Professional Documents
Culture Documents
tư-tưởng-HCM 2
tư-tưởng-HCM 2
Không phải mọi con người đều trở thành động lực mà phải là
những. con người được giác ngộ và tổ chức. Họ phải có trí tuệ
và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức, được nuôi dưỡng trên nền truyền
thống lịch sử và văn hóa hàne ngàn năm của dân tộc Việt Nam...
Chính trị, văn hóa, tinh thần là động lực cơ bản trong động lực
con người.
III. Quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng con người
- Khái niệm con người Việt Nam mới ở đây là để phân biệt với con người
sống trong xã hội cũ, con người chưa giác ngộ con đường cách mạng theo
lập trường giai cấp công nhân, chưa được làm chủ, chứ tuyệt nhiên không có
ý phân biệt con người theo đẳng cấp trên - dưới, trước - sau, sang – hèn, nhất
là không đối lập con người mới với con người sống trong chế độ cũ. Mới là
khác cũ, nhưng con người mới hoặc con người sống trong xã hội cũ đều có
chung nguồn gốc dân tộc Việt Nam, đều có xuất phát điểm về văn hóa, xã
hội của một nước nông nghiệp chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa, nhất là phải chịu áp bức, bóc lột tàn bạo của chế độ phong kiến và chủ
nghĩa thực dân trong nhiều thập kỷ. Con người mới không phải tự nhiên mà
có và càng không phải tự nhiên nó đến mà là kết quả của hai quá trình tiến
hành đồng thời cải tạo và xây dựng. Nó gắn liền với sự nghiệp đấu tranh
cách mạng, từ chính trị, kinh tế đến tư tưởng, văn hóa, xã hội, từ đạo đức
đến lối sống, nếp sống và quá trình tự rèn luyện, tu dưỡng của cá nhân con
người trong hoạt động sống. Xây dựng con người mới cũng đồng nghĩa với
xây dựng con người xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Thứ ba, phương thức xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện.
- Muốn xây dựng con người mới trước hết phải hiểu, xem xét và
đánh giá đúng con người - con người cá thể, cộng đồng, tập đoàn,
giai cấp, dân tộc, nhân loại, khu vực, toàn cầu - nhưng trước hết và
xuyên suốt là con người cá thể trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.
- Hồ Chí Minh quan tâm tới việc xây dựng con người có mục đích
và lối sống cao đẹp, có bản lĩnh chính trị vững vàng. Người nói tới
việc xây dựng con người của chủ nghĩa xã hội có tư tưởng và tác
phong xã hội chủ nghĩa với những nội dung cơ bản:
- Có ý thức làm chủ, tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa và tư tưởng
“mình vì mọi người, mọi người vì mình”.
- Cần kiệm xây dựng đất nước, hăng hái bảo vệ Tổ quốc.
- Có lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần quốc tế trong sáng.
Ngoài ra Người nhấn mạnh tới việc nâng cao trình độ lý luận chính trị.
Lý luận cùng với kinh nghiệm thực tế như hai mắt của con người.
Những con người mới cũng cần có sức khoẻ với ý nghĩa đầy đủ của
quan niệm sức khoẻ: vật chất và tinh thần, thể xác và tâm hồn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, giáo dục là con đường ngắn nhất để
đào tạo những con người phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu mà xã
hội đề ra. Trong thư gửi các thầy giáo, cô giáo và các em học sinh ngày
24/10/1955, Người nêu rõ những nội dung giáo dục cơ bản, gắn bó chặt
chẽ với nhau làm nền tảng cho sự phát triển toàn diện các phẩm chất,
năng lực của con người Việt Nam: “Đối với các em việc giáo dục gồm
có: thể dục để làm cho thân thể khỏe mạnh; trí dục ôn lại những điều đã
học, học thêm tri thức mới; mỹ dục để phân biệt cái đẹp, cái gì không
đẹp; đức dục là yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học,
yêu của công (năm cái yêu)”.
