Professional Documents
Culture Documents
SHPT
SHPT
Nếu một ai đó cần xác định quan hệ huyết thống về một mối quan hệ nào đó cũng là một nhu cầu
chính đáng nhằm giải tỏa tâm lý, giải quyết vấn đề liên quan đến quan hệ gia đình hoặc pháp lý.
Theo thống kê, tại nước Mỹ có đến 40,3% phụ nữ sinh con mà không biết chính xác được
cha đẻ của đứa trẻ là ai, do đó nhu cầu cần xét nghiệm là rất lớn. Báo cáo thường niên của Hiệp
hội ngân hàng máu quốc gia Mỹ (AABB) năm 2013 đã tiến hành xét nghiệm 371719 ca DNA
huyết thống.
Tại Việt Nam, xét nghiệm DNA đã có từ giữa những năm 90 trở lại đây, theo đó các cơ quan
công lập và ngoài công lập đều triển khai lĩnh vực xét nghiệm này. Điều này cho thấy nhu cầu
cũng không phải là ít. Để giúp cho khách hàng khi nhận được bản kết quả xét nghiệm hiểu kỹ
thêm những thông tin được ghi trong bản kết quả, những thông tin sau đây sẽ được giải thích
thêm dựa trên các quy chuẩn quốc tế mà mỗi phòng xét nghiệm đều phải tuân thủ.
Khi đã xác định được kiểu gen của cha (mẹ) và con thấy có sự cho nhận đầy đủ các đặc điểm
(alen) trong bộ kit phân tích giữa các mẫu thì các chỉ số sau đây cần được phân tích:
PI (Paternity Index) là chỉ số quan hệ cha con hay MI (Maternity Index) là chỉ số quan
hệ mẹ con. Chỉ số này được tính cho từng locus STR theo một công thức riêng tùy
thuộc vào sự cho nhận alen giữa cha và con hoặc mẹ và con. Chỉ số PI (MI) là tỷ lệ của
2 xác suất với tử số là xác suất giả định rằng thực sự có quan hệ huyết thống giữa
người đàn ông (phụ nữ) và đứa trẻ; còn mẫu số được giả định trường hợp một người
đàn ông (phụ nữ) ngẫu nhiên nào đó trong cùng chủng tộc có thể là cha đẻ (mẹ đẻ) của
đứa trẻ đó. Như vậy PI (MI) thực chất cũng là tỷ lệ tương đồng LR của 2 giả thuyết
cạnh tranh. Tỷ lệ này phản ánh giả thuyết khả năng có quan hệ huyết thống xảy ra gấp
bao nhiêu lần so với giả thuyết còn lại.
CPI (Combined Paternity Index) hoặc CMI (Combined Maternity Index) là tích của
các PI hoặc MI của các locus STR trong bộ kit sử dụng. Chỉ số CPI (CMI) càng cao thì
giá trị chứng cứ càng mạnh, tức càng tiệm cận đến giá trị tuyệt đối (xét về phương diện
xác suất). Thực chất người cha (mẹ) đẻ chỉ có 1 người.
W (Probability of Paternity) được hiểu xác suất là cha đẻ; chữ W có nguồn gốc từ tiếng
Đức (Wharscheinlichkeit) có nghĩa là thật, đúng được học giả người Đức Essen Mӧller
sử dụng đầu tiên và cho đến ngày nay. Từ giá trị CPI (CMI) sẽ suy ra được giá trị W là
xác suất của mối quan hệ huyết thống hay cũng có thể gọi là độ tin cậy của mối quan
hệ thống. Việc tính toán giá trị W dựa trên định lý Bayes. Vậy xác suất bao nhiêu được
coi là có giá trị. Theo một số học giả giá trị W˃99% là đạt yêu cầu. Tuy nhiên nhiều
phòng thí nghiệm DNA và các viện nghiên cứu cho rằng giá trị W cần đạt từ 99,9% trở
lên để bảo đảm độ mạnh của chứng cứ (Strong Evidence).
Bởi vậy, khi khách hàng có bản kết quả xét nghiệm DNA sẽ thấy các thông tin được ghi đầy đủ
như đã trình bày ở trên và đó chính mới là bản kết quả có ý nghĩa về mặt khoa học cũng như tính
pháp lý.
3. Kết quả xét nghiệm DNA có xảy ra sai sót không?
Ngoại trừ nguyên nhân chủ quan (có tình kết luận sai hoặc làm giả kết quả), có thể khẳng định
rằng có xảy ra sai sót. Sự sai sót này đã từng xảy ra tại các phòng xét nghiệm DNA trên thế giới
và Việt Nam không phải là ngoại lệ.
Nguyên nhân có nhiều, nhưng tại thời kỳ đầu phát triển của lĩnh vực xét nghiệm này là do hạn
chế bởi công nghệ và kỹ thuật xét nghiệm. Về sau do sự phát triển của khoa học công nghệ cùng
sự ra đời của các thiết bị và các bộ kit xét nghiệm đã hạn chế rất nhiều các sai sót. Tuy nhiên, sự
sai sót không phải là không có. Lý do:
Người làm xét nghiệm không có những kiến thức chuyên ngành cơ bản;
Không đủ năng lực để đánh giá, phân tích, biện luận kết quả mặc dù có đủ trang thiết bị
và các bộ sinh phẩm cần thiết.
Bởi vậy, lời khuyên cho khách hàng khi có nhu cầu cần xét nghiệm DNA thì hãy tìm đến các địa
chỉ tin cậy, có đủ năng lực, kinh nghiệm và có các chuyên gia về lĩnh vực xét nghiệm DNA.