Professional Documents
Culture Documents
Cơ S Văn Hóa Nhóm 7
Cơ S Văn Hóa Nhóm 7
Cơ S Văn Hóa Nhóm 7
Nhóm: 7
Thường vào mùa xuân là lúc những chàng trai người Dao đỏ đi kéo vợ. Những chàng
trai bản người Dao thường kéo vợ rầm rộ nhất bắt đầu từ ngày 1 Tết âm lịch đến hết
rằm tháng Giêng, bởi những thủ tục vào ngày Tết cũng thường đơn giản, không bị bắt
vạ. Theo phong tục, khi được kéo, cô gái càng tỏ ra chống đối quyết liệt thì sau này
gia đình sẽ con cái đầy nhà, vợ chồng thuận hòa hạnh phúc. Khi đám kéo chỉ cần một
người trong bản nhìn thấy sẽ loan tin cho cả bản biết, lúc đó đôi trai gái đó đã nên vợ
nên chồng.
Chàng trai sẽ thổi sáo, đánh đàn gửi gắm tình yêu, lời tỏ tình qua những câu hát da
diết, yêu thương. Khi đến gần sàn, chàng trai lấy một đoạn gỗ nhỏ chọc lên đúng chỗ
nàng nằm. Sau vài đêm chuyện trò như vậy, chàng trai thổ lộ chuyện muốn cưới cô
gái về làm vợ. Nếu cô gái đồng ý, chàng trai về thưa chuyện với bố mẹ và đưa bố mẹ
đến hỏi cưới.Sau đó, chàng trai phải ở rể nhà cô gái, trở thành một người trụ cột chính
trong gia đình.
MÔN: CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM – Nhóm 7 Trang: 7/19
3. Phong tục tập quán ngày Tết truyền thống
Miền Tây Bắc không chỉ nổi tiếng với núi rừng hoang sơ, hùng vĩ mà còn là nơi sinh
sống của rất nhiều dân tộc ít người với những nét văn hóa đặc sắc. Cùng đón tết
Nguyên Đán, song mỗi dân tộc miền Tây Bắc lại có một phong tục riêng rất độc đáo.
Tuy nhiên, dù mang những nét độc đáo đến kỳ lạ, thì các phong tục này đều hướng tới
ý nghĩa tốt đẹp là mong cầu một năm mới hạnh phúc, thịnh vượng và gặp nhiều may
mắn.
3.1 Tục gội đầu bằng nước gạo chua của người Thái trắng
Vào chiều 30 Tết Nguyên đán, người Thái trắng ở Sơn La có tục gội đầu để xua đi tất
cả những gì không may mắn trong năm qua - quả là một phong tục đón Tết kỳ lạ ở Tây
Bắc. Họ chuẩn bị những bát nước gạo đã được ngâm cho chua rồi xối từ từ lên tóc. Tập
tục này mang ý nghĩa gợi lên những điều tốt đẹp cho ngày mai bước vào năm mới thật
tinh khôi. Lễ gội đầu kết thúc là đến cuộc vui đua thuyền giữa nam và nữ.
3.2 Tục gọi vía trâu về ăn Tết của người Mường
Coi “con trâu là đầu cơ nghiệp”, trong những ngày Tết, người Mường cũng không
quên để cho con vật nuôi quan trọng này cùng ăn Tết với gia đình mình - Đây được
xem là phong tục đón Tết độc đáo ở Tây Bắc đã truyền đời từ rất lâu.
Trước ngày Tết vài bận, người dân sẽ chuẩn bị một chiếc mõ, qua giao thừa thì đốt đi
để gọi vía trâu về. Không chỉ vậy, người Mường còn treo những xâu bánh ống lên các
công cụ lao động thường ngày như cày, bừa, đòn gánh… để mời những “người bạn
thân thiết” này ăn Tết.
