Chiếc Thuyền Ngoài Xa

You might also like

Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 25

CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA

-Nguyễn Minh Châu-


A. MỞ BÀI CHUNG
* MB1:
Sinh thời, nhà văn Nguyễn Minh Châu từng quan niệm: "Văn học và cuộc sống là
hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người" / "Viết văn là quá trình đi tìm hạt
ngọc ẩn giấu trong tâm hồn con người". Trong suốt cuộc đời cầm bút của mình, dù trong
những tác phẩm đậm màu sắc lãng mạn, sử thi trước 1975 hay trong các tác phẩm mang
cảm hứng thế sự, đậm chất triết lý sau 1975 thì Nguyễn Minh Châu cũng luôn mang nặng
nỗi trăn trở, suy tư về con người. "Chiếc thuyền ngoài xa" là một sáng tác tiêu biểu cho
phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu sau 1975. Thông qua câu chuyện về một
gia đình dân chài, nhà văn đã gửi gắm nhiều thông điệp về cuộc sống, con người cũng như
về nghệ thuật. Đoạn trích.....

* MB2:
Giáo sư Lã Nguyên đã nói về yêu cầu của văn chương nghệ thuật và thiên chức của
người nghệ sĩ “Nhà văn chân chính có sứ mệnh khơi nguồn cho dòng sông văn học đổ
ra đại dương nhân bản mênh mông”. Nguyễn Minh Châu đã ý thức được sâu sắc thiên
chức ấy của người cầm bút trong công cuộc đổi mới văn học nên trở thành người mở
đường tinh anh và tài hoa của văn học Việt Nam sau năm 1975. Nếu như trong giai đoạn
trước Nguyễn Minh Châu sáng tác theo cảm hứng sử thi đậm nét, sau năm 1975 ông đã
chuyển sang cảm hứng thế sự với những vấn đề về đạo đức và triết lý nhân sinh. Trong
tác phẩm của Nguyễn Minh Châu hình tượng nhân vật được soi thấu trong quan hệ phức
tạp, đa chiều. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là truyện ngắn tiêu biểu cho sáng tác
của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975. Đây là một tác phẩm hay đậm tính nhân văn, thể
hiện một lối tư duy mới mẻ của nhà văn về cái đẹp, nghệ thuật và số phận con người trong
cuộc mưu sinh nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. Đoạn trích....

* MB3: Trong truyện ngắn "Trăng sáng", Nam Cao đã từng nêu lên quan điểm
nghệ thuật: "Nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối.
Nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than". Sau 1975,
Nguyễn Minh Châu đã tiếp tục đi theo con đường nghệ thuật vị nhân sinh của Nam Cao.
Truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" thể hiện những đổi mới nghệ thuật của NMC, tác
phẩm kết tinh tấm lòng của nhà văn luôn hướng về con người, vì con người. Đoạn trích.....

B. Đoạn khái quát chung (lược bớt các ý trùng với MB)
1. Tác giả:
- NMC là một cây bút tài năng của VH cách mạng VN
+ Hành trình sáng tác của NMC được chia làm hai giai đoạn: trước và sau 1975.
\ Trước 1975, ngòi bút NMC có khuynh hướng sử thi, trữ tình lãng mạn (Dấu
chân người lính, Mảnh trăng cuối rừng..)
1
\ Sau 1975, bằng khát vọng sáng tạo và bản lĩnh nghề nghiệp, NMC đã bứt
phá khỏi vầng hào quang của mình trong quá khứ để trở thành một trong những nhà văn
mở đường "tinh anh và tài hoa" của VHVN thời kì đổi mới.
.Tác phẩm của ông chuyển sang cảm hứng thế sự, đời tư với những vấn đề
đạo đức và triết lý nhân sinh sâu sắc.
.Tâm điểm những khám phá nghệ thuật của ông giai đoạn này là con người
vật lộn trong tự nhiên, xã hội để mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tìm hạnh
phúc và hoàn thiện nhân cách. Mỗi trang văn NMC vừa chan chứa yêu thương với con
người, vừa mang một nỗi quan hoài thường trực về số phận, nhân cách của con người.
b. Tác phẩm
- "Chiếc thuyền ngoài xa" sáng tác năm 1983 - thời kì tiền đổi mới, đất nước
đã hòa bình thống nhất nhưng cuộc sống của nhân dân còn lạc hậu, khó khăn, còn nhiều
bất cập...
- Truyện ngắn thể hiện hành trình tìm tòi, đổi mới của Nguyễn Minh Châu
sau 1975. Ông trở về với cuộc sống đời thường nhọc nhằn, cơ cực để tìm câu trả lời cho
những phận người còn trăm đắng ngàn cay; tìm câu trả lời cho nghệ thuật trong thời kì
mới.
- Tóm tắt thật ngắn gọn + nêu sơ bộ tình huống truyện (tình huống nhận thức)

2
B. PHÂN TÍCH ĐOẠN VĂN
Đoạn số 1:
Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng với chiếc máy ảnh, đi quá mươi bước sâu
vào phía trong có một chiếc xe rà phá mìn của công binh Mỹ, chiếc xe sơn màu vàng tươi
và to lớn gấp đôi một chiếc xe tăng. Hai người đi qua trước mặt tôi. Họ đi đến bên chiếc
xe rà phá mìn. Người đàn bà đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc
thuyền đậu một thoáng, rồi đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng
rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân.
Lão đàn ông lập tức trở lên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc
thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết,
chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật
tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken
két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết
đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”.
Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục không hề kêu một tiếng, không
chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy.
Tất cả mọi việc xẩy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ
đứng há mồm ra mà nhìn. Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống
đất chạy nhào tới.
Bóng một đứa con nít lao qua trước mặt tôi. Tôi vừa kịp nhận ra thằng Phác –
thằng bé trên rừng xuống vừa nằm ngủ với tôi từ lúc nửa đêm. Thằng bé cứ chạy một
mạch, sự giận dữ căng thẳng làm nó khi chạy qua không nhìn thấy tôi. Như một viên đạn
trên đường lao tới đích đã nhắm, mặc cho tôi gọi nó vẫn không hề ngoảnh lại, nó chạy
tiếp một quãng ngắn giữa những chiếc xe tăng rồi lập tức nhảy xổ vào cái lão đàn ông.
Cũng y hệt người đàn bà, thằng bé của tôi cũng như một người câm, và đến lúc này
tôi biết là nó khỏe đến thế!
Khi tôi chạy đến nơi thì chiếc thắt lưng da đã nằm trong tay thằng bé, không biết
làm thế nào nó đã giằng được chiếc thắt lưng, liền dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt
quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng có những đám lông đen như hắc ín,
loăn xoăn từ rốn mọc ngược lên. Lão đàn ông định giằng lại chiếc thắt lưng nhưng chẳng
được nữa, liền dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi
xuống cát.
(Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu, SGK Ngữ văn 12, NXBGD 2008, tr
72-73)
Phân tích phát hiện của nghệ sĩ Phùng được thể hiện ở đoạn trích trên. Từ đó,
nhận xét tình huống nhận thức trong tác phẩm.

