Professional Documents
Culture Documents
Khoảng Trời - Hố Bom
Khoảng Trời - Hố Bom
Lâm Thị Mỹ Dạ
“Văn học và cuộc sống là hai đường tròn đồng tâm mà tâm điểm của chúng chính
là con người.” (Nguyễn Minh Châu) Hai cuộc kháng chiến trường kỳ đi qua đâu chỉ làm
dày thêm những trang hùng sử, tô điểm thêm những giá trị nhân bản của con người
Việt Nam mà còn gieo vào bao vần thơ, trang viết những “bài ca không bao giờ quên”.
Đến với “Khoảng trời - hố bom”, chốn Trường Sơn “xẻ dọc, rọc ngang”, “đông nắng, tây
mưa” (“Nước non ngàn dặm” - Tố Hữu) hiện ra trước mắt ta vô cùng chân thực dưới
bút lực tài tình của nữ nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ. Bài thơ như chứa đựng hết nỗi niềm xót
xa trước sự hy sinh của những bông hoa thép đã ngày đêm miệt mài làm công tác mở
đường trên tuyến lửa để rồi từ đó khiến cho người đọc không khỏi cảm phục trước
những cống hiến không biết mệt mỏi của lớp lớp những cô gái “Xẻng tay mà viết nên
trang sử hồng”.
Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ từng là một nữ thanh niên xung phong đi mở đường và
bén duyên với thơ văn ngay trên mặt trận đầy khói lửa. Những vần thơ đề tên bà bắt
đầu xuất hiện từ những năm bảy mươi của thế kỷ XX, khi chiến tranh diễn ra vô cùng ác
liệt trên cả hai miền đất nước. Phong cách thơ của bà trực cảm, bất ngờ, nữ tính và hồn
nhiên như thể bất chấp, như thể muốn vượt lên tất thảy mọi mưa bom, bão đạn đang
thét gào. “Khoảng trời - hố bom” ra đời năm 1972 - khoảng thời gian cuộc kháng chiến
chống Mỹ của dân tộc ta trở nên ác liệt hơn bao giờ hết, khi máy bay địch quần đảo,
ném bom triệt phá con đường lưu thông Nam - Bắc. Câu chuyện về nữ thanh niên xung
phong đã hy sinh trong lúc làm nhiệm vụ thông đường cho xe chạy đã trở thành nguồn
cảm hứng cho nữ nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ. Bài thơ như một lời tri ân đối với những con
người đã hóa thân vào đất để làm nên lịch sử, những “cái chết đã hóa thành bất tử”, sự
hy sinh đã gieo niềm tin vào cuộc sống, vào tương lai để những người còn ở lại tiếp tục
bám trụ với chiến hào, vững tay súng giành lại từng thước đất từ tay Đế quốc.
Ngay từ cách đặt nhan đề, bài thơ đã tạo ấn tượng cho người đọc về sự đối lập
đến nghiệt ngã giữa hai hình ảnh “khoảng trời” và “hố bom”, giữa một bên là sự sống,
một bên là cái chết, một bên là hòa bình, một bên là chiến tranh. Câu chuyện được bắt
đầu rất bình dị mà xúc động biết bao về người con gái thanh niên xung phong ấy:
“Chuyện kể rằng: em, cô gái mở đường
Để cứu con đường đêm ấy khỏi bị thương
Cho đoàn xe kịp giờ ra trận
Em đã lấy tình yêu tổ quốc của mình để thắp lên ngọn lửa
Đánh lạc hướng thù hứng lấy luồng bom”.
Bài thơ mở ra với câu thơ thật nhẹ nhàng, tựa như những câu chuyện cổ tích:
“Chuyện kể rằng”. Thế nhưng ở nơi chiến trường khốc liệt ấy, làm gì có ông bụt, bà tiên,
làm gì có một thế giới nhiệm màu, đó chỉ có thể là trọng điểm của bom đạn điên cuồng
bắn phá, nơi mỗi cành cây, ngọn cỏ đều oằn mình vì khói thuốc, mỗi một tấc đất đều
thấm đẫm xương máu của bao người. Không gian của bài thơ ngay từ đầu đã là không
gian của chiến tranh, là địa bàn tung hoành của lưỡi hái thần Chết thế nhưng những cô
gái ấy đã không quản hy sinh thân mình “để cứu con đường đêm ấy khỏi bị thương”.
