Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 14

1.

Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường đúng đắn cho cách mạng
Việt Nam: con đường cách mạng vô sản – mở tiền đề cho việc thành
lập Đảng cộng sản.

1.1. Tiểu sử Nguyễn Ái Quốc


Nguyễn Ái Quốc (19/5/1890-2/9/1969), tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung, là
một nhà cách mạng, lãnh tụ của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam. Ông là
người sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, từng là thủ tướng Biệt Nam dân chủ
Cộng hòa trong những năm 1945-1955, Chủ tịch nước từ năm 1951 đến khi qua
đời.1
Nguyễn Sinh Cung, tự Tất Thành, quê nội là làng Kim Liên (tên Nôm là làng
Sen). Nguời được sinh ra lại quê ngoại là làng Hoàng Trù, và sống ở đến đến năm
1895. Hai làng đều thuộc xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, tỉnh
Nghệ An. Ông sinh ra trong một làng quê nghèo, phần lớn người dân không có
ruộng, phải cày thuê, cấy rẽ. Nhưng bù lại Người được lớn lên trong gia đình tri
thức, và một miền quê đầy truyền thống cách mạng. Thân phụ Người là phó bảng
Nguyễn Sinh Sắc, thân mẫu là bà Hoàng Thị Loan. Ông có một người chị là
Nguyễn Thị Thanh, một người anh là Nguyễn Sinh Khiêm (tự Tất Đạt) và một
người em mất sớm là NGuyễn Sinh Nhuận.
Ngay từ thiếu thời, Người được tiếp nhận nhiều tri thức, kết hợp văn hóa Đông
tây và long yêu nước. Chứng kiến cnahr nhân dân lầm than vì bị thực dân Pháp
xâm lược, cũng như thấy sự đàn áp dã man của thực dân Pháp đối với các phong
trào cách mạng. Nguyễn Ái Quốc đã luôn manh mún trong tâm phải giải phóng
dân tộc, đưa dân tộc được tự do, độc lập, người dân được hạnh phúc. Ngày
5/6/1911 Người thanh niên Nguyễn Ái Quốc chính thức lên tàu đi bôn ba tìm
đường cứ nước, mở ra sự hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam sau này.

1.2. Hoàn cảnh đất nước ta trước khi Bác ra đi tìm đường cứu nước
Tại Việt Nam, năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược và từng
bước thiết lập bộ máy thống trị ở Việt Nam, biến một quốc gia phong kiến thành
thuộc địa nửa phong kiến.
Về chính trị, thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực
đối nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn; chia Việt Nam
thành ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị
riêng. Thực dân Pháp cấu kết với giai cấp địa chủ để bóc lột kinh tế và áp bức
chính trị đối với nhân dân Việt Nam.
Về kinh tế, thực dân Pháp thực hiện chính sách bóc lột, cướp đoạt ruộng đất để
lập đồn điền; đầu tư khai thác tài nguyên; xây dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ
thống đường giao thông, bến cảng phục vụ chính sách khai thác thuộc địa.
Về văn hoá, thực dân Pháp thi hành triệt để chính sách văn hóa nô dịch, gây tâm
lý tự ti, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan. Mọi hoạt động yêu nước của
nhân dân ta đều bị cấm đoán. Chúng tìm mọi cách bưng bít và ngăn chặn ảnh
hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam và thi hành chính sách
“ngu dân” để dễ bề cai trị.

Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hoá, giáo dục
thực dân, xã hội Việt Nam đã diễn ra quá trình phân hoá sâu sắc. Giai cấp địa chủ
cấu kết với thực dân Pháp tăng cường bóc lột, áp bức nông dân. Tuy nhiên, trong
nội bộ địa chủ Việt Nam lúc này có sự phân hoá. Một bộ phận địa chủ có lòng yêu
nước, căm ghét chế độ thực dân đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình
thức và mức độ khác nhau.

Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người
dân mất nước và ở những mức độ khác nhau, đều bị thực dân áp bức, bóc lột. Vì
vậy, trong xã hội Việt Nam, ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân, chủ yếu là
nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến, đã nảy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản
vừa chủ yếu và ngày càng gay gắt trong đời sống dân tộc, đó là mâu thuẫn giữa
toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược. Tính chất của xã hội Việt
Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến đang đặt ra hai yêu cầu: Một là, phải đánh
đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân; Hai
là, xoá bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng
đất cho nông dân. Trong đó, chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng
đầu.
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các phong trào yêu nước của nhân dân ta
chống thực dân Pháp diễn ra liên tục và sôi nổi nhưng đều không mang lại kết quả.
Phong trào Cần Vương - phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến, do giai
cấp phong kiến lãnh đạo đã chấm dứt ở cuối thế kỷ XIX với cuộc khởi nghĩa của
Phan Đình Phùng (năm 1896). Sang đầu thế kỷ XX, khuynh hướng này không còn
là khuynh hướng tiêu biểu nữa. Phong trào nông dân, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa
Yên Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài mấy chục năm cũng thất bại vào năm 1913.
Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các sĩ phu yêu nước
như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi
nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại. Các phong trào yêu
nước
từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, bất khuất
của dân tộc ta được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử. Nhưng do thiếu đường lối
đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt
thất bại. Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối
cứu nước.
Ngoài ra trong thời kỳ này ở Việt Nam còn có nhiều phong trào đấu tranh nổ ra,
theo đó các tổ chức đảng phái cũng bắt đầu ra đời. Các đảng phái chính trị tư sản
và tiểu tư sản đã góp phần thúc đẩy phong trào yêu nước chống Pháp , đặc biệt là
Tân Việt cách mạng Đảng và Việt Nam quốc dân Đảng. Trong nội bộ Tân Việt
cách mạng Đảng thì khuynh hướng cách mạng theo quan điểm vô sản đã thắng thế,
còn Việt Nam quốc dân Đảng là một đảng chính trị theo xu hướng dân chủ tư sản.
Về sau cuộc khởi nghĩa của Việt Nam quốc dân Đảng đã bị thực dân Pháp dập tắt,
còn số đảng viên tiên tiến còn lại trong Tân Việt tích cực chuẩn bị để tiến tới thành
lập một chính đảng theo chủ nghĩa Mac-Lênin.
1.3. Quá trình tìm đường cứu nước của Nguyên Ái Quốc
Ngày 5-6-1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức là Nguyễn Ái Quốc,
Hồ Chí Minh sau này) ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới. Người
đã đi qua nhiều nước của châu Âu, châu Phi, châu Mỹ và đã phát hiện ra chân lý:
Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi đau khổ của công
nhân và nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa. Năm
1917, Người trở lại nước Pháp, đến Paris và năm 1919 gia nhập Đảng Xã hội Pháp.
Tháng 6/1919, thay mặt những người yêu nước Việt Nam, với tên gọi mới là
Nguyễn Ái Quốc, Người gửi bản yêu sách 8 điểm tới Hội nghị Vécxây.

Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc “Đề cương về vấn đề dân tộc và
thuộc địa” của Lênin và từ tư tưởng đó, Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng
đắn cho dân tộc Việt Nam. Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 12/1920),
Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng
lập) và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người Cộng sản đầu tiên
của Việt Nam. Đó là một sự kiện lịch sử trọng đại, không những Nguyễn Ái Quốc
đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với lý luận cách mạng của thời đại là chủ nghĩa
MácLênin, mà còn đánh dấu bước chuyển quan trọng của con đường giải phóng
dân tộc Việt Nam: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản. Từ đây, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối
với phong trào cộng sản quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến truyền bá chủ nghĩa
Mác Lênin, vạch phương hướng chiến lược cách mạng Việt Nam và chuẩn bị điều
kiện để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Từ năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc ra sức truyền bá chủ nghĩa
MácLênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị
về lý luận cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Người nhấn mạnh: cách
mạng muốn thành công phải có đảng cách mạng chân chính lãnh đạo; Đảng phải
có hệ tư tưởng tiên tiến, cách mạng và khoa học dẫn đường, đó là hệ tư tưởng Mác-
Lênin.

Người đã viết nhiều bài báo, tham gia nhiều tham luận tại các đại hội, hội nghị
quốc tế, viết tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” và tổ chức ra các tờ báo
Thanh niên, Công nông, Lính cách mệnh, Tiền phong, nhằm truyền bá chủ nghĩa
Mác-Lênin vào Việt Nam. Năm 1927, Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân
tộc bị áp bức xuất bản tác phẩm “Đường Kách mệnh” (tập hợp các bài giảng của
Nguyễn Ái Quốc ở lớp huấn luyện chính trị của Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên). Đó là sự chuẩn bị về đường lối chính trị tiến tới thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam. Người khẳng định, muốn thắng lợi thì cách mạng phải có một đảng lãnh
đạo, Đảng có vững, cách mạng mới thành công cũng như người cầm lái có vững
thì thuyền mới chạy.
Trong thời gian này, Người cũng tập trung cho việc chuẩn bị về tổ chức và cán
bộ. Người lập ra Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (năm 1925), tổ chức nhiều
lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu (Trung Quốc) và gửi cán bộ đi học tại trường
Đại học Phương Đông (ở Liên Xô trước đây) và trường Lục quân Hoàng Phố
(Trung Quốc) nhằm đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Nhờ hoạt động
không mệt mỏi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều đồng chí cách mạng tiền bối
mà những điều kiện thành lập Đảng ngày càng chín muồi.

