TIỂU LUẬN KTCT

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 24

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ

PHẠM KĨ THUẬT TP HỒ CHÍ MINH

NHÓM THỰC HIỆN ĐỀ TÀI

QUY LUẬT LƯU THÔNG TIỀN TỆ VÀ SỰ VẬN


DỤNG QUY LUẬT NÀY TRONG ĐIỀU TIẾT LẠM
PHÁT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.

ĐỀ CƯƠNG TIỂU LUẬN MÔN HỌC KINH TỄ CHÍNH TRỊ


MÁC - LÊNIN

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 04 năm 2023


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ
PHẠM KĨ THUẬT TP HỒ CHÍ MINH

NHÓM THỰC HIỆN ĐÈ TÀI

QUY LUẬT LƯU THÔNG TIỀN TỆ VÀ SỰ VẬN


DỤNG QUY LUẬT NÀY TRONG ĐIỀU TIẾT LẠM
PHÁT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.

ĐỀ CƯƠNG TIỂU LUẬN MÔN HỌC KINH TẾ CHÍNH TRỊ


MÁC – LÊNIN

Người hướng dẫn khoa học Nhóm sinh viên thực hiện

1. Đỗ Nguyễn Kim Tiên_22950022

2. Lương Ngọc Hân_22950007

3. Nguyễn Thị Kim_22950005

TS. Đặng Thị Minh Tuấn 4. Lê Hoàng Nguyên Phúc_22950017

Mã lớp học: LLCT120205_46

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 04 năm 2023


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU............................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUY LUẬT LƯU THÔNG TIỀN TỆ VÀ
LẠM PHÁT........................................................................................................................3
1.1. QUY LUẬT LƯU THÔNG TIỀN TỆ..............................................................3
1.1.1. Nội dung.............................................................................................................3
1.1.2. Vai trò.................................................................................................................3
1.2. LẠM PHÁT........................................................................................................4
1.2.1. Khái niệm............................................................................................................4
1.2.2. Phân loại.............................................................................................................4
1.2.3. Nguyên nhân.......................................................................................................4
1.2.4. Hậu quả...............................................................................................................5
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1..................................................................................................6
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM..........................................7
2.1. THỰC TRANG LẠM PHÁT TỪ NĂM 1975 ĐẾN NĂN 1990.....................7
2.2. THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 1990 ĐẾN NAY....9
2.2.1. Giai đoạn đầu tiên (1990-2000)..........................................................................9
2.2.2. Giai đoạn thứ hai (2000-2010)...........................................................................9
2.2.3. Giai đoạn thứ ba (2010-2020)...........................................................................10
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2................................................................................................11
CHƯƠNG 3: BIỆN PHÁP VẬN DỤNG QUY LUẬT LƯU THÔNG TIỀN TỆ ĐỂ
KHẮC PHỤC LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM...................................................................13
3.1. BIỆN PHÁP VẬN DỤNG QUY LUẬT LƯU THÔNG TIỀN TỆ...............13
3.2. BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM.............................13
3.2.1. Những biện pháp cấp bách...............................................................................13
3.2.2. Những biện pháp mang tính chiến lược lâu dài................................................14
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3................................................................................................15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................17
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Lạm phát không còn là một khái niệm xa lạ mà là một hiện tượng kinh tế
phổ biến của các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Lạm phát
tồn tại ở cả thời kỳ kinh tế phát triển, ổn định lẫn khủng hoảng, suy thoái. Bởi vì
lạm phát là kết quả của sự tác động tổng hợp từ các yếu tố kinh tế khác nhau nên
thường gây khó khăn trong việc xác định nguyên nhân chủ yếu để có thể kiểm soát
lạm phát.

Về quy luật lưu thông tiền tệ, quy luật này được xây dựng và áp dụng trong
quá trình tiền tệ được lưu thông trên thị trường. Quy luật lưu thông tiền tệ giúp xác
định lượng tiền cần thiết cho lưu thông của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ do đó
có thể mang lại những hiệu quả tích cực cho nền kinh tế và giảm thiểu các ảnh
hưởng tiêu cực từ lạm phát.

Vì những lý do nêu trên, nhóm chúng em quyết định lựa chọn đề tài “Quy
luật lưu thông tiền tệ và sự vận dụng quy luật này trong điều tiết lạm phát ở
Việt Nam hiện nay” để làm nội dung nghiên cứu.

2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài


Bài tiểu luận sẽ giải thích, phân tích, làm rõ nội dung của quy luật lưu thông
tiền tệ, khái niệm “lạm phát”, và đánh giá thực trạng lạm phát tại Việt Nam. Từ đó
đề ra các biện pháp mang tính khả thi để điều tiết lạm phát ở Việt Nam hiện nay.

Để đạt được mục tiêu này, tiểu luận tập trung vào các nhiệm vụ sau:

- Phân tích quy luật lưu thông tiền tệ và lạm phát

- Tìm hiểu, đánh giá thực trạng lạm phát ở Việt Nam

- Đề xuất biện pháp vận dụng quy luật lưu thông tiền tệ để khắc phục lạm
phát tại Việt Nam hiện nay.
3. Phương pháp thực hiện đề tài

1
Tiểu luận được dựa trên cơ sở phương pháp nghiên cứu lý thuyết với các
phương pháp nghiên cứu như phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp
quy nạp và diễn dịch, và phương pháp phân loại và hệ thống.
4. Dự kiến cấu trúc của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, tiểu luận dự kiến gồm có 03 chương:

Chương 1: Khái quát chung về quy luật lưu thông tiền tệ và lạm phát

Chương 2: Thực trạng lạm phát ở Việt Nam

Chương 3: Biện pháp vận dụng quy luật lưu thông tiền tệ và khắc phục lạm
phát ở Việt Nam

2
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUY LUẬT LƯU
THÔNG TIỀN TỆ VÀ LẠM PHÁT
1.1. QUY LUẬT LƯU THÔNG TIỀN TỆ

