Professional Documents
Culture Documents
ĐỀ CƯƠNG NHẬP MÔN KHTN VÀ CN
ĐỀ CƯƠNG NHẬP MÔN KHTN VÀ CN
ĐỀ CƯƠNG NHẬP MÔN KHTN VÀ CN
VẤN ĐỀ 1: KHÁI QUÁT VỀ THẾ GIỚI TỰ NHIÊN – KHOA HỌC TỰ NHIÊN VÀ CÔNG
NGHỆ
I. Thế giới tự nhiên là gì?
Thế thới tự nhiên (hay gọi tắt là tự nhiên) là nói đến các hiện tượng xảy ra trong thế giới
vật chất cũng như trong sự sống nói chung.
Thế giới tự nhiên hàm chứa Thiên nhiên, trong đó nói đến Thiên nhiên thường là nói đến
Địa chất và Thế giới hoang dã – là những thứ không bị thay đổi đáng kể bởi sự can thiệp của con
người hoặc vẫn tồn tại bất chấp sự can thiệp của con người.
* Sự đa dạng của Thế giới tự nhiên giúp duy trì sự cân bằng trong các hệ sinh thái và cung cấp
cho con người những tài nguyên hữu ích. Ví dụ: Sự đa dạng của thế giới vô sinh cung cấp cho con
người tài nguyên, khoáng sản và năng lượng... phục vụ đời sống của con người.
* Đa dạng sinh học – là sự khác nhau giữa các sinh vật sống ở tất cả mọi nơi, bao gồm: các hệ
sinh thái trên cạn, sinh thái trong đại dương và hệ sinh thái thủy vực khác, cũng như các phức hệ
sinh thái mà các sinh vật tồn tại trong đó.
Đa dạng sinh học có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ
môi trường ở Việt Nam, là cơ sở đảm bảo an ninh lương thực, duy trì nguồn gen vật nuôi, cây
trồng, cung cấp nguyên vật liệu cho xây dựng và các nguồn nhiên liệu, dược liệu....
Bảo tồn đa dạng sinh học không chỉ là vấn đề của một quốc gia, một địa phương, vùng
lãnh thổ hay một cá nhân mà là vấn đề chung của tất cả các nước.
2.2. Quy luật về tính cấu trúc của Thế giới tự nhiên.
Mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong Thế giới tự nhiên đều có cấu trúc nhất định. Thông
thường, các cấu trúc đó được mô phỏng bởi các mô hình. Các mô hình được xây dựng để
tạo điều kiện cho việc hiểu biết các quá trình và các cấu trúc không thể được quan sát trực
tiếp, hoặc để đưa ra dự đoán một cách hợp lý và dễ dàng hơn.
Ví dụ: Mô hình hành tinh của nguyên tử của Rutherford hay Mô hình nguyên tử của Bohr
đã giúp con người hiểu được cấu trúc của thế giới vi mô, từ đó ra đời Vật lí hạt nhân và
nhiều chuyên ngành khác nữa của Vật lí học hiện đại.
Với những sự vật, hiện tượng tồn tại trong Thế giới tự nhiên mà có cấu trúc quan sát được
thì các cấu trúc đó thường hiển hiện ở dạng hình học nào đó, hình đơn lẻ hoặc hình tổ
hợp. Ví dụ: Trong con người, từng bộ phận đều có thể quy về các hình hình học cơ bản và
toàn thể cũng là một hình có thể xác định được. Các tinh thể trong Hóa học lại có cấu trúc
được thể hiện qua các đa diện đặc biệt, trong đó có các đa diện đều.
Đa số của các thực thể trong Tự nhiên là không nhẵn, không tròn, là những thứ rối
ren, chằng chịt. Sự không đều đặn của các thực thể không phải tuyệt đối ngẫu nhiên, mà
trong hình thể không đều đặn có đều đặn. Nhiều thực thể có mức độ không đều đặn luôn
không đổi ở những thang bậc, mỗi thang bậc phản ánh một mức độ đều đặn. Công nghệ
ảnh, Kinh tế học,… và trong cả Kiến trúc.
Cấu trúc tự nhiên luôn tuân thủ một nguyên tắc hình học xác định, đây cũng là cách mà
tự nhiên xác lập trật tự để tạo ra sự hài hòa trong sự hỗn độn của toàn thể.
Ngày này, việc cải tiến các mô hình được sử dụng là đại diện của hệ thống thực hay xây
dựng các mô hình mới dựa trên những mô hình trước đó, là công việc thường xuyên của
các nhà khoa học nối tiếp nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Các bộ phận của một hệ thống hoặc các hệ thống khác nhau tương tác với nhau để thực
hiện một chức năng như thế nào?
Hệ thống là tập hợp các phần tử có quan hệ hữu cơ với nhau, tác động chi phối lẫn nhau
theo các quy luật nhất định (để trở thành một chỉnh thể) nên các bộ phận của một hệ thống
phải liên quan; chúng phải được "thiết kế để hoạt động như một thực thể nhất quán" - nếu
không chúng sẽ là hai hoặc nhiều hệ thống riêng biệt.