I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

3
- Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích “Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng…
lảo đảo ngã dúi xuống cát” thuộc phần đầu của truyện đã diễn tả phát hiện của nghệ sĩ
Phùng, từ đó góp phần thể hiện một tình huống truyện có tính nhận thức.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát chung (như phần đầu)
* Khái quát tình huống truyện và đoạn trích:
- Khái niệm tình huống truyện: Đối với truyện ngắn, tình huống giữ vai trò là hạt
nhân của cấu trúc thể loại, nó chính là cái hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện
đặc biệt khiến cho tại đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và ý đồ tư tưởng của tác giả
cũng được bộc lộ sắc nét nhất. Bên cạnh đó, từ tình huống truyện, các sự kiện, biến cố của
cốt truyện được phát triển, tính cách nhân vật được bộc lộ. Nói cách khác thì tình huống
truyện như một thứ nước rửa ảnh làm nổi hình, nổi sắc nhân vật. Việc giải quyết
những mâu thuẫn, xung đột trong tình huống truyện sẽ bộc lộ rõ tư tưởng chủ đề của tác
phẩm và dụng ý nghệ thuật của tác giả. Việc sáng tạo nên các tình huống độc đáo biểu
hiện khả năng quan sát, khám phá bản chất cuộc sống, bản chất con người của nhà văn.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu quan niệm “Tình huống truyện giữ vai trò là hạt nhân của
cấu trúc thể loại, là một lát cắt của hiện thực cuộc sống, nhưng chỉ qua một lát cắt ấy
thấy được cả vòng đời thảo mộc trăm năm”. Với quan niệm như vậy nên trong truyện
ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã tạo ra tình huống truyện hết sức độc
đáo.
- Tính huống truyện ở đoạn trước:
Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển, vị trưởng phòng khó
tính đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển
buổi sáng có sương mù. Chấp nhận yêu cầu của trưởng phòng, Phùng quyết định đến
vùng biển từng là chiến trường cũ nơi anh từng chiến đấu, ở đó anh có người bạn chiến
đấu là Đẩu, hiện là chánh án toà án huyện. Với tâm thế của một người nghệ sĩ chân chính
khao khát cái đẹp, Phùng đã mai phục ở bãi biển này suốt gần một tuần mà chưa chụp
được bức ảnh nào ưng ý. Sau khi suy nghĩ, tìm kiếm, Phùng quyết định sẽ thu vào tờ lịch
tháng bảy của bộ lịch năm sau cảnh thuyền thu lưới vào lúc bình minh. Và buổi sáng hôm
ấy, bất ngờ anh lại gặp được một cảnh “đắt” trời cho, cảnh mà theo Phùng suốt đời cầm
máy anh chưa gặp được một lần. Cảnh đẹp như “một bức tranh mực tàu của một danh họa
thời cổ”, một “vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”, mà đứng trước cảnh tượng ấy người
nghệ sĩ thấy trái tim mình thắt lại, bối rối. Thậm chí, trong giây phút hạnh phúc đến tuyệt
đỉnh, Phùng tưởng như đã “khám phá ra chân lý của sự toàn thiện, khám phá ra khoảnh
khắc trong ngần của tâm hồn”. Đó là niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ khi bắt gặp cái
đẹp, nhận ra vai trò thực sự của nghệ thuật. Phùng đã bấm máy liên tục để thu hết vẻ đẹp
tuyệt đỉnh của cảnh vật vào ống kính của mình.
2. Phát hiện của Phùng trong đoạn trích: Bức tranh hiện thực đời sống nghiệt
ngã
Trong đoạn trích, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tiếp tục thể hiện những khám phá,
phát hiện về nghệ thuật và đời sống, khiến tình huống truyện được phát triển. Éo le thay
4
khi con thuyền ngư phủ đẹp như một giấc mơ trong bức tranh nghệ thuật đẹp một cách
toàn bích ấy tiến vào bờ thì bước xuống từ đó không phải là những con người đẹp và toàn
thiện như cổ tích mà là một người đàn bà xấu xí, một người đàn ông độc ác và một màn
bạo lực gia đình khiến cho không chỉ Phùng mà người đọc cũng sửng sốt và đau đớn.
Bạo lực gia đình lại diễn ra ngay sau chiếc xe rà phá mìn của Mĩ trên bãi cát, và gã
đàn ông đánh vợ bằng chiếc thắt lưng da của lính Ngụy. Phải chăng cái ác mà Mĩ Ngụy
gieo xuống đất nước ta còn không khủng khiếp bằng cuộc chiến giữa cái thiện với cái ác
trong cuộc sống hòa bình. Hay đó là hậu quả của cuộc chiến tranh vẫn hiện hữu ngay cả
khi hòa bình lập lại. Tưởng rằng cuộc chiến đấu giành độc lập tự do ta đã giải quyết được
trọn vẹn, mang lại niềm vui cho mọi người. Nhưng sau khi miền Nam hoàn toàn giải
phóng còn biết bao vấn đề đặt ra: Đói kém, bệnh tật, bạo lực gia đình … Dấu tích của
chiến tranh để lại không chỉ là mấy cái xe hỏng mà hơn nữa là cuộc sống đói nghèo, lạc
hậu của những người như hai con người bất hạnh kia. Người đàn bà từ dáng vẻ đến hành
động đều thể hiện sự bất lực, buông xuôi và cam chịu thể hiện qua cánh tay buông thõng,
đôi mắt nhìn xuống dưới chân khi “đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái
tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân”.
Tiếp đó, Phùng lần lượt chứng kiến những cảnh tượng vô cùng đau lòng. Lão đàn
ông hàng chài ra sức đánh người vợ khốn khổ một cách tàn bạo. Với môt vẻ “hùng hổ,
mặt đỏ gay”, lão đàn ông dùng chiếc thắt lưng lính ngụy ngày xưa để đánh vợ “chẳng nói
chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp
vào lưng người đàn bà”. Trong cơn giận dữ như lửa cháy, lão vừa nghiến răng ken két
vừa dùng hết sức lực để dùng chiếc thắt lưng quất tới tấp vào người đàn bà. Không chỉ
đánh vợ tàn độc mà lão đàn ông còn ra sức chửi rủa. Mỗi nhát quất xuống là một câu
nguyền rủa đầy nghiệt ngã dành cho vợ con: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết
hết đi cho ông nhờ!”. Nhưng kì lạ là trước trận đòn như với kẻ thù của người đàn ông,
người đàn bà chỉ im lặng, nhẫn nhục chịu đựng, không chống trả cũng không chạy trốn.
Phùng chưa hiểu nổi những gì đang xảy ra trước mắt, sau vài phút đứng há mồm ra
mà nhìn, anh chỉ kịp vứt máy ảnh định chạy đến can thiệp, Nhưng cũng chưa kịp làm gì
để giúp đỡ người đàn bà thì lại chứng kiến màn bạo lực gia đình đau lòng hơn. Thằng
Phác, là con trai của lão đàn ông và người đàn bà chạy tới như một mũi tên và giật chiếc
thắt lưng từ tay cha nó, vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần của cha để che
chở cho người mẹ đáng thương. Lão đàn ông từ chỗ đánh vợ thì giờ chuyển sang đánh
con “Lão đàn ông định giằng lại chiếc thắt lưng nhưng chẳng được nữa, liền dang thẳng
cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát”.
Có thể nhận thấy trong đoạn văn là một tấn bi kịch gia đình đầy đau đớn. Trong gia
đình ấy có một người chồng độc ác, đánh vợ một cách tàn độc, nguyền rủa vợ con bằng
những lời lẽ nặng nề, nghiệt ngã nhất; có một người vợ chỉ biết cam chịu trước những trận
đòn vô cớ của người chồng; có một đứa con vì thương mẹ nên căm ghét và đánh lại cả bố.
Nghệ sĩ Phùng là người chứng kiến câu chuyện gia đình ấy và từ đây trong anh có thêm
những phát hiện, nhận thức về hiện thực đời sống. Chỉ có điều, phát hiện lần này của anh
đầy bất ngờ và trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống mà trong đó, cuộc đời thực hiện
5
lên thật trần trụi, đau đớn biết bao. Hóa ra, cuộc sống không chỉ tồn tại cái đẹp mà còn có
bao nhiêu điều nghịch lí, đau lòng. Nếu như trước đó, cảnh tượng hiện ra trước mắt anh là
bức tranh nghệ thuật đầy lãng mạn, đẹp tuyệt đỉnh thì màn bạo lực gia đình liên hoàn
mà anh vừa chứng kiến chính là bức tranh hiện thực đời sống đầy nghiệt ngã. Tất cả
những sự việc ấy diễn ra khiến cảm giác, cảm xúc trong Phùng hoàn toàn thay đổi. Không
còn thấy hạnh phúc tràn ngập tâm hồn nữa mà thay vào đó là ngạc nhiên, đau đớn. Đ ằng
sau bức tranh nghệ thuật đẹp, lãng mạn mà anh tưởng là toàn thiện, toàn mĩ kia hóa ra lại
ẩn chứa một hiện thực đời sống đầy nghiệt ngã, đáng sợ. Và đó là chính là tính hai mặt
của hiện thực đời sống.
3. Ý nghĩa của phát hiện (Nhận xét về tình huống nhận thức trong tác phẩm)
Những khám phá, phát hiện của nghệ sĩ Phùng trong đoạn trích và tác phẩm đã bộc
lộ một tình huống truyện vô cũng độc đáo, có tính nhận thức về đời sống và nghệ thuật.
Thông điệp nhận thức được thể hiện sâu sắc khi giúp người đọc nhận ra:
Cuộc sống hóa ra vốn chứa đầy những nghịch lí giữa trong và ngoài, phải và trái,
xa và gần… nhiều khi trong cùng một sự vật, một sự việc, một con người cũng chứa đầy
những mâu thuẫn, đối lập. Bởi vậy con người không được nhìn cuộc đời bằng cái nhìn
đơn giản, một chiều mà cần có cái nhìn đa diện, nhiều chiều để khám phá ra bản chất thật
của đời sống.
Những khám phá, phát hiện ấy còn giúp ta nhận thức được mối quan hệ giữa hiện
thực đời sống và nghệ thuật. Con thuyền nghệ thuật thì lãng mạn, lung linh huyền ảo
nhưng ở rất xa, còn cuộc đời đôi khi rất nghiệt ngã lại ở rất gần. Người nghệ sĩ chân chính
không chỉ phải có cái nhìn đa diện nhiều chiều để phát hiện ra bản chất thật của đời sống
mà còn phải đừng vì nghệ thuật mà quên cuộc đời. Bởi nghệ thuật chân chính là cuộc đời
và vì cuộc đời. Người nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp trước hết phải là người biết vui
buồn, yêu ghét trước cuộc đời.
Vậy là Phùng đã nhận ra một điều mà có lẽ từ đó sẽ thay đổi cái nhìn của anh về lao
động nghệ thuật và khẳng định quan niệm nghệ thuật vị nhân sinh. Nghệ thuật trước hết
phải gắn liền với cuộc sống, phải phản ánh chân thật cuộc sống. Nghệ thuật đích thực
không thể xa rời cuộc đời, dù cuộc đời đó có đau đớn, trần trụi bao nhiêu. Vì nghệ thuật
sẽ không là gì nếu nó không phục vụ cho cuộc sống và làm cho nó tốt hơn lên. Nghệ
thuật chỉ có thể sống được và xanh tươi khi nó thực sự bám rễ vào cuộc đời. Nói như
Biêlinxki thì văn học “trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật”. Chi tiết Phùng
vứt bỏ chiếc máy ảnh mà lao vào giúp đỡ người đàn bà đã khẳng định rõ thêm điều này.
3. Đánh giá
Trong “Chiếc thuyền ngoài xa” nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tạo nên một tình
huống truyện khá độc đáo. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện đặc sắc kết hợp với cốt
truyện hấp dẫn, nghệ thuật khắc họa nhân vật sắc sảo, ... Điểm nhìn linh hoạt bởi truyện
được kể ở ngôi thứ nhất xưng "tôi", và người kể chuyện chứng kiến lại toàn bộ câu
chuyện từ đầu đến cuối, ít có sự tham gia của các nhân vật khác. Người kể chuyện mang
đặc điểm của người nghệ sĩ đang đi tìm cái đẹp theo một chủ đề: sự hài hòa trong yên tĩnh
của con người và thiên nhiên khiến người đọc nhận ra nhiều điều về cuộc sống và mối
6
quan hệ giữa cuộc sống và nghệ thuật. Bức tranh người nghệ sĩ chụp được tưởng là bức
tranh tĩnh vật thì nó lại rất động với trạng thái phức tạp, nhức nhối của nó. Tình huống
truyện giúp ta hiểu rõ hơn về các nhân vật, làm cho câu chuyện thêm hấp dẫn và chứa
đựng giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc:
+ Giá trị hiện thực: Sau khi đất nước hòa bình thống nhất, cuộc sống đã tốt đẹp
hơn rất nhiều nhưng đâu đó vẫn còn những khoảng tối hoặc tranh sáng tranh tối. Cuộc
sống đói nghèo lạc hậu tăm tối là nguyên nhân dẫn tới nạn bạo hành gia đình. Cuộc chiến
đấu bảo vệ quyền sống của cả dân tộc trải qua bao hy sinh gian khổ nhưng cuộc đấu tranh
bảo vệ quyền sống của từng con người còn đầy cam go, lâu dài, cần có sự quan tâm của
các cấp chính quyền và cộng đồng.
+ Giá trị nhân đạo: Sự chia sẻ cảm thông của tác giả với những số phận đau khổ
tủi nhục của những người lao động vô danh đông đảo trong xã hội. Lên án, đấu tranh với
cái xấu, cái ác vẫn còn tồn tại trong từng gia đình. Phát hiện, ngợi ca những phẩm chất tốt
đẹp của người lao động và hướng đến một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Đoạn số 2
Phân tích số phận và vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người đàn bà hàng chài
được nhà văn Nguyễn Minh Châu thể hiện trong đoạn trích sau:
Người đàn bà hướng về phía Đẩu, tự nhiên chắp tay lại vái lia lịa:
- Con lạy quý toà...
- Sao, sao?
- Quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...
Lúc bấy giờ tôi đang ngồi giấu mặt sau bức màn vải hoa ngăn chỗ làm việc bên
ngoài và phòng ngủ bên trong của Đẩu. Sau câu nói của người đàn bà, tôi cảm thấy gian
phòng ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt
quá. Tôi vén lá màn bước ra.
Người đàn bà nhận ra được tôi ngay. Mụ nhấp nhổm xoay mình trên chiếc ghế như
bị kiến đốt, và về sau tôi mới sực nghĩ ra, mụ nghĩ rằng toà án đã bố trí sẵn tôi ngồi phía
sau để chuẩn bị làm nhân chứng.
- Chị cứ ngồi nguyên đấy! – Đẩu nói với vẻ đầy hào hứng của một con người bảo
vệ công lí vừa có thêm người đến tiếp viện, anh chạy sang phòng bên xách một chiếc ghế
cho tôi. Bấy giờ dưới con mắt của người đàn bà hàng chài, vị chánh án không phải là
Đẩu đã trở về ngồi sau chiếc bàn lớn mà là tôi, với mấy vết thương đã lên da non nhưng
vẫn để dấu vết trên mặt.
- Tuỳ bà! – Đẩu thay đổi cách xưng hô, khoác lên mình cái cung cách bề ngoài của
một vị chánh án - chủ trương nguyên tắc của chúng tôi là kêu gọi hoà thuận...
Đang ngồi cúi gục xuống, người đàn bà bỗng ngẩng lên nhìn thẳng vào chúng tôi,
lần lượt từng người một, với một vẻ ban đầu hơi ngơ ngác.
- Chị cám ơn các chú! - Người đàn bà đột nhiên thốt lên bằng một giọng khẩn thiết
- Đây là chị nói thành thực, chị cám ơn các chú. Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có