1.1.1. Nội dung


Theo Mác, quy luật lưu thông tiền tệ là quy luật tự xây dựng và thực hiện
trong quá trình kinh tế được lưu thông trên thị trường. Phản ánh quy định lượng
tiền cần thiết cho lưu thông sản phẩm trong một thời kỳ nhất định.
Một quy luật khác phản ánh đến quy luật lưu thông tiền tệ là quy luật
Gresham. Được đặt tên theo Thomas Gresham, một nhà tài chính ở triều đại
Tudor, quy luật này được nói lên khi chính phủ định giá cao một loại tiền này và
định giá thấp một loại tiền khác, làm cho tiền bị định giá thấp bị mất đi trong khi
tiền được định giá cao được đưa vào lưu thông. Một định nghĩa khác là “đồng tiền
xấu đẩy đồng tiền tốt ra khỏi lưu thông”. Ở đây, “tiền xấu” là tiền không có giá trị
bằng kim loại mà làm ra nó và “tiền tốt” là tiền có giá trị gần bằng hoặc ngang với
giá trị của kim loại nó được làm từ.
Nhưng trong bài tiểu luận này chúng tôi sẽ dùng định nghĩa về quy luật lưu
thông tiền tệ của Mác.
Trong quy luật lưu thông tiền tệ của Mác thì nội dung chỉ ra rằng lượng tiền
cần thiết để thực hiện chứ năng lưu thông tỉ lệ thuận với tổng giá cả sản phẩm
trong lưu thông và tỉ lệ nghịch với tốc độ lưu thông của đồng tiền trong thời kì đó.
Trong đó
Tốc độ lưu thông của đồng tiền và số vòng quay trung bình của một đơn vị
tiền tệ phản ánh sự cung cầu thực tế trên thị trường; khi thấy tiềm năng của giao
dịch hoặc lợi nhuận qua việc đầu tư thì tiền tệ sẽ tham gia và luân chuyển qua các
chủ thể khác nhau, tạo ra sự quay vòng của tiền tệ để tạo ra giá trị mới chi nền
kinh tế
Tổng giá cả của mỗi loại sản phẩm cùng với khối lượng sản phẩm được đưa
vào lưu thông phản ánh những giá trị quy đổi ra tiền tệ của các sản phẩm trong
một thời kì nhất định. Tổng giá cả lưu thông sẽ bằng tổng giá cả của các loại sản
phẩm lưu thông.
1.1.2. Vai trò
Quy luật lưu thông tiền tệ sẽ có vai trò đặc biệt quan trọng quyết định đến
sự phát triển của nền kinh tế đánh giá sự phát triển của đất nước. Quy luật lưu
thông tiền tệ giúp cho chính phủ căn cứ để phát hiện cho việc lưu thông và có vai
trò như hệ thống ngân hàng nhà nước và kinh doanh điều hòa tiền tệ có đi không
chế được việc kiểm soát lạm phát, cùng cố sức mua để đồng tiền có thể chuyển
đổi. Đồng thời, góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng nền kinh tế theo hướng ngày
càng phát triển vững mạnh và thúc đẩy tăng trưởng và cải thiện vật chất. Việc
quản lý quy luật lưu thông tiền tệ sẽ tránh khỏi những nguy cơ dẫn đến lạm phát
và mất giá trị của đồng tiền.

3
1.2. LẠM PHÁT

1.2.1. Khái niệm


Lạm phát là sự tăng mức giá chung một cách liên tục của hàng hóa và dịch
vụ theo thời gian và sự mất giá trị của một loại tiền tệ nào đó. Khi mức giá chung
tăng cao, một đơn vị tiền tệ sẽ mua được ít hàng hóa và dịch vụ hơn so với trước
đây, do đó lạm phát phản ánh sự suy giảm sức mua trên một đơn vị tiền tệ.

1.2.2. Phân loại


Lạm phát có hai thái cực là: Lạm phát đình trệ và siêu lạm phát
Lạm phát đình trệ là một chu kỳ kinh tế được đặc trưng bởi tăng trưởng
chậm và tỷ lệ thất nghiệp cao kèm theo lạm phát. Các nhà hoạch định chính sách
kinh tế nhận thấy sự kết hợp này đặc biệt khó xử lý, vì cố gắng điều chỉnh một
trong các yếu tố có thể làm trầm trọng thêm một yếu tố khác.
Ngược lại, siêu lạm phát là một thuật ngữ để mô tả sự gia tăng giá chung
nhanh chóng, quá mức và ngoài tầm kiểm soát trong một nền kinh tế. Trong khi
lạm phát đo lường tốc độ tăng giá của hàng hóa và dịch vụ, siêu lạm phát là lạm
phát gia tăng nhanh chóng, thường đo lường hơn 50% mỗi tháng.
Là người tiêu dùng, chúng ta có thể ghét giá cả tăng cao, nhiều nhà kinh tế
tin rằng mức độ lạm phát vừa phải là lành mạnh cho nền kinh tế của một quốc gia.
Thông thường, các ngân hàng trung ương đặt mục tiêu duy trì lạm phát quanh mức
2% đến 3%. Lạm phát gia tăng đáng kể ngoài phạm vi này có thể dẫn đến lo ngại
về siêu lạm phát có thể xảy ra.
Trên thế giới đã tồn tại một số trường hợp siêu lạm phát đáng chú ý trong
suốt lịch sử. Ví dụ nổi tiếng nhất là nước Đức vào đầu những năm 1920 khi lạm
phát lên tới 30.000% mỗi tháng. Zimbabwe đưa ra một ví dụ thậm chí còn cực
đoan hơn. Theo nghiên cứu của Steve H. Hanke và Alex K. F. Kwok, mức tăng giá
hàng tháng ở Zimbabwe ước tính đạt 79.600.000.000% vào tháng 11 năm 2008.
Lạm phát đình trệ cũng có thể tàn phá. Mặc dù những trường hợp của loại
lạm phát này hiếm khi xuất hiện, cái hiện tượng này đã xảy ra gần đây trong
những năm 1970, khi nó lan tràn khắp Hoa Kì và Vương Quốc Anh - khiến cho
ngân hàng trung ương của hai nước hổn loạn.
Thêm một loại lạm phát thứ ba được gọi là giảm phát là sự giảm giá chung
của hàng hóa và dịch vụ, thường liên quan đến việc giảm cung tiền và tín dụng
trong nền kinh tế. Trong thời kỳ giảm phát, sức mua của tiền tệ tăng theo thời
gian.
1.2.3. Nguyên nhân
Có 3 nguyên nhân gây ra lạm phát:

1.2.3.1. Lạm phát do cầu kéo


Lạm phát do cầu kéo xảy ra khi sự gia tăng cung tiền và tín dụng kích thích
tổng cầu về hàng hóa và dịch vụ tăng nhanh hơn năng lực sản xuất của nền kinh tế.
Điều này làm tăng nhu cầu và dẫn đến tăng giá.

4
Khi mọi người có nhiều tiền hơn, nó dẫn đến tâm lý tích cực của người tiêu
dùng. Điều này dẫn đến chi tiêu cao hơn, kéo giá cao hơn. Nó tạo ra khoảng cách
cung cầu với nhu cầu cao hơn và nguồn cung kém linh hoạt hơn, dẫn đến giá cao
hơn.
1.2.3.2. Lạm phát do chi phí đẩy
Lạm phát do chi phí đẩy là kết quả của việc tăng giá tác động thông qua các
yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất. Khi việc bổ sung nguồn cung tiền và tín
dụng được chuyển vào thị trường hàng hóa hoặc tài sản khác, chi phí cho tất cả các
loại hàng hóa trung gian sẽ tăng lên. Điều này đặc biệt rõ ràng khi có một cú sốc
kinh tế tiêu cực đối với việc cung cấp các mặt hàng chính.
Những phát triển này dẫn đến chi phí cao hơn cho thành phẩm hoặc dịch vụ
và làm tăng giá tiêu dùng. Ví dụ, khi cung tiền được mở rộng, nó sẽ tạo ra sự bùng
nổ đầu cơ về giá dầu. Điều này có nghĩa là chi phí năng lượng có thể tăng lên và
góp phần làm tăng giá tiêu dùng, được phản ánh trong các thước đo lạm phát khác
nhau.
1.2.3.3. Lạm phát tích hợp
Lạm phát tích hợp có liên quan đến kỳ vọng thích ứng hoặc ý tưởng mà mọi
người kỳ vọng tỷ lệ lạm phát hiện tại sẽ tiếp tục trong tương lai. Khi giá hàng hóa
và dịch vụ tăng lên, mọi người có thể mong đợi sự gia tăng liên tục trong tương lai
với tốc độ tương tự. Như vậy, người lao động có thể đòi hỏi nhiều chi phí hoặc
tiền lương hơn để duy trì mức sống của họ. Tiền lương của họ tăng dẫn đến chi phí
hàng hóa và dịch vụ cao hơn, và vòng xoáy giá tiền lương này tiếp tục khi một yếu
tố gây ra yếu tố kia và ngược lại.
1.2.4. Hậu quả

- Ảnh hưởng tiêu cực:


Người mua những tài sản như vậy có thể không hài lòng với lạm phát, vì họ
sẽ phải bỏ ra nhiều tiền hơn. Những người nắm giữ tài sản được định giá bằng
đồng nội tệ của họ, chẳng hạn như tiền mặt hoặc trái phiếu, có thể không thích lạm
phát, vì nó làm xói mòn giá trị thực của tài sản họ nắm giữ. Do đó, các nhà đầu tư
muốn bảo vệ danh mục đầu tư của mình khỏi lạm phát nên xem xét các loại tài sản
được phòng ngừa lạm phát, chẳng hạn như vàng, hàng hóa và ủy thác đầu tư bất
động sản (REITs). Trái phiếu chỉ số lạm phát là một lựa chọn phổ biến khác cho
các nhà đầu tư để kiếm lợi nhuận từ lạm phát.
Tỷ lệ lạm phát cao và biến đổi có thể gây ra chi phí lớn cho nền kinh tế.
Các doanh nghiệp, người lao động và người tiêu dùng đều phải tính đến tác động
của việc giá cả tăng cao trong các quyết định mua, bán và lập kế hoạch của họ.
Điều này tạo thêm một nguồn bất ổn cho nền kinh tế, bởi vì họ có thể đoán sai về
tỷ lệ lạm phát trong tương lai. Thời gian và nguồn lực dành cho việc nghiên cứu,
ước tính và điều chỉnh hành vi kinh tế dự kiến sẽ tăng lên mức giá chung. Điều đó
trái ngược với các nguyên tắc cơ bản kinh tế thực sự, vốn chắc chắn gây ra chi phí
cho toàn bộ nền kinh tế.

5
Ngay cả tỷ lệ lạm phát thấp, ổn định và dễ dự đoán, mà một số người cho là
tối ưu, cũng có thể dẫn đến những vấn đề nghiêm trọng trong nền kinh tế. Đó là do
tiền mới được đưa vào nền kinh tế như thế nào, ở đâu và khi nào. Bất cứ khi nào
tiền và tín dụng mới vào nền kinh tế, nó luôn nằm trong tay của các cá nhân hoặc
công ty kinh doanh cụ thể. Quá trình điều chỉnh mức giá đối với nguồn cung tiền
mới diễn ra khi họ tiêu tiền mới và nó luân chuyển từ tay này sang tay khác và tài
khoản này sang tài khoản khác trong nền kinh tế.
Lạm phát đẩy một số mức giá lên trước và đẩy các mức giá khác lên sau.
Sự thay đổi tuần tự về sức mua và giá cả này (được gọi là hiệu ứng Cantillon) có
nghĩa là quá trình lạm phát không chỉ làm tăng mức giá chung theo thời gian.
Nhưng nó cũng bóp méo giá cả tương đối, tiền lương và tỷ suất lợi nhuận trên
đường đi. Nhìn chung, các nhà kinh tế hiểu rằng sự biến dạng của giá tương đối
khỏi trạng thái cân bằng kinh tế của chúng là không tốt cho nền kinh tế, và các nhà
kinh tế Áo thậm chí còn tin rằng quá trình này là động lực chính của các chu kỳ
suy thoái trong nền kinh tế.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1


