ĐỀ CƯƠNG TRIẾT HỌC

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 10

CÁC CÂU HỎI ÔN TẬP

Học kỳ 1 (2021 - 2022)


Môn: Triết học Mác - Lênin
Phương thức thi: Trực tiếp tại Trường
Đề thi có 02 câu
Thời gian làm bài: 75 phút
Sinh viên không được sử dụng tài liệu khi làm bài

Câu 1: Hãy nêu và phân tích nội dung định nghĩa vật chất của V.I. Lênin? Từ đó, rút ra ý
nghĩa phương pháp luận của nó?
 Vật chất là một phạm trù nền tảng của chủ nghĩa duy vật triết học. Trong lịch sử tư tương
nhân loại, xung quanh vấn đề này luôn diễn ra cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Bản thân quan niệm của chủ nghĩa duy vật về
phạm trù vật chất cũng trải qua lịch sử phát triển lâu dài, gắn liền với những tiến bộ của
khoa học và thực tiễn.
Thứ nhất, vật chất là thực tại khách quan - cái tồn tại hiện thực bên ngoài ý thức và không lệ
thuộc vào ý thức
Thứ hai, vật chất là cái mà khi tác động vào các giác quan con người thì đem lại cho con
người cảm giác.
Thứ ba, vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó.
 Ý nghĩa phương pháp luận của quan niệm vật chất của Triết học Mác - Lênin. Định nghĩa
vật chất của V.I.Lênin đã giải quyêt cả hai mặt vấn đề cơ bản của triêt học trên lập trường
của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Nó còn cung cấp nguyên tắc thế giới quan và phương
pháp luận khoa học để đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, thuyết không thể biết, chủ
nghĩa duy vật siêu hình và mọi biểu hiện của chúng trong triết học tư sản hiện đại về
phạm trù này. Trong nhận thức và thực tiễn, đòi hỏi con người phải quán triệt nguyên tắc
khách quan – xuất phát tư hiện thực khách quan, tôn trọng khách quan, nhận thức và vận
dụng đúng đắn quy luật khách quan... Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin là cơ sơ khoa
học cho việc xác định vật chất trong lĩnh vực xã hội – đó là các điều kiện sinh hoạt vật
chất và các quan hệ vật chất xã hội. Nó còn tạo sự liên kết giữa chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử thành một hệ thống lý luận thống nhất, góp phần tạo
ra nền tảng lý luận khoa học cho việc phân tích một cách duy vật biện chứng các vấn đề
của chủ nghĩa duy vật lịch sử, trước hết là các vấn đề về sự vận động và phát triển của
phương thức sản xuất vật chất, về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, về
mối quan hệ giữa giữa quy luật khách quan của lịch sử và hoạt động có ý thức của con
người..
Câu 2: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức theo quan điểm của
Triết học Mác - Lênin? Từ đó, rút ra ý nghĩa phương pháp luận của nó?
 Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng. Trong mối quan
hệ giữa vật chất và ý thức thì vật chất có trước còn ý thức có sau, vật chất là
nguồn gốc của ý thức quyết định ý thức,ý thức tác động trở lại vật chất thông
qua hoạt động thực tiễn của con người.
 Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức :Vật chất và ý thức có quan hệ 2 chiều và tác
động qua lại lẫn nhau. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức được thể hiện qua nhận
thức và thực tiễn như sau:
Thứ nhất: Vật chất có vai trò quyết định ý thức

Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng: Vật chất là cái có trước, ý thức là cái có
sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức, bởi vì:

Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao, là sự phản ánh của thế giới vật
chất, là hình ảnh mang tính chủ quan của thế giới vật chất. Vì vậy, nội dung của ý thức do
vật chất quyết định. Nên vật chất không chỉ quyết định nội dung mà hình thức biểu hiện
cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.