7
phải là người làm ăn... cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn
lam lũ, khó nhọc...
(Trích Chiếc thuyền ngoài xa, Ngữ văn 12, Tập hai,
NXB Giáo dục Việt Nam 2020, tr. 74)
I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
- Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích “Người đàn bà…khó nhọc” đã giúp người
đọc hiểu thêm về nhân vật người đàn bà, từ đó thấy được vẻ đẹp khuất lấp của nhân vậy
và góp phần thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát chung (như phần đầu)

- Nhà văn Nguyễn Minh Châu quan niệm “Tình huống truyện giữ vai trò là hạt
nhân của cấu trúc thể loại, là một lát cắt của hiện thực cuộc sống, nhưng chỉ qua một
lát cắt ấy thấy được cả vòng đời thảo mộc trăm năm”. Với quan niệm như vậy nên trong
truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã tạo ra tình huống truyện hết
sức độc đáo. Để trong tình huống ấy, các nhân vật phải bộc lộ cách ứng xử, tính cách và
phẩm chất.
- Tóm tắt tình huống truyện ở phần trước:
+ Hai phát hiện của Phùng bên bờ biển: phát hiện về nghệ thuật khi chiếc thuyền
ngoài xa đã mang đến cho Phùng niềm hạnh phúc trước cái đẹp và sự thăng hoa trong
sáng tạo nghệ thuật ; phát hiện thứ 2 về hiện thực khắc nghiệt khi chiếc thuyền vào gần,
khiến cho Phùng đau đớn, bàng hoàng vì chứng kiến cảnh tượng bạo hành khủng khiếp
của một gia đình dân chài => làm thay đổi nhận thức của Phùng về bản chất của hiện
thực, mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống
2. Số phận và vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người đàn bà hàng chài qua đoạn
trích
2.1. Số phận:
Đọc đoạn trích cũng như đọc hết câu truyện người đọc vẫn không biết tên của
người đàn bà là gì, tác giả đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng
chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị....như một sự xóa mờ tên tuổi nhằm tô đậm thêm số
phận của chị. Chị là người vô danh, là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ
như bao người phụ nữ khác không hiếm gặp trên những miền quê Việt Nam. Điều đó chỉ
ra một thực tế rằng, người đàn bà không phải là hiện tượng cá biệt và cũng không phải
quá phổ biến nhưng ta có thể bắt gặp đâu đó trong cuộc đời.
Trong suốt tác phẩm, người đọc có thể cảm nhận dường như mọi sự bất hạnh của
cuộc đời đều trút cả lên người đàn bà: xấu, nghèo khổ, lam lũ, ít học, lại phải thường
xuyên chịu những trận đòn roi của chồng vũ phu, tổn thương, đau xót cho các con phải
nhìn cảnh bố đánh mẹ… Số phận, cuộc đời của chị được tác giả tái hiện với đầy sự cảm
thông, chia sẻ và càng hiện ra rõ nét hơn khi chị đến toà án huyện.

8
Vì lạc hậu, ít học, nghèo khổ và hơn nữa có thể do bị bạo hành thường xuyên nên
người đàn bà xuất hiện ở tòa án trong dáng vẻ và hành động đầy tự ti, rụt rè đến tội
nghiệp. Chị xưng là con, gọi chánh án Đẩu là quý tòa, thậm chí còn có hành động chắp
tay lại vái lia lịa. Khi nhận ra Phùng là người đã chứng kiến câu chuyện, chị nhấp nhổm
xoay mình trên chiếc ghế như bị kiến đốt. Có lẽ, chị nghĩ rằng tòa sắp xếp Phùng đến đây
làm nhân chứng.

2.2. Vẻ đẹp khuất lấp


Ai đó đã từng nói “Tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là sự tôn vinh
con người qua những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Phải chăng vì vậy mà ta có thể
bắt gặp nhiều nghệ sĩ có phong cách hoàn toàn khác nhau trên cùng một giao lộ của hành
trình kiếm tìm và khám phá vẻ đẹp tâm hồn con người. Nhà văn Nguyễn Minh Châu trong
đoạn trích cũng như trong tác phẩm đã khám phá, phát hiện ra vẻ đẹp khuất lấp của nhân
vật người đàn bà. Vẻ đẹp của chị không dễ nhận thấy vì bị ẩn mình trong bề ngoài thô
kệch, xấu xí nhưng rất đáng trân trọng và ngợi ca.
Người đàn bà hàng chài có vẻ ngoài xấu xí, ít học, lam lũ và cuộc đời đầy bất hạnh
ấy hóa ra bên trong lại ẩn chứa nhiều phẩm chất tốt đẹp. Điều đó thể hiện rõ qua cách ứng
xử của chị trước bi kịch gia đình. Khi biết hoàn cảnh gia đình của người đàn bà, cách giải
quyết của chánh án Đẩu là cho gọi người đàn bà tới và khẳng định: “Chị không sống nổi
với lão vũ phu ấy đâu”. Phùng và Đẩu cho rằng người đàn bà chỉ có cách duy nhất là từ
bỏ gã chồng tàn ác và chắc chắn sẽ chấp nhận sự giúp đỡ của mình nhưng trái với điều họ
mong đợi người đàn bà đã kiên quyết từ chối. Người đàn bà thậm chí còn van lạy để đừng
bắt chị bỏ chồng “Quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ
nó…”. Câu trả lời cũng như phản ứng cuả người đàn bà làm cho căn phòng “lồng lộng
gió biển tự nhiên bị hút hết không khí trở nên ngột ngạt”. Hóa ra, cách giải quyết của
Phùng và Đẩu tuy đứng về phía người đàn bà nhưng rất thiếu thực tế. Họ chỉ nghĩ giúp đỡ
người đàn bà mà chưa nghĩ đến việc những đứa trẻ rồi sẽ ra sao? Những người làm ăn lam
lũ khó nhọc ra khơi lao động cần phải có bàn tay của người đàn ông. Người đàn ông là trụ
cột trong nhà. Người đàn bà ấy và cả chục đứa trẻ vô tội ngây thơ kia sẽ sống ra sao khi
trên thuyền không còn bàn tay lao động chủ đạo của người đàn ông?...
- Vậy vì sao người đàn bà không chịu bỏ chồng. Đó là vì:
+ Thương con: Quyết định không bỏ chồng của người đàn bà chủ yếu là vì chị
thương con. Chị nhận thấy rằng, các con là cuộc sống, lẽ sống, là tất cả những gì chị có
trong cuộc đời của mình. Vì thương con nên chị cần có người đàn ông để chèo chống lúc
sóng gió phong ba, để cùng nuôi dạy đàn con trên dưới mười đứa. Chị đã nói rằng đàn bà
hàng chài không sống như trên đất được mà phải sống vì con, phải gánh lấy cái khổ để
nuôi con khôn lớn. Lòng thương con của chị khiến chị chấp nhận hi sinh bản thân, cam
chịu những trận đòn vũ phu của chồng, không kêu van, không trốn chạy. Thậm chí, chị
coi việc mình bị đánh đập như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời, là chuyện đương
nhiên. Trong khổ đau, bất hạnh chị vẫn trân trọng, nâng niu những hạnh phúc hiếm hoi và
niềm hạnh phúc nhất của chị là khi được nhìn đàn con ăn no. Tình mẫu tử của chị như
9
một bản năng mãnh liệt ngàn đời của người phụ nữ được bộc lộ một cách cảm động và
sâu sắc nhất, vút lên trên cái nền của cuộc sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa của
chị. Vì có những phụ nữ như chị nên nếu ai đó có ví công lao của người mẹ như biển Thái
Bình thì thiết nghĩ cũng thật dễ hiểu.
+ Thấu hiểu chồng và có tấm lòng bao dung, vị tha, nhân hậu: Bị chồng đánh
tàn độc với ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng nhưng người đàn bà không hề
oán trách chồng. Chị hiểu nguyên nhân sâu xa lão đàn ông trở nên vũ phu là do nghèo đói.
Cuộc mưu sinh của gia đình hơn chục người như dồn hết gánh nặng lên đôi vai của người
đàn ông đã biến người chồng hiền lành của chị trở thành ác độc. Chị thấu hiểu nỗi khổ của
chồng nên vì thế mà chị luôn bảo vệ chồng trước những đứa con và khi nói chuyện với
Phùng và Đẩu “Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn... cho nên
các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc...”. Thấu hiểu
chồng phải làm ăn lam lũ, khó nhọc như vậy nên chị thậm chí còn nhận hết trách nhiệm,
lỗi lầm về mình, sẵn sàng chấp bị bắt tội, phạt tù để không phải bỏ chồng.
- Từng trải, sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời và rất tinh tế: Bên trong vẻ ít học, lạc hậu
của chị là sự sắc sảo, từng trải, thấu hiểu lẽ đời và rất tinh tế. Trong đoạn trích, người phụ
nữ đáng thương đã khiến cho Phùng và Đẩu đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác.
Chị không những không bỏ chồng mà còn nói: "Đây là chị nói thành thực, chị cám ơn các
chú. Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn... cho nên các chú đâu
có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc...". Trong lời nói này ta thấy
người đàn bà bỗng chốc trở nên nhanh nhẹn và sắc sảo không ngờ. Chị nói về cuộc đời
với những lí lẽ riêng của mình, chủ động thay đổi cách xưng hô từ "con"- quý tòa" sang
"chị - các chú". Dưới góc nhìn ngôn ngữ có thể thấy người phụ nữ khốn khổ ấy đã khéo
léo chuyển từ mối quan hệ thứ bậc (con - quý tòa) trong đó người đàn bà ở vai dưới sang
quan hệ thân sơ (chị - chú), người đàn bà trở thành vai trên. Chị khen người ta trước "lòng
các chú tốt" rồi mới phê bình người ta "các chú đâu có hiểu được cái việc của các người
làm ăn lam lũ, khó nhọc..." là cách hữu hiệu để buộc Phùng và Đẩu phải tiếp nhận câu
chuyện ở một vị thế khác, chỉ cho họ thấy được những khuyết điểm của mình là sự thiếu
từng trải, va vấp. chỉ biết nhìn cuộc đời qua một mớ lí thuyết, sách vở. Để từ đó Đẩu và
Phùng phải vỡ lẽ và “ngộ” ra bao điều về cuộc sống.
3. Đánh giá
3.1. Nghệ thuật
Bức chân dung của người đàn bà hàng chài trong đoạn trích được tác giả xây dựng
bằng nghệ thuật đậm nét sự sáng tạo. Nguyễn Minh Châu đã xây dựng được tình huống
mà ở đó bộc lộ mọi mối quan hệ, bộc lộ khả năng ứng xử, thử thách phẩm chất, tính cách,
tạo ra những bước ngoặt trong tư tưởng, tình cảm và cả trong cuộc đời nhân vật. Tình
huống truyện mang ý nghĩa khám phá, phát hiện đời sống. Ngôn ngữ người kể chuyện thể
hiện qua nhân vật Phùng, sự hóa thân của tác giả. Chọn người kể chuyện như thế đã tạo ra
một điểm nhìn trần thuật sắc sảo, tăng cường khả năng khám phá đời sống, lời kể trở nên
khách quan, chân thật, giàu sức thuyết phục. Ngôn ngữ nhân vật phù hợp với đặc điểm
tính cách. Lời văn giản dị mà sâu sắc, đa nghĩa.
10
3.2. Ý nghĩa của đoạn văn và vai trò của nhân vật người đàn bà
Thông qua vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người đàn bà, đoạn văn cũng như tác
phẩm tác phẩm đã bộc lộ giá trị nhân đạo, nhân văn sâu sắc. Đó là ca ngợi vẻ đẹp của con
người giữa cuộc đời đầy sóng gió. Người đàn bà tiêu biểu cho biết bao nhiêu phụ nữ sống
nghèo khổ, bất hạnh và tiêu biểu cho những người phụ nữ Việt Nam có nhiều phẩm chất
cao quý như tảo tần, lam lũ, chịu thương chịu khó, thương chồng thương con, giàu đức hi
sinh và lòng vị tha cao thượng. Với nhân vật người đàn bà, nhà văn Nguyễn Minh Châu
đã tiếp tục cuộc hành trình đi tìm hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn con người Việt Nam. Từ
đó khiến chúng ta rút ra rằng không thể nhìn đời, nhìn người bằng một cái nhìn đơn giản,
một chiều mà phải nhìn đời, nhìn người bằng cái nhìn đa diện nhiều chiều để khám phá
được cái đẹp về bản chất nhiều khi ẩn rất sâu trong bề ngoài thô nhám.