Qua những thông tin trên, chúng ta đã nhận biết được thế nào là quy luật
lưu thông tiền tệ, vai trò của nó trong nền kinh tế; đồng thời, ta cũng được rõ về
khái niệm của lạm phát, các loại lạm phát, các nguyên nhân phát sinh lạm phát và
các ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của nó lên nền kinh tế. Từ đó, chúng sẽ tiếp tục
tìm hiểu về thực trạng của vấn đề lạm phát ở nước ta trong các phần sau.

6
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
Thực trang lạm phát có mối quan hệ chặt chẽ với tình hình kinh tế chính trị
và lich sử. Do vậy, quá trình tìm hiểu về thực trang lạm phát sẽ gắn liền với các
mốc lịch sử. Lấy năm 1990 làm mốc thời gian chính cho việc chia giai đoạn để tìm
hiểu thực trạng lạm phát vì đây là mốc thời có ý nghĩa lịch sử to lớn. Đường lối và
chính sách của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn này, cụ thể là thực hiện đường
lối đổi mới được đề ra lần đầu tiên tại Đại hội VI (12-1986), được điều chỉnh, bổ
sung và phát triển tại Đại hội VII (1991), VIII (1996), IX (2001). Những chính
sách này đã tác động tích cực và góp phần cải thiện tình trạng lạm phát và đã mang
lại những mặt tích cực trong những năm 1990. Nhờ vậy, bộ mặt của Việt Nam từ
năm 1990 về sau đã có nhiều thay đổi, nhất là với tình hình lạm phát vốn đã diễn
ra phức tạp. Chính vì vậy, việc chọn năm 1990 làm mốc lịch sử là điều hợp lí để
thấy được mặt khác nhau về tình trạng lạm phát của Việt Nam trong hai giai đoạn
sau. Từ đó, tập hợp những giải giáp thích hợp để hạn chế lạm phát.

2.1. THỰC TRANG LẠM PHÁT TỪ NĂM 1975 ĐẾN NĂN 1990
Tình hình lạm phát ở Việt Nam từ năm 1990 trở về trước đã có những biến
động đáng kể. Cuộc khủng hoảng thứ nhất, tiềm ẩn từ cuối những năm 70, bùng
phát vào những năm 80. Cuộc khủng hoảng này bắt nguồn từ những khó khăn sau
chiến tranh, từ những hạn chế của cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp, từ hậu
quả sai lầm về giá - lương - tiền, cộng hưởng với khó khăn do sự bao vây cấm vận
của Mỹ. Hậu quả biểu hiện ở nhiều mặt. Tăng trưởng kinh tế thấp, có năm còn bị
sút giảm; bình quân thời kỳ 1977- 1980, thu nhập quốc dân chỉ tăng 0,4%/năm,
thấp xa so với tốc độ tăng dân số (2,31%/năm); bình quân thời kỳ 1977- 1985 chỉ
tăng 3,7%/năm. Sản xuất chỉ đáp ứng được 80 - 90% sử dụng; toàn bộ quỹ tích luỹ
và một phần quỹ tiêu dùng phải dựa vào viện trợ và vay nợ nước ngoài. Vay nợ và
viện trợ của nước ngoài 1976 - 1980 chiếm 38,2% tổng thu ngân sách; 1981 - 1985
chiếm 22,4%; tính đến năm 1985, nợ nước ngoài lên đến 8,5 tỷ rúp và 1,9 tỷ USD.
Lạm phát ngầm diễn ra với mức độ ngày càng cao; ngân sách bị thâm hụt và phải
bù đắp bằng việc in tiền để chi tiêu; lại gặp sai lầm "giá - lương - tiền" năm 1985,
nên lạm phát phi mã lên tới 774,7% vào năm 1986. Tuy nhiên, từ khi chính sách
đổi mới được đưa ra năm 1986, tình hình lạm phát của Việt Nam đã có sự cải thiện
đáng kể. Những chính sách có thể kể đến như chuyển dần từ nền kinh tế bao cập
sang nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, thực hiện kế
hoạch 5 năm (1986-1990),...
Nhưng đến những năm 1990, tình hình lạm phát ở Việt Nam lại bắt đầu trở
lại mức cao. Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, mức lạm phát của
Việt Nam kéo dài ở mức 3 rồi xuống hai chữ số cho đến 1990 – 1991.
Nguyên nhân chính của tình hình lạm phát này là do chính sách tài khóa của
chính phủ. Trong những năm 1990, chính phủ Việt Nam đã triển khai nhiều chính