Khái niệm hệ thống gắn bó chặt chẽ với khái niệm "kết cấu". Nếu hệ thống là một thể thống
nhất bao gồm các yếu tố có quan hệ và liên hệ lẫn nhau thì kết cấu là tổng thể các mối quan
hệ và liên hệ giữa các yếu tố của thể thống nhất đó. Kết cấu không nằm ngoài hệ thống.
Khái niệm kết cấu phản ánh hình thức sắp xếp của các yếu tố và tính chất của sự tác động
lẫn nhau của các mặt và các thuộc tính của chúng.
Trong thực tế, các yếu tố của hệ thống không phải là những điểm trừu tượng mà là những
hệ thống phức tạp. Mỗi yếu tố cũng có nhiều nhiều mặt, nhiều thuộc tính, khi tác động lẫn
nhau với các yếu tố khác của hệ thống không phải tất cả các mặt, các thuộc tính của nó đều
tham gia mà chỉ một số mặt, một số thuộc tính nào đó mà thôi. Vì vậy, tính chất và phẩm
chất của các liên hệ phụ thuộc vào đặc điểm của các mặt nào đó của các yếu tố tham gia
tác động lẫn nhau. Như vậy, những mặt và thuộc tính của các yếu tố tham gia tác động lẫn
nhau càng lớn thì kết cấu của hệ thống càng phức tạp. Cùng một số yếu tố, khi tác động
lẫn nhau bằng những mặt khác nhau có thể tạo nên các hệ thống khác nhau.
Việc hiểu biết sâu sắc các hệ thống tự nhiên giúp con người, trước hết, hiểu rõ chức năng
nhất định và tính độc lập tương đối của mỗi phần tử trong hệ thống, sau nữa, hiểu rõ những
mối quan hệ và liên hệ lẫn nhau giữa các phần tử ảnh hưởng đến hệ thống, nhận biết được
những thuộc tính mới (gọi là tính trồi của hệ thống) mà từng phần tử riêng lẻ không có hoặc
có không đáng kể. Tất cả những điều đó cho phép con người hiểu rõ các quy luật vận động và
phát triển của Thế giới tự nhiên, không chỉ “giải thích thế giới”, mà còn “cải tạo thế giới”.
Chẳng hạn, việc hiểu rõ hệ thống khí hậu cho phép con người hiểu được các quy luật vận động
của thời tiết, từ đó giúp con người dự báo và hạn chế được các ảnh hưởng xấu của Thế giới tự
nhiên, đặc biệt là các thảm họa do thiên tai gây ra.
2.4. Quy luật về tính tuần hoàn của Thế giới tự nhiên
Trong Thế giới tự nhiên, cấu trúc của các hệ thống hoặc sự vận động và biến đổi của các
hệ thống đều mang tính lặp đi lặp lại. Tính chất đó của Tự nhiên được gọi là tính tuần
hoàn hay sự tuần hoàn theo chu kì.
Việc hiểu rõ quy luật tuần hoàn cho phép con người hiểu rõ các quy luật vận động và phát
triển của Thế giới tự nhiên, giúp con người dự đoán được các sự kiện và các quá trình sẽ
diễn ra trong tương lai. Từ đó giúp con người dự báo và hạn chế được các ảnh hưởng xấu
của Thế giới tự nhiên, đặc biệt là các thảm họa do thiên tai gây ra.
Có nhiều ví dụ về tính tuần hoàn trong Thế giới tự nhiên: Vòng tuần hoàn của nước, carbon,
nitơ,... trong tự nhiên; Định luật tuần hoàn các nguyên tố hóa học và Bảng tuần hoàn các
nguyên tố hóa học; Quy luật biến đổi tuần hoàn các tính chất của đơn chất, thành phần và
tính chất của các hợp chất; Chu kỳ sống của các sinh vật sống,…
Vòng tuần hoàn của nước
Vòng tuần hoàn của nước, hoặc chu kỳ thủy văn, là sự lưu thông nước của Trái Đất. Nó
vận hành được nhờ Mặt Trời. Nhiệt của Mặt Trời làm nước bốc hơi chủ yếu từ các đại dương, và
cả từ sông hồ, mặt đất và các sinh vật. Các đám mây hình thành do hơi nước gặp lạnh và ngưng
tụ, rồi được gió (cũng phát sinh nhờ năng lượng của Mặt Trời) đưa đi xa. Khi các đám mây trở nên
bão hòa, nước sẽ rơi xuống thành mưa. Mưa dưới dạng tuyết được tích lại thành những
núi tuyết và băng hà có thể giữ nước đóng băng hàng nghìn năm. Trong những vùng khí hậu ấm
áp hơn, khi mùa xuân đến, tuyết tan và chảy thành dòng trên mặt đất, đôi khi tạo thành lũ. Phần
lớn lượng giáng thuỷ rơi trên các đại dương; hoặc rơi trên mặt đất và nhờ trọng lực trở thành dòng
chảy mặt. Một phần dòng chảy mặt chảy vào trong sông theo những thung lũng sông trong khu
vực, với dòng chảy chính trong sông chảy ra đại dương. Dòng chảy mặt, và nước thấm được tích
luỹ và được trữ trong những hồ nước ngọt. Một lượng lớn nước thấm xuống dưới đất. Một lượng
nhỏ nước được giữ lại ở lớp đất sát mặt và được thấm ngược trở lại vào nước mặt (và đại đương)
dưới dạng dòng chảy ngầm. Một phần nước ngầm chảy ra thành các dòng suối nước ngọt. Nước
ngầm tầng nông được rễ cây hấp thụ rồi thoát hơi qua lá cây
Các hoạt động của con người ảnh hưởng đến vòng tuần hoàn của nước ở nhiều điểm.