Cuối năm 1929, những người cách mạng Việt Nam trong các tổ chức cộng sản
đã nhận thức được sự cần thiết và cấp bách phải thành lập một Đảng Cộng sản
thống nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào cộng sản ở Việt Nam. Nguyễn
Ái Quốc đã chủ động tổ chức và chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng tại Hương Cảng,
Trung Quốc từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 7/2/1930.

Hội nghị đã quyết định hợp nhất các tổ chức Đảng (Đông Dương Cộng sản
Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn) thành Đảng
Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh cương
vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng
sản. Những văn kiện đó do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được Hội nghị hợp nhất
Đảng thông qua là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể
của cách mạng Việt Nam. Hội nghị thông qua lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc
thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến đồng bào, đồng
chí trong cả nước nhân dịp thành lập Đảng. Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng
sản có ý nghĩa như là một Đại hội thành lập Đảng. Những văn kiện được thông qua
tại Hội nghị hợp nhất do Nguyễn Ái Quốc chủ trì chính là Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng.
Sau này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã quyết nghị lấy ngày
3/2 dương lịch hằng năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

2. Sau khi tìm ra con đường cứu nước đúng dắn, Nguyễn Ái Quốc
tích cực chuẩn bị mọi mặt cho sự ra đời của một chính đảng tại Việt
Nam
2.1. Chuẩn bị về tư tưởng
2.2.1. Thời kỳ ở Pháp (1919-1923)
Người xác định kẻ thù của ta là chủ nghĩa đế quốc, là tư bản bóc lột. Từ khi trở
thành người cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã xúc tiến mạnh mẽ việc truyền bá chủ
nghĩa Mác - Lênin vào phong trào giải phóng dân tộc và phong trào vô sản ở các
nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam. .

Việc xuất bản báo “Người cùng khổ” là một vố đánh vào bọn thực dân ở các
nước thuộc địa, nhất là ở Đông Dương, ai đọc báo “Người cùng khổ” đều bị bắt.
Mặc dầu khó khăn nhưng tờ báo vẫn tiếp tục phát triển. Suốt trong thời gian tồn
tại, từ tháng 4-1922 đến tháng 6-1926, báo “Người cùng khổ” ra được 38 số với 35
tờ.
Tháng 6-1923, trước khi rời nước Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã viết bức thư gửi lại
cho các đồng chí của mình.

Theo yêu cầu của Quốc tế Cộng sản đào tạo Nguyễn Ái Quốc trở thành lãnh tụ
tương lai cho cách mạng Đông Dương, Quốc tế Cộng sản cùng với Đảng Cộng sản
Pháp tổ chức cho Nguyễn Ái Quốc đến nước Nga. Tháng 6-1923, Nguyễn Ái Quốc
tạm biệt Pari, tạm biệt nước Pháp, để lại hình ảnh đẹp về một chiến sỹ quốc tế
nhiệt thành đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng con người, thực hiện những lý
tưởng cao đẹp của đại cách mạng Pháp: Lý tưởng Tự do- Bình Đẳng - Bác ái.
2.1.2. Thời kì ở Liên Xô (1923-1924)
Người tham gia hoạt động quốc tế và học tập kinh nghiệm từ Cách mạng Tháng
Mười Nga. Tháng 6-1923, Nguyễn Ái Quốc bí mật từ Pari sang Liên Xô dự Hội
nghị Quốc tế Nông dân lần thứ nhất (10-1923 ), và Đại hội Quốc tế Cộng sản lần
thứ V ( 71924 ) ... Ở Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc tích cực nghiên cứu các vấn đề về
dân tộc và thuộc địa. Người đã có các tham luận quan trọng tại các đại hội quốc tế,
viết nhiều bài cho các báo " Sự Thật" - cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng Sản
Liên Xô, tạp chí " Thư tín Quốc tế" của Quốc tế Cộng Sản. Nguyễn Ái Quốc tiếp
tục phát triển và hoàn thiện thêm tư tưởng về cách mạng giải phóng dân tộc, thông
qua hoạt động thực tiễn và nghiên cứu sách báo mácxít. Nguyễn Ái Quốc đã nêu rõ
mối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa với cách mạng chính quốc, về vai trò của
giai cấp nông dân trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đây là bước chuẩn bị quan
trọng về chính trị, tư tưởng cho sự thành lập Đảng Cộng Sản ở Việt Nam.
2.1.3. Thời kỳ ở Trung Quốc (1924-1927)
Tháng 11 năm 1924, với tư cách là uỷ viên Bộ phương Đông của Quốc tế cộng
sản, trực tiếp phụ trách Cục phương Nam, Nguyễn Ái Quốc đã từ Liên Xô đến
Quảng Châu (Trung Quốc) để hoạt động, xây dựng phong trào và đào tạo cán bộ
cách mạng cho một số nước ở Đông Nam Á. Tại đây, đồng chí đã cùng với các nhà
lãnh đạo cách mạng Trung Quốc, Triều Tiên, Ấn Độ, Thái Lan, Inđônêxia,
Malaixia, v.v..sáng lập ra Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á - Đông.