7
sách tài khóa để hỗ trợ sản xuất, bao gồm cả việc tài trợ cho các doanh nghiệp nhà
nước và các quỹ tín dụng. Tuy nhiên, đồng thời, chính phủ cũng tăng cường chi
ngân sách để đầu tư vào các dự án cơ sở hạ tầng, gây áp lực lớn lên ngân sách và
dẫn đến mức lạm phát tăng cao.
Ngoài ra, sự suy giảm của nền kinh tế Việt Nam trong những năm 1990
cũng đã góp phần vào tình trạng lạm phát. Sự suy giảm này đã dẫn đến sự suy
giảm sản lượng và tăng chi phí sản xuất, làm tăng giá thành của các mặt hàng sản
xuất. Ngoài ra, đồng đô la Mỹ cũng đã tăng giá mạnh so với đồng tiền Việt Nam,
dẫn đến giá thành nhập khẩu tăng và góp phần vào tình trạng lạm phát.
Để khắc phục tình trạng lạm phát, chính phủ đã triển khai nhiều chính sách
khác nhau. Từ những năm 1990, chính phủ đã áp dụng các biện pháp như kiểm
soát giá cả, tăng cường quản lý tài khóa và tiền tệ, cải thiện năng suất lao động và
tăng cường quản lý thị trường. Cụ thể, chính phủ đã triển khai chính sách kiểm
soát giá cả bằng cách áp dụng giá cả kiểm soát cho một số mặt hàng quan trọng
như thực phẩm, nhiên liệu và điện năng. Chính sách này giúp hạn chế sự gia tăng
giá cả của các mặt hàng quan trọng, giảm thiểu tác động của lạm phát lên đời sống
người dân. Ngoài ra, chính phủ cũng tăng cường quản lý tài khóa và tiền tệ để hạn
chế sự gia tăng của lạm phát. Chính sách này bao gồm giảm chi ngân sách, cắt
giảm quy mô ngân sách và tăng thuế để tăng nguồn thu ngân sách. Đồng thời,
ngân hàng nhà nước cũng đã tăng cường quản lý tiền tệ bằng cách tăng lãi suất và
tăng trữ lượng tiền tệ, đưa lãi suất huy động lên đến 13%/tháng để hút tiền về và
kiềm chế lạm phát. Cải thiện năng suất lao động cũng được xem là một trong
những biện pháp quan trọng để hạn chế tình trạng lạm phát. Chính phủ đã triển
khai chính sách đầu tư vào cơ sở hạ tầng, nâng cao chất lượng đào tạo và đào tạo
lại nhân lực để tăng cường năng suất lao động và giảm chi phí sản xuất.
Cuối cùng, chính phủ cũng tăng cường quản lý thị trường bằng cách kiểm
soát hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và kiểm soát hoạt động nhập
khẩu, tránh tình trạng nhập siêu. Điều này giúp giảm sự cạnh tranh và hạn chế sự
gia tăng giá cả của một số mặt hàng.
Tuy nhiên, các biện pháp này cũng đã gây ra một số hạn chế. Ví dụ, giá cả
kiểm soát có thể gây ra sự thiếu hụt và gián đoạn trong cung cấp hàng hóa, trong
khi việc giảm chi ngân sách và tăng thuế có thể ảnh hưởng đến đời sống của người
dân. Ngoài ra, việc kiểm soát hoạt động kinh doanh và nhập khẩu có thể ảnh
hưởng đến sự cạnh tranh và khó khăntại thị trường và doanh nghiệp. Vì vậy, chính
phủ cần phải có một chiến lược cân bằng để hạn chế lạm phát một cách hiệu quả
mà vẫn đảm bảo các hoạt động kinh tế phát triển bền vững.

8
2.2. THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 1990 ĐẾN NAY

2.2.1. Giai đoạn đầu tiên (1990-2000)


Giai đoạn đầu tiên của đổi mới kinh tế với đặc trưng là nền kinh tế đang
chuyển đổi toàn diện từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ở giai đoạn này, lạm phát đã được
hạn chế từ mức 3 con số của giai đoạn trước xuống chỉ còn 2 con số, tuy nhiên,
đây cũng là một chỉ số đáng lo ngại.. Cụ thể, từ năm 1990 đến năm 1995, lạm phát
ở Việt Nam đã tăng từ 11% lên đến 28%, điều này làm tăng chi phí sản xuất, giảm
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và làm suy giảm giá trị của tiền tệ.
Các nguyên nhân dẫn đến tình hình lạm phát trong giai đoạn này là do các
vấn đề kinh tế kém hiệu quả, cải cách kinh tế chậm chạp, và chính sách tiền tệ
lỏng lẻo. Ngoài ra, tình trạng khủng hoảng tài chính ở Châu Á (1997) cũng đã ảnh
hưởng đến tình hình lạm phát ở Việt Nam. Cuộc khủng hoảng đã khiến nhu cầu
tiêu thụ hàng hóa ở thế giới nói chung và châu Á nói riêng giảm mạnh từ đó tác
động tiêu cực đến xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam và hệ quả đi kèm là hàng hóa
tồn đọng trong nước gia tăng. Bên cạnh đó, khủng hoảng cũng khiến cho nguồn
FDI, cầu du lịch và các loại hình dịch vụ giảm. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và
doanh thu dịch vụ giảm mạnh từ mức 43% năm 1991 xuống mức từ 7,3% -10,2%
năm 1999-2000.
Để kiểm soát lạm phát trong giai đoạn này, chính phủ đã thực hiện nhiều
biện pháp, trong đó có điều chỉnh chính sách tiền tệ và tài khóa. Chính phủ đã
giảm các khoản chi cho ngân sách, cắt giảm các chương trình trợ cấp và điều chỉnh
lãi suất. Luật Doanh nghiệp (2000) được ban hành đã dỡ bỏ các rào cản thành lập
doanh nghiệp, đơn giản thủ tục và giảm chi phí gia nhập thị trường, thiết lập môi
trường kinh doanh thuận lợi; tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước được
đẩy mạnh; hiệp định song phương với Mỹ (2001) được ký kết đã khuyến khích
sáng tạo và đem lại cơ hội cho hàng ngàn doanh nghiệp; sở giao dịch chứng khoán
(2000) được hình thành nền tảng ban đầu cho việc huy động vốn và đầu tư của
doanh nghiệp; và hàng loạt của bộ luật thương mại, đầu tư, đất đai... được sửa đổi
và bổ sung trong quá trình chuẩn bị gia nhập WTO. Tất cả các chính sách này đã
góp phần giải phóng và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, thúc đẩy sản
xuất và tăng trưởng trong một thời gian dài sau đó.