Chẳng hạn:
o Nước được khai thác phục vụ sinh hoạt và sau đó lại được thải vào vòng tuần hoàn, thông
thường đã bị ô nhiễm.
o Các nhà máy điện và các nhà máy sử dụng nước làm mát máy móc và phục vụ các quá
trình chế biến. Chúng thải ra đi-ô-xít lưu huỳnh (SO2), chất khí này lại được hơi nước trong
những đám mây hấp thụ và rơi xuống thành mưa axit.
o Phân bón trong nông nghiệp thường bị ngấm qua đất trồng và trôi ra sông ngòi.
Các chất gây ô nhiễm nghiêm trọng nhất là các chất không bị sinh vật phân hủy hoặc không
tự phân hủy trong các quá trình tự nhiên. Chúng có thể được thực vật và động vật "ăn" phải
và được tích tụ trong các động vật ở trên đỉnh chuỗi thức ăn.
Vòng tuần hoàn của Carbon: Chu trình sinh địa hóa của carbon
Khí quyển là nguồn cung cấp C chính trong chu trình tuần hoàn C (chủ yếu ở dưới dạng
CO2. CO2 đi vào hệ sinh thái nhờ quá trình quang hợp và trở lại khí quyển nhờ quá trình hô hấp
và quá trình đốt cháy.Thực vật lấy khí cacbonic (CO2) từ không khí dưới tác dụng của ánh sáng
mặt trời tạo ra chất hữu cơ. Thực vật thủy sinh cũng sử dụng một lượng CO2 đáng kể từ trong môi
trường nước, trong môi trường nước sự trao đổi CO2 cũng diễn ra với sự trao đổi của hô hấp. Cây
sử dụng CO2, nước, các hợp chất từ trong đất (C, N, P…) để tạo ra những cacbonhydrate như
glucose, và oxy được sinh ra như là một sản phẩm phụ của quá trình quang hợp. Glucose sau đó
có thể được sử dụng ở dạng tinh bột và Celluloso được động vật hoặc vi khuẩn sử dụng hình thành
một lượng sinh khối, thịt… Động vật ăn nguồn sinh khối và hô hấp sản sinh ra CO2 như một phụ
phẩm.
Glucose hoặc celluloso khi bị đốt cháy sẽ sản sinh ra lại CO2 và đi vào trong khí quyển, Mặc
khác việc đốt những nguyên liệu hóa thạch, nguyên liệu dầu… cũng sản sinh ra một lượng CO2 to
lớn cho khí quyển.
Thực vật cũng sản sinh ra lượng CO2 cho khí quyển thông qua quá trình hô hấp và ban đêm.
Chất thải do động vật thải ra được một số vi khuẩn và nấm chọn lọc và hấp thu một số chất
cần thiết cho quá trình sinh trưởng của mình và quá trình này cũng sản sinh CO2 cho khí quyên,
Ngoài ra động vật và thực vật chết đi sự phân hủy cũng sản sinh ra lượng CO2 cho khí quyển.
Trong môi trường nước Cacbon tồn tại dạng hòa tan chủ yếu dạng CO2 và HCO3- cả 2 đề
góp phần vào quá trình quang hợp và sự chuyển hóa C trong nước tư tự như trong khí quyển.
Vòng tuần hoàn của Nitrogen: Chu trình sinh địa hóa của nitrogen
Thực vật hấp thụ nitơ dưới dạng muối amôni (NH4+) và nitrat (NO3–).
Các muối amôni (NH4+) và nitrat (NO3–) được hình thành trong tự nhiên bằng con đường vật
lí, hóa học và sinh học. Trong đó lượng muối nitơ được tổng hợp bằng con đường sinh học là
lớn hơn cả (vi khuẩn cố định đạm sống có thể sống cộng sinh hoặc sống tự do trong đất có khả
năng cố định nitơ tự do – N2 từ không khí).
