Professional Documents
Culture Documents
Net Moi Trong Cam Nhan Ve Dat Nuoc Cua Nguyen Khoa Diem
Net Moi Trong Cam Nhan Ve Dat Nuoc Cua Nguyen Khoa Diem
Net Moi Trong Cam Nhan Ve Dat Nuoc Cua Nguyen Khoa Diem
- Giọng thơ thủ thỉ tâm sự, ngọt ngào bộc lộ những cảm xúc chân thành, thiết tha phối hợp
với cách sử dụng chất liệu văn hóa dân gian nhuần nhuyễn, sáng tạo đã làm cho bài thơ trở thành
tác phẩm viết về đề tài đất nước tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại.
Dàn ý phân tích nét mới trong cảm nhận về Đất nước
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Nguyễn Khoa Điềm, đoạn thơ Đất nước và nêu vấn đề cần nghị luận (nét
mới trong cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm).
2. Thân bài
a. Nguồn gốc của Đất nước
Đất nước bắt nguồn từ những điều bình dị, gần gũi trong đời sống của người Việt Nam từ
xa xưa: câu chuyện cổ tích “ngày xửa ngày xưa”, tục ăn trầu của người Việt và truyện cổ tích trầu
cau, thói quen búi tóc của những người phụ nữ Việt Nam, thói quen tâm lí, truyền thống yêu
thương của dân tộc. → Văn hóa dân gian đặc trưng của đất nước. Đất nước trưởng thành cùng
quá trình lao động sản xuất “cái kèo cái cột thành tên”, “một nắng hai sương”, quá trình đấu tranh
chống giặc ngoại xâm.
→ Tác giả có cái nhìn mới mẻ về cội nguồn đất nước, đất nước bắt nguồn từ chiều sâu
văn hóa, văn học, lịch sử và truyền thống dân tộc.
b. Định nghĩa Đất nước
“Anh đến trường, em tắm, hò hẹn”: Đất Nước là không gian sinh hoạt gần gũi của đời sống
gắn với tình yêu nơi hò hẹn của đôi lứa.
“Nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”: những lời tâm tình, thủ thỉ của tình yêu,
không gian giàu tình cảm, gợi những câu ca dao yêu thương về nỗi nhớ.
→ Cách định nghĩa độc đáo về Đất Nước: Hình thức điệp và lí giải bằng hai yếu tố Đất và
Nước, thể hiện sự cảm nhận Đất Nước thống nhất trên các phương diện địa lí - lịch sử.
c. Cách cảm nhận Đất nước
Thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông, Chim về, Rồng ở, giỗ Tổ, “ai đã khuất, bây
giờ, yêu nhau, sinh con, dặn dò”: Đất Nước là không gian sinh tồn của biết bao thế hệ, quá khứ
cha ông, hiện tại mỗi chúng ta và tương lai con cháu sau này.
→ Đất Nước được cảm nhận trên bề rộng của không gian địa lí, bề dài của lịch sử, bề dày
của truyền thống văn hóa, Đất Nước được cảm nhận thống nhất giữa cái hằng ngày với cái muôn
đời trong cuộc sống cộng đồng, sự hòa quyện không thể tách rời giữa nhân dân và cộng đồng.
d. Ý thức trách nhiệm đối với Đất nước
Đất Nước có trong máu thịt mỗi con người, sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung, cá
nhân với cộng đồng dân tộc, giữa các thế hệ với nhau, mối quan hệ hữu cơ không thể tách rời. →
Mỗi chúng ta phải có trách nhiệm với đất nước.
“Cầm tay mọi người, vẹn tròn to lớn”: truyền thống yêu thương, đoàn kết, thân ái của
những người Việt Nam tạo thành sức mạnh vô địch.
“Con mang đất nước đi xa, tháng ngày mơ mộng”: thế hệ tương lai phải có trách nhiệm
đưa Đất Nước ngày càng phát triển, đi xa hơn nữa.