2.2.2. Giai đoạn thứ hai (2000-2010)


Giai đoạn này chứng kiến sự cải thiện đáng kể của tình hình lạm phát ở Việt
Nam. Từ năm 2000 đến năm 2005, mức tăng trưởng giá chỉ ở mức khoảng 4,4%.
Tuy nhiên, theo tạp chí cộng sản, mức lạm phát đã chạm mức 9,5% năm 2004 và
duy trì ở mức cao cho đến thời điểm này. Lần đầu tiên trong vòng 10 năm trở lại
đây, lạm phát ở Việt Nam lại tăng lên tới 2 con số là 12,6% năm 2007.

9
Trái với giai đoạn trước năm 2004, đường tăng trưởng dài hạn thể hiện xu
hướng đi xuống rõ rệt, đặc biệt từ năm 2007. Các nguyên nhân dẫn đến tình hình
lạm phát trong giai đoạn này là do tình hình thế giới bất ổn, giá dầu tăng và giá các
mặt hàng nhập khẩu tăng cao. Ngoài ra, các chính sách kinh tế chưa đúng đắn,
việc tăng giá điện, xăng dầu cũng là một nguyên nhân dẫn đến tình hình lạm phát
trong giai đoạn này. Đây có thể xem là hậu quả của việc triển khai một loạt các
giải pháp kích cầu đầu tư và cải cách từ phía cung từ năm 1999 và những bất cấp
trong cơ cấu kinh tế. Việc theo đuổi mô hình phát triển kinh tế chú trọng vào tăng
trưởng, thiên về lượng nhiều hơn là về chất, tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào
sự gia tăng vốn đầu tư, sử dụng lao động rẻ, khai thác tài nguyên thô và gia công
hàng xuất khẩu,… trong khi hiệu quả sử dụng vốn thấp cũng là một nguyên nhân
căn bản gây áp lực lạm phát gia tăng.
Để kiểm soát lạm phát trong giai đoạn này, chính phủ đã thực hiện nhiều
biện pháp như kiểm soát giá cả, tăng thuế xuất nhập khẩu, điều chỉnh chính sách
tiền tệ và tăng cường quản lý giá cả. Nhờ đó, từ năm 2009 trở đi, mức tăng trưởng
giá chỉ ở mức khoảng 6%.

2.2.3. Giai đoạn thứ ba (2010-2020)


Trong giai đoạn này, tình hình lạm phát ở Việt Nam được kiểm soát tốt hơn
và duy trì ở mức thấp hơn so với giai đoạn trước đó. Từ năm 2010 đến năm 2015,
mức tăng trưởng giá chỉ ở mức khoảng 7%, và từ năm 2016 đến năm 2020, mức
tăng trưởng giá chỉ ở mức khoảng 3%.
Các nguyên nhân dẫn đến tình hình lạm phát trong giai đoạn này là do sự
tăng trưởng kinh tế chậm lại, cải cách kinh tế chưa đúng đắn, giá dầu giảm mạnh
và đặc biệt là các tác động của dịch bệnh COVID-19 đã gây ra ảnh hưởng đến tình
hình lạm phát, khiến nhu cầu tiêu dùng tăng cao trong bối cảnh nguồn cung hàng
hóa bị gián đoạn. Chính tình trạng cung không đủ cầu đã đẩy cao giá hàng hóa,
gây ra ảnh hưởng không nhỏ cho đời sống vốn đã khó khăn của người dân giữa
mùa dịch bệnh nguy hiểm. Ngoài ra, xung đột Nga - Ukraine khiến cho chuỗi cung
ứng nguyên, nhiên liệu phục vụ cho sản xuất bị đình trệ. Đây là hai đất nước có
vai trò quan trọng trong việc cung cấp nguyên nhiên liệu cho thị trường thế giới và
Việt Nam. Vậy nên đứt gãy nguồn cung xăng dầu, khí đốt và lương thực đã khiến
giá cả tăng vọt, tình trang lạm phát lại diễn biến phức tạp, ảnh hưởng đến sinh hoạt
của người dân.
Để kiểm soát lạm phát trong giai đoạn này, chính phủ đã thực hiện nhiều
biện pháp như giảm chi phí của nhà nước, cải cách tài chính công, tăng cường
quản lý giá cả và tăng cường kiểm soát giá cả thị trường và lãi xuất ngân hàng.

10
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Tổng quan, tình hình lạm phát ở Việt Nam đã có sự cải thiện đáng kể từ khi
đất nước mở cửa đổi mới đến nay. Tuy nhiên, còn có một số giai đoạn lạm phát
tăng cao và có tác động đáng kể đến nền kinh tế và đời sống của người dân.
Nếu so sánh hai giai đoạn từ năm 1990 về trước và từ năm 1990 đến nay, có
thể thấy rằng tình hình lạm phát đã được kiểm soát tốt hơn trong giai đoạn sau. Từ
năm 1990 đến năm 2000, mức tăng trưởng giá chỉ ở mức khoảng 11,6%, trong khi
từ năm 2000 đến năm 2010, mức tăng trưởng giá chỉ ở mức khoảng 6,6%. Từ năm
2010 đến nay, mức tăng trưởng giá chỉ ở mức khoảng 5,2%.
Các biện pháp kiểm soát lạm phát cũng được thực hiện tốt hơn trong giai
đoạn từ năm 2000 đến nay. Chính phủ đã áp dụng nhiều biện pháp như kiểm soát
giá cả, tăng thuế xuất nhập khẩu, điều chỉnh chính sách tiền tệ và tăng cường quản
lý giá cả để kiểm soát lạm phát. Nhờ đó, tình hình lạm phát được kiểm soát tốt hơn
và mức tăng trưởng giá cũng được hạ xuống.
Tuy nhiên, vẫn còn một số thách thức đang đặt ra cho tình hình lạm phát ở
Việt Nam. Các nguyên nhân dẫn đến lạm phát vẫn chưa được giải quyết hoàn toàn,
như sự tăng giá của các mặt hàng nhập khẩu và giá năng lượng. Ngoài ra, việc
tăng giá của các sản phẩm và dịch vụ ở đô thị cũng là một thách thức đối với việc
kiểm soát lạm phát.
Tóm lại, tình hình lạm phát ở Việt Nam đã có sự cải thiện đáng kể trong
những năm qua, đặc biệt trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay. Tuy nhiên, vẫn còn
một số thách thức và nguyên nhân cần được giải quyết để duy trì tình hình lạm
phát ổn định và đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế.