Nitơ từ xác sinh vật trở lại môi trường đất, nước thông qua hoạt động
+ Định luật tuần hoàn các nguyên tố hóa học: Với mỗi nguyên tử, các electron lớp
ngoài cùng được gọi là electron hóa trị, có khả năng tham gia liên kết hóa học, quyết định
đến tính chất hóa học. Sự lặp đi lặp lại cấu hình electron lớp ngoài cùng dẫn đến sự lặp đi
lặp lại tính chất của nguyên tử.
Cấu hình electron lớp ngoài cùng được phân bố thành: Vỏ nguyên tử => Lớp => Phân
lớp => Orbital (2 electron). (Cách phân bố này giống như cách phân bố học sinh trong trường
học: Trường => Lớp => Tổ => Bàn (2 học sinh)!). Ta gọi s, p, d, f là kí hiệu phân lớp, cho biết
hình dạng của orbital (vùng không gian chuyển động của electron) như sau: s (hình cầu, có 1
orbital), p (hình số 8, có 3 orbital), d (hình hoa thị, có 5 orbital), f (dạng phức tạp, có 7 orbital).
Khi đó, bảng tuần hoàn các nguyên tố cho thấy:
2.5. Quy luật về sự vận động và biến đổi của Thế giới tự nhiên
Vận động là một phạm trù của Triết học dùng để chỉ sự thay đổi của tất cả mọi sự vật,
hiện tượng, mọi quá trình diễn ra trong không gian, vũ trụ từ đơn giản đến tư duy. Vận
động "là thuộc tính cố hữu của vật chất" và "là phương thức tồn tại của vật chất" có
nghĩa là vật chất tồn tại bằng vận động. Thông qua vận động, vật chất mới biểu hiện và
bộc lộ bản chất của mình và do đó, con người nhận thức được bản thân vật chất thông
quan nhận thức được những hình thức vận động của vật chất.
Ví dụ:
Vận động và biến đổi là thuộc tính cốt lõi của Thế giới tự nhiên. Dựa trên những thành
tựu khoa học của thời đại lúc đang sinh sống, Engels đã phân chia vận động thành 5
hình thức cơ bản (xếp từ đơn giản đến phức tạp). Đó là:
Vận động cơ học (là sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian).
o Ví dụ:
Vận động vật lý (tức sự vận động của các phân tử, vận động điện tử, các quá trình nhiệt
điện, các dạng thay đổi của vật chất, các dạng tương tác của vật chất và năng lượng,...).
o Ví dụ:
Vận động hóa học (vận động của các nguyên tử, các quá trình hóa hợp và phân giải các
chất, sự thay đổi của vật chất, phản ứng hóa học,…).
o Ví dụ:
Vận động sinh học (trao đổi chất trong cơ thể và giữa cơ thể sống với môi trường).
o Ví dụ:
Vận động xã hội (sự thay đổi, thay thế các quá trình xã hội của các hình thái kinh tế -
xã hội).
o Ví dụ:
Các hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp, bao hàm
trong nó tất cả các hình thức vận động thấp hơn. Nhưng các hình thức vận động thấp không có
khả năng bao hàm các hình thức vận động ở trình độ cao hơn. Ví dụ: Trong vận động vật lý
thì bao gồm vận động cơ học, trong vận động hóa học vì bao gồm vận động vật lý và trong vận
động sinh học bao gồm vận động hóa học và vận động xã hội bao gồm vận động sinh học cũng
như tất cả các vật động nêu trên. Tuy nhiên vận động cơ học không thể bao gồm vận động xã
hội.
Các hình thức vận động nói trên khác nhau về chất. Từ vận động cơ học đến vận động xã
hội là sự khác nhau về trình độ của sự vận động, những trình độ này tương ứng với trình độ
của các kết cấu vật chất. và trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể gắn liền với nhiều hình
thức vận động khác nhau. Dù vậy, bản thân sự tồn tại của sự vật đó thường đặc trưng bằng một
hình thức vận động cơ bản. Chính bằng sự phân loại các hình thức vận động cơ bản, Engels đã
góp phần đặt cơ sở cho sự phân loại các khoa học tương ứng với đối tượng nghiên cứu của
chúng và chỉ ra cơ sở của khuynh hướng phân ngành và hợp ngành của các khoa học.
6.3. Tóm tắt kịch bản biến đổi khí hậu cho Việt Nam vào cuối thế kỷ 21
Nhiệt độ: Theo kịch bản RCP4.5, nhiệt độ trung bình năm tăng 1,9÷2,4oC ở phía Bắc
và 1,7÷1,9oC ở phía Nam. Theo kịch bản RCP8.5, mức tăng 3,3÷4,0oC ở phía Bắc và
3,0÷3,5oC ở phía Nam. Nhiệt độ cực trị có xu thế tăng rõ rệt.