Các yếu tố cấu thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức là bản thân thế giới
khách quan hoặc các dạng tồn tại của vật chất đều khẳng định vật chất là nguồn gốc của ý
thức.
 Do tồn tại khách quan nên vật chất là cái có trước và mang tính thứ nhất. Ý thức là sự
phản ánh lại của vật chất nên là cái có sau và mang tính thứ hai. Nếu không có vật chất
trong tự nhiên và vật chất trong xã hội thì sẽ không có ý thức nên ý thức là thuộc tính, là
sản phẩm cuẩ vật chất, chịu sự chi phối, quyết định của vật chất. Bên cạnh đó, ý thức có
tính sáng tạo, năng động nhưng những điều này có cơ sở từ vật chất và tuân theo những
quy luật của vật chất.
 Vật chất quy định nội dung và hình thức biểu hiệu của ý thức. Điều này có ý nghĩa là ý
thức mang những thông tin về đối tượng vật chất cụ thể. Những thông tin này có thể đúng
hoặc sai, đủ hoặc thiếu, sự biểu hiện khác nhau đều do mức độ tác động của vật chất lên
bộ óc con người.
Thứ hai: Ý thức tác động trở lại vật chất
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại đối với vật chất thông qua các
hoạt động thực tiễn của con người. Bởi vì ý thức chính là ý thức của con người nên nói đến
vai trò của ý thức chính là nói đến vai trò của con người. Bản thân ý thức không trực tiếp
làm thay đổi bất cứ điều gì trong hiện thực khách quan.

Mọi hoạt động của con người đều do ý thức chỉ đạo, vì vậy vai trò của ý thức không phải là
trực tiếp tạo ra hay làm thay đổi thế giới vật chất mà nó trang bị cho con người những hiểu
biết về hiện thực khách quan, trên cơ sở đó con người xác định mục tiêu, đề ra phương
hướng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp, các biện pháp, công cụ, phương tiện
… để thực hiện mục tiêu của mình.

Sự trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng:

 Tích cực: Ý thức có thể trở thành động lực thúc đẩy vật chất phát triển.
 Tiêu cực: Ý thức có thể là lực cản phá vỡ sự vận động và phát triển của vật chất
khi ý thức phản ánh không đúng, làm sai lệch các quy luật vận động khách quan
của vật chất.
Như vậy, bằng cách định hướng hoạt động của con người, ý thức có thể quyết định hành
động của con người, hoạt động thực tế của con người đúng hay sai, thành công hay thất
bại …

 Mặc dù vật chất sinh ra ý thức nhưng ý thức không thụ động mà sẽ tác động trở lại cật
chất thông qua các hoạt động thực tiễn của con người. Ý thức sau khi sinh ra sẽ không bị
vật chất gò bó mà có thể tác động làm thay đổi vật chất.
 Vai trò của ý thức đối với vật chất thể hiện ở vai trò của con người đối với khách quan.
Qua hoạt động của con người, ý thức có thể thay đổi, cải tạo hiện thực khách quan theo
nhu cầu phát triển của con người. Và mức độ tác động phụ thuộc vào nhiều yếu tố như
nhu cầu, ý chí, điều kiện, môi trường… và nếu được tổ chức tốt thì ý thức có khả năng
tác động lớn đến vật chất.
 Ý thức không thể thoát ly hiện thực khách quan, sức mạnh của ý thức được chứng tỏ qua
việc nhận thức hiện thực khách quan và từ đó xây dựng kế hoạch, xác định mục tiêu ý chí
để hoạt động của con người có thể tác động trở lại vật chất. Việc tác động tích cực lên vật
chất thì xã hội sẽ ngày càng phát triển và ngược lại, nếu nhận tức không dùng, ý thức sẽ
kìm hãm lịch sử.
 Ý nghĩa phương pháp luận

– Mọi hoạt động đều phải xuất phát từ quy luật khách quan
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn con người phải tôn trọng khách quan, đồng thời
phải phát huy tính năng động chủ quan của mình.

 Tôn trọng khách quan là tôn trọng tính khách quan của vật chất, tôn trọng các
quy luật tự nhiên và xã hội…
 Phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi
hoạt động nhận thức và thực tiễn của mình;
 Không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không được lấy tình
cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng.

Phát huy tính năng động, tích cực của ý thức


Để xã hội ngày càng phát triển thì phải phát huy tối đa vai trò tích cực của ý thức, vai trò
tích cực của nhân tố con người, nhận thức đúng quy luật khách quan.