11
12
CHƯƠNG 3: BIỆN PHÁP VẬN DỤNG QUY LUẬT LƯU
THÔNG TIỀN TỆ ĐỂ KHẮC PHỤC LẠM PHÁT Ở VIỆT
NAM
3.1. BIỆN PHÁP VẬN DỤNG QUY LUẬT LƯU THÔNG TIỀN TỆ
Từ mục 1.2.3. mà chúng tôi đã nêu ra, có thể thấy từ việc đánh giá nguyên
nhân của việc xuất hiện lạm phát, thì giữa lạm phát và quy luật lưu thông tiền tệ có
quan hệ ảnh hưởng đến nhau. Bởi lẽ, lạm phát được đánh giá bằng cách so sánh
giá cả của cùng một loại hàng hóa vào hai thời điểm khác nhau, với giá định chất
của lượng hàng hóa không đổi, còn quy luật lưu thông tiền tệ dù không thể hiện
được đầy đủ mối quan hệ về mặt định lượng giữa các yếu tố ảnh hưởng đến lượng
tiền cần thiết cho lưu thông, nhưng quy luật này chỉ ra sự cần thiết phải kiểm soát
khối lượng tiền và phương hướng tác động vào khối lượng tiền cần thiết cho lưu
thông. Dĩ nhiên, giữa lạm phát và đồng tiền không phải là mối quan hệ nhân quả.
Trong thực tế, một nền kinh tế khan hiếm, hàng hóa ít, trong những giai đoạn có
nguy cơ chiến tranh và tình hình kinh tế rất ổn định, thì giá cả có khuynh hướng
tăng vọt dù không hề có sự gia tăng của khối tiền. Giữa tăng trưởng kinh tế và lạm
phát cũng có mối quan hệ nhưng ta không thể chắc rằng quốc gia có lạm phát cao
tăng trưởng chậm hơn nước có lạm phát thấp. Vậy nên, điều trọng tâm ta nên làm
không phải là loại trừ lạm phát, mà là ổn định lạm phát ở mức có lợi cho tăng
trưởng kinh tế. Và tính được số tiền cần thiết cho lưu thông, so sánh với số tiền
đang lưu thông để điều chỉnh kịp thời, thì ta sẽ ổn định được nền kinh tế. Đó là lý
do ta có thể vận dụng quy luật lưu thông tiền tệ vào điều tiết lạm phát. Cách vận
dụng quy luật lưu thông tiền tệ là một trong những giải pháp mà Đảng và Nhà
nước ta cũng như các nhà kinh tế sử dụng để đề ra những biện pháp ổn định nền
kinh tế, khắc phục lạm phát.

3.2. BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM


Những biện pháp khắc phục lạm phát mà chúng tôi tìm hiểu và thu thập
trong những phần sau đây chủ yếu là những biện pháp ngăn chặn hậu quả của lạm
phát. Qua giai đoạn nền kinh tế nước ta từ năm 2000 đến năm 2020, với hai lần
lạm phát tăng cao ở mức 19.9% và 18.58%, Chính phủ đã đặt ra rất nhiều biện
pháp để phòng ngừa và khắc phục lạm phát, bao gồm những biện pháp tình thế và
những chính sách lâu dài mang tính chiến lược.

3.2.1. Những biện pháp cấp bách


Để giảm thiểu tức thì con số lạm phát, trên cơ sở áp dụng các phương pháp
ổn định tiền tệ lâu dài, những chiến lược sau đây được Chính phủ Việt Nam cũng
như Chính phủ các nước áp dụng:
a) Giảm lượng tiền giấy trong nền kinh tế

13
Biện pháp này còn gọi là chính sách đóng băng tiền tệ. Tỷ lệ lạm phát tăng
cao, ngay lập tức ngân hàng trung ương phải dùng các biện pháp có thể đưa đến
tăng cung ứng tiền tệ như ngừng thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết
đối với các tổ chức tín dụng, dùng việc mua vào các chứng khoán ngắn hạn trên
thị trường tiền tệ, không phát hành tiền bù đắp bội chi ngân sách Nhà nước.
Áp dụng các biện pháp giảm lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế như:
ngân hàng trung ương bán ra các chứng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, bán
ngoại tệ và vay, phát hành các công cụ nợ của Chính phủ để vay tiền trong nền
kinh tế bù đắp cho bội chi ngân sách Nhà nước., tăng lãi suất tiền gửi đặc biệt là
lãi suất tiền gửi tiết kiệm dân cư. Các biện pháp này rất có hiệu lực vì trong một
thời gian ngắn nó có thể giảm bớt được một khối lượng khá lớn tiền nhàn rỗi trong
nền kinh tế quốc dân, do đó giảm được sức ép lên giá cả hàng hoá và dịch vụ trên
thị trường.
b) Thực thi chính sách “Tài chính thắt chặt” như cắt giảm những khoản chi
chưa cần thiết trong nền kinh tế, cân đối lại ngân sách và cắt giảm chi tiêu đến
mức có thể được.
c) Tăng quỹ hàng hóa tiêu dùng để cân đối với số lượng tiền có trong lưu
thông bằng cách khuyến khích tự do mậu dịch, giảm nhẹ thuế quan và các biện
pháp cần thiết khác để thu hút hàng hóa từ nước ngoài vào.
d) Đi vay và xin viện trợ từ nước ngoài.
e) Cải cách tiền tệ. Đây là biện pháp cuối cùng phải xử lý khi tỷ lệ lạm phát
quá cao mà các biện pháp trên đây chưa mang lại hiệu quả mong muốn.
3.2.2. Những biện pháp mang tính chiến lược lâu dài
Đây là những biện pháp có tác động lâu dài đến sự phát triển của nền kinh
tế quốc dân. Tổng hợp các biện pháp này sẽ tạo ra sức mạnh kinh tế lâu dài của đất
nước, làm cơ sở cho sự ổn định tiền tệ một cách bền vững. Các biện pháp chiến
lược thường được áp dụng:
a) Thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hoá và mở rộng lưu thông hàng hoá.
b) Kiện toàn bộ máy hành chính, cắt giảm biên chế quản lý hành chính.
Thực hiện tốt biện pháp này sẽ góp phần to lớn vào việc giảm chi tiêu thường
xuyên của ghân sách Nhà nước trên cơ sở đó giảm bội chi ngân sách Nhà nước.
c) Tăng cường công tác quản lý điều hành ngân sách Nhà nước một cách
hợp lý, chống thất thu, đặc biệt là thất thu về thuế, nâng cao hiệu quả của các
khoản chi ngân sách Nhà nước.