Tháng 6 năm 1925, Người thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.
Chương trình và Điều lệ của Hội nêu rõ mục đích là : làm cách mạng dân tộc và
cách mạng thế giới. Sau khi cách mạng thành công, Hội chủ trương thành lập
Chính phủ nhân dân, mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân, tiến lên xây dựng xã hội
cộng sản chủ nghĩa, thực hiện đoàn kết với giai cấp vô sản các nước, với phong
trào cách mạng thế giới.
Từ năm 1925 đến năm 1927, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã mở các
lớp huấn luyện chính trị cho cán bộ cách mạng Việt Nam. Hội đã xây dựng được
nhiều cơ sở ở các trung tâm kinh tế, chính trị trong nước.

Năm 1928, Hội thực hiện chủ trương “ vô sản hóa ”, đưa hội viên vào nhà máy,
hầm mỏ, đồn điền để rèn luyện lạp trường, quan điểm giai cấp công nhân, để
truyền bá chủ nghĩa Mac-Lênin và lý luận giải phóng dân tộc nhằm thúc đẩy sự
phát triển của phong trào cách mạng Việt Nam. Đầu nǎm 1927, cuốn “ Đường cách
mệnh” gồm những bài giảng của Người trong các lớp đào tạo cán bộ ở Quảng
Châu, được Bộ tuyên truyền của Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á – Đông
xuất bản. Trong tác phẩm quan trọng này, đồng chí Nguyễn Ái Quốc nêu ra những
tư tưởng cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mangViệt Nam. Đường cách
mệnh chỉ rõ đối tượng đấu tranh của cách mạng Việt Nam là tư bản đế quốc chủ
nghĩa, phong kiến địa chủ; đồng thời, chỉ rõ động lực và lực lượng cách mạng.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng là việc chung của cả dân chúng chứ
không phải việc của một hai người, do đó phải đoàn kết toàn dân. Nhưng cái cốt
của nó là công – nông và phải luôn ghi nhớ rằng công – nông là người chủ cách
mệnh, công – nông là gốc của cách mệnh. Nguyễn Ái Quốc khẳng định : “Muốn
thắng lợi thì cách mạng phải có một đảng lãnh đạo, Đảng có vững, cách mạng mới
thành công cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy. Đảng muốn vững
thì phải có chủ nghĩa làm cốt, chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách
mệnh nhất là phải có chủ nghĩa Lenin. Về phương pháp cách mạng, Người nhấn
mạnh đến việc giác ngộ và tổ chức quần chúng cách mạng, phải làm cho quần
chúng hiểu rõ mục đích cách mạng, biết đồng tâm hiệp lực để đánh đổ giai cấp áp
bức mình, làm cho cách mạng biết cách làm, phải có “mưu chước” , có như thế
mới đảm bảo thành công cho cuộc khởi nghĩa với sự nổi dậy của toàn dân.
Tác phẩm Đường cách mệnh đã đề cập những vấn đề cơ bản của một cương
lĩnh chính trị, chuẩn bị về tư tưởng chính trị cho việc thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam. Đường cách mệnh có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối với cách
mạng Việt Nam. Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội và tác phẩm Đường
cách mệnh đã trực tiếp chuẩn bị về tư tưởng, lý luận chính trị và tổ chức cho việc
thành lập Đảng vô sản kiểu mới ở Việt Nam.
2.2. Chuẩn bị về tổ chức
2.2.1. Các tổ chức do người thành lập ra
Năm 1921, nhờ sự giúp đỡ của Đảng cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc
cùng với một số chiến sĩ cách mạng ở nhiều nước thuộc địa của Pháp lập ra Hội
liên Hiệp Thuộc địa nhằm tập hợp tất cả những người ở thuộc địa sống trên đất
Pháp đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân.