 Phải biết dựa trên quy luật khách quan để xác định mục tiêu, kế hoạch; biết tìm
ra và vận dụng các phương pháp tổ chức hoạt động hiệu quả để đạt được mục
tiêu để ra một cách tối ưu.
 Phải khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí (chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, nếu
lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực); bệnh bảo thủ trì
trệ, thái độ tiêu cực, thụ động, ỷ lại ngồi chờ…; đặc biệt là trong quá trình đổi mới
hiện nay.
Tri thức mà con người thu nhận được sẽ thông qua chu trình học tập, nghiên cứu từ các hoạt
động quan sát, phân tích để tác động vào đối tượng vật chất và buộc những đối tượng đó phải thể
hiện những thuộc tính, quy luật.
Để cải tạo thế giới khách quan đáp ứng nhu cầu của mình, con người phải căn cứ vào hiện thực
khách quan để có thể đánh giá, xác định phương hướng biện pháp, kế hoạch mới có thể thành
công.
Bên cạnh đó cần phải tránh xa những thói quen chỉ căn cứ vào nhu cầu, niềm tin mà không
nghiên cứu đánh giá tình hình đối tượng vất chất.
– Phát huy tính năng động, sáng tạo, sức mạnh to lớn của yếu tố con người.
Con người muốn ngày càng tài năng, xã hội ngày càng phát triển thì phải luôn chủ động, phát
huy khả năng của mình và luôn tìm tòi, sáng tạo cái mới. Bên cạnh đó, con người phải thường
xuyên rèn luyện, tu dưỡng, nâng cao năng lực và không bỏ cuộc giữa chừng.
Con người tuyệt đối không được thụ động, ỷ lại trong mọi trường hợp để tránh việc sa vào lười
suy nghĩ, lười lao động.
Câu 3: Hãy phân tích nội dung cơ bản của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý
về sự phát triển? Từ đó, rút ra ý nghĩa phương pháp luận của nó và liên hệ với thực tiễn
của bản thân?
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là hai nguyên lý của chủ nghĩa
duy vật biện chứng.

Trước hết, ta cần hiểu “nguyên lý”, hay nguyên tắc, là những tư tưởng ban đầu, xuất phát, có vai
trò định hướng, chỉ đạo việc triển khai những lý thuyết tiếp theo.

Hiểu một cách chung nhất, “phổ biến” là tồn tại ở khắp mọi nơi, mọi lĩnh vực. Những lĩnh vực
này được khái quát thành 03 lĩnh vực lớn nhất là tự nhiên, xã hội và tư duy.

Ý nghĩa của mối liên hệ phổ biến:


1/ Mối liên hệ phổ biến là cơ sở lý luận trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Trong đó:
+ Quan điểm toàn diện: Khi xem xét bất cứ 1 sự vật hiện tượng nào, chúng ta phải đặt nó trong
quan hệ với sự vật hiện tượng khac, phải nghiên cứu các mặt cấu thành của nó, các quá trình phát
triển của nó, từ trong tổng số mối liên hệ, tìm ra mối liên hệ bản chất chủ yếu …

Ví dụ: nghiên cứu 1 nước thì đặt nó trong quan hệ với các nước trong khu vực.

Xét kết nạp đảng

+ Xét các mặt cấu thành: các phòng ban trong 1 đơn vị….

+ Quá trình phát triển: xét quá trình hoạt động, công tác cá nhân để kết nạp.

+ Xét trong mối liên hệ: Quan hệ xã hội…

2/Về Mặt thực tiễn:


+ Ý nghĩa 1: Để cải tạo sự vật thì phải có giải pháp đồng bộ, toàn diện. Chọn lĩnh vực nào là chủ
yếu.

Trong Công tác quản lý thì phải phân cấp quản lý.

Ví dụ: nhà nước (bộ ban ngành), cơ quan (phòng, ban)…

Ví dụ: đối mới toàn diện nước ta: kinh tế, chính trị, trong đó kinh tế là trọng tâm, chính trị từng
bước.

+ Ý nghĩa 2: Chống quan niệm siêu hình:

Không thấy được trọng tâm, trọng điểm, đánh giá tràn lan các mối liên hệ , không thấy đâu là
chủ yếu đó là siêu hình. Chống chủ nghĩa chết chung và thuận nghị biện. Trong đó, chủ nghĩa
chết chung là Kết hợp 1 cách vô nguyên tắc giữa các sự vật hiện tượng.