14
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Một quốc gia phát triển phải là quốc gia biết kiểm soát những vấn đề khủng
hoảng trong các lĩnh vực, nhất là lĩnh vực kinh tế. Và một nền kinh tế phát triển thì
trước hết tỷ trọng tiền mặt trong lưu thông phải ở mức tối thiểu, tỷ trọng sử dụng
các loại hình thanh toán không dùng tiền mặt phải cao. Việt Nam trước ngưỡng
cửa của hội nhập nền kinh tế thế giới, đang có rất nhiều biểu hiện tích cực của sự
phát triển mạnh mẽ, nhưng vẫn còn là một nước đang phát triển, trình độ về mọi
mặt so với các nước hiện đại trên thế giới vẫn cần phải học tập nhiều hơn. Với tình
hình lạm phát có dấu hiệu có thể quay trở lại, Đảng và Nhà nước ta vẫn ra sức
phấn đấu để thực hiện những chính sách ổn định nền kinh tế, thắt chặt giá trị đồng
tiền, hi vọng có được sự phát triển và thịnh vượng trong những thập niên sắp tới,
cũng như lan rộng vốn hiểu biết sâu sắc về tiền tệ và vấn đề lạm phát đến công dân
Việt Nam, đặc biệt là những đối tượng học sinh, sinh viên, những người tiêu dùng
trẻ, những lao động trẻ. Đó cũng là ý nghĩa mà chúng tôi hướng đến khi viết bài
tiểu luận này.

15
16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS. TS. Ngô Tuấn Nghĩa (2021), Giáo trình Kinh tế chính trị Mác -
Lênin (dành cho bậc đại học chuyên lý luận chính trị), NXB Chính trị quốc gia Sự
thật.
2. Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin (dành cho bậc đại học hệ không
chuyên lý luận chính trị) (2021), NXB Nhà chính trị quốc gia sự thật.
3. Nguyễn Ngọc Khánh Quyên (2023), Luận văn Các quy luật kinh tế của
thị trường, làm rõ ý nghĩa của việc nghiên cứu quy luật lưu thông tiền tệ trong nền
kinh tế thị trường hiện nay, Đại học Duy Tân, Đà Nẵng.
4. PGS. TS. Phạm Quốc Trung, PGS. TS. Phạm Thị Túy (2011) - Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Vận dụng học thuyết lưu thông tiền tệ của
C.Mác trong điều tiết nền kinh tế ở Việt Nam hiện nay (Sách tham khảo), NXB
Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

5. Lịch sử 12, nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.

6. Minh Đức (03/09/2008), Việt Nam vượt qua 3 cuộc khủng hoảng, Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam.
7. Phan Huy Đường (13-03-2008), Thấy gì qua các giải pháp chống lạm
phát những tháng đầu năm 2008, Tạp chí Cộng Sản.

8. PGS.,TS. Phạm Thị Thanh Bình (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt
Nam) , TS. Vũ Thị Quế Anh (Đại học Ngoại thương, Hà Nội) (01/11/2022), Kiềm
chế lạm phát: Mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, tạp chí ngân hàng
9. Th.S. Nguyễn Thị Hạnh (2015), Biện pháp khắc phục lạm phát, trường
ĐH Duy Tân, Đà Nẵng.
10. Giáo sư Geogre Selgin Trường Đại Học Georgia, Quy luật Gresham.
11. Michael Bryan, Đại lạm phát 1965-1982, Ngân hàng dữ trữ Liên Bang
Atlanta, được truy cập tại đường link:
https://www.federalreservehistory.org/essays/great-inflation, ngày truy cập
01/05/2023.
12. Edward Nelson and Kalin Nikolov, Chính sách tiền tệ và lạm pháp đình
đốn ở Anh, Ngân hàng trung ương Vương Quốc Anh, được truy cập tại đường
link: https://www.bankofengland.co.uk/working-paper/2002/monetary-policy-and-
stagflation-in-the-uk, ngày truy cập 01/05/2023.
13. Jongrim Ha M. Ayhan Kose Franziska L. Ohnsorge, Bài nghiên cứu
“Sự hiểu biết về lạm phát ở các nước mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển”,
Ngân hàng thế giới, được truy cập tại đường link:
https://openknowledge.worldbank.org/server/api/core/bitstreams/17392aa8-3c76-
557f-813d-25884e853f24/content, ngày truy cập 01/05/2023.

17
14. Sarwat Jahan - Nhà kinh tế học ở Quỹ tiền Quốc Tế, Tài liệu “Mục tiêu
của lạm phát: giữ vị trí”, được truy cập tại đường link:
https://www.imf.org/external/pubs/ft/fandd/basics/target.htm#author1, ngày truy
cập 01/05/2023.

18

You might also like