắt với cuộc kháng chiến thì vẫn không hề thay đổi.
c. Tâm trạng của ông Hai khi tin làng mình theo giặc được cải chính.
– Đúng lúc ông Hai có được quyết định khó khăn ấy thì cái tin làng Chợ Dầu phản
bội đã được cải chính. Sự đau khổ của ông Hai trong những ngày qua nhiều bao
nhiêu thì niềm phấn khởi và hạnh phúc của ông lúc này càng lớn bấy nhiêu. Ông
“bô bô” khoe với mọi người về cái tin làng ông bị “đốt nhẵn”, nhà ông bị “đốt
nhẵn”. Nội dung lời “khoe” của ông có vẻ vô lí bởi không ai có thể vui mừng trước
cảnh làng, nhà của mình bị giặc tàn phá. Nhưng trong tình huống này thì điều vô lí
ấy lại rất dễ hiểu: Sự mất mát về vật chất ấy chẳng thấm vào đâu so với niềm vui
tinh thần mà ông đang được đón nhận. Nhà văn Kim Lân đã tỏ ra rất sắc sảo trong
việc nắm bắt và miêu tả diễn biến tâm lí của nhân vật.
=> Từ một người nông dân yêu làng, ông Hai trở thành người công dân nặng lòng
với kháng chiến.Tình yêu làng, yêu nước đã hòa làm một trong ý nghĩ, tình cảm,
việc làm của ông Hai. Tình cảm ấy thống nhất,hòa quyện như tình yêu nước được
đặt cao hơn, lớn rộng lên tình làng. Đây là nét đẹp truyền thống mang tinh thần
thời đại. Ông Hai là hình ảnh tiêu biểu của người nông dân trong thời kì kháng
chiến chống Pháp.
III. Tổng kết
1. Nội dung:
Truyện thể hiện chân thực, sinh động tình cảm yêu làng quê thống nhất với lòng
yêu đất nước ở nhân vật ông Hai.
2.Nghệ thuật:
-Tác giả sáng tạo tình huống truyện có tính căng thẳng, thử thách.
-Xây dựng cốt truyện tâm lí ( đó là chú trọng vào các tình huống bên trong nội tâm
nhân vật).
-Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tự nhiên mà sâu sắc,tinh tế.
-Ngôn ngữ đặc sắc,sinh động, mang đậm chất khẩu ngữ, gần với lời ăn tiếng nói
hằng ngày của người nông dân.

You might also like