“Máu xương, gắn bó san sẻ, hóa thân cho dáng hình xứ sở, muôn đời”: khẳng định Đất
Nước từ trong máu thịt, là máu thịt của mỗi cá nhân do đó mỗi chúng ta phải có trách nhiệm và
nghĩa vụ đối với Đất Nước.
→ Mỗi con người không phải chỉ sở hữu riêng của cá nhân người đó mà còn là của chung
của đất nước. Bởi mỗi người đều được thừa hưởng những di sản văn hóa, tinh thần của đất
nước và được nuôi dưỡng trưởng thành trong di sản đó. Vì vậy mỗi người đều phải có trách
nhiệm giữ gìn, bảo vệ, phát huy nền văn hóa ấy.
tinh thần Đất nước, thấm đẫm cội nguồn lịch sử dân tộc. Nền văn minh dân tộc cùng những
phong tục tập quán lâu đời cũng được lưu giữ trong từng dòng “Đất Nước”.
Một nét mới đặc sắc của tác giả chính là giọng thơ suy tư. Đoạn thơ mở đầu được xem
như câu trả lời cho từng câu hỏi ẩn hiện xuyên suốt mạch thơ: Đất nước có từ bao giờ? Đất nước
trưởng thành ra sao?… Cách nhìn nhận về Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm được xây dựng
tương tự như hành trình cuộc đời của một con người.
Tiếp nối cho mạch thơ chính luận trữ tình bằng câu hỏi: Đất nước là gì? Đó là sự cảm
nhận về đất nước trong sự thống nhất hài hoà các phương diện địa lí và lịch sử không gian và
thời gian. Bản thân Nguyễn Đình Thi xuất thân từ một thế hệ trí thức trẻ nói về hình tượng đất
nước đâu phải dễ dàng. Có lẽ vì thế tác giả chia tách ý niệm đất nước thành 2 yếu tố đất và nước
để cảm nhận và suy tư sâu hơn không dừng lại ở bình diện khái niệm mà ở một bình diện khác
sâu hơn thể hiện một cái nhìn về hình tượng đất nước thiêng liêng bằng quan niệm mới của tuổi
trẻ nên vừa mang tính cá thể vừa hết sức táo bạo: Đất là nơi anh đến trường / Nước là nơi em
tắm / Đất Nước là nơi hai ta hò hẹn / Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ
thầm…
Đất nước – không gian kỳ diệu của tình yêu, của bao thế hệ đã đi qua hướng mãi suy tư
của ta tới cội nguồn, tới : Những ai đã khuất. Những ai bây giờ. Yêu nhau và sinh con đẻ cái.
Gánh vác phần người đi trước để lại. Dặn dò con cháu chuyện mai sau…
Chính không gian tình yêu ấy, theo dòng suy cảm tác giả mở rộng các chiều kích không
gian, để hướng tới cái nhìn toàn vẹn và nhiều chiều về đất nước trong chiều dài của lịch sử và
chiều rộng địa lí, chiều sâu văn hoá-phong tục dân tộc… Chính điều đó khiến mạch thơ hướng
vào những suy ngẫm về trách nhiệm của thế hệ mình, một thế hệ tự ý thức về bổn phận của
chính mình với đất nước :
Em ơi, Đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…
Đây là những lời tâm sự nhiều hơn là kêu gọi, giáo huấn. Vì thế, sức truyền cảm của ý thơ
vẫn rất mạnh.
Với cách dùng cụm từ “em ơi em”, thay vì lời kêu gọi, giáo huấn thì ngược lại cách xưng
hô khiến ý thơ chuyển hóa linh hoạt, nhẹ nhàng thành một lời dặn dò, tâm sự. Ta phải hiểu được
sự xuất sắc và cái tài Nguyễn Khoa Điềm chính là tứ thơ rất tâm lí, đánh động vào tim người đọc,
khi con tim lên tiếng thì mọi điều chỉ là lúc ta cần làm theo lời trái tim mà thôi.
Nét mới trong cách nhìn nhận đặc sắc nhất làm nên làm nên sự khác biệt của “Đất Nước”
so với các tác phẩm cùng đề tài là quan niệm “Đất Nước của Nhân dân”. Như cách mà nhà thơ
Chế Lan Viên viết “Tổ quốc tôi bao giờ đẹp thế này chăng?” điểm nhìn Đất nước xuất phát qua bề
dày lịch sử oai hùng.
“Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sông Bạch Đằng”
Còn với Nguyễn Khoa Điềm tư tưởng cốt lõi Đất nước của nhân dân ngay cả ở phần sau
việc triển khai trên hai hướng vừa khơi sâu vừa phát hiện nhiều ý nghĩa mới. Những phát hiện thú
vị và độc đáo của tác giả về đất nước trên các phương diện : địa lí, văn hoá, phong tục…muôn
vàn những vẻ đẹp, theo tác giả, đều là kết tinh của bao công sức và khát vọng của nhân dân, của
những người bình thường, vô danh. Đây là lí do vì sao khi nói về bốn nghìn năm lịch sử của đất
nước, nhà thơ không điểm tên các triều đại cùng bao nhân vật anh hùng trong sử sách mà nhấn
mạnh đến lớp lớp những người vô danh:
Có biết bao người con gái con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước…
Nguyễn Khoa Điềm không nhắc đến những tên tuổi vang dội hay những thắng lợi lịch sử
tất cả mạch thơ xuyên suốt ấy là những con người, nhân dân bé nhỏ “không ai nhớ mặt đặt tên”
nhưng lại là những người “làm ra Đất Nước”.
Tất cả những vẻ đẹp của Đất nước được tác giả khai thác ở đoạn cuối trên mọi phương
diện từ văn hóa, lịch sử, địa lí đó là những tinh hoa của dân tộc với bí bao công sức, khát vọng
của nhân dân, từ nhân dân sinh sôi, phát triển. Ông nhấn mạnh lớp người vô danh “đã sống và
chết/ Giản dị và bình tâm”. Cuối cùng, cốt lõi của cả đoạn trích được tác giả một lần nữa nếu rõ và
khẳng định
“Để Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
Điểm nhìn của sự giàu suy tư, tư tưởng đất nước của nhân dân, do nhân dân làm ra luôn
được tô đậm và trở thành cảm hứng chủ đạo. Tất cả được biểu đạt bằng một giọng thơ trữ tình –
chính luận sâu lắng, thiết tha. Nghệ thuật sử dụng nhuần nhị và sáng tạo các chất liệu văn hoá và
văn học dân gian đem vào câu thơ hiện đại tăng thêm sức hấp dẫn của đoạn thơ.
Nét mới trong cảm nhận về Đất nước - Mẫu 2
Đất nước chính là nguồn cảm hứng vô tận của thi ca, của tâm hồn người nghệ. Từ xa
xưa, ta bắt gặp hình ảnh đất nước trong những cánh cò trắng trên cánh đồng làng vào những
chiều quê yên ả. Rồi ta bắt gặp đất nước “lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa”, trong thơ Chế
Lan Viên, một đất nước “rũ bùn đứng dậy sáng lòa", đất nước của những mùa thu xưa và nay
trong thơ Nguyễn Đình Thi. Và khi đọc Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm ta lại gặp
hình ảnh “đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại” ở toàn bộ chương Đất nước
của bản trường ca này.
Hình ảnh “đất nước của nhân dân, của ca dao thần thoại” được tác giả thể hiện bằng hình
thức thơ trữ tình, chính luận. Đậm đà cảm xúc mà cũng giàu chất triết lý sâu xa, vừa đem đến cho
người đọc những cảm nhận mới mẻ về đất nước vừa giúp mỗi người yêu hơn , thương hơn đất
nước mình.
Theo Nguyễn Khoa Điềm, đất nước không là của riêng ai mà là của toàn nhân dân. Hàng
triệu người vô danh từ thế hệ này sang thế hệ khác đã đổ mồ hôi và xương máu để bảo vệ và xây
dựng đất nước.
Có biết bao người con gái, con trai,
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết.
Giản dị và bình tâm,
Không ai nhớ mặt đặt tên,
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.