Như quan điểm của Hôf Chí Minh cho rằng trong mỗi con người đều có
cái mới cái cũ, cái tốt cái xấu, cho nên phải phấn đấu để những cái tốt,
cái mới ngày càng nhiều hơn, những cái xấu, cái cũ ngày càng mất dần
đi. Bởi vậy, cần tổ chức tốt các cuộc vận động, phong trào thi đua nhằm
lan tỏa sâu rộng cái tốt, cái mới trong toàn dân tộc, đồng thời làm cho
cái cũ, cái xấu càng bị thu hẹp và mất dần đi trong đời sống xã hội. Các
cuộc vận động, phong trào thi đua càng rộng lớn, thu hút nhiều người
tham gia thì những cái tốt, cái mới càng được bảo tồn và phát huy mạnh
mẽ, góp phần quan trọng vào việc hình thành nên những nhân cách tốt
đẹp của con người; đồng thời phát huy tính tích cực, chủ động và tinh
thần tự giác vươn lên hoàn thiện bản thân của con người Việt Nam. Đây
là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự hình thành và phát triển con
người toàn diện.
Người cho rằng: “Phải dạy cho họ có chí tự lập, tự cường, quyết không
chịu thua kém ai, quyết không chịu làm nô lệ”, “phải có ý chí tự cường,
tự lập, phải nâng cao lên mãi trình độ chính trị, văn hóa, kỹ thuật”, “phải
mạnh dạn, phải có quyết tâm, phải có chí khí tiến lên mãi, tiến lên không
ngừng”. Nếu không có sự tự giác vươn lên hoàn thiện bản thân mình của
các chủ thể thì sự nghiệp phát triển con người không thể thành công.
IV. Quan điểm nhóm về việc xây dựng con ngừời mới
trong thời kì hội nhập quốc tế hiện nay:
- Việc áp dụng tư tưởng của Bác về xây dựng con người trong
thời kì chủ nghĩa xã hội đã đã được thực hiện thành công và
tốt đẹp. Nhưng trong thời kì hội nhập quốc tế hiện nay, xã hội
ngày cành phát triển cùng với bản chất con người thay đổi
nên việc áp dụng tư tuỏng Bác thôi là chưa đủ. Bên cạnh đó
chúng ta cần nâng cao tư duy, năng động sáng tạo hơn dể tạo
nhiều cơ hội tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân lọại, các giá trị
đạo đức cần được giữ gìn, phát huy và thay đổi theo hướng
phù hợp hơn với nền kinh tế thị trường hội nhập quốc tế.
a) Có trình độ chuyên môn cao, khả năng thích nghi nhanh
và kĩ năng lao động giỏi
- Trình độ chuyên môn cao được thể hiện ở khả năng nắm bắt,
tiếp cận nhanh nhạy, kịp thời và đúng hướng xu thế phát triển
của những vấn đề thuộc lĩnh vực lao động của mình, để có
thể lao động một cách sáng tạo, độc lập, có năng suất và hiệu
quả tốt, nó còn thể hiện ở khả năng vận dụng tốt, kịp thời các
thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, có khả năng cải tiến,
hoàn thiện và hiện đại hóa các công cụ và phương thức lao
động ở phạm vi và lĩnh vực chuyên môn của chính mình trên
cơ sở của khoa học và công nghệ hiện đại.
- Hiện nay, đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa và hiện đại hóa. Để thực hiện việc đó cần phải sử
dụng các thành tựu của khoa học công nghệ hiện đại. Trong
bối cảnh đó, đòi hỏi khá cao về phẩm chất trí tuệ ở người lao
động - một phẩm chất được coi là quan trọng nhất hiện nay.
Đó là người lao động phải có năng lực sáng tạo, năng lực
hoạt động thực tiễn tốt; có khả năng áp dụng những thành tựu
của khoa học để sáng chế ra những kỹ thuật, công nghệ tiên
tiến; có năng lực thu thập và xử lý thông tin trong điều kiện
bùng nổ thông tin; có sự nhạy bén, thích nghi nhanh và thực
sự làm chủ khoa học, kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Đồng
thời, người lao động phải có khả năng biến tri thức thành kỹ
năng lao động nghề nghiệp, nghĩa là phải có kỹ năng lao
động giỏi thể hiện qua trình độ tay nghề, mức độ thành thạo
chuyên môn nghề nghiệp.. Bởi lẽ, như C.Mác đã khẳng định:
“Sự ngu dốt là sức mạnh của ma quỷ và chúng ta lo rằng, nó
sẽ còn là nguyên nhân của nhiều bi kịch khác nữa” .
- Như vậy, trình độ chuyên môn cao và tính chuyên nghiệp là
một trong những yếu tố cấu thành và quyết định chất lượng
nguồn nhân lực hiện đại. Thiếu nó, con người chỉ có sức lao
động mà không có khả năng lao động trong nền sản xuất hiện
đại.