Lượng mưa: Theo kịch bản RCP4.5, lượng mưa năm tăng phổ biến từ 5÷15%. Theo
kịch bản RCP8.5, mức tăng nhiều nhất có thể trên 20% ở hầu hết Bắc Bộ, Trung Trung
Bộ, một phần Nam Bộ và Tây Nguyên. Giá trị trung bình của lượng mưa 1 ngày lớn
nhất có xu thế tăng trên toàn lãnh thổ Việt Nam (10÷70%) so với trung bình thời kỳ cơ
sở.
Gió mùa và một số hiện tượng cực đoan: Số lượng bão mạnh đến rất mạnh có xu thế
tăng; gió mùa mùa hè có xu thế bắt đầu sớm hơn và kết thúc muộn hơn. Mưa trong thời
kỳ hoạt động của gió mùa có xu hướng tăng. Số ngày rét đậm, rét hại ở các tỉnh miền
núi phía Bắc, đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ đều giảm. Số ngày nắng nóng (Tx ≥
35oC) có xu thế tăng trên phần lớn cả nước, lớn nhất là ở Bắc Trung Bộ, Nam Trung
Bộ và Nam Bộ. Hạn hán có thể trở nên khắc nghiệt hơn ở một số vùng do nhiệt độ tăng
và khả năng giảm lượng mưa trong mùa khô.
6.4. Tóm tắt kịch bản nước biển dâng cho Việt Nam
Kịch bản nước biển dâng chỉ xét đến sự thay đổi mực nước biển trung bình do biến đổi
khí hậu, mà không xét đến ảnh hưởng của các yếu tố khác gây nên sự dâng cao của mực
nước biển như: nước dâng do bão, nước dâng do gió mùa, thủy triều, quá trình nâng/hạ
địa chất và các quá trình khác.
Kịch bản nước biển dâng được xây dựng cho các tỉnh ven biển, 7 khu vực ven biển,
quần đảo Hoàng Sa, và quần đảo Trường Sa.
Đóng góp lớn nhất vào mực nước biển dâng ở khu vực biển Việt Nam là thành phần
giãn nở nhiệt và động lực, sau đó là thành phần băng tan tại sông băng và núi băng
trên lục địa.
Đến năm 2050, mực nước biển dâng trung bình cho toàn dải ven biển Việt Nam theo
kịch bản RCP2.6 là 21 cm (13 cm ÷ 32 cm), theo RCP4.5 là 22 cm (14 cm ÷ 32 cm),
theo RCP6.0 là 22 cm (14 cm ÷ 32 cm) và theo RCP8.5 là 21 cm (17 cm ÷ 35 cm).
Đến năm 2100, mực nước biển dâng trung bình cho toàn dải ven biển Việt Nam theo
kịch bản RCP2.6 là 44 cm (27 cm ÷ 66 cm), theo RCP4.5 là 53 cm (32 cm ÷ 76 cm),
theo RCP6.0 là 56 cm (37 cm ÷ 81 cm) và theo RCP8.5 là 73 cm (49 cm ÷ 103 cm).
Kịch bản mực nước biển dâng trung bình ven biển Việt Nam có khả năng cao hơn mực
nước biển trung bình toàn cầu. Mực nước biển dâng khu vực ven biển các tỉnh phía nam
cao hơn so với khu vực phía bắc. Đến cuối thế kỷ 21, khu vực ven biển từ Móng Cái -
Hòn Dáu và Hòn Dáu - Đèo Ngang có mực nước biển dâng thấp nhất, theo RCP4.5 là
55 cm (33 cm ÷ 78 cm), theo RCP8.5 là 72 cm (49 cm ÷ 101 cm). Khu vực ven biển từ
Mũi Cà Mau – Kiên Giang có mực nước biển dâng cao nhất, theo RCP4.5 là 53 cm (32
cm ÷ 75 cm), theo RCP8.5 là 75 cm (52 cm ÷ 106 cm).
Khu vực giữa Biển Đông có mực nước biển dâng cao hơn so với các khu vực khác. Đến
cuối thế kỷ 21, khu vực quần đảo Hoàng Sa có mực nước biển dâng theo RCP4.5 là 58
cm (36 cm ÷ 80 cm), theo RCP 8.5 là 78 cm (52 cm ÷ 107 cm). Khu vực quần đảo
Trường Sa có mực nước biển dâng theo RCP4.5 là 57 cm (33 cm ÷ 83 cm), theo RCP8.5
là 77 cm (50 cm ÷ 107 cm).
6.5. Nguy cơ ngập úng với mực nước biển dâng 100cm
Khoảng 16,8% diện tích đồng bằng sông Hồng, 4,79% diện tích tỉnh Quảng Ninh có
nguy cơ bị ngập.
Khoảng 1,47% diện tích đất các tỉnh ven biển miền Trung từ Thanh Hóa đến Bình
Thuận có nguy cơ bị ngập. Trong đó, Thừa Thiên - Huế có nguy cơ cao nhất (7,69%
diện tích).