Biện pháp nhân hóa mà tác giả dùng ở đây đã tái hiện lên tất cả sự tàn phá khốc liệt trên
chiến trường Trường Sơn thời chống Mỹ, đúng như Tố Hữu đã nói, tuổi trẻ chưa đặt
chân lên Trường Sơn “như chưa hiểu mình”. Nhưng dù vậy, dưới làn bom đạn của giặc
những đoàn xe vẫn nối nhau ra trận, tiếng cuốc mở đường của những đội thanh niên
xung phong vẫn miệt mài ngày đêm không ngơi nghỉ, tiếng hát át tiếng bom vẫn vang
lên trên mỗi cung đường. Tất cả đều dồn hết sức mình cho một nửa Việt Nam còn đang
chìm trong nước mắt. Hơn bao giờ hết, chủ nghĩa anh hùng đã được phát huy cao độ,
mỗi con người đều sẵn sàng hy sinh cho cuộc chiến của dân tộc. Cô gái trẻ trong bài đã
sẵn sàng đánh đổi cuộc sống của mình để bảo vệ sự toàn vẹn của con đường, “cho đoàn
xe kịp giờ ra trận”.
“Em đã lấy tình yêu Tổ quốc thắp lên ngọn lửa
Đánh lạc hướng thù – Hứng lấy luồng bom.”
Cô gái đã chọn cái chết một cách bình thản, không hề có chút lưỡng lự, phân vân
bởi tình yêu đất nước đã ngấm sâu vào từng hơi thở, từng suy nghĩ của cô. Tình yêu cao
cả đó đã trở thành ngọn lửa cháy sáng trong trái tim còn căng đầy nhựa sống. Tâm thế
bình thản và hiên ngang đón nhận cái chết về mình để cứu lấy đoàn xe ra trận đã tôn
vinh hơn thế đứng cao đẹp của người nữ thanh niên xung phong.
Từ sự hi sinh ấy, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã có những suy ngẫm giàu triết lý:
“Tôi nhìn xuống hố bom đã giết em
Mưa đọng lại một khoảng trời nho nhỏ
Đất nước mình nhân hậu
Lấy nước trời xoa dịu vết thương đau”
Hình ảnh “hố bom và khoảng trời” đã được đặt trong một sự so sánh mang tính
đối xứng đầy ý nghĩa. “Hố bom” ở dưới đất thì sâu hoăm hoắm. “Khoảng trời” ở trên
cao thì xanh mênh mông. “Hố bom” như tiếng nói tố cáo những bom đạn, những tội ác
của giặc, là tàn tích đau thương của chiến tranh. “Khoảng trời” biểu trưng cho sự bình
yên, hiền hòa, đôn hậu của dân tộc Việt Nam. Hình ảnh ẩn dụ đã ngầm nói lên một chân
lý đất nước Việt Nam sẽ lấy sự hòa bình, lòng nhân hậu của tình người để san sẻ, bù
đắp cho những đau thương, mất mát, những vết thương mà chiến tranh gây ra. Đó
chính là sức sống mãnh liệt của dân tộc ta và vì thế, một lần nữa khẳng định cái chết cao
đẹp của cô gái chính là một sự hóa thân vào Tổ quốc.
“Em” đã ra đi, đã mang theo “khoảng trời đã nằm yên trong đất”. Nhưng chính
hành động thiêng liêng của “em” đã làm cho nhà thơ cảm nhận như là sự hóa thân vào
quê hương, đất nước trong sự vĩnh hằng của thiên nhiên, của cuộc sống:
“Đêm đêm tâm hồn em tỏa sáng
Những vì sao ngời sáng lung linh
Có phải thịt da em mềm mại trắng trong
Đã hóa thành những vầng mây trắng