- Thực tế ở nước ta nhiều năm qua kể từ khi mở cửa, hội nhập
khu vực và quốc tế, tình trạng yếu kém về chuyên môn và
thiếu tính chuyên nghiệp trong lao động bộc lộ một cách rõ
rệt. Mặt khác, quá trình hội nhập trong điều kiện Việt Nam
có trình độ công nghệ và kinh tế chậm phát triển; năng lực
cạnh tranh của các sản phẩm của Việt Nam yếu hơn so với
các nước khác. Do vậy, để hội nhập quốc tế một cách vững
chắc, đòi hỏi Việt Nam buộc phải nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, đào tạo nguồn nhân lực theo hướng tạo dựng nguồn
nhân lực có trình độ chuyên môn cao, có tính chuyên nghiệp
trong lao động và thích ứng nhanh với tiến bộ của nền khoa
học - công nghệ nhân loại, nhất là cuộc cách mạng khoa học -
công nghệ 4.0 hiện nay.
-
b) Con người Việt Nam phải có đạo đức mới:
- Nói đến đạo đức mới là nói đến hệ thống các quy tắc, chuẩn
mực quan hệ đạo đức, tương ứng với thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng kinh tế thị trường, hội
nhập quốc tế để phân biệt với hệ thống các quy tắc, chuẩn
mực đạo đức đã từng tồn tại trong các thời kỳ trước đây.
- Đạo đức mới của con người Việt Nam hiện nay không thoát
ly, tách biệt với những nội dung đạo đức truyền thống tốt đẹp
của dân tộc mà nó là sự tiếp thu, kế thừa những nội dung tốt
đẹp của đạo đức truyền thống dân tộc, đồng thời, cải biến
một số nội dung cũ cho phù hợp với xã hội hiện đại, gạt bỏ
những nội dung lỗi thời không còn thích hợp với bối cảnh xã
hội hiện nay. Đạo đức mới bao hàm trong nó những nội dung
rộng lớn từ lý tưởng phấn đấu cho độc lập dân tộc, đất nước
phồn vinh, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,công bằng,
văn minh đến hành vi tiết kiệm, nếp sống văn minh, lòng
trung thực, nhân nghĩa, lối sống lành mạnh…
- Bên cạnh đó, trong bối cảnh hội nhập quốc tế lối sống thực
dụng, trọng đồng tiền, xa hoa, lãng phí đã và đang ít nhiều
ảnh hưởng đến một bộ phận dân cư. Do đó, việc phát huy các
chuẩn mực lối sống tiết kiệm, giản dị, chân thành, chất phác
và khiêm tốn như một yêu cầu đối với con người Việt Nam
hiện đại lại càng cần thiết. Điều đó, sẽ giúp cho việc xây
dựng con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay có định
hướng đúng, ngăn ngừa và ngăn chặn tác hại của lối sống trái
ngược với thuần phong mĩ tục, xa lạ với bản chất nhân nghĩa
của người Việt Nam.
- Điểm quan trọng và thiết yếu trong nội dung đạo đức mới của
con người Việt Nam hiện nay là chống chủ nghĩa cá nhân.
Đây là một trong những nội dung đạo đức cách mạng mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nói trước đây “đạo đức mới như người
hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngẩng lên trời” .
“Đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải là danh vọng
của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của
loài người” .
c) Nâng cao trình độ ngoại ngữ
- Không có ngoại ngữ thì không có hội nhập”
- Toàn cầu hóa đã trở thành xu thế tất yếu của thời đại, mở ra
nhiều cơ hội phát triển cho các quốc gia, đặc biệt là các nước
đang phát triển. Bên cạnh biểu hiện rõ rệt nhất ở sự hội nhập
kinh tế giữa các quốc gia trong khu vực và trên thế giới, xu
thế toàn cầu hóa còn tác động không nhỏ đến sự giao lưu văn
hóa, trao đổi học thuật, chuyển giao công nghệ giữa các quốc
gia. Đồng thời cũng đặt ra những yêu cầu cao hơn, toàn diện
hơn đối với chất lượng nguồn nhân lực, trong đó, ngoại ngữ
dần trở thành một nhu cầu thiết yếu của mỗi người, kể cả đối
với những người lao động phổ thông hoặc lao động tự do.