Trong suốt bốn nghìn năm dựng nước, nhân dần ta đã chiến đấu, lao động tạo nên bộ mặt
lãnh thổ, nền văn hoá dân tộc, những mối quan hệ gia đình, làng xóm, tổ tiên, quan hệ với thiên
nhiên, lịch sử...
Đất nước được coi là phần hay nhất của trường ca Mặt đường khát vọng . Nó tạo nên
những tình cảm tha thiết sâu lắng, những ngân rung trong lòng người đọc. Bài thơ còn tạo nên
một tượng đài về Tổ quốc Việt Nam bằng thơ, tượng đài ấy vĩnh hằng qua thời gian, năm tháng
và trong lòng mỗi người dân Việt Nam yêu đất nước mình.
Nét mới trong cảm nhận về Đất nước - Mẫu 3
Đất nước luôn là tiếng gọi thiêng liêng muôn thuở, muôn nơi và của triệu trái tim con
người. Đất nước đi vào đời chúng ta qua những lời ru ngọt ngào êm dịu, qua những làn điệu dân
ca mượt mà và những vần thơ sâu lắng, thiết tha và rất đỗi tự hào của bao lớp thi nhân. Ta bắt
gặp một hình tượng đất nước đau thương nhưng vẫn ngời lên ý chí đấu tranh trong trang thơ
Nguyễn Đình Thi đồng thời cũng rất dịu dàng ý tứ trong thơ Hoàng Cầm.
Nhưng với Nguyễn Khoa Điềm, ta bắt gặp một cái nhìn toàn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình
diện khác nhau về một đất nước của nhân dân. Tư tưởng ấy đã quy tụ mọi cách nhìn và cảm
nhận của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước. Thông qua những vần thơ kết hợp giữa cảm xúc và
suy nghĩ, trữ tình và chính luận, nhà thơ muốn thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình cảm với
nhân dân, đất nước của thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm chống Mỹ cứu nước.
Mở đầu đoạn trích là giọng thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ như những lời tâm tình kết hợp với hình
ảnh thơ bình dị gần gũi đưa ta trở về với cội nguồn đất nước:
“Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần gũi,
thân thiết ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người. Đất nước hiện hình trong câu
chuyện cổ tích ngày xửa ngày xưa mẹ kể, trong miếng trầu của bà, cây tre trước ngõ… gợi lên
một đất nước Việt Nam bao dung hiền hậu, thủy chung và sắt son tình nghĩa anh em, nhưng cũng
vô cùng quyết liệt khi chống quân xâm lược. Mỗi quả cau, miếng trầu, cây tre đều gợi về một vẻ
đẹp tinh thần đất nước, đều thấm đẫm ngọn nguồn lịch sử dân tộc.
Đất nước còn là hiện thân của những phong tục tập quán ngàn đời, minh chứng của một
dân tộc giàu truyền thống văn hóa, giàu tình yêu thương gắn bó với mái ấm gia đình. Cha mẹ
thương nhau bằng gừng cay muối mặn. Một chân lí tự nhiên: Gừng tất nhiên là cay, muối tất
nhiên sẽ mặn. Tình yêu cha mẹ mãi mãi mặn nồng như chính chân lí tự nhiên kia. Hình ảnh thơ
khiến ta rưng rưng nhớ về một lời nhắc nhở thiết tha về tình nghĩa của một ai đó hôm nào:
“Tay bưng dĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Đất nước còn là thành quả của công cuộc lao động vất vả để sinh tồn, để dựng xây nhà
cửa:
“Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó”
Ở đây Đất nước không còn là một khái niệm trừu tượng nữa mà cụ thể, quen thuộc và
giản dị biết bao. Việc tác giả sử dụng những chất liệu dân gian để thể hiện suy tưởng của mình về
đất nước với quan niệm “Đất nước của nhân dân”.
Vẫn bằng lời trò chuyện tâm tình với mỗi nhân vật đối thoại tưởng tượng, Nguyễn Khoa
Điềm đã diễn giải khái niệm đất nước theo kiểu riêng của mình:
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
con người đều thừa hưởng ít nhiều di sản văn hóa vật chất và tinh thần của đất nước, phải giữ
gìn và bảo vệ để làm nên đất nước muôn đời.