Đoạn số 3

Đọc đoạn trích sau:


“Người đàn bà bổng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình:
- Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách
mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hang
tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối…
- Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính nguỵ không ? – Tôi bỗng hỏi một câu như
lạc đề.
- Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính – bỗng mụ đỏ mặt –
nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật.
- Vậy sao không lên bờ mà ở - Đẩu hỏi.
- Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó ? Từ
ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề
được !
- Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không ? – Tôi hỏi.
- Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền
khác uống rượu…Giá mà lão uống rượu… thì tôi còn đỡ khổ…Sau này con cái lớn lên,
tôi mới xin được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh…
- Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được! – Đẩu và tôi cùng một lúc
thốt lên.
- Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là
nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông…
- Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu, - bất ngờ Đẩu trút một tiếng thở dài đầy chua
chát, - trên thuyền phải có một người đàn ông…dù hắng man rợ, tàn bạo ?
- Phải – Người đàn bà đáp – Cũng có khi biển động song gió chứ chú ?
Lát lâu sau mụ lại mới nói tiếp:
- Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hang chài ở thuyền chúng
tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng
11
đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để
đẻ con, rôi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền
chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được! Mong các
chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó ! – Lần đầu tiên trên khuôn
mặt xấu xí của mụ chợt ửng sang lên như một nụ cười – vả lại, ở trên chiếc thuyền cũng
có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hoà thuận, vui vẻ.
- Cả đời chị có một lúc nào thật vui không ?– Đột nhiên tôi hỏi?
- Có chứ, chú ! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no…”
(Trích“Chiếc thuyền ngoài xa” – Nguyễn Minh Châu – Sách Ngữ văn
12, tập hai , NXB giáo dục Việt Nam, trang 75-76).
Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích trên.Từ đó
nhận xét về vẻ đẹp của hình tượng người phụ nữ được thể hiện trong văn học.

I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
- Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích “Người đàn bà chép miệng…ăn no” đã
giúp người đọc hiểu thêm về nhân vật người đàn bà, từ đó cảm nhận sâu sắc hơn được vẻ
đẹp của hình tượng người phụ nữ trong văn học.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát chung (như phần đầu)
* Tóm lược tình huống bên bờ biển và phần đầu câu chuyện ở tòa án (lời từ
chối quyết liệt của người đàn bà, thái độ kinh ngạc, khó hiểu của Phùng và Đẩu)
2. Nhân vật người đàn bà hàng chài qua đoạn trích
2.1. Số phận bất hạnh:
- Không có tên tuổi, xấu xí: Đọc đoạn trích cũng như đọc hết câu truyện người đọc
vẫn không biết tên của người đàn bà là gì, tác giả đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi
là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị....như một sự xóa mờ tên tuổi
nhằm tô đậm thêm số phận của chị. Chị là người vô danh, là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc
đời nhọc nhằn, lam lũ như bao người phụ nữ khác không hiếm gặp trên những miền quê
Việt Nam. Điều đó chỉ ra một thực tế rằng, người đàn bà không phải là hiện tượng cá biệt
và cũng không phải quá phổ biến nhưng ta có thể bắt gặp đâu đó trong cuộc đời.
Trong suốt tác phẩm, người đọc có thể cảm nhận dường như mọi sự bất hạnh của
cuộc đời đều trút cả lên người đàn bà: xấu, nghèo khổ, lam lũ, ít học, lại phải thường
xuyên chịu những trận đòn roi của chồng vũ phu, tổn thương, đau xót cho các con phải
nhìn cảnh bố đánh mẹ… Từ nhỏ chị đã là một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt sau một bận lên
đậu mùa. Vì xấu nên không ai lấy, chị có mang với người con trai nhà hàng chài hay đến
mua bả về đan lưới rồi thành vợ chồng, được anh ta mang theo xuống sống dưới thuyền.
Cứ ngỡ tưởng có một cuộc sống gia đình thì sẽ có hạnh phúc và ấm êm nhưng cuộc sống
mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh, đau khổ càng làm cho diện mạo chị
trở nên xấu xí và thô kệch, thể hiện rõ qua hình ảnh lưng áo bạc phếch, gương mặt tái ngắt
như buồn ngủ vì thức trắng đêm kéo lưới, nửa thân dưới ướt sũng...Số phận, cuộc đời của
12
chị được tác giả tái hiện với đầy sự cảm thông, chia sẻ và càng hiện ra rõ nét hơn trong
câu chuyện của chị với Phùng và Đẩu ở toà án huyện.
- Nghèo khổ: Nghèo khổ, làm ăn khó nhọc lại còn đông con, cả gia đình hàng chài
trên dưới mười người phải sống chung trên con thuyền chật chội. Theo lời chị “từ ngày
cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt
hang tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối…”
- Bị bạo hành: Không chỉ bị cái xấu, cái nghèo đói, lam lũ đeo đuổi mà người đàn
bà còn thường xuyên bị chồng đánh đập, hành hạ. Như chánh án Đẩu nhận xét trước đó
thì “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng
nào như hắn”. Còn theo lời người đàn bà thì Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi
ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu…Giá mà lão uống rượu… thì tôi còn
đỡ khổ… Nếu như ở các đoạn văn trước, người đọc chỉ thấy người đàn bà bị chồng đánh
tàn độc thì qua lời người đàn bà trong đoạn trích đã biết thêm việc chị bị chồng đánh là
hoàn toàn vô lí. Chị không có lỗi lầm gì nhưng lão đàn ông vẫn có thể đánh chị bất cứ lúc
nào. Có lẽ, người đàn bà bị đánh nhiều đến mức khiến chị nghĩ việc chị bị chồng đánh là
lẽ đương nhiên như những đàn ông hàng chài khác uống rượu, bị chồng đánh như một
phần quen thuộc của cuộc đời.
- Nỗi đau về tinh thần: Ngoài nỗi khổ vì vật chất, sự đau đớn về thể xác, người đàn
bà còn phải chịu nỗi đau về tinh thần. Thật đau đớn biết bao khi người mẹ ấy đã phải van
xin chồng cho lên bờ đánh để các con không nhìn thấy cảnh đó “Sau này con cái lớn lên,
tôi mới xin được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh…”. Việc những đứa con phải chứng
kiến cảnh mẹ bị đánh khiến người đàn bà cảm thấy xấu hổ, nhục nhã và đau đớn. Hơn
nữa, chị lo lắng liệu khi những đứa con nhìn thấy cảnh bạo lực ấy tâm hồn non nớt của
chúng sẽ ra sao? Chúng sẽ nghĩ gì về bố và mẹ? Sau này lớn lên liệu chúng có giống bố
không? Chị đã cố giữ gìn một mái ấm gia đình trước mắt các con để chúng có niềm vui
sống, tâm hồn chúng không vẩn đục nhưng chị hoàn toàn bất lực.
=> Quả thực, người đàn bà hàng chài có cả một cuộc đời cơ cực, nhọc nhằn, khốn
khổ, không có sự che chở yêu thương. Chị là nạn nhân của sự nghèo đói, thất học và lạc
hậu. Số phận đầy bi kịch ấy của chị được tác giả tái hiện đầy cảm thông và chia sẻ.
2.2. Vẻ đẹp của người đàn bà trong đoạn trích
Ai đó đã từng nói “Tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là sự tôn vinh
con người qua những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Phải chăng vì vậy mà ta có thể
bắt gặp nhiều nghệ sĩ có phong cách hoàn toàn khác nhau trên cùng một giao lộ của hành
trình kiếm tìm và khám phá vẻ đẹp tâm hồn con người. Nhà văn Nguyễn Minh Châu trong
đoạn trích cũng như trong tác phẩm đã khám phá, phát hiện ra vẻ đẹp khuất lấp của nhân
vật người đàn bà. Vẻ đẹp của chị không dễ nhận thấy vì bị ẩn mình trong bề ngoài thô
kệch, xấu xí nhưng rất đáng trân trọng và ngợi ca.
* Thấu hiểu chồng, vị tha cao thượng
Câu nói Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão lôi tôi ra đánh cho thấy người đàn bà
hiểu rõ nguyên nhân mình bị chồng đánh. Chị hiểu, lão đàn ông đánh mình không phải vì
bản chất tàn ác, vũ phu mà là do nghèo đói. Cuộc mưu sinh của gia đình hơn chục người
13
như dồn hết gánh nặng lên đôi vai của người đàn ông đã biến người chồng hiền lành của
chị trở thành ác độc. Chị hiểu lão đàn ông đánh vợ như một cách giải tỏa đau đớn, khổ sở
trong lòng như. Chị thấu hiểu nỗi khổ của chồng nên vì thế mà chị luôn bảo vệ chồng
trước những đứa con, trước Phùng và Đẩu. Khi Phùng hỏi “Lão ta trước hồi bảy nhăm có
đi lính nguỵ không?” như muốn quy kết cho lão đàn ông bản chất xấu xa, tàn ác thì người
đàn bà đáp lời ngay “Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính”. Thấu hiểu
chồng phải làm ăn lam lũ, khó nhọc như vậy nên chị thậm chí còn nhận hết trách nhiệm,
lỗi lầm về mình cho rằng mình chính là nguyên nhân đẩy người chồng tới đau khổ “Giá
tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn” và ”nhưng cái lỗi chính
là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật”. Thậm chí, chị sẵn sàng chấp bị
bắt tội, phạt tù để không phải bỏ chồng.
* Thương con:
Phùng và Đẩu cho rằng người đàn bà chỉ có cách duy nhất là từ bỏ gã chồng tàn ác
và chắc chắn sẽ chấp nhận sự giúp đỡ của mình nhưng trái với điều họ mong đợi người
đàn bà đã kiên quyết từ chối. Quyết định không bỏ chồng của người đàn bà chủ yếu là vì
chị thương con. Chị nhận thấy rằng, các con là cuộc sống, lẽ sống, là tất cả những gì chị
có trong cuộc đời của mình. Vì thương con nên chị cần có người đàn ông để chèo chống
lúc sóng gió phong ba, để cùng nuôi dạy đàn con trên dưới mười đứa. Chị đã nói rằng đàn
bà hàng chài không sống như trên đất được mà phải sống vì con, phải gánh lấy cái khổ để
nuôi con khôn lớn “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho
mình như ở trên đất được”. Lòng thương con của chị khiến chị chấp nhận hi sinh bản
thân, cam chịu những trận đòn vũ phu của chồng, không kêu van, không trốn chạy. Thậm
chí, chị coi việc mình bị đánh đập như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời, là chuyện
đương nhiên. Cũng vì thương con, sợ con bị tổn thương nên chị mới xin chồng lên bờ
đánh. Tình mẫu tử của chị như một bản năng mãnh liệt ngàn đời của người phụ nữ được
bộc lộ một cách cảm động và sâu sắc nhất, vút lên trên cái nền của cuộc sống cơ cực,
ngang trái, đau đớn đầy xót xa của chị. Vì có những phụ nữ như chị nên nếu ai đó có ví
công lao của người mẹ như biển Thái Bình thì thiết nghĩ cũng thật dễ hiểu.
* Sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời
Phải nói rằng, nhà văn đã có cái nhìn đầy thương cảm và trân trọng đối với người
phụ nữ ấy nên mới khắc họa lên được một người đàn bà hàng chài tuy thất học nhưng
không tăm tối, ngược lại rất thấu trải lẽ đời, rất sắc sảo. Sự trải đời ấy của người đàn bà bị
che lấp sau vẻ bề ngoài thô kệch, xấu xí. Thậm chí là những hành động tưởng như đầy
lóng ngóng, bỡ ngỡ khi đặt chân vào căn phòng của chánh án Đẩu. Ẩn trong vẻ khúm
núm, sợ sệt trước thái độ của Đẩu và sự xuất hiện đường đột của Phùng. Nhưng người đàn
bà ấy bỗng chốc trở nên nhanh nhẹn và sắc sảo không ngờ khi bà nói về cuộc đời với
những lí lẽ riêng của một con người từng trải với con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình.
Chị hiểu thiện chí của Phùng và Đẩu khi khuyên mình bỏ người chồng vũ phu, tàn bạo.
Song chị càng hiểu hơn về thực tiễn đời sống trên sông nước. Chị chắt lọc từ cuộc đời
nhọc nhằn, lam lũ một chân lý mộc mạc nhưng thấm vị muối mặn của đời thường: “đám
đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong
14
ba”. Cuộc sống thực tế cần có một người đàn ông để làm chỗ dựa, dù đó là người chồng
vũ phu tàn bạo. Chị cũng hiểu và tự hào với thiên chức của người phụ nữ: “ông trời sinh
ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy
cái khổ”. Người đàn bà quê mùa, thất học còn chỉ cho Phùng và Đẩu bất cập trong chính
sách, chủ trương của của chính quyền là Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có được cái
nghề lưới vó? Từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì
không bỏ nghề được! Để từ đó Đẩu và Phùng phải vỡ lẽ và “ngộ” ra bao điều.