+ Ý nghĩa 3: Khi giải quyết 1 vấn đề cần xem xét các yếu tố cấu thành liên hệ mật thiết, phải
xem xét yếu tố lịch sử hình thành trong mối tương quan với hiện tại.

Câu 4: Hãy phân tích nội dung quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay
đổi về chất và ngược lại? Từ đó, hãy rút ra ý nghĩa phương pháp luận của nó và liên hệ với
thực tiễn của bản thân?
Quy luật “từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại” là một trong ba
quy luật của phép biện chứng duy vật, nó cho biết phương thức của sự vận động, phát triển.
Nhận thức được quy luật này có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động thực tiễn khi chúng ta
xem xét các sự vật, hiện tượng. Nếu nhận thức không đúng quy luật này sẽ dẫn đến tư tưởng tả
khuynh, hữu khuynh. Tả khuynh là phủ nhận sự tích luỹ về lượng, muốn có ngay sự thay đổi về
chất, còn hữu khuynh là khi chất đã biến đổi vượt quá giới hạn độ nhưng không dám thực hiện
sự thay đổi căn bản về chất. Nước ta đang quá độ lên CNXH, bỏ qua giai đoạn phát triển của
CNTB, việc nhận thức đúng đắn quy luật lượng- chất sẽ có ý nghĩa rất lớn trong quá trình hình
thành và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Ý nghĩa phương pháp luận

– Vì bất kỳ sự vật nào cũng có phương diện chất và lượng tồn tại trong tính qui định lẫn nhau,
tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau, cho nên trong nhận thức và thực tiễn cần phải coi trọng cả
hai loại chỉ tiêu về phương diện chất và lượng của sự vật, tạo nên sự nhận thức toàn diện về sự
vật.

– Vì những thay đổi về lượng của sự vật có khả năng trong những điều kiện nhất định sẽ chuyển
hóa thành những thay đổi về chất và ngược lại, cho nên trong hoạt động nhận thức và thực tiễn,
tùy theo mục đích cụ thể, cần từng bước tích lũy về lượng để có thể làm thay đổi về chất của sự
vật; đồng thời, có thể phát huy tác động của chất mới theo hướng làm thay đổi về lượng của sự
vật.

– Vì sự thay đổi về lượng chỉ có thể dẫn tới những biến đổi về chất của sự vật với điều kiện
lượng phải được tích lũy tới giới hạn điểm nút, cho nên trong công tác thực tiễn cần phải khắc
phục tư tưởng nôn nóng tả khuynh; mặt khác, theo tính tất yếu qui luật thì khi lượng đã được tích
lũy đến giới hạn điểm nút sẽ tất yếu có khả năng diễn ra bước nhảy về chất của sự vật, do đó,
cũng cần phải khắc phục tư tưởng bảo thủ hữu khuynh trong công tác thực tiễn. Tả khuynh chính
là hành động bất chấp qui luật, chủ quan, duy ý chí, không tích lũy về lượng mà chỉ chú trọng
thực hiện những bước nhảy liên tục về chất; hữu khuynh là sự biểu hiện tư tưởng bảo thủ, trì trệ,
không dám thực hiện bước nhảy dù lượng đã tích lũy tới điểm nút và quan niệm phát triển chỉ
đơn thuần là sự tiến hóa về lượng.

– Hình thức bước nhảy của sự vật là hết sức đa dạng, phong phú, do vậy trong nhận thức và thực
tiễn cần phải có sự vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy cho phù hợp với từng điều
kiện, từng lĩnh vực cụ thể. Đặc biệt, trong đời sống xã hội, quá trình phát triển không chỉ phụ
thuộc vào điều kiện khách quan, mà còn phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của con người. Do đó,
cần phải nâng cao tính tích cực chủ động của chủ thể để thúc đẩy quá trình chuyển hóa từ lượng
đến chất một cách có hiệu quả nhất.

Câu 5: Hãy phân tích nội dung cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả? Từ đó, hãy rút ra ý
nghĩa phương pháp luận của nó và liên hệ với thực tiễn của bản thân?

 Khái niệm nguyên nhân, kết quả.

