Độc mã Quyết làm những gì mình muốn Tôi tự viết truyện đời bằng suy cảm Và biến những ý nghĩ thành sự thật. Bỗng một hôm Tôi đứng yên để một người buộc vào tôi dây cương và đi theo người ấy Đó là người tôi yêu. (Tôi) Niềm mong mỏi đầy mâu thuẫn ấy đã bộc lộc hết chất Á Đông trong cngười Vili: người phnữ phương Đông bao đời bị kiềm hãm về tinh thần nay muốn được bứt mình ra vòng phụ thuộc để thỏa sức bay nhảy đồng thời là người phnữ trthống luôn sẵn sàng buông tay Tự Do để đi theo tiếng gọi của TYêu, để gắn chặt cuộc đời mình với 1 cuộc đời khác. Những tâm sự ấy của VTL cũng chính là lời của rất nhiều người phnữ vẫn đang băng khoăng đứng giữa 2 đầu lựa chọn: nổi loạn hay truyền thống, để bay hay để yêu, khi mà những điều này vẫn thật khó để cùng lúc có đc. Khao khát yêu đương và yếu tố nhục cảm Tính nữ trong thơ Vi Thùy Linh tự biểu đạt ở những xúc cảm tinh nhạy, tự khẳng định bằng tâm hồn cô đơn nổi loạn và tự nuôi dưỡng mình bằng những khát khao yêu thương và nhục cảm. Đấy là phần sâu kín nhất trong thế giới thơ Vi Thùy Linh, cũng là suối nguồn của mọi xúc cảm, rung động được gợi lên trong thơ của cô. Đó cũng là nền tảng sau cùng để thơ Vi Thùy Linh gọi ra được phong cách, cái thần, cái hồn của mình. Khác với những nhà thơ nữ thời kháng chiến (Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ) làm thơ theo những cảm xúc tế vi, mềm mại, với Vi Thùy Linh, yêu thương luôn gắn liền với nhục cảm sống động. Thơ Vili vẫn thể hiện những xúc cảm, rung động tinh tế theo một cách riêng, nhưng sóng đôi với những đường nét xúc cảm ấy luôn là những ảnh hình được viền nổi của những chuyển động da diết, rạo rực. Hành trình sáng tạo của Vi Thùy Linh cũng là một hành trình khẳng định những khát vọng yêu thương, hoàn thiện hình dung của mình về thế giới của tình yêu. Từ những tập thơ đầu KhÁt và Linh đến Đồng Tử và Vili in love, hành trình dấn thân, trải nghiệm, hòa điệu với những cơn khát yêu thương càng trở nên tinh tế và phức tạp hơn; những góc cạnh của tình yêu càng mở rộng, để những người nữ trong thơ càng sống rạo rực, sống da diết hơn trong thế giới của diễn từ. Những xúc cảm càng trưởng thành lại càng mạnh mẽ ấy đã luôn dẫn đường, luôn cung cấp một nguồn năng lượng nghệ thuật dồi dào cho Vi Thùy Linh. Những khát vọng yêu thương được cô bày tỏ theo cách chân phương nhất, trở thành những nỗ lực khẳng định tình yêu, cơn khát yêu của mình với thế giới: Em muốn nổ tung khối chữ trong mình Thành lời: Em yêu anh! Người đàn bà Rùng mình vì cô đơn Đấy không phải bí mật! Em thấm những dòng chữ không thẳng Sức trẻ có hạn Em cứ gồng lên Bỏ lời tỏ tình của những chàng trai nhập nhờ dưới suy nghĩ về anh (Em – Bí mật?) Đấy là khi những cơn khát tự vấn mình theo cách dữ dội nhất, đến độ chỉ những câu đơn giản, thô ráp, ngắn gọn và thu mình – những câu ko đeo trang sức – mới có thể chiều lòng những đợt sóng tình cảm ấy. Đấy là những khi VTL khđịnh và cũng là chiêm nghiệm về tyêu, những khi tiếng lòng của khát vọng yêu bừng dậy mãnh liệt đến độ nhà thơ chỉ có thể để ý thơ hiện hình theo cách nguyên sơ nhất. Nhưng thông thường, Vi Thùy Linh thường để