Năm 1922, Ban nghiên cứu thuộc địa được cử làm trưởng tiểu ban nghiên
cứu về vấn đề Đông Dương. Tháng 6-1925, Người sáng lập Hội Việt Nam cách
mạng Thanh niên, hạt nhân là Cộng sản đoàn. Cơ quan tuyên truyền của Hội là
tuần báo báo Thanh niên. Đây là một bước chuẩn bị có ý nghĩa quyết định về mặt
tổ chức cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam.
Từ năm 1925-1927, người mở nhiều lớp huấn luyện chính trị tại Quảng Châu,
đào tạo một đội ngũ cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Sau các khóa học một số
được chọn đi học ỏ trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản, một số
được cử đi học trường quân sự Hoàng Phố, còn phần lớn trở về nước để “ truyền
bá lí luận giải phóng dân tộc, và tổ chức nhân dân”
2.2.2. Cách thức truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin của Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên
Sự truyền bá chủ nghĩa Mac-Lenin và tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh vào
trong phong trào công nhân và phong trào yêu nước gắn liền với xây dựng các tổ
chức cơ sở của Hội ở nhiều trung tâm kinh tế, chính trị quan trọng. Số hội viên của
Hội tăng mạnh.
Năm 1928, có 300 hội viên, năm 1929 có 1700 hội viên. Tổ chức cũng được
xây dựng trong nhiều nhà máy, hầm mỏ. Một số đảng viên tiên tiến trong Tân Việt
cũng ngả theo Hội, nhiều người đã trở thành hội viên của Hội. Việc truyền bá lí
luận giải phóng dân tộc và tổ chức vận động nhân dân dấy lên một phong trào dân
tộc chủ ở Việt Nam ngày càng mạnh mẽ, đặc biệt là phong trào công nhân.
Trong những năm 1926-1929, phong trào công nhân đã có sự lãnh đạo của các
tổ chức như Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Công hội đỏ và các tổ
chức cộng sản ra đời trong năm 1929. Ở giai đoạn này nhiều cuộc bãi công diễn ra.
Từ năm 1928 đến năm 1929, có khoảng 40 cuộc đấu tranh của công nhân diễn
ra trong toàn quốc. Các cuộc đấu tranh của công nhân Việt Nam trong những năm
1926-1929 mang tính chất chính trị rõ rệt. Mỗi cuộc đấu tranh đã có sự liên kết
giữa các nhà máy, các nghành và các địa phương. Phong trào công nhân có sức lôi
cuốn phong trào dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.
3. Năm 1930, Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chủ trì Hội nghị hợp nhất thành lập
Đảng và soạn thảo cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
3.1. Nguyễn Ái Quốc đứng đầu trong hội nghị thành lập Đảng
Tại đại hội lần thứ nhất của hội Việt Nam cách mạng thanh niên (5-1929) đã
xảy ra sự bất đồng giữa các đại biểu về việc thành lập Đảng cộng sản, thực chất là
sự khác nhau giữa các đại biểu muốn thành lập ngay một Đảng cộng sản và giải thể
tổ chức hội Việt Nam cách mạng thanh niên, với những đại biểu cũng muốn thành
lập Đảng cộng sản nhưng không muốn tổ chức đảng ở giữa đại hội thanh niên và
không muốn giải tán Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Trong bối cảnh đó các
tổ chức cộng sản ở Việt Nam ra đời.
Đông Dương cộng sản Đảng ra đời ngày 17-6-1929, tại Hà Nội, do đại biểu các
tổ chức cộng sản ở miền bắc thành lập. An Nam cộng sản Đảng thành lập vào mùa
thu năm 1929, do các đại biểu trong hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Trung
Quốc và Nam Kỳ thành lập. Sự ra đời của hai tổ chức cộng sản trên làm cho nội bộ
Đảng Tân Việt phân hoá, những đảng viên tiên tiến của Tân Việt đứng ra thành lập
Đông Dương cộng sản liên đoàn.

Mặc dù đều giương cao ngọn cờ chống đế quốc, phong kiến, xây dựng chủ
nghĩa cộng sản ở Việt Nam, nhưng ba tổ chức cộng sản trên hoạt động phân tán,
chia rẽ đã ảnh hưởng xấu đến phong trào cách mạng ở Việt Nam lúc này. Vì vậy,
việc khắc phục sự chia rẽ, phân tán giữa các tổ chức cộng sản là yêu cầu cấp thiết
của cách mạng nước ta, là nhiệm vụ cấp bách trước mắt của tất cả những người
cộng sản Việt Nam.