Phong tục đón Tết hay ho của người dân tộc Mường này có ý nghĩa rất nhân văn, thể
hiện lòng biết ơn của con người đối với con vật nuôi trung thành đã giúp đỡ gia chủ
việc đồng áng quanh năm. Người Mường quan niệm, sau một năm làm lụng vất vả,
con trâu hay cái cày cũng đều xứng đáng được nghỉ ngơi.
3.3 Tục hát thi cùng gà trống của người Pu Péo
Đây là một phong tục đón tết kỳ lạ của người dân Pu Péo, thuộc tỉnh Hà Giang. Trong
đêm giao thừa, người Pu Péo sẽ thức để canh chừng chú gà trống nhà mình. Khi chú
gà vỗ cánh chuẩn bị cất tiếng gáy, họ sẽ đốt một quả pháo ném vào chuồng để khiến
những chú gà trong chuồng thi nhau nhảy lên và gáy vang. Khi những tiếng gà gáy bắt
đầu vang vọng, người Pu Péo cũng theo đó mà hò hát vang trời. Đối với người Pu
Péo, tiếng gà gáy là dấu hiệu để đánh thức mặt trời, khởi đầu một ngày mới tốt lành.
Do đó, ai hát to, hát khỏe làm át được tiếng gáy thiêng liêng đó thì năm mới ắt sẽ gặp
nhiều điều may mắn, hạnh phúc.
3.4 Tục xem bói gan lợn thiến của người Hà Nhì
Lợn là gia súc quan trọng của đồng bào dân tộc miền núi phía Bắc, không chỉ mang
giá trị kinh tế, con vật này còn mang một số ý nghĩa quan trọng với một số tộc người,
như người Hà Nhì ở Lai Châu.
Theo phong tục lễ tết truyền thống của người dân tộc Hà Nhì, mỗi gia đình đều nuôi
một con lợn đực, vào ngày đầu năm, họ sẽ đem con lợn đi thiến, để dành tết năm sau
MÔN: CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM – Nhóm 7 Trang: 8/19
thì mổ con lợn đó để làm lễ cúng gia tiên. Thịt lợn là món ăn không thể thiếu trong
mâm cỗ Tết của đồng bào Hà Nhì, dù gia đình đó khá giả hay nghèo túng.
Khi mổ lợn để làm cỗ đón năm mới, người Hà Nhì đặc biệt chú ý đến lá gan. Nếu lá
gan lợn lành lặn, màu sắc tươi đỏ, túi mật căng đầy thì năm đó việc chăn nuôi, làm ăn
sẽ phát triển, thời tiết thuận hòa, gia đình hạnh phúc.
5. Phong tục tập quán về lối sống (ẩm thực, nhà ở, trang phục,...)
5.1 Văn hóa nông nghiệp
Tuy nông nghiệp không phải là một khía cạnh văn hóa phổ biến trong mỗi tiểu vùng
nhưng riêng với vùng văn hóa Tây Bắc, đây có thể coi là một yếu tố làm nên nét văn
hóa độc đáo của vùng.
Văn hóa nông nghiệp thung lũng Thái nổi tiếng vì hệ thống tưới tiêu, được gói gọn
trong 4 từ văn vần: " Mường - Phai - Lái –Lịn", lợi dụng độ dốc của dòng chảy dốc
của, người ta lấy đá ngăn suối làm nước dâng cao, đó là cái "phai". Phía trên "phai" xẻ
một đường chảy lên dẫn vào cánh đồng, đó là "mương" Từ "mương" xẻ những rãnh
chảy vào ruộng, đó là "lái". Còn "lịn" là cách lấy nước từ nguồn trên núi cao, dẫn về
ruộng, về nhà, bằng các cây tre đục rừng đục mấu, nối tiếp nhau, có khi dài hàng cây
5.2 Ẩm thực
Do sự ảnh hưởng của những điều kiện về địa lí, tự nhiên, lịch sử và đặc biệt là sự hòa
hợp của nhiều dân tộc trong văn hóa đã khiến cho ẩm thực Tây Bắc trở nên đa dạng
phong phú, mang nét độc đáo riêng.