Khoảng 17,8% diện tích Tp. Hồ Chí Minh, khoảng 4,79% diện tích Bà Rịa - Vũng Tàu
có nguy cơ bị ngập; Đồng bằng sông Cửu Long là khu vực có nguy cơ ngập cao (38,9%
diện tích); Các đảo có nguy cơ ngập cao nhất là cụm đảo Vân Đồn, cụm đảo Côn Đảo
và Phú Quốc. Nguy cơ ngập đối với những đảo thuộc quần đảo Trường Sa là không
lớn. Quần đảo Hoàng Sa có nguy cơ ngập lớn hơn, nhất là đối với một số đảo thuộc
nhóm đảo Lưỡi Liềm và đảo Tri Tôn.
6.6. Ảnh hưởng của vấn đề nước biển dâng đối với Việt Nam.
- Thứ nhất, Việt Nam là một nước có nền kinh tế dựa vào nông nghiệp trồng lúa nước,
chính vì thế sự đe doạ về kịch bản nước biển dâng ảnh hưởng sâu sắc đến nền kinh
tế VN nếu không sớm tìm ra giống lúa mới thích ứng được với sự biến đổi khí hậu
này.
- Thứ hai, việc thu hẹp diện tích đất đai khiến rất nhiều người dân mất đi diện tích đất
ở cũng như nơi làm việc, trồng trọt đặc biệt là một nước có mật độ dân số đông như
Việt Nam.
- Thứ ba, việc này đe doạ trực tiếp đến sự sống còn của con người khi khả năng thiên
tai càng cao hơn. Ví dụ như sóng thần, bão...
- Thứ tư, làm suy thoái hệ sinh thái cây trồng, vật nuôi.
6.7. Khoa học tự nhiên và Công nghệ góp phần giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu
Khoa học tự nhiên và Công nghệ giúp con người cách ứng phó với biến đổi khí hậu trên
những mặt sau:
Hạn chế sử dụng nhiên liệu hóa thạch.
Cải tạo, nâng cấp hạ tầng.
Làm việc gần nhà.
Tiết kiệm, giảm chi tiêu.
Ăn uống thông minh, tăng cường rau, hoa quả.
Chặn đứng nạn phá rừng.
Tiết kiệm điện.
Khai phá những nguồn năng lượng mới.
Ứng dụng các công nghệ mới trong việc bảo vệ Trái Đất.
6.8. Định hướng và giải pháp vĩ mô
Biến đổi khí hậu là vấn đề nhân loại đã nhận thấy và tìm hướng giải quyết cách đây vài
chục năm, thông qua rất nhiều nghị định, công ước về vấn đề Biến đổi khí hậu và nước biển
dâng.
Đối với các vùng ven biển, cần xem xét các công trình cơ sở hạ tầng một cách cẩn trọng
như lựa chọn vị trí xây dựng, tiêu chuẩn thiết kế, kết cấu,...Cần được nâng cấp, di dời
kịp thời. Đồng thời có kế hoạch rõ ràng về phòng chống bão lũ, thiên tai cho người dân
ven biển...
Đối với sản xuất nông nghiệp, có hệ thống đo đạc, đánh giá cụ thể những tác động mà
nước biển dâng đối với từng hệ thống sản xuất nông nghiệp đang bị ngọt hoá, trên cơ
sở đó đề ra giải pháp ứng phó dự trù sẵn sàng. Chúng ta hoàn toàn có thể giả thiết một
tốc độ dâng cao của nước biển cùng với những kịch bản dòng chảy từ thượng lưu và sử
dụng các mô hình tóan (SAL, VRSAP, MIKE...) để dự báo sự diễn biến (gia tăng) của
vùng bị xâm nhập mặn, trên cơ sở đó chỉ ra những nguy cơ của các hệ thống thủy lợi
“ngọt hóa” hiện hữu theo thời gian. Mô hình toán cho phép tính toán dự báo sự suy
giảm khả năng cấp nước ngọt của các hệ thống thủy lợi, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp
ứng phó: chuyển đổi mùa vụ hay cây trồng, vật nuôi (thủy sản) phù hợp hoặc tăng
cường lượng nước ngọt từ thượng lưu bằng biện pháp công trình. Đặc biệt hơn, con
người cần chú trọng đẩy mạnh công tác nghiên cứu các giống cây trồng mới phù hợp
với điều kiện khí hậu và tình trạng ngập úng.
Đối với cơ sở hạ tầng và môi trường, đòi hỏi nâng cấp các công trình hạ tầng hiện hữu
như đường giao thông, hệ thống tiêu thoát nước đô thị để đáp ứng yêu cầu khi mực
nước trên sông rạch gia tăng trong mùa mưa lũ hay triều cường. Quy họach phát triển
các khu dân cư, đặc biệt các đô thị lớn được xây dựng mới nhất thiết phải được xét đến
các yếu tố của biến đổi khí hậu và hậu quả của nước biển dâng. Tình trạng tiêu thoát
nước kém và úng ngập trên diện rộng, kéo dài làm khó khăn cho công tác xử lý môi
trường sinh hoạt, công nghiệp vì vậy, ngay từ bây giờ cần kiên quyết không bố trí các
khu công nghiệp có tính xả thải lớn ở trung tâm Nam Bộ.