Ngày 27-10-1929, Quốc tế Cộng sản gửi những người Cộng sản Đông Dương
tài liệu “Về việc thành lập một Đảng Cộng sản ở Đông Dương”, yêu cầu những
người cộng sản Đông Dương phải khắc phục ngay sự chia rẽ giữa các nhóm cộng
sản và thành lập một đảng của giai cấp vô sản. Nhận được tin về sự chia rẽ của
những người cộng sản ở Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc rời Xiêm đến Trung
Quốc. Người chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng, tại Hương Cảng, Trung Quốc. “ Với
tư cách là Phái viên của Quốc tế Cộng sản có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề
liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông Dương”, Người chủ động triệu tập “
đại biểu của hai nhóm (Đông Dương và An Nam)” và chủ trì Hội Nghị hợp nhất
đảng tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc).
Hội nghị bắt đầu họp từ ngày 6-1-1930. Thành phần Hội nghị hợp nhất gồm: 1
đại biểu của Quốc tế Cộng sản, 2 đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng, 2 đại
biểu An Nam Cộng sản Đảng. Hội nghị thảo luận đề nghị của Nguyễn Ái Quốc
gồm 5 điểm lớn, với nội dung:

1. Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các
nhóm cộng sản Đông Dương.
2. Định tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam
3. Thảo Chính cương và Điều lệ sơ lược của Đảng.
4. Định kế hoạch thực hiện việc thống nhất trong nước
5. Cử một Ban Trung ương lâm thời gồm chín người, trong đó có hai đại
biểu chi bộ cộng sản Trung Quốc ở Đông Dương.

Hội nghị nhất trí với Năm điểm lớn theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc và quyết
định hợp nhất các tổ chức cộng sản, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị
thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt,
Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo
ra.
Ngày 24-2-1930, theo yêu cầu của Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, Ban Chấp
hành Trung ương lâm thời họp và ra Nghị quyết chấp nhận Đông Dương Cộng sản
Liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Như vậy Đảng Cộng sản Việt Nam
đã hoàn tất việc hợp nhất ba tổ chức công sản ở Việt Nam
3.2. Người đã soạn thảo ra cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Các văn kiện được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
như: Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình
tóm tắt của Đảng hợp thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Cương lĩnh xác định các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam:

- Phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là : “tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
- Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng là đánh đổ
đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập.
Sau đó lập chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông. Về kinh tế thì
thủ tiêu hết các thứ quốc trái, tịch thu toàn bộ sản nghiệp của tư bản đế quốc Pháp
để giao cho Chính phủ công nông binh quản lý. Tịch thu toàn bộ ruộng đất của bọn
đế quốc chủ nghĩa chia cho dân nghèo, bãi bỏ các sưu thuế. Về văn hóa thì phổ
thông giáo dục theo công nông hóa, nam nữ bình đẳng,…
- Về lực lượng cách mạng : Lực lượng cách mạng là giai cấp công nhân và
nông dân nhưng bên cạnh đó cũng phải liên minh đoàn kết với tiểu tư sản, lợi dụng
hoặc trung lập phú nông, trung nông, tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam chưa rõ mặt
phản cách mạng.
- Về lãnh đạo cách mạng: Giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng
Việt Nam. Đảng là đội tiên phong cho giai cấp vô sản.
- Về quan hệ của cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới:
Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, phải thực hành liên
lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản
Pháp.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã xác định được những nội dung cơ
bản nhất của cách mạng Việt Nam. Sự đúng đắn của Cương lĩnh được khẳng định
qua thực tiễn đấu tranh cách mạng và xây dựng đất nước trong suốt 85 năm qua:

- Một là, Cương lĩnh xác định rõ nhiệm vụ, mục tiêu cơ bản của cách mạng tư
sản dân quyền (sau này gọi là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân) là chống đế
quốc, chống phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng. Xuất
phát từ chế độ thuộc địa nửa phong kiến, Cương lĩnh đã phân tích mối quan hệ gắn
bó giữa hai nhiệm vụ cơ bản là chống đế quốc và chống phong kiến gắn bó chặt
chẽ với nhau nhưng trước hết phải đánh đổ đế quốc, “làm cho nước Việt Nam hoàn
toàn độc lập”. Đây là cơ sở để giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng
con người. Chỉ có độc lập tự do của đất nước mới đủ điều kiện để thực hiện quyền
con người, quyền công dân.
- Hai là, chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc được xây dựng từ Cương lĩnh
chính trị đầu tiên là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt cách mạng Việt Nam trong cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến xây dựng đất nước theo định hướng XHCN
hiện nay. Tư tưởng này thể hiện rõ trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt
của Đảng về các lực lượng cách mạng. Những lực lượng như tiểu tư sản, trí thức,
trung, tiểu địa chủ đều được Đảng chủ trương tập hợp, đoàn kết lại trong lực lượng
cách mạng do công nông làm nòng cốt
- Chủ nghĩa yêu nước là nền tảng cơ sở cho sự thống nhất trong khác biệt
nhằm tập hợp lực lượng, tạo ra sức mạnh tổng hợp của một đất nước tiềm lực kinh
tế, quân sự không lớn, người không đông, lại phải đối mặt với các thế lực đế quốc
đầu sỏ. Hiện nay, khi tình hình Biển Đông không bình yên, chủ quyền biển, đảo
đang bị đe dọa, hơn bao giờ hết việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tranh thủ sức
mạnh quốc tế là yếu tố quyết định để bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ.
- Ba là, xác định rõ sứ mệnh lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cùng với
Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng, Hội nghị thông qua Điều lệ vắn
tắtvà Lời kêu gọinhân dịp thành lập Đảng. Các văn kiện này chỉ rõ: Đảng Cộng sản
Việt Nam là Đảng của giai cấp vô sản; Đảng được tổ chức ra để dìu dắt giai cấp vô
sản lãnh đạo quần chúng lao khổ đấu tranh giải phóng toàn thể anh chị em bị áp
bức, bóc lột “để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng
sản”.
Với cương lĩnh chính trị đúng đắn, ngay từ khi ra đời Đảng đã trở thành lực
lượng lãnh đạo, tập hợp xung quanh mình toàn thể dân tộc làm cách mạng. Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết
tha của đại đa số nhân dân ta là nông dân. Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được những
lực lượng cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của các
giai cấp khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng
ta - Đảng của giai cấp công nhân - không ngừng củng cố và tăng cường”. Dưới ánh
sáng soi đường của Cương lĩnh Đảng ta đã dẫn dắt toàn dân tộc vượt qua mọi khó
khăn, thử thách, thực hiện thắng lợi mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội
và đang trên đường xây dựng nước Việt Nam giàu, mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.
4. Liên hệ thực tiễn vai trò của Hồ Chí Minh đối với Đảng ta hôm nay
Dù Bác đã cách xa chúng ta 50 năm nhưng vai trò của Người đối với Đảng và
cuộc sống chúng ta hôm nay vẫn là rất lớn. Tư tưởng của Người không chỉ là kim
chỉ nam cho định hướng, chính sách của Đảng mà còn đóng góp giáo dục thế hệ
thanh thiếu niên hôm nay luôn kiên định với con đường xã hội chủ nghĩa mà
Người đã dày công vun đắp. Qua những gì đã chứng minh ở trên ta thấy được rằng
Người đóng vai trò rất lớn đối với việc thành lập Đảng. Trong những năm tháng
chiến tranh cũng chính là Người đã dìu dắt Đảng ta, nhân dân ta vượt qua những
khó khăn để dành được thắng lợi cuối cùng. Trong công cuộc đổi mới hôm nay,
chúng ta đã tiến hành nhiều cải cách nhiều thay đổi để phù hợp với yêu cầu khách
quan của thực tiễn. Thế nhưng vẫn luôn tuyệt đối trung thành theo con đường vô
sản mà Người đã chọn.
Bác là người đã đặt nền móng cho chủ nghĩa vô sản ở đất nước ta, và từ những
tư tưởng của Người đã được Đảng và nhân dân áp dụng sáng tạo trong công cuộc