Đặc điểm chung nhất trong thành phần thức ăn của các dân tộc vùng Tây Bắc - là tất
cả các món ăn đều được chế biến từ nguồn nguyên liệu hoàn toàn tự nhiên đó là gạo
tẻ, gạo nếp; các loại thịt như thịt trâu, thịt bò, cá, gà và một nguyên liệu đặc biệt
không nơi nào có là hoa ban. Hoa ban là một đặc trưng trong văn hóa ẩm thực của các
dân tộc Tây Bắc. Với người dân nơi đây, hoa ban không chỉ là một loài hoa đẹp, có
vai trò rất quan trọng trong đời sống vật chất, đời sống tinh thần, mà là một loài hoa
thể hiện khá độc đáo bản sắc văn hóa ẩm thực của dân tộc. Hoa ban có nhiều loại: ban
đỏ, ban tím, ban trắng, nhưng nhiều nhất vẫn là ban trắng. Hoa ban có vị hơi chát, hơi
ngọt và bùi. Người dân sử dụng hoa, lá ban non và hạt ban già để chế biến thành các
món ăn phục vụ cho các bữa ăn hằng ngày trong gia đình.
5.2 Về nhà ở
5.2.1 Nhà sàn Thái:
- Nhà sàn của người Thái - “hướng hạn phủ táy” là một công trình kiến trúc tài hoa,
hòa đồng với thiên nhiên, đất trời cùng vạn vật. Từ kiến trúc xây dựng đến nghệ
thuật trang trí đều bắt nguồn từ thực tế cuộc sống khách quan được cách điệu hóa
đạt tới trình độ thẩm mỹ cao.
- Nhà sàn của người Thái bao giờ cũng làm số gian lẻ, hai đầu hồi - “tụp cống”
khum khum như mai rùa, gắn với truyền thuyết về thuở khai thiên lập địa, thần rùa
“Pua tấu” dạy cho người Thái biết cách làm nhà theo hình rùa đứng.
- Người Thái có câu: “Khửn song phái/ cái song đay” - tức là mở hai cửa/ đi hai
đường. Nhà người Thái cổ bao giờ cũng có hai cầu thang: “Tang chan” và “Tang
quản”. “Tang chan” ở cuối nhà, bên trái dành cho phụ nữ lên xuống. “Chan” là
phần sàn nhà được nối dài ra ngoài trời. Đây là nơi các mẹ, các chị, các em...
thường ngồi chơi lúc nhàn rỗi, thêu thùa... cầu thang này bao giờ cũng mang số lẻ,
thường là 9 bậc, ứng với 9 vía. Cầu thang dành riêng cho nam giới - “tang quản” ở
đầu nhà, thường có 7 bậc ứng với 7 vía.
- Nhà sàn của người Thái cổ có hai bếp lửa - “Chík pháy”. Bếp lửa phía “tang quản”
dành cho người già, bếp chính ở phía “tang chang” dành cho nữ giới. Giữa núi
rừng trùng điệp, bếp lửa hồng trên nhà sàn như trái tim hồng, sưởi ấm và nuôi
dưỡng cả về vật chất và tinh thần cho mỗi con người.
- Từ bếp dành cho người già đến hết cầu thanh dành cho nam giới gọi là “quản”.
Đây là nơi dành riêng cho đàn ông, phụ nữ không được đến khu vực này, trừ một
số trường hợp đặc biệt. Nơi đây có gian thờ tổ tiên - “hỏng hóng” và cột thiêng -
“sau hẹ”. Trên cột thiêng treo hình thần rùa bằng gỗ, ba bông lúa - “sam huống
khẩu” và ba nhánh rau thì là - “sam hóm chík”... Ngoài ý nghĩa có tính biểu tượng
của tô tem giáo thì còn mang bóng dáng của thuyết thiên - địa - nhân.