VẤN ĐỀ 3: GIÁO DỤC PHỔ THÔNG MỚI.
2. Năng lực và chương trình giáo dục phát triển năng lực.
a. Năng lực.
Dựa vào kết quả nghiên cứu ở trong nước và nước ngoài, Chương trình giáo dục phổ
thông tổng thể giải thích khái niệm năng lực như sau: “Năng lực là thuộc tính cá nhân được
hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người
huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm
tin, ý chí,... thực hiện thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong
những điều kiện cụ thể”.
Từ định nghĩa trên, có thể rút ra những đặc điểm chính của năng lực là:
Năng lực là sự kết hợp giữa tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện của người
học.
Năng lực là kết quả huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân
khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,...
Năng lực được hình thành, phát triển thông qua hoạt động và thể hiện ở sự thành công
trong hoạt động thực tiễn.
b. Yêu cầu cần đạt về năng lực và căn cứ xác định yêu cầu cần đạt về năng lực của người
học
Chương trình giáo dục phổ thông mới hình thành và phát triển cho học sinh những năng
lực cốt lõi sau:
Những năng lực chung được hình thành, phát triển thông qua tất cả các môn học và
hoạt động giáo dục: năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực
giải quyết vấn đề và sáng tạo.
Những năng lực đặc thù được hình thành, phát triển chủ yếu thông qua một số môn học
và hoạt động giáo dục nhất định: năng lực ngôn ngữ, năng lực tính toán, năng lực khoa
học, năng lực công nghệ, năng lực tin học, năng lực thẩm mĩ, năng lực thể chất.
Bên cạnh việc hình thành, phát triển các năng lực cốt lõi, Chương trình giáo dục phổ
thông còn góp phần phát hiện, bồi dưỡng năng lực đặc biệt (năng khiếu) của học sinh.
c. Chương trình giáo dục phát triển năng lực của người học
Để phát triển năng lực của người học, Chương trình Giáo dục phổ thông thực hiện các
giải pháp sau:
Dạy học phân hoá để phát huy tốt nhất tiềm năng, sở trường, phù hợp với sở thích, hứng
thú của mỗi học sinh.
Dạy học thông qua các chủ đề, học phần, môn học tích hợp để giúp người học rút ngắn
quá trình huy động tổng hợp các nguồn lực thành năng lực.
Dạy học thông qua hoạt động tự học, thực hành, vận dụng của người học để hình thành,
phát triển vững chắc năng lực của người học qua hoạt động.
Dạy học phân hoá là xu hướng chung của các nước. So với chương trình hiện hành, chủ
trương dạy học phân hoá trong Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 có một số điểm
khác như:
Thực hiện dạy học phân hoá ở tất cả các cấp học theo phương châm tích hợp cao ở các
lớp học, cấp học dưới.
Phân hoá dần ở các lớp học, cấp học trên; áp dụng hình thức tự chọn thay cho hình thức
phân ban.
Thực hiện yêu cầu phân hoá cả trong mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục và đánh
giá kết quả giáo dục; chú trọng cả phân hoá trong (phân hoá vi mô) và phân hoá ngoài
(phân hoá vĩ mô).
Phân hoá trong thể hiện chủ yếu qua định hướng về phương pháp giáo dục, nhấn mạnh
tính tích cực hoá hoạt động của người học, khuyến khích học sinh tích cực tham gia
vào các hoạt động học tập, tự phát hiện năng lực, nguyện vọng của bản thân, và qua
định hướng về đánh giá kết quả giáo dục, nhấn mạnh bảo đảm sự tiến bộ của từng học
sinh.
Phân hoá ngoài thể hiện ở các môn học tự chọn, các chủ đề, chuyên đề học tập lựa chọn
theo nguyện vọng và định hướng nghề nghiệp. Ở giai đoạn giáo dục cơ bản, bên cạnh
nhiệm vụ trọng tâm là thực hiện giáo dục toàn diện và tích hợp, Chương trình giáo dục
phổ thông thiết kế một số môn học và hoạt động giáo dục theo các chủ đề, tạo điều kiện
cho học sinh lựa chọn những học phần hoặc chủ đề phù hợp với sở thích và năng lực
của bản thân. Ở giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp, bên cạnh một số môn học
và hoạt động giáo dục bắt buộc, học sinh được lựa chọn những môn học và chuyên đề
học tập phù hợp với nguyện vọng và định hướng nghề nghiệp của mình.