Từ những quan niệm như vậy về đất nước, phần sau của tác phẩm tác giả tập trung làm
nổi bật tư tưởng: Đất nước của nhân dân, chính Nhân dân là người đã sáng tạo ra Đất nước.
Tư tưởng đó đã dẫn đến một cái nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lí, về những danh lam
thắng cảnh trên khắp mọi miền đất nước. Những núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, những núi Bút
non Nghiên… không còn là những cảnh thú thiên nhiên nữa mà được cảm nhận thông qua những
cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân, sự hóa
thân của những con người không tên tuổi: “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất nước
những núi Vọng Phu”, “Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái”, “Người học trò thắng
cảnh”... Ở đây cảnh vật thiên nhiên qua cách nhìn của Nguyễn Khoa Điềm, hiện lên như một phần
tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước, đã đặt tên, đã ghi
dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông. Từ những hình ảnh, những cảnh vật, những
hiện tượng cụ thể, nhà thơ quy nạp thành một khái quát sâu sắc:
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi! Đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”
Tư tưởng Đất nước của nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử
bốn nghìn năm của đất nước. Nhà thơ không ca ngợi các triều đại, không nói đến những anh
hùng được sử sách lưu danh mà chỉ tập trung nói đến những con người vô danh, bình thường,
bình dị. Đất nước trước hết là của nhân dân, của những con người vô danh:
“Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất nước”
Họ lao động và chống giặc ngoại xâm, họ đã giữ và truyền lại cho các thế hệ mai sau các
giá trị văn hóa, văn minh, tinh thần và vật chất của đất nước từ hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, tên xã,
tên làng đến những truyện thần thoại, câu tục ngữ, ca dao. Mạch cảm xúc lắng tụ lại để cuối cùng
dẫn tới cao trào, làm nổi bật lên tư tưởng cốt lõi của cả bài thơ vừa bất ngờ, vừa giản dị và độc
đáo:
“Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
Một định nghĩa giản dị, bất ngờ về Đất nước. Đất nước của ca dao thần thoại nhưng vẫn
thể hiện những phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, của dân tộc: Thật đắm
say trong tình yêu, biết quý trọng tình nghĩa và cũng thật quyết liệt trong đấu tranh chống giặc
ngoại xâm.
Những câu thơ khép lại tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của cảnh sắc quê hương với một tâm
hồn lạc quan phơi phới. Tất cả ào ạt tuôn chảy trong tâm trí người đọc những tí tách reo vui…
Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm thành công cho mảng thơ viết về đất nước.
Từ những cảm nhận mang tính gần gũi, quen thuộc, đất nước không còn xa lạ, trừu tượng mà trở
nên thân thiết nhưng vẫn rất thiêng liêng. Đọc Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, ta không chỉ tìm
về cội nguồn dân tộc mà còn khơi dậy tinh thần dân tộc trong mỗi con người Việt Nam trong mọi
thời đại.
Nét mới trong cảm nhận về Đất nước - Mẫu 4
Có một lần trong buổi gặp trực tiếp với dân chúng Nga, tổng thống Nga Vladimir
Vladimirovich Putin đã đọc những vần thơ hết sức cảm động và thiết tha của nhà thơ làng quê
Sergei Aleksandrovich Yesenin để diễn tả lòng yêu nước sâu sắc của mình:
“Ôi nếu như thiên thần lên tiếng gọi
Bỏ nước Nga lên sống ở thiên đường!
Tôi sẽ đáp: Thiên đường xin để đấy
Cho tôi xin ở cùng Tổ quốc yêu thương”
Tình cảm đối với đất nước, đối với nhân dân cũng là một trong những nguồn cảm hứng
bất tận trong thơ ca Việt Nam, đặc biệt là trong các sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm. Cũng với
những tình cảm dành cho tổ quốc, con người Việt Nam, nhưng ta lại nhận thấy rằng trong thơ ông
nổi lên những nét mới lạ và cảm nhận riêng rất độc đáo. Trong Trường ca