- Chúng ta cũng thấy Hiện nay, dân số Việt Nam đang ở nhóm
dân số trẻ, chính vì vậy những người trẻ, đặc biệt là sinh viên
đang có nhiều cơ hội để học tập và làm việc trong môi trường
hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, cũng có nhiều thách thức đặt ra
ngày càng cao, đó là yêu cầu về kiến thức hội nhập và khả
năng sử dụng ngoại ngữ, trong đó có tiếng Anh càng trở nên
quan trọng và cần thiết.
- Trong quá trình đó, bất đồng ngôn ngữ được xem là rào cản
lớn nhất. Rào cản này khiến chúng ta khó tiếp cận kho tri
thức vô biên của nhân loại, khó nắm bắt những cơ hội giao
lưu, giao tiếp không biên giới, những cơ hội việc làm trong
môi trường doanh nghiệp đa quốc gia hoặc có yếu tố nước
ngoài.
- Muốn có đẳng cấp thì phải không ngừng nâng cấp, “toàn cầu
hóa” chính bản thân mình từ kỹ năng, nghiệp vụ vững vàng,
đến khả năng sử dụng ngoại ngữ tự nhiên, tự tin vận dụng nó
như một công cụ sắc bén để kết nối và phá bỏ mọi rào cản
trên hành trình hội nhập quốc tế.
- Bởi lẽ nếu chỉ với tiếng mẹ đẻ, có thể bạn sẽ bị giảm năng
lực cạnh tranh và mất đi cơ hội làm việc trong những công ty
đa quốc gia và thậm chí cả ở những doanh nghiệp trong nước
nhưng có quan hệ hợp tác, giao thương với các đơn vị nước
ngoài.”
d) Đổi mới giáo dục một cách căn bản và toàn diện đi theo
hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá:
- Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hay còn gọi là cuộc
cách mạng số diễn ra với đặc trưng là trí thông minh nhân
tạo, internet kết nối vạn vật, dữ liệu lớn và điện toán
đám mây. Cuộc Cách mạng này sẽ tạo ra sự thay đổi mạnh
mẽ về phân bổ nguồn lực sản xuất, cách thức sản xuất và tiêu
dùng nhờ vào sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công
nghệ. Theo đó, đòi hỏi người lao động phải năng động, có
năng lực tự học, tự nghiên cứu, tư duy Theo đó, đòi hỏi
người lao động phải năng động, có năng lực tự học, tự nghiên
cứu, tư duy cầu. Vì vậy, giáo dục, đào tạo cần phải đổi mới
để thích ứng với thời cuộc, để đào tạo ra nguồn nhân lực tốt,
đáp ứng với yêu cầu đòi hỏi của thị trường lao động trong bối
cảnh hiện nay.
- Trước hết, đổi mới mục tiêu giáo dục, đào tạo nhằm hướng
đến phát triển con người toàn diện cả đức, trí, thể, mỹ. Theo
đó, đổi mới mục tiêu giáo dục, đào tạo là “đào tạo con người
theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm
công dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại
ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và
hội nhập quốc tế (công dân toàn cầu)”(2). Như vậy, mục tiêu
giáo dục, đào tạo hướng tới phát triển con người toàn diện cả
phẩm chất và năng lực, hướng vào hình thành những giá trị
cá nhân của người học phù hợp với chuẩn mực giá trị của con
người Việt Nam trong thời kỳ mới. Những phẩm chất đó là
tinh thần yêu nước, tự tôn dân tộc, ý thức trách nhiệm với
cộng đồng, xã hội, có kỷ luật, kỷ cương.
- Trong khi đó, những năng lực mà con người cần hướng đến
là kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ
thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập quốc
tế, để có thể trở thành “công dân toàn cầu”. Đây đều là những
năng lực rất cần thiết để con người đáp ứng những yêu cầu
mới của nền kinh tế số, xã hội số, hội nhập quốc tế
trong không gian toàn cầu.
- Do vậy, mục tiêu giáo dục phải chú trọng phát triển toàn
diện, hài hòa nhân cách, cả tài và đức, kết hợp dạy chữ, dạy
nghề với dạy người, đặc biệt coi trọng sự phát triển kỹ
năng sống, kỹ năng làm việc, năng lực ngoại ngữ và công
nghệ thông tin của người học để người học có thể học tập,
làm việc trong môi trường quốc tế. Và tất nhiên nội dung
giáo dục đào tạo phải toàn diện, bám sát vào mục tiêu nhằm
phát triển con người VN toàn diện cả đức, trí, thể.