Dạy học tích hợp là xu thế chung của Chương trình giáo dục phổ thông các nước. So
với chương trình hiện hành, chủ trương dạy học tích hợp trong Chương trình Giáo dục
phổ thông2018 có một số điểm khác như:
Tăng cường tích hợp nhiều nội dung trong cùng một môn học.
Xây dựng một số môn học tích hợp mới ở các cấp học, tinh thần chung là tích hợp cao
ở các lớp học, cấp học dưới và phân hoá dần ở các lớp học, cấp học trên.
Thực hiện dạy học tích hợp cả trong mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục và đánh
giá kết quả giáo dục.
Ở cấp tiểu học, Chương trình giáo dục phổ thông mới tiếp tục xây dựng một số môn học
có tính tích hợp trên cơ sở phát triển các môn học tích hợp đã có như: Tự nhiên và Xã
hội, Lịch sử và Địa lí, Khoa học.
Ở cấp trung học cơ sở, Chương trình giáo dục phổ thông mới xây dựng hai môn học mới
có tính tích hợp là: (i) Khoa học tự nhiên (được hình thành chủ yếu từ các ngành khoa
học Vật lí, Hoá học, Sinh học, Khoa học Trái Đất); (ii) Lịch sử và Địa lí (được hình
thành chủ yếu từ các ngành khoa học Lịch sử, Địa lí).
Ở cả ba cấp học còn có một hoạt động giáo dục tích hợp là Hoạt động trải nghiệm (tiểu
học) và Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp (Trung học cơ sở và Trung học phổ
thông).
* Dạy học thông qua hoạt động tích cực của người học:
Đặc điểm chung của các phương pháp giáo dục được áp dụng trong Chương trình Giáo
dục phổ thông 2018 là tích cực hoá hoạt động của người học, trong đó giáo viên đóng
vai trò tổ chức, hướng dẫn hoạt động cho học sinh, tạo môi trường học tập thân thiện
và những tình huống có vấn đề để khuyến khích học sinh tích cực tham gia vào các hoạt
động học tập, tự phát hiện năng lực, nguyện vọng của bản thân, rèn luyện thói quen và
khả năng tự học, phát huy tiềm năng và những kiến thức, kĩ năng đã tích luỹ được để
phát triển.
Các hoạt động học tập của học sinh bao gồm:
Hoạt động khám phá vấn đề, hoạt động luyện tập và hoạt động thực hành (ứng dụng
những điều đã học để phát hiện và giải quyết những vấn đề có thực trong đời sống)
được tổ chức trong và ngoài khuôn viên nhà trường, trong và ngoài giờ lên lớp thông
qua một số hình thức chủ yếu như học lí thuyết.
Thực hiện bài tập, thí nghiệm, trò chơi, đóng vai, dự án nghiên cứu.
Tham gia seminar, tham quan, cắm trại, đọc sách; sinh hoạt tập thể, hoạt động phục vụ
cộng đồng.
Tuỳ theo mục tiêu cụ thể và tính chất của hoạt động, học sinh được tổ chức làm việc
độc lập, làm việc theo nhóm hoặc làm việc chung cả lớp.
Dù làm việc độc lập, theo nhóm hay theo đơn vị lớp, mỗi học sinh đều được tạo điều kiện
để tự mình thực hiện nhiệm vụ học tập và trải nghiệm thực tế.
Giáo dục toán học được thực hiện ở nhiều môn học, hoạt động giáo dục như Toán, Vật
lí, Hoá học, Sinh học, Công nghệ, Tin học, Hoạt động trải nghiệm và Hoạt động trải nghiệm,
hướng nghiệp,... trong đó Toán là môn học cốt lõi được học bắt buộc từ lớp 1 đến lớp 12.
Chương trình môn Toán được thiết kế theo cấu trúc tuyến tính kết hợp với “đồng tâm
xoáy ốc” (đồng tâm, mở rộng và nâng cao dần), xoay quanh và tích hợp ba mạch kiến thức: Số,
Đại số và Một số yếu tố giải tích; Hình học và Đo lường; Thống kê và Xác suất. Nội dung môn
Toán được phân chia theo hai giai đoạn.
– Giai đoạn giáo dục cơ bản
Môn Toán giúp học sinh nắm được một cách có hệ thống các khái niệm, nguyên lí, quy
tắc toán học cần thiết nhất cho tất cả mọi người, làm nền tảng cho việc học tập các trình độ học
tập tiếp theo hoặc có thể sử dụng trong cuộc sống hằng ngày.
– Giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp
Chương trình môn Toán ở giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp giúp cho học sinh
có cái nhìn tương đối tổng quát về toán học, hiểu được vai trò và những ứng dụng của toán học
trong thực tiễn, những ngành nghề có liên quan đến toán học để học sinh có cơ sở định hướng
nghề nghiệp, cũng như có khả năng tự mình tìm hiểu những vấn đề có liên quan đến toán học
trong suốt cuộc đời.