Nguyên nhân là sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong cùng một sự vật hoặc giữa các sự vật
với nhau gây ra một hoặc hơn một sự biến đổi nhất định. Kết quả là sự biến đổi xuất hiện do sự
tác động lẫn nhau của các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau.
Trong hai khái niệm này, chúng ta cần lưu ý đối với khái niệm nguyên nhân và nguyên cơ, để
không có sự nhầm lẫn về khái niệm.
– Nguyên cớ là một sự kiện xảy ra ngay trước kết quả nhưng không sinh ra kết quả. Nguyên cớ
có liên hệ nhất định với kết quả nhưng đó là mối liên hệ bên ngoài, không bản chất.
– Điều kiện là tổng hợp những hiện tượng không phụ thuộc vào nguyên nhân nhưng có tác dụng
đối với việc sinh ra kết quả.
Các điều kiện này cùng với những hiện tượng khác có mặt khi nguyên nhân gây ra kết quả được
gọi là hoàn cảnh.

 Nội dung cặp phạm trù nguyên nhân , kết quả


Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nguyên nhân và kết quả có mối quan hệ qua
lại, cụ thể:
Thứ nhất: Nguyên nhân sản sinh ra kết quả.
– Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn có trước kết quả. Còn kết quả chỉ
xuất hiện sau khi nguyên nhân xuất hiện và bắt đầu tác động. Tuy nhiên, không phải sự nối tiếp
nào trong thời gian của các hiện tượng cũng đều biểu hiện mối liên hệ nhân quả.
– Cùng một nguyên nhân có thể gây ra nhiều kết quả khác nhau tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể.
Ngược lại, cùng một kết quả có thể được gây nên bởi những nguyên nhân khác nhau tác động
riêng lẻ hoặc cùng một lúc.
– Nếu nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo cùng một hướng thì sẽ gây nên ảnh
hưởng cùng chiều, đẩy nhanh sự hình thành kết quả. Ngược lại, nếu các nguyên nhân khác nhau
tác động lên sự vật theo các hướng khác nhau thì sẽ làm suy yếu, thậm chí triệt tiêu các tác dụng
của nhau.
– Căn cứ vào tính chất, vai trò của nguyên nhân đối với sự hình thành kết quả, có thể phân loại
nguyên nhân thành:
+ Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu.
+ Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài.
+ Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
Thứ hai: Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân.
– Nguyên nhân sản sinh ra kết quả. Nhưng sau khi xuất hiện, kết quả không giữ vai trò thụ động
đối với nguyên nhân, mà sẽ có ảnh hưởng tích cực ngược trở lại đối với nguyên nhân.
Thứ ba: Sự thay đổi vị trí giữa nguyên nhân và kết quả.
– Điều này xảy ra khi ta xem xét sự vật, hiện tượng trong các mối quan hệ khác nhau. Một hiện
tượng nào đó trong mối quan hệ này là nguyên nhân thì trong mối quan hệ khác là kết quả và
ngược lại.
– Một hiện tượng nào đó là kết quả do một nguyên nhân nào đó sinh ra, đến lượt mình sẽ trở
thành nguyên nhân sinh ra hiện tượng thứ ba… Và quá trình này tiếp tục mãi không bao giờ kết
thúc, tạo nên một chuỗi nhân quả vô cùng tận. Trong chuỗi đó không có khâu nào là bắt đầy hay
cuối cùng.
 Ý nghĩa phương pháp luận của cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả
– Mối liên hệ nhân quả có tính khách quan và tính phổ biến, nghĩa là không có sự vật, hiện tượng
nào trong thế giới vật chất lại không có nguyên nhân. Nhưng không phải con người có thể nhận
thức ngay được mọi nguyên nhân. Nhiệm vụ của nhận thức khó học là phải tìm ra nguyên nhân
của những hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy để giải thích được những hiện tượng đó.
Muốn tìm nguyên nhân phải tìm trong thế giới hiện thực, trong bản thân các sự vật, hiện tượng
tồn tại trong thế giới vật chất chứ không được tưởng tượng ra từ trong đầu óc con người, tách rời
với thế giới hiện thực.