những câu thơ duỗi dài tấm lưng theo tcảm, duỗi dài theo khát vọng hòa nhịp, hòa quyện, hòa điệu với người mình yêu: Cho em nắng óng cất từ màu da Anh Cho em tiếng cười từ khoé môi rộng lượng Anh Cho em ngủ ngon trong vòng ôm định phận của Anh (Cất giấu) Em nghe thấy nhịp cánh êm ái ân Một làn gió thổi sương thao thác Đêm run theo từng tiếng nấc Về đi anh Cài then tiếng khóc em bằng đôi môi anh (Người dệt tầm gai) Căn phòng thành đại dương Em đi không ướt gót Chiếc gối lưu dư chấn Búp búp chồi lồng ngón Thời gian thành rừng yêu Anh cùng em làm bản đồ tình yêu Chân mây thăm thẳm Xoải cánh mùi thịt da lồng lộng Em luôn muốn hôn anh cẩn thận Xiêm y vũ hội là làn da xuân (Bản đồ tình yêu) Từng động tác và hơi thở, sự gấp gáp và cuồng nhiệt là những biểu hiện thường thấy nhất ở thơ Vi Thùy Linh khi nữ sĩ để tình yêu với đầy đủ nhục cảm lên tiếng. Cô để cho mọi mặt của những bản năng quen thuộc nhất của nữ giới được gọi ra và được trải dài miên man trong khát vọng của mình, đến độ thơ Vi Thùy Linh không chỉ dừng lại ở sáng tác văn học nữ quyền (lấy chủ thể, lấy trung tâm là những cảm nhận nữ giới) nữa. Nói như nhà phê bình Chu Văn Sơn, đó là thi ca Ái quyền, là những vần thơ với đầy đủ phẩm tính nữ giới khẳng định quyền yêu đương, quyền tận hiến cho tình yêu, theo một bản năng đầy chân thực của con người. Cũng chính vì vậy, thơ Vi Thùy Linh xuất hiện nhiều những động tác của yêu thương như vuốt ve, ôm ấp, tô son, cài then đôi môi hay cơ thể người phụ nữ bằng người đàn ông; những hình ảnh kết nối cả tâm lý và sinh lý như tấm lưng, những đôi chân và tay, bào thai và đồng tử – những hình ảnh chân thực, viên mãn nhất của yêu đương, nhục cảm. Còn lại là những lúc nữ sĩ dùng những hình ảnh nhục cảm để triết lý về tình yêu. Khi ấy, những đường nét sống động của sức nóng, của khát khao vẫn vằng vặc trên câu chữ, nhưng đằng sau đó là ánh sáng của một thứ tôn giáo: Dành em cho Anh – tặng vật của Chúa trời Vì chỉ Anh thấy em trong tấm gương đức hạnh Phủ phục dưới hào quang huy hoàng của vòng tay thống trị Chuông bắt sáng từng hồi diễm lệ (Teresa) Anh trao em ngày mới Cuộc sống khác từ mùa xuân chưa từng thấy Dài theo đôi mắt, kín đất hoa linh những bàn chân non đường thon âm thanh hoan lạc Bình minh mọc từ vầng ngực Anh đầy ắp hồng cầu Sao lên từ mắt Cả thế giới chật ních buồn phiền bỗng nhiên vắng lặng Để loài người học yêu nhau trở lại Để loài hoa không bao giờ mãn khai, hé mở (Đường ong) Đó là tôn giáo của ái tình, là tư tưởng của khát khao hài hòa trong tình tự, khát khao kết nối với những diễn trình của tồn tại từ tình yêu viên mãn và tràn đầy. Đây chính là phần lý trí và phức tạp trong suối nguồn của yêu thương, khát vọng trong hồn thơ VTL; nơi bản năng và ẩn ức, ưu tư và phức cảm trở thành triết lý và luân lý; cũng là nơi nuôi dưỡng những niềm tin của nhà thơ về giá trị của ái tình – một chuyển động không thể thiếu với thế giới, với những kẻ đang tồn tại, với những khoảnh khắc bừng ngộ đầy tính hiện sinh. Người phụ nữ trong thơ VTL, khi tận hiến cho tình yêu cũng là khi sống tận cùng với mọi khả năng giao kết với thế giới, kết nối với những thiên chức cao cả của mình, giao tiếp với cả lịch sử và thời gian, khẳng định phần âm tính đã làm chuyển động những mạch ngầm của thế giới này như thế nào. Nói cách khác, bằng những phút giây sống đến tận cùng với suối nguồn của tình yêu và nhục cảm, VTL đã kết nối tính linh thiêng, tính huyền nhiệm với những khát khao tình tự. Xứ thơ ca Vili là nơi thờ phụng tình yêu, nhưng không chỉ thờ phụng bằng xúc cảm đơn thuần, mà bằng cả xúc cảm đã chuyển thành lý trí, thứ lý trí của tình cảm chỉ có nữ giới đạt được khi họ đã sống trọn vẹn với những phức cảm của mình. Mọi khát khao yêu đương và dục vọng, những gì cao khiết và những gì trần thế nhất gắn liền với những nguồn năng lượng, động lực sống trong thơ VTL. Nhà thơ không ngần ngại khẳng định vẻ đẹp, sự thanh cao và chân thực trong những khát vọng yêu để sống của người phnữ. Điều này ko hề xa lạ với khniệm dục năng (libido) mà Sigmund Freud đã tìm ra và cho rằng chính những bản năng tình dục đã chống lại bản năng chết (sự điêu tàn hủy hoại dần con người theo thời gian), những khát vọng chính là phần cốt lõi khẳng định sự hiện tồn của cngười. VTL đã đưa những luận lý ấy vào thơ ca Việt, vdụng theo cách rất nữ tính một lý thuyết nam quyền. Với cô, yêu thương chính là sức sống của người phnữ để chống lại mọi điều tẻ nhạt, giả dối, chống lại cả cái chết và sự tàn phai để tìm đến những ranh giới của sự vĩnh cửu, của những chuyển động diệu kỳ trong csống theo con đường bản nguyên nhất. Vì mọi lẽ trên, tyêu trong thơ VTL luôn là sự tận hiến, trở thành 1 ấn tượng quen thuộc đến độ ám ảnh trong thơ cô. Vậy nên hầu hết mọi người phnữ trong thgiới thơ của nữ sĩ đều muốn hòa nhập, hòa quyện đến độ như tan vào ythương và khát vọng. Tận hiến đến mê đắm, kiệt sức chính là mđích, cũng là bản chất của mọi khát vọng yêu trong thơ VTL. Đó là sự tận hiến đến độ nhiều khi ko cần biết rằng có được đáp lại hay ko nhưng khph là sự tận hiến đến ngây dại. Những người phnữ trong thơ VTL tận hiến với cả trái tim, tận hiến cho người tình nhưng cũng tận hiến cho cả tyêu, cho thiên chức của mình, cho những khkhắc người phnữ đc sống trọn vẹn với mọi gương mặt và ẩn ức thường ngày lặng im đc lên tiếng say mê, mãnh liệt và tràn đầy. Vậy nên, những người nữ ấy dù chịu đựng rất nhiều hy sinh (thơ VTL có khi vẫn đầy nỗi ám ảnh của cô đơn, lạnh lẽo, rạn vỡ, hoang mang) vẫn ko hối tiếc và mãn nguyện theo cách riêng mình bởi = tận hiến, tyêu đau đớn của họ mới hph với những giấc mơ tìm về vĩnh cửu. Kết luận Tính nữ trong thơ VTL đc tạo nên từ 1 tâm hồn chín sớm, được nuôi dưỡng trong thời kì xhội thay đổi đến chóng mặt. Vì vậy, thơ cô tươi mới mà sâu sắc, có hoang mang nhưng chỉ trong nhất thời, lãng mạn là thực như hơi thở, thể hiện một tính cách đa chiều đến vô cùng phức tạp. Tính nữ rất riêng ấy đã mang tới cho thơ Vili màu sắc bản nguyên, nồng nàn nhất của tcảm, khai mở tgiới nội tâm phtạp và mâu thuẫn của người phnữ trong sự khao khát tuyệt đích niềm hphúc lứa đôi. Qua đó, thơ VTL đã bật lên tiếng nói của người phnữ hiện đại dám sống, dám yêu, dám khác biệt và tạo nên một VTL nổi bật ko thể nhầm lẫn trên thi đàn Việt.