- Ngôi nhà sàn của người Thái vừa trang nhã, vừa chắc chắn: “Hướn đi tẳng cang
tèn/ Hướn én tẳng cang vên/ Lốm luông pặt bấu chại/ Lốm hại pặt bấu pay” -
Nghĩa là: Nhà tốt dựng nơi cao ráo/ Nhà đẹp dựng giữa mường/ Gió to thổi không
xiêu/ Bão lớn không lay động.
- Nhà sàn được trang trí nhiều hoa văn họa tiết tinh xảo trên bậu cửa sổ, trên các tấm
ván hình răng cưa làm chấn song cửa sổ, trên “khau cút” của nhà người Thái đen.
“Khau cút” vẽ vân sen/ đầu kèo vẽ vân én/ mái nhà xén bằng dui - “khau cút tẻm
lai bua/ sinh dua tẻm lai én/ nhả ca bén tin con”, đã trở thành tiêu chí về vẻ đẹp của
ngôi nhà sàn người Thái đen Tây Bắc.
III. Ý nghĩa và vai trò của phong tục tập quán vùng Tây Bắc
1. Văn hóa
Vùng núi Tây Bắc Bộ là một địa bàn rộng lớn và là nơi sinh sống của nhiều dân tộc
thiểu số. Mỗi dân tộc đều có một nền văn hóa mang bản sắc riêng, đa dạng và độc đáo,
được thể hiện qua nhiều phương diện, trong đó có phong tục tập quán. Các giá trị văn
hóa đó được thử thách qua thời gian, trong những không gian khác nhau, trải qua sự
chắt lọc theo các giai đoạn lịch sử, được thể hiện trong sự tiếp biến của quá trình giao
lưu, hội nhập với các nền văn hóa khác. Nói đến giá trị văn hóa là nói đến những giá
trị tốt đẹp, tiêu biểu cho dân tộc, tạo nên bản sắc cho dân tộc.
2. Du lịch
Gần đây, du lịch văn hóa được xem là một trong những tài nguyên du lịch quý giá của
quốc gia, là loại sản phẩm đặc thù của các nước đang phát triển, thu hút nhiều khách
du lịch quốc tế. Du lịch văn hóa chủ yếu dựa vào những sản phẩm văn hóa, những
truyền thống dân tộc, những phong tục tín ngưỡng... để tạo sức hút đối với khách du
lịch bản địa và nước ngoài. Ở những nước đang phát triển, nền tảng phát triển hầu như
không dựa vào những điểm du lịch đắt tiền, mà thường dựa vào nguồn du lịch tự
nhiên và sự đa dạng trong bản sắc dân tộc. Những nguồn lợi này không tạo ra giá trị
lớn cho ngành du lịch, nhưng đóng góp đáng kể cho sự phát triển của cộng đồng xã
hội. Đây cũng là cơ hội tiềm năng phát triển du lịch mạnh mẽ của các tỉnh ở quốc gia
Việt Nam và đặc biệt ở các tỉnh miền núi Tây Bắc, một vùng đất giàu bản sắc văn hóa,
phong tục, tập quán và lễ hội.
Nhìn chung, phong tục tập quán Tây Bắc một trong những nét văn hóa độc đáo cần
được giữ gìn và phát triển. Tuy nhiên, càng đẩy mạnh quá trình khai thác các tiềm
MÔN: CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM – Nhóm 7 Trang: 19/19
năng du lịch đồng nghĩa với nguy cơ bản sắc văn hóa, PTTQ các DTTS bị mờ đi bởi
sự mới mẻ, khác lạ trên nhiều phương diện và ngành du lịch mang đến. Vì vậy, nếu
khai thác một cách hợp lý thì đây sẽ là một tài nguyên du lịch nhân văn rất giá trị,
nâng cao vị thế của ngành du lịch Việt nam với một nền du lịch văn hóa đậm nét dân
tộc, đồng thời sẽ góp phần giữ gìn được sự đa dạng về văn hóa vùng miền.
-Hết-