* Nâng niu chút hạnh phúc nhỏ nhoi đời thường.


Trong khổ đau, bất hạnh người đàn bà vẫn trân trọng, nâng niu những hạnh
phúc nhỏ bé, hiếm hoi. Hạnh phúc của chị là những lúc trên thuyền vợ chồng con cái vui
vẻ, hòa thuận với nhau. Đó chính là sức mạnh nội tâm nâng đỡ người đàn bà khiến “lần
đầu tiên trên gương mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên một nụ cười”. Nụ cười hạnh
phúc hiếm hoi của chị được góp nhặt và chắt chiu trong cuộc đời đầy khổ đau, nước mắt
với đòn roi, phải trả giá bằng những hành hạ, bạo tàn, từ những nỗi đau cả thể xác lẫn tinh
thần. Để từ đó, ta nhận ra dường niềm vui, niềm hạnh phúc lớn nhất đối với người người
đàn bà chính là sự tận tụy hi sinh cho chồng con Khi Phùng hỏi chị “Cả đời chị có một lúc
nào thật vui không?” thì câu trả lời của người đàn bà là “Có chứ, chú ! Vui nhất là lúc
ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no…”. Điều đó, cho thấy niềm vui lớn nhất, hạnh
phúc nhất của chị là khi được nhìn đàn con ăn no. Người đàn bà thật sự đã làm người đọc
xúc động vì tình mẫu tử thiêng liêng. Vì các con, chị quên hết nhọc nhằn, cực khổ, chị coi
những bất hạnh, khó khăn, ngọc nhằn mà chị phải gánh chịu như những hạt cát để gió thổi
bay còn những hạnh phúc mà chị nhận được dù quá nhỏ nhoi nhưng chị vẫn hết sức nâng
niu, trận trọng, giữ gìn.
3. Đánh giá
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật:
Tạo tình huống truyện độc dáo mang ý nghĩa khám phá. Trong đoạn trích, nhân vật
xuất hiện trong cuộc đối thoại với Phùng và Đẩu. Ngôn ngữ đối thoại sinh động phù hợp
với tính cách nhân vật và đậm tính triết lý. Lời văn giản dị mà sâu sắc, đa nghĩa. Cách kể
chuyện tự nhiên, cảm xúc. Khắc hoạ nhân vật bằng việc đi sâu vào thế giới nội tâm phức
tạp và đầy mâu thuẫn trong cuộc sống thường nhật. Biện pháp đối lập giữa hoàn cảnh và
tính cách, giữa ngoại hình và tâm hồn, của người đàn bà để làm nổi bật lên những phẩm
chất cao thượng đáng được ngợi ca… Ngoài ra, với bút pháp hướng nội, cảm hứng thế sự,
cách lựa chọn ngôi kể, điểm nhìn thích hợp đã làm cho câu chuyện trở nên gần gũi, chân
thực và có sức thuyết phục.
3.2. Nhận xét về vẻ đẹp của hình tượng người phụ nữ được thể hiện trong văn
học.
Hình tượng người phụ nữ là đề tài trở đi trở lại trong văn học. Tình yêu thương
giành cho những người phụ nữ càng sâu sắc bao nhiêu thì nỗi đau cho thân phận bất hạnh
của họ trong những trang viết lại càng nhức nhối bấy nhiêu. Nỗi đau ấy từ thân phận nàng
15
Kiều, những người chinh phụ theo dòng chảy đến với những Thị Nở, người vợ nhặt…và
trở nên đầy ám ảnh trong “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu. Trong tác
phẩm, tác giả đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài, một
người phụ nữ lao động nghèo khổ, lam lũ, bất hạnh. Người phụ nữ ấy tuy số phận đầy bất
hạnh nhưng lại có những phẩm chất đáng quí của người phụ nữ Việt Nam, tâm hồn tỏa
sáng những phẩm chất cao đẹp: tảo tần, chịu thương, chịu khó, nhân hậu, bao dung, giàu
đức hy sinh và lòng vị tha, thương chồng thương con và nhất là lòng thương yêu con vô
bờ bến.
3.3. Nhận xét về cách nhìn cuộc sống và con người của nhà văn
Nhân vật người đàn bà hàng chài tuy xấu xí, nghèo khổ nhưng mang phẩm chất tốt
đẹp của người phụ nữ. Qua đó, tác giả đã nêu lên cách nhìn nhận, đánh giá con người phải
có cái nhìn toàn diện, nhiều chiều. Không thể nhìn nhận vẻ bề ngoài để suy ra bản chất
bên trong của một con người. Không thể nhìn nhận con người một cách dễ dãi, xuôi
chiều. Phải đặt trong hoàn cảnh và các mối quan hệ mới thấu hiểu được bản chất bên
trong của họ. Đúng như nhà văn Nam Cao từng viết: "Chao ôi! Đối với những người ở
quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần
tiện, xấu xa, bỉ ổi . . . toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là
những người đáng thương; không bao giờ ta thương".
Mặt khác, nhà văn còn cho ta thấy cuộc vật lộn để mưu sinh của con người đầy khó
nhọc. Gánh nặng của cuộc mưu sinh tác động và thậm chí có thể đe dọa hạnh phúc gia
đình và con người cần phải kiên cường đối diện với khó khăn, thử thách để bảo vệ hạnh
phúc gia đình. Với nhân vật người đàn bà, nhà văn cũng khẳng định vai trò của người phụ
nữ trong việc xây dựng và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Một trong những phẩm chất làm
nên điều kì diệu ấy là lòng bao dung vị tha và đức hi sinh của họ. Với nhân vật người đàn
bà, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tiếp tục cuộc hành trình đi tìm hạt ngọc ẩn sâu trong
tâm hồn con người Việt Nam.
3.3. Nhận xét về giá trị nhân đạo:
Qua cuộc đời của người đàn bà hàng chài, tác giả cũng đặt ra những vấn đề nhức
nhối của cuộc sống: nạn bạo hành trong gia đình, sự nghèo đói, thất học, sự tha hóa về
nhân cách… những ngang trái, nghịch lý của cuộc sống. Giọng kể buồn thương, thể hiện
nỗi lo âu, trăn trở trước cuộc mưu sinh nhọc nhằn của con người. Nhà văn cảm thông,
chia sẻ và ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng, phát hiện và trân trọng vẻ đẹp trong tâm hồn
của người đàn bà hàng chài, cảm phục trước sự hi sinh thầm lặng của chị.
3.4. Nhận xét về quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu:
Qua nhân vật Phùng, Nguyễn Minh Châu khẳng định nghệ thuật phải gắn liền với
hiện thực cuộc sống và nhà văn phải biết vui buồn, yêu ghét trước cuộc đời, phải có cái
nhìn đa diện nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật của hiện tượng, con người.

