Nội dung các giai đoạn của quá trình nhận thức

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 2

Nội dung các giai đoạn của quá trình nhận thức:

Nhận thứ là một quá trình , trải qua 2 giai đoạn : đi từ nhận thức cảm tính ( trực
quan sinh động) đến nhận thức lý tính ( tư duy trừu tượng ).
 Nhận thức cảm tính: Đây là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức . Ở
giai đoạn này , con người nhận thức khách thể trực tiếp thông qua các giác
quan , được diễn ra dưới 3 hình thức cơ bản từ thấp đến cao : cảm giác , tri
giác và biểu tượng.
- Cảm giác là hình thứ đầu tiên , giản đơn nhất của quá trình nhận thức ở giai
đoạn cảm tính. Cảm giác là sự phản ánh những thuộc tính riêng lẻ của sự
vật, hiện tượng khi chúng trực tiếp tác động lên các giác quan của con
người.
Cảm giác chính là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan . Thế giới
khách quan là nguồn gốc , nội dung khách quan của cảm giác , do đó là
nguồn gốc của mọi sự hiểu biết của con người.
- Tri giác là kết quả của sự tác động trực tiếp của sự vật đồng thời lên nhiều
giác quan của con người . Tri giác nảy sinh dựa trên cơ sở của cảm giác. Là
sự tổng hợp của nhiều giác quan.
 Vì vậy , tri giác cho ta hình ảnh về sự vật trọn vẹn hơn cảm giác.
- Biểu tượng là hình thức cao nhất và phức tạp nhất của nhận thức cảm tính.
Đó là hình ảnh cảm tính và tương đối hoàn chỉnh còn lưu lại trong bộ óc
người về sự vật khi sự vật đó không còn trực tiếp tác động vào các giác
quan.
Biểu tượng như là khâu trung gian chuyển từ nhận thức cảm tính lên nhận
thức lý tính.
 Nhận thức lý tính : là giai đoạn cao hơn của quá trình nhận thức . Đó là sự
phản ánh sự vật một cách gián tiếp , trừu tượng và khái quát những thuộc
tính , những đặc điểm bản chất của sự vật khách quan. Nhận thức lý tính
gồm 3 hình thức : Khái niệm , phán đoán và suy lí.
- Khái niệm: là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính , phản ánh khái quát ,
gián tiếp một hoặc một số thuộc tính chung có bản chất nào đó của một
nhóm sự vật , hiện tượng được biểu thị bằng một từ hay một cụm từ.
Khái niệm được hình thành trên cơ sở hoạt động thực tiễn và hoạt động
nhận thức của con người . Nó là kết quả của sự tổng hợp , khái quát biện
chứng những tài liệu thu nhận được trong hoạt động thực tiễn .
- Phán đoán : là hình thức liên hệ các khái niệm lại với nhau để khẳng định
hoặc phủ định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của đối tượng.
Phán đoán được biểu hiện dưới hình thức ngôn ngữ thành một mệnh
đề, bao gồm chủ từ , vị từ và hệ từ.Trong đó hệ từ đóng vai trò quan trọng
nhất vì nó biểu thị mối quan hệ của sự vật được phản ánh.
Có 3 loại phán đoán cơ bản : phán đoán đơn nhất , phán đoán đặc thù
và phán đoán phổ biến.
- Suy lí: là một hình thức của tư duy trừu tượng liên kết các phán đoán với
nhau theo quy tắc : phán đoán cuối cùng ( kết luận) được suy ra từ những
phán đoán đã biết làm tiền đề.
Có 2 loại suy lí chính : quy nạp và diễn dịch .
+ Quy nạp : tư duy vận động từ cái đơn nhất đến cái chung , cái phổ biến.
+ Diễn dịch : tư duy vận động từ cái chung đến cái ít chung hơn ,cái đơn
nhất .
Trong quá trình nhận thức của con người , 2 loại suy luận này có liên hệ
chặt chẽ với nhau , bổ sung cho nhau .

 Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính : Là 2 giai đoạn
phản ánh 2 trình độ khác nhau của quá trình nhận thức nhưng có mối liên
hệ qua lại, gắn bó với nhau.
- Nhận thức cảm tính là cơ sở của nhận thức lí tính , nhận thức lí tính định
hướng cho nhân thức cảm tính . Nhận thức cảm tính phong phú nhưng chỉ
phản ánh các đặc điểm bên ngoài , riêng rẻ của sự vật hiện tượng .Phản ánh
lý tính sâu sắc hơn , có khả năng phản ánh các thuộc tính bản chất , quy luật
nhưng cũng có khả năng phản ánh sai lệch sự vật hiện tượng.
- => Vì vậy , quá trình nhận thức không kết thúc ở nhận thức lí tính mà phải
quay trở về thực tiễn để phục vụ thực tiễn và kiểm tra tính đúng đắn của nó.

You might also like