công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước hôm nay. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đảng ta đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng trên tất cả các mặt : tư tưởng-lí
luận, chính trị tổ chức và cán bộ đạo đức.. làm cho Đảng trong sạch vững mạnh,đạt
tầm cao về đạo đức, trí tuệ bản lĩnh chính trị vững vàng trước mọi thử thách của
lịch sử.
- Về chính trị: có đường lối chính trị đúng đắn, bản lĩnh chính trị vững vàng
trong mọi tình huống phức tạp, một đường lối cứng rắn về chiến lược,mềm dẻo về
sách lược,linh hoạt về biện pháp đấu tranh.Đặc biệt trong tình hình chính trị thế
giới hiện nay, với những cuộc xung đột liên quan tới vũ khí hạt nhân thì Đảng ta
cần phải có một bản lĩnh vững vàng để bảo vệ đất nước. Hiện nay, Việt Nam đã
quyết định không cho nước ngoài thuê cảng Cam Ranh nữa, mà đã quyết định tự
mình xây dựng cảng Cam Ranh bằng nguồn lực của chính mình và sẽ sẵn sàng
cung cấp dịch vụ cho tàu hải quân tất cả các quốc gia. Đây là một đường lối đúng
đắn, chúng ta không nghiêng về phía cường quốc kinh tế nào nữa, mà sẽ tự dựa
vào sức mình để xây dựng cảng có vị trí tự nhiên tốt cũng như quân sự quan trong
này. Hơn nữa trong các cuộc tranh chấp của các nước, chủ trương của Đảng ta là
trung lập không theo phe phái nào. Tình hình thế giới hiện nay đang ngày càng
phức tạp, tranh chấp trên Biển Đông cũng đang xấu đi. Nhưng vẫn theo những
đường lối mềm dẻo mà Bác đã áp dụng khi nước ta vừa dành được độc lập năm
1945, chủ trương của Đảng vẫn là giải quyết các cuộc tranh chấp trên cơ sở các
cuộc đàm phán ngoại giao, thỏa hiệp. Tuy nhiên như thế cũng không phải là chúng
ta nhín nhường, chúng ta vẫn luôn cứng rắn bảo vệ chủ quyền đất nước ta, chuẩn bị
các vũ khí tối tân nhằm trường hợp xấu nhất có thể xảy ra. Tuân theo di nguyện
của Người, Đảng và nhân dân ta quyết tâm bảo vệ độc lập chủ quyền cho đất nước,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa trường tồn.
- Về tư tưởng: Sự đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh đã được chứng minh
qua những thắng lợi trong chiến tranh. Và giờ đây khi đất nước đang trong quá
trình hội nhập với thế giới, cuộc chiến về diễn biến hòa bình cũng thầm lặng và
cam go hơn hết. Trách nhiệm của Đảng không chỉ là duy trì những tinh hoa từ tư
tưởng của Người mà còn phải phát huy sáng tạo trước những điều kiện hoàn cảnh
mới. Bác đã thành lập và đặt nền móng cho chủ nghĩa xã hội ở đất nước ta, con
đường của Người đã giải phóng ách nô lệ cho đồng bào ta. Vì thế mỗi người dân
hôm nay phải phát huy tích cực hơn nữa xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp
phồn vinh và kiên định theo con đường chủ nghĩa xã hội mà bác đã chọn.
- Về đạo đức, lối sống: Khi còn sống Bác vẫn thường căn dặn mỗi cán bộ,
đảng viên phải coi trọng tu dưỡng đạo đức, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư.
Thế nhưng hiện nay những đức tính này dần dần đã bị suy thoái, và những hạn chế
này đã là giảm sút nghiêm trọng niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Bởi vẫn có
những người tham ô,lãng phí. Một số vụ gần đây như Vụ án Đinh La Thăng và
đồng phạm phạm tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây
hậu quả nghiêm trọng” và “Tham ô tài sản” xảy ra tại Tập đoàn Dầu khí Việt Nam
(PVN) năm 2018. Hay như vụ việc Vinashin đã làm thất thoát hơn 86.000 tỉ đồng
được xét xử năm 2014 được coi là vụ án kinh tế lớn nhất Việt Nam đến nay, hay
vụ
án PMU 18 mặc dù xảy ra đã lâu nhưng vẫn để lại hâu quả nghiêm trọng. Những
người đứng trong hàng ngũ của Đảng, giữ những chức vụ cao nhưng không nêu
gương đạo đức tốt mà còn tha hóa suy đồi là những điều cần được xem lại để có
những biện pháp ngăn chặn và đẩy lùi. Tuy nhiên,chúng ta cũng đã đạt được nhiều
thành tựu trong công tác xây dựng Đảng cầm quyền. Được chiếu rọi bởi ánh sáng
tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng quyết tâm xây dựng và chỉnh đốn về mọi mặt một
cách thiết thực,đáp ứng nhu cầu phát triển của giai cấp và dân tộc là quy luật tồn
tại sống còn của Đảng.Chính trên ý nghĩa quan trong đó,việc tiếp tục đẩy mạnh
nghiên cứu,tuyên truyền,giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng và xây dựng
Đảng trong sạch vững mạnh phải được quán triệt đến từng tổ chức cơ sở Đảng,
từng cán bộ, đảng viên.

You might also like