Đoạn số 4:

16
Trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, qua con mắt của Phùng và lời kể
của người đàn bà, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã viết về nhân vật người đàn ông
như sau:
(…)Người đàn ông đi sau. Tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền. Mái
tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ
xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch và
rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng của người đàn bà.
Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng với chiếc máy ảnh, đi quá mươi bước sâu
vào phía trong có một chiếc xe rà phá mìn của công binh Mỹ, chiếc xe sơn màu vàng tươi
và to lớn gấp đôi một chiếc xe tăng. Hai người đi qua trước mặt tôi. Họ đi đến bên chiếc
xe rà phá mìn. Người đàn bà đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc
thuyền đậu một thoáng, rồi đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng
rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân.
Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc
thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết,
chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật
tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken
két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết
đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”(…)
(…)- Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính ngụy không? Tôi bỗng hỏi một câu như
lạc đề.
- Không chú à, cũng nghèo khổ túng quẫn vì trốn lính - bỗng mụ đỏ mặt - nhưng
cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá mà thuyền lại chật.
- Vậy sao không lên bờ mà ở - Đẩu hỏi.
- Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó? Từ
ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được!
- Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không? - Tôi hỏi.
- Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền
khác uống rượu... Giá mà lão uống rượu... thì tôi còn đỡ khổ... Sau này con cái lớn lên,
tôi mới xin được với lão... đưa tôi lên bờ mà đánh...
(Trích “Chiếc thuyền ngoài xa”, Nguyễn Minh Châu,
Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục, 2017)
Cảm nhận của anh/ chị về hình ảnh người đàn ông trong lời kể trên. Từ
đó, nhận xét về cảm hứng thế sự thể hiện trong tác phẩm.

I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
- Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích kể về người đàn ông đã giúp người đọc
hiểu thêm về nhân vật, từ đó thấy được cảm hứng thế sự được thể hiện rõ qua tác phẩm.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát chung (như phần đầu)
17
2. Nhân vật lão đàn ông qua cái nhìn của Phùng
2.1. Ngoại hình
Người đàn ông xuất hiện đầu tiên trước người đọc khi ông ta cùng người đàn
bà bước từ dưới thuyền lên, ông ta quát đứa con đang ở dưới thuyền “Cứ ngồi nguyên
đấy. Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ”. Đó đâu phải là lời của một con người bình
thường với người khác, nhất là với những người thân của mình. Đó là lời nói của một
người gia trưởng tự cho mình cái quyền được hành hạ người khác, miệng ra là đòi giết, là
muốn người ta chết… Cùng với lời nói cộc cằn, thô lỗ, thất học thể hiện sự tàn ác, lão đàn
ông xuất hiện trong đoạn trích với những nét ngoại hình “Tấm lưng rộng và cong như
lưng một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn,
hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn dán vào
tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng của người đàn bà”. Những
nét ngoại hình vừa làm toát ra vẻ tàn độc vừa thể hiện vẻ lam lũ, khắc khổ, hé lộ những
điều ẩn khuất trong cuộc đầy những lo toan, vất vả, cực nhọc của lão.
3. Hành động bạo lực (tội nhân)
Đúng như dáng vẻ bề ngoài, hành động của lão cũng rất cục cằn, dữ tợn, tàn ác.
Hành động đánh vợ của gã đàn ông diễn ra một cách thô bạo “lập tức trở nên hùng hổ,
mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như
những điều phải nói với nhau họ đã nói hết, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như
lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”. Theo suy
nghĩ thông thường, một người đàn ông là trụ cột gia đình phải yêu thương vợ con, lo lắng
và chở che cho gia đình của mình. Nhưng ở đây, người đàn ông không những không bảo
vệ vợ con mà còn hành hạ họ. Lão lấy vợ mình ra để trút bỏ cơn tức giận như lửa cháy,
đối xử thú tính như đối với một kẻ thù của thời trung cổ khiến cho người đàn bà phảichỉ
biết cam chịu, phải nhẫn nhịn, chịu nhục nhã. Bấy thôi cũng quá đủ để nói lên tính cách
dữ tợn, vũ phu và độc đoán, vô lương tâm của người đàn ông.
Đi đôi với hành động trên là những lời chửi mắng độc địa của ông ta về người vợ
“lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống
lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày
chết hết đi cho ông nhờ!”. Lão nguyền rủa vợ con một cách nghiệt ngã bằng lời lẽ của kẻ
thất học, vô văn hóa, tàn ác đã đành và nhưng hơn nữa lời nói ấy còn có nghĩa lão nhìn
nhận vợ con là gánh nặng cuộc đời. Vợ là gánh nặng nên “mày chết đi cho ông nhờ”, con
cũng là nợ đời nên “chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”.
Đáng trách hơn là sự tàn độc của người đàn ông không chỉ là sự bộc phát mà nó đã
diễn ra rất thường xuyên "Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không
có một người chồng nào như hắn". Những lời nói và hành động mất hết nhân tính ấy
khiến Phùng hay bất cứ ai chứng kiến đều cảm thấy phẫn nộ, giận dữ, không hiểu vì lí do
gì mà người đàn ông ấy có thể ra tay độc ác đến vậy.
4. Người đàn ông phần nào cũng là nạn nhân của hoàn cảnh
Qua sự quan sát và miêu tả của Phùng về người đàn ông thuyền chài, ai cũng
đều căm ghét cái thói vũ phu, đánh đập tàn bạo vợ con của hắn. Nhưng lắng nghe câu
18
chuyện của người đàn bà với Phùng và Đẩu ở tòa án chúng ta nhận thấy ngay câu chuyện
không đơn giản, Người đàn bà đã cho ta thấy một mặt khác ở người đàn ông, đó là ông ta
còn là một kẻ đáng thương.
Khi Phùng hỏi “Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính nguỵ không?” như muốn quy
kết cho lão đàn ông bản chất xấu xa, tàn ác thì người đàn bà đáp lời ngay “Không chú à,
cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính”. Qua lời người đàn bà, trước bảy nhăm, người
đàn ông này không đi lính ngụy mà trốn quân dịch. Lúc bấy giờ, anh ta “là một anh con
trai cục tính nhưng hiền lành lắm”, không bao giờ đánh vợ con, không biết uống rượu,
không biết hút thuốc…, đó là mẫu đàn ông lí tưởng. Nhưng cũng chính vì trốn lính mà
sinh ra nghèo đói, túng quẫn. Câu nói Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão lôi tôi ra đánh
cho thấy người đàn bà hiểu rõ nguyên nhân vì sao lão đàn ông lại đánh vợ. Người đàn bà
hiểu rõ, lão đàn ông đánh mình không phải vì bản chất tàn ác, vũ phu mà là do nghèo đói.
Cuộc mưu sinh của gia đình hơn chục người như dồn hết gánh nặng lên đôi vai của người
đàn ông đã biến người chồng hiền lành của chị trở thành ác độc. Chị hiểu lão đàn ông
đánh vợ như một cách giải tỏa đau đớn, khổ sở trong lòng như những người đàn ông hàng
chài khác uống rượu. Như vậy, nếu trong con mắt của Phùng, Đẩu người đàn ông là một
kẻ độc ác, không có tính người thì với người đàn bà hàng chài, ông ta không chỉ là người
chồng mà còn là một ân nhân, một nạn nhân. Ngày còn trẻ, người đàn bà xấu xí lại rỗ mặt
do bị bệnh đậu mùa nên khó lấy được chồng. Khi ấy người đàn ông hàng chài đã chấp
nhận cưu mang và ban đầu đã mang đến cho người đàn bà ấy một cuộc sống gia đình
đúng nghĩa. Bạo lực, độc ác của lão đàn ông không phải do tính cách bẩm sinh mà chủ
yếu do cảnh ngộ xô đẩy. Người đàn ông hóa ra cũng là nạn nhân của cuộc sống thời hậu
chiến. Những áp lực vô hình của cuộc sống đã biến ông ta trở thành một kẻ độc ác, ích kỉ,
nhẫn tâm ngay cả với những người thân yêu nhất của mình.
Tính chất lưỡng phân ở nhân vật lão đàn ông, vừa đáng giận vừa đáng thương, vừa
là nạn nhân vừa là tội nhân, còn được thể hiện rõ qua nhiều chi tiết trong đoạn trích: Hành
động vừa quất tới tấp cái thắt lưng lính ngụy vào lưng vợ, vừa thở hồng hộc vừa nghiến
răng ken két cho thấy cách “thở hồng hộc” đúng là vũ phu rồi. Nhưng còn tiếng nghiến
răng “ken két” cùng “cái giọng rên rỉ đau đớn” kia thì phải chăng có cả sự đau đớn, xót
xa. Giận đời, giận vợ, giận cả mình nữa. Tất cả biến thành phẫn nộ vì bế tắc, cùng đường,
thể hiện bằng ngôn ngữ của chiếc thắt lưng da. Nhìn vào ngoại hình khắc khổ và giọng
điệu rên rỉ đau đớn khi buông những lời chửi mắng tàn tệ có thể thấy ông ta cũng rất đau
khổ. Đau khổ vì nghèo, vì bất lực trước cuộc sống đói nghèo, bế tắc. Không ai có thể phủ
nhận sự độc ác trong hành động, lời nói của người đàn ông thế nhưng cũng cần nhìn nhận
một cách công bằng, vì ở một khía cạnh nào đó, dù khổ cực, bần cùng thì ông ta vẫn có
trách nhiệm với gia đình, cố gắng cáng đáng mà không bỏ rơi vợ con. Lão đàn ông dù có
vũ phu, nguyền rủa vợ con nhưng trên hết ông ta vẫn là người có sức khỏe, có đủ khả
năng chèo lái con thuyền trước những bão going, là chỗ dựa của người đàn bà và những
đứa con. Trong đoạn trích, người đàn bà còn kể “Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin
được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh…”. Việc lão đàn ông chấp nhận lời cầu xin ấy của

19
vợ cho thấy trong sâu thẳm ở ông ta tình phụ tử vẫn còn tồn tại, vẫn còn chút lương tri
như bản chất lương thiện ban đầu.
3. Đánh giá
3.1. Nghệ thuật
Nghệ thuật xây dựng tình huống nhận thức, miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắc qua
ngôn ngữ sắc sảo, chọn chi tiết độc đáo. Nhân vật người đàn ông thuyền chài được tác giả
đặt vào nhiều góc nhìn khác nhau của các nhân vật. Nhờ vậy, mà nhân vật này dù chỉ xuất
hiện “thoáng qua” nhưng diện mạo, ngôn ngữ, hành động, tính cách cục cằn, tàn nhẫn
cũng như bản chất của lão được bộc lộ một cách toàn diện, rõ nét và khách quan. Một
thành công nữa của Nguyễn Minh Châu là đã học tập ở nhà văn Nam Cao trong việc diễn
tả hiện tượng lưỡng tính (tính chất lưỡng phân) ở nhân vật người đàn ông thuyền chài:
vừa tàn nhẫn nhưng cũng vừa đau đớn, khốn khổ, vừa là tội nhân vừa là nạn nhân…
3.2. Nhận xét về ý nghĩa đoạn trích
Qua hình ảnh người đàn ông hàng chài trong đoạn trích, nhà văn Nguyễn Minh
Châu thể hiện quan niệm về cuộc sống, con người và cảm hứng nhân đạo trong ngòi bút
của mình. Từ nhân vật người đàn ông ta thấy rõ ràng, không thể nhìn người và nhìn đời
một phía. Trước mọi sự vật, hiện tượng nói chung và cuộc sống con người nói riêng,
chúng ta cần phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều. Phải tìm hiểu những nguyên nhân sâu
xa dẫn đến những hành vi của con người trước khi kết luận về tính cách hay phán xét họ.
Đúng như nhà văn Nguyễn Minh Châu đã từng tâm sự: “Nhà văn không có quyền nhìn
sự vật một cách đơn giản, và nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào
các tầng sâu lịch sử”. Qua đó, Nguyễn Minh Châu khẳng định nghệ thuật phải gắn liền
với hiện thực cuộc sống và nhà văn phải biết vui buồn, yêu ghét trước cuộc đời, phải có
cái nhìn đa diện nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật của hiện tượng, con người. Tác
phẩm vì vậy góp phần thể hiện phong cách truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu.

3.3. Nhận xét về cảm hứng thế sự trong tác phẩm


Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa ra đời khi đất nước đã hòa bình thống
nhất, trong hoàn cảnh ấy con người có bao nhiêu điều phải suy ngẫm trước cuộc sống bộn
bề. Nguyễn Minh Châu là người đi trước, nên cảm hứng thế sự được thể hiện rõ trong tác
phẩm qua các phương diện:
- Dự cảm, day dứt, lo âu về bất hạnh của con người trong cuộc sống thường nhật đã
thôi thúc Nguyễn Minh Châu gửi đến bạn đọc thông điệp: sự nghèo đói, ngu dốt, tối tăm
cùng với cuộc sống lao động cực nhọc có thể dẫn đến cái xấu, cái ác và số phận bi
thảm của con người. Trong Chiếc thuyền ngoài xa, gia đình hàng chài chính là một bức
tranh thu nhỏ cho cuộc sống ấy. Ở đó, con người hiện lên chân thực đến trần trụi trong
một cuộc sống đói nghèo tăm tối khiến tác giả phải day dứt vì những số phận như số phận
người đàn bà, số phận người đàn ông và cả số phận những đứa trẻ…
- Nhưng hơn nữa, Nguyễn Minh Châu còn khám phá ở một tầng sâu hơn trong
những bí ẩn của con người. Thể hiện rõ qua tính chất lưỡng phân ở nhân vật người đàn
20
ông. Trong tác phẩm, Nguyễn Minh Châu đem đến cho ta những bất ngờ khi cho thấy
người đàn ông ấy đâu chỉ là một tội nhân mà ông ta còn là ân nhân của người đàn bà, là
nạn nhân của đói nghèo, lạc hậu. Trên vai ông ta là cả một gánh nặng mưu sinh nhọc
nhằn. Còn người đàn bà, tưởng như ít học, mông muội khi chấp nhận đòn chồng mà
không van xin, chạy trốn hay chống trả lại là một người rất thấu hiểu lẽ đời, thấu hiểu
chồng, biết cảm thông cho chồng và biết hy sinh. Rõ ràng, đằng sau sự man rợ của người
đàn ông là bản tình hiền lành, chất phác; đằng sau cái vẻ xù xì, thô mộc của người đàn bà
là những vẻ đẹp bất ngờ của con người. Đó là một cách thể hiện niềm tin của Nguyễn
Minh Châu vào con người và cuộc đời. Cuộc đời và con người có thể không xấu xa, độc
ác đến mức như bề ngoài của nó.
- Nhà văn đã dám nhìn thẳng vào hiện thực đời sống với những mảng tranh
tối, tranh sáng với bạo lực, nghèo đói, lạc hậu…Đó chính là hệ quả của việc cải cách
đời sống nhân dân chưa triệt để sau những năm đổi mới giành thắng lợi. Điển hình như
gia đình hàng chài ngoài nghề đánh cá ra không biết làm nghề gì khác để sinh sống. Dù
được cấp đất nhưng không được phổ biến và dạy cách trồng trọt, chăn nuôi… nên họ có
đất cũng vô nghĩa. Vậy nên họ không thể rời chiếc thuyền được. Cuộc sống trên thuyền
lại gắn liền với những cơn giông bão hiểm nguy. Nếu không có người đàn ông khỏe mạnh
chèo lái con thuyền, chắc hẳn họ cũng không thể nào sống được.
- Từ đó, nhà văn gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh về bạo lực gia đình, về việc phải
bảo vệ trẻ em và phụ nữ và đặt ra vấn đề phải cải tạo cuộc sống bằng những giải pháp
thiết thực để con người thoát khỏi cảnh khổ, để giảm thiểu cái xấu và cái ác trong xã hội.

Đoạn số 5:
Cảm nhận của anh/chị về đoạn trích sau:
“Những tấm ảnh tôi mang về, đã được chọn lấy một tấm. Trưởng phòng rất
bằng lòng về tôi.
Không những trong bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau, tấm ảnh chụp của tôi
vẫn còn được treo ở nhiều nơi, nhất la trong các gia đình sành nghệ thuật. Quái lạ, tuy là
ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên màu hồng hồng của ánh
sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi
cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển
cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phết có miếng vá, nửa thân dưới
ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm
rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông…”
(Trích Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu, SGK Ngữ văn 12,
tập 2, NXB Giáo dục, tr 77,78)
Bài làm

I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

21
- Nêu vấn đề cần nghị luận: Nguyễn Minh Châu là người luôn trăn trở về số phận
của con người và trách nhiệm của nhà văn trong cuộc đời. Thành công của truyện ngắn
được tạo nên bởi những hình ảnh, chi tiết ấn tượng, giàu giá trị biểu đạt, trong đó nổi bật
nhất có thể kể đến chi tiết “tấm ảnh nghệ thuật trong bộ lịch cuối năm” qua đoạn văn ngắn
cuối tác phẩm. Đây là chi tiết đắt giá thể hiện được quan niệm về cuộc sống và nghệ thuật
của tác giả và có thể khơi dậy ở người đọc nhiều chiêm nghiệm sâu xa.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
- Nhà văn Nguyễn Minh Châu quan niệm “Tình huống truyện giữ vai trò là hạt
nhân của cấu trúc thể loại, là một lát cắt của hiện thực cuộc sống, nhưng chỉ qua một
lát cắt ấy thấy được cả vòng đời thảo mộc trăm năm”. Với quan niệm như vậy nên trong
truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã tạo ra tình huống truyện hết
sức độc đáo. Để trong tình huống nhận thức ấy, nhà văn khám phá và thể hiện nhiều điều
về cuộc sống, về mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống.
Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển, vị trưởng phòng khó
tính đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển
buổi sáng có sương mù. Chấp nhận yêu cầu của trưởng phòng, Phùng quyết định đến
vùng biển từng là chiến trường cũ nơi anh từng chiến đấu, ở đó anh có người bạn chiến
đấu là Đẩu, hiện là chánh án toà án huyện. Sau gần một tuần mai phục, buổi sáng hôm ấy,
bất ngờ anh lại gặp được một cảnh “đắt” trời cho, cảnh mà theo Phùng suốt đời cầm máy
anh chưa gặp được một lần. Cảnh đẹp như “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời
cổ”, một “vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”, mà đứng trước cảnh tượng ấy người nghệ
sĩ thấy trái tim mình thắt lại, bối rối. Thậm chí, trong giây phút hạnh phúc đến tuyệt đỉnh,
Phùng tưởng như đã “khám phá ra chân lý của sự toàn thiện, khám phá ra khoảnh khắc
trong ngần của tâm hồn”. Đó là niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ khi bắt gặp cái đẹp,
nhận ra vai trò thực sự của nghệ thuật. Phùng đã bấm máy liên tục để thu hết vẻ đẹp tuyệt
đỉnh của cảnh vật vào ống kính của mình. Nhưng éo le thay khi con thuyền ngư phủ đẹp
như một giấc mơ trong bức tranh nghệ thuật đẹp một cách toàn bích ấy tiến vào bờ thì
bước xuống từ đó không phải là những con người đẹp và toàn thiện như cổ tích mà là một
người đàn bà xấu xí, một người đàn ông độc ác và một màn bạo lực gia đình khiến cho
không chỉ Phùng mà người đọc cũng sửng sốt và đau đớn. Những ngày sau đó, Phùng lại
chứng kiến cảnh người đàn bà bị đánh lần thứ hai, anh muốn ngăn cản nên đã lao vào
đánh người đàn ông và bị thương nhẹ. Chánh án Đẩu và Phùng có khuyên người phụ nữ
ấy nên ly hôn, tuy nhiên người đàn bà đã kiên quyết không chịu bỏ chồng. Rồi người đàn
bà kể cho Phùng và Đẩu nghe câu chuyện cuộc đời mình để từ đây Phùng và Đẩu đã ngộ
ra nhiều điều về cuộc sống và nghệ thuật.
2. Tấm ảnh được chọn
Tấm ảnh được nhắc đến trong đoạn trích là bức ảnh Phùng chụp được trong buổi
sáng hôm ấy. Đó là bức ảnh tĩnh vật với cảnh thuyền và biển vào buổi sáng có sương mù.
Tấm ảnh Phùng chụp được trưởng phòng rất ưng ý “Những tấm ảnh tôi mang về, đã được
chọn lấy một tấm. Trưởng phòng rất bằng lòng về tôi.” Sự đánh giá cao của cấp trên xứng
22
đáng với công sức Phùng đã bỏ ra để “phục kích” nhiều ngày mới chụp đựơc tấm ảnh đó
cũng như tài năng của anh. Không những thế, nó trở thành bức ảnh có giá trị nghệ thuật
cao, có giá trị lâu bền “không những cho bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau”. Tấm ảnh
được nhiều người rất yêu thích, được “treo rất nhiều nơi trong các gia đình sành nghệ
thuật”. Tấm ảnh đó đã khẳng định tài năng, nâng cao uy tín của người nghệ sĩ trên hành
trình khám phá cái đẹp và việc nhiều người yêu nghệ thuật trân trọng tấm ảnh của Phùng
cũng là điều dễ hiểu. Có lẽ, những người yêu nghệ thuật thực sự đã nhận ra bức ảnh đẹp
toàn bích, đáng để cho họ thưởng thức và treo ở nơi sang trọng nhất trong nhà.
Mỗi khi nhìn lại vào tấm ảnh năm ấy, dù là ảnh đen trắng nhưng Phùng vẫn
nhìn thấy màu hồng hồng của ánh ban mai, nhìn thấy hình ảnh người đàn bà làng chài lam
lũ, như đang bước ra khỏi tấm ảnh. Nhà văn viết: Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi
lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn
thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy
đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường
nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phết có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã
nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt
đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông…”.
Với rất nhiều sự băn khoăn day dứt nên Phùng luôn “ ngắm kĩ”, “nhìn lâu hơn” để
mỗi lần như thế anh lại không chỉ rung động trước cái đẹp mà còn bị ám ảnh bởi hình ảnh
người đàn bà nghèo khổ lam lũ. Cái “màu hồng hồng của sương mai” chính là biểu tượng
cho cái đẹp lãng mạn của cuộc đời, là chất thơ của cuộc sống và đó cũng chính là biểu
tượng cho vẻ đẹp của nghệ thuật. Qua đó nói lên ngụ ý của nhà văn nghệ thuật cần có chút
lãng mạn trong bề sâu tác phẩm. Và hình ảnh người đàn bà nghèo khổ bước ra từ bức
tranh là hiện thân cho cuộc đời thực nhiều sóng gió, phũ phàng. Qua hai hình ảnh ấy,
người đọc nhận ra hóa ra đằng sau vẻ đẹp trong trẻo, thánh thiện, thơ mộng của cái màu
hồng hồng ánh sương mai kia chính là hiện thực bi đát của cuộc đời, cuộc sống lam lũ,
khổ đau của người hàng chài nói riêng và người lao động nghèo sau chiến tranh nói
chung. Tấm ảnh nghệ thuật “chiếc thuyền ngoài xa” đẹp như mơ đó chỉ là cái vỏ bề ngoài.
đằng sau nó là cuộc sống rách rưới, đói nghèo, khổ đau của con người.
Qua những khám phá, phát hiện của Phùng khi ngắm nhìn bức ảnh của mình ở cuối
truyện tác giả Nguyễn Minh Châu gửi gắm đến người đọc thông điệp nhận thức:
+ Thông điệp là về cách nhìn cuộc đời, con người: Cuộc sống vốn chứa đầy những
nghịch lí giữa trong và ngoài, phải và trái, xa và gần… Cái đẹp ngoại cảnh có khi che
khuất cái xấu của đời sống Cái xấu cũng có thể làm cái đẹp bị khuất lấp. Cuộc sống nhiều
khi thường "đánh lừa" ta như thế. Hơn nữa, nhiều khi trong cùng một sự vật, một sự việc,
một con người cũng chứa đầy những mâu thuẫn, đối lập. Bởi vậy, con người không được
nhìn cuộc đời bằng cái nhìn đơn giản, một chiều mà cần có cái nhìn đa diện, nhiều chiều,
phải có con mắt tinh tường nhìn thấu gan ruột để khám phá, phát hiện ra bản chất thật của
đời sống.
+ Thông điệp về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống: Thông qua hai hình
ảnh đầy ám ảnh trong bức ảnh, nghệ sĩ Phùng đã thể hiện những nhìn nhận đúng đắn về
23
bản chất đích thực của nghệ thuật. Không thể có nghệ thuật thuần túy, nghệ thuật vị nghệ
thuật mà cái đích tối cao của nghệ thuật là nghệ thuật vị nhân sinh. Nghệ thuật chân
chính phải bắt nguồn từ cuộc sống dẫu có nhọc nhằn, lam lũ, thậm chí là khổ cực và cay
đắng và quay lại phục vụ cho cuộc sống, phải dành ưu tiên trước hết cho con người, góp
phần giải phóng con người khỏi sự cầm tù của đói nghèo, tăm tối và bạo lực, làm thay đổi
cuộc sống theo hướng tốt đẹp hơn. Đúng như chính nhà văn Nguyễn Minh Châu đã nói:
“Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người”. Mỗi tác
phẩm nghệ thuật thật sự đều phải bắt nguồn từ cuộc sống, không được tách rời cuộc sống.
Người nghệ sĩ chân chính phải có tấm lòng biết trăn trở về số phận con người; phải nhìn
cuộc đời sâu sắc, đa chiều, không giản đơn, dễ dãi và phải dũng cảm, trung thực nhìn
thẳng vào hiện thực, biết rút ngắn khoảng cách giữa nghệ thuật và cuộc đời. Không những
vậy, một tác phẩm nghệ thuật chân chính vừa phải có giá trị thẩm mĩ, vừa phải chứa
đựng chiều sâu giá trị nhân sinh sâu sắc. Để làm được điều đó đòi hỏi người nghệ sĩ phải
có sự trải nghiệm và quá trình lao động nghệ thuật nghiêm túc, gian khổ.
“Văn học là cuộc đời. Văn học sẽ không là gì cả nếu không vì cuộc đời mà có. Cuộc đời là nơi
xuất phát, cũng là nơi đi tới của văn học” (Tố Hữu)
Quan niệm về đời sống và mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống ấy của
Nguyễn Minh Châu đã được cụ thể hóa qua nhân vật Phùng và bức ảnh được chọn trong
đoạn trích. Với tư cách là một con người, Phùng là cũng là một con người chân chính,
biết yêu thương, nâng đỡ cái yếu, căm ghét cái ác, có nhưng trăn trở, băn khoăn, lo lắng
trước nỗi đau khổ của những con người bất hạnh. Với tư cách người nghệ sĩ Phùng đã
nhận ra chân lí của nghệ thuật và thực hiện được sứ mệnh, thiên chức của người
nghệ sĩ, có cái tâm với nghề, đáng để người ta kính phục. Thế nhưng, trước sự thực
cuộc đời đầy cay đắng, phức tạp đôi khi người nghệ sĩ ấy còn “ngây thơ” và có những lẽ
ngang trái cuộc đời, anh không thể làm gì để thay đổi nên có những điều khiến anh luôn
phải trăn trở, day dứt thành nỗi ám ảnh. Còn bức ảnh nghệ thuật được nhắc đến trong
đoạn trích đã chuyển tải được thông điệp nghệ thuật sâu sắc nên nó trở thành bức
ảnh nghệ thuật mẫu mực, là nghệ thuật thăng hoa được công chúng đón nhận.
+ Tấm ảnh ấy cho ta thấy rõ trái tim nhân đạo của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
Không chỉ trăn trở về cuộc sống nghèo đói, nhìn thấy vẻ đẹp của người lao động giữa cát
bụi thô nhám của cuộc đời đầy sóng gió mà nhà văn còn quan tâm, thể hiện niềm tin vào
tương lai của họ. Mỗi lần xem lại bức ảnh, Phùng thấy người đàn bà ấy bước ra khỏi tấm
ảnh. Những bước đi chắc chắn và hòa lẫn vào đám đông của người đàn bà hàng chài thể
hiện niềm tin của Phùng về sự hòa nhập của người lao động trong hành trình đi lên của
cuộc sống.
3. Đánh giá
Kết thúc truyện cho thấy tác phẩm được xây dựng theo lối kết cấu vòng tròn:
mở đầu là đi tìm ảnh, kết thúc là ngắm nhìn ảnh mà ngẫm nghĩ, chiêm nghiệm nhằm nhấn
mạnh tính triết lí của truyện. Giọng văn trầm lắng, suy tư, triết lí, nhiều dư vị, nhiều liên
tưởng bất ngờ cùng lối kết thúc mở độc đáo, gợi nhiều suy nghĩ ở người đọc như một
khúc vĩ thanh không chỉ khép lại câu chuyện mà còn mở ra một hướng mới cho số phận
24
của con người; chi tiết nghệ thuật giàu ý nghĩa biểu tượng; cách kể chuyện hấp dẫn từ
cách lựa chọn ngôi kể, điểm nhìn thích hợp làm cho câu chuyện gần gũi, chân thực và có
sức thuyết phục…
Đoạn văn miêu tả bức ảnh nghệ thuật gợi bao thức nhận đầy đau đớn và sâu sắc và
chỉ một đoạn văn ngắn nhưng đã tổng hợp lại toàn bộ ý đồ nghệ thuật của tác giả.

C. KẾT LUẬN CHUNG


Nhà văn Nam Cao đã từng thể hiện một quan điểm nghệ thuật rất hay và sâu sắc
rằng: “Chao ôi! Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, cũng không nên là
ánh trăng lừa dối mà nghệ thuật chỉ có thể là những tiếng đau khổ kia thoát ra từ
những kiếp lầm than. Và nhà văn không được trốn tránh sự thật mà “phải đứng trong
lao khổ mở hồn ra để đón lấy những tiếng vang động của đời”. Quan điểm ấy của nhà
văn Nam Cao đã cho chúng ta những cảm nhận sâu sắc về mối quan hệ giữa nghệ thuật và
cuộc đời, nghệ thuật chân chính phải là “nghệ thuật vị nhân sinh”. Cùng với quan điểm
ấy, nhà văn Nguyễn Minh Châu trong trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa đã không
chỉ phản ánh những vấn đề của đời sống mà còn gửi gắm quan niệm sâu sắc về mối quan
hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời. Trong từng lời văn, trong hình tượng người kể chuyện,
thấp thoáng một Nguyễn Minh Châu, nghệ sĩ sáng tạo và con người giàu lòng thương yêu
con người, yêu quý cuộc sống.

“Có ai đó đã ví sáng tạo nghệ thuật như việc thả diều. Con diều dù có bay bổng bao
nhiêu vẫn phải gắn với mặt đất bằng một sợi dây vững chắc. Ý tưởng ấy gợi cho ta nhiều
suy nghĩ sâu sắc về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực cuộc sống. Nhìn vào một số
tác phẩm văn học lớn, chúng ta thấy rõ mối quan hệ máu thịt này.”
(Muốn viết được bài văn hay – Chủ biên: Nguyễn Đăng Mạnh)

“Thời gian qua kẽ tay


Làm khô những chiếc lá
...Riêng những câu thơ còn xanh
Riêng những bài hát còn xanh”
(Thời gian – Văn Cao)
Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. Những tác phẩm nghệ thuật đạt đến chuẩn
mực của cái hay, cái đẹp đẽ sẽ “vượt qua mọi sự băng hoại của thời gian và chỉ mình nó
không thừa nhận cái chết”. Cũng như dù thời gian có trôi qua nhưng những giá trị của tác
phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu vẫn vẹn nguyên và tỏa sáng. Đến
với tác phẩm này bên cạnh những nhân vật Phùng, Đẩu, lão đàn ông..., chúng ta hẳn là
không thể quên được nhân vật người đàn bà hàng chài. Đây chính là hình tượng tiêu biểu
cho quan niệm nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Minh Châu về cách nhìn cuộc sống và con
người, để lại nhiều ấn tượng sâu đậm trong lòng độc giả.

25

You might also like