– Vì nguyên nhân luôn có trước kết quả nên muốn tìm nguyên nhân của một hiện tượng nào đấy
cần tìm trong những sự kiện những mối liên hệ xảy ra trước khi hiện tượng đó xuất hiện. Một kết
quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Những nguyên nhân này có vai trò khác nhau đối với
việc hình thành kết quả. Vì vậy trong hoạt động thực tiễn chúng ta cần phân loại các nguyên
nhân, tìm ra nguyên nhân cơ bản, nguyên nhân khách quan,… Đồng thời phải nắm được chiều
hướng tác động của các nguyên nhân, từ đó có biện pháp thích hợp tạo điều kiện cho nguyên
nhân có tác động tích cực đến họt động và hạn chế sự hoạt động của nguyên nhân có tác động
tiêu cực.

– Kết quả tác động trở lại nguyên nhân. Vì vậy, trong hoạt động thực tiễn chúng ta cần phải khai
thác, tận dụng các kết quả đã đạt được để tạo điều kiện thức đẩy nguyên nhân phát huy tác dụng,
nhằm đạt mục đích.

Câu 6: Hãy phân tích nguồn gốc, bản chất và đặc trưng của nhà nước? Từ đó, liên hệ với
việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay?
Nguồn gốc của nhà nước:
nguyên nhân sâu xa làm xuất hiện nhà nước là do sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến sự
dư thừa tương đối của cải, xuất hiện chế độ tư hữu, còn nguyên nhân trực tiếp là do mâu thuẫn
giai cấp trong xã hội gay gắt không thể điều hòa được. Nhà nước ra đời là một tất yếu khách
quan để duy trì trật tự xã hội, đảm bảo lợi ích và địa vị của giai cấp thống trị.
Về bản chất nhà nước Nhà nước, về bản chất, là bộ máy dùng để duy trì sự thống trị của giai
cấp này đối với giai cáp khác, và với toàn xã hội. Nhà nước dù có tồn tại dưới. hình thức nào thì
cũng phản ánh và mang bản chất giai cấp. Giai cấp có đủ điều kiện để lập ra và sử dụng bộ máy
nhà nước là giai cấp thống trị về
kinh tế và nhờ có nhà nước, giai cấp này cũng thông trị về mặt chính trị | xã hội. Tất cả các hoạt
động kinh tế chính trị, văn hóa, xã hội xét đến cùng, đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống
trị.
Về đặc trưng cơ bản của nhà nước
Theo Ph.Ăngghen, nhà nước thường có ba đặc trưng cơ bản:1 là, nhà nước quản lí cư dân trên
một vùng lãnh thổ nhất định. 2 là, nhà nước có hệ thống các cơ quan quyền lực chuyên nghiệp
mang tính cưỡng chế đối với mọi thành viên như hệ thống chính quyền từ trung ương đến cơ sở,
lực lượng vũ trang, cảnh sát, nhà tù,... đó là những công cụ vũ lực chủ yêu của quyền lực nhà
nước”.3 là, nhà nước có hệ thống thuế khóa để nuôi bộ máy chính quyền.
Về chức năng cơ bả của nhà nước Chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội.
. Chức năng thống trị chính trị chủa giai cấp nhằm đàn áp mọi sự phản kháng của giai cấp bị trị,
các lực lượng chống đối nhằm bảo vệ quyền lợi và địa vị của giai cấp thống trị. Chức năng xã
hội nhằm quản lý, điều hành các công việc chung của xã hội như: thủy lợi, giao thông, y tế, giáo
dục, bảo vệ môi trường, để duy trì sự ổn định của xã hội.
Chức năng đổi nội và chức năng đối ngoại
Chức năng đối nội: là sự thực hiện đường lối đối nội nhằm duy trì trật tự xã hội thông qua các
công cụ như:chính sách xã hội, luật pháp, cơ quan truyền thông, văn hóa, giáo dục,... Chức năng
đối ngoại:là sự thực hiện chính sách đối ngoại nhằm bảo về lãnh thổ quốc gia, đáp ứng nhu cầu
hội nhập, phát triển. Các nhà nước ko chỉ quan hệ với nhau mà còn quan hệ với các tổ chức quốc
tế, các tổ chức phi chính phủ,.. Trong đó, chức năng đối nội giữ vai trò chủ yếu, tính chất chức
năng đối nội quyết định chức năng đối ngoại, làm tốt chức năng đối nội, nhà nước mới có điều
kiện thực hiện tốt chức năng đối ngoại.

Liên hệ: Để hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN ở VN hiện nay, Đảng cần đẩy mạnh
- Cải cách hành chính, đổi mới thể chế, cơ chế
- Nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước
- Thực hiện chính phủ liêm chính, kiến tạo, năng động
Thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí

Câu 7: Phân tích quan điểm của triết học Mác - Lênin về con người và bản chất con người?
Theo anh (chị) chúng ta cần phải làm gì để con người phát triển toàn diện?
• Con người là thực thể sinh học - xã hội.
+ Con người là một sinh vật có tính xã hội.
Con người là một thực thể sinh vật, là sản phẩm của giới tự nhiên. là một động vật xã hội.
Con người còn là một bộ phận của giới tự nhiên. Về phương diện thực thể sinh học, con người
còn phải phục tùng các quy luật của giới tự nhiên, các quy luật sinh học như di truyền, tiến hóa
sinh học và các quá trình sinh học của giới tự nhiên.
+ Con người còn là một thực thể xã hội có các hoạt động xã hội. Hoạt động xã hội quan trọng
nhất của con người là lao động sản xuất. Người là giống vật duy nhất có thể bằng lao động mà
thoát khỏi trạng thái thuần túy là loài vật. Nhờ có lao động sản xuất mà con người về mặt sinh
học có thể trở thành thực thể xã hội, thành chủ thể có lý tính, có “bản năng xã hội”.
Trong hoạt động con người không chỉ có các quan hệ lẫn nhau trong sản xuất mà còn có hàng
loạt các quan hệ xã hội khác. Tính xã hội của con người chỉ có trong xã hội loài người”, con
người không thể tách khỏi xã hội và đó là điểm cơ bản làm cho con người khác với với con vật,
con người chỉ có thể tồn tại và phát triển trong xã hội loài người.
 Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân mình
 Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử
+ Con người vừa là sản phẩm của lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội nhưng đồng thời, lại là chủ
thể của lịch sử bởi lao động và sáng tạo là thuộc tính xã hội tối cao của con người. Con người và
động vật đều có lịch sử của mình, nhưng lịch sử con người khác với lịch sử động vật. Lịch sử của
động vật không phải do chúng làm ra,mà chúng chỉ tham dự vào một cách bản năng. Ngược lại,
lịch sử con người do chính con người tạo ra. Hoạt động lịch sử đầu tiên khiến con người tách
khỏi con vật, có ý nghĩa sáng tạo chân chính là hoạt động chế tạo công cụ lao động, hoạt động
lao động sản xuất. .
. + Con người luôn là chủ thể của lịch sử, nhưng cũng luôn là sản phẩm của lịch sử.
Con người tồn tại và phát triển luôn luôn ở trong một hệ thống môi trường tự nhiên xác định chịu
ảnh hưởng từ môi trường tự nhiên đó.
Con người cũng tồn tại trong môi trường xã hội. Chính nhờ môi trường xã hội mà con người trở
thành một thực thể xã hội và mang bảnchất xã hội. Con người là sản phẩm, của hoàn cảnh, của
mỗi trường trong đó có môi trường xã hội.
• Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội
+ Trong sinh hoạt xã hội, khi hoạt động ở những điều kiện lịch sử nhất định con người có quan
hệ với nhau để tồn tại và phát triển. Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng
hòa các quan hệ xã hội”. Bản chất của con người luôn được hình thành và thể hiện những con
người hiện thực, cụ thể trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Các quan hệ xã hội tạo nên bản chất
của con người, nhưng không phải là sự kết hợp giản đơn hoặc là tổng cộng chúng lại với nhau
mà là sự tổng hòa chúng.
+ Mỗi quan hệ xã hội có vị trí, vai trò khác nhau, có tác động qua lại, không tách rời nhau. Các
quan hệ xã hội có nhiều loại: quan hệ quá khứ, quan hệ hiện tại, quan hệ vật chất, quan hệ tinh
thần, quan hệ trực tiếp, gián tiếp, tất nhiên hoặc ngẫu nhiên, bản chất hoặc hiện tượng, quan hệ
kinh tế, quan hệ phi kinh tế, ... Tất cả các quan hệ đó. đều góp phần hình thành lên bản chất của
con người.
+Các quan hệ xã hội thay đổi thì ít hoặc nhiều, sớm hoặc muộn. bản chất con người cũng sẽ thay
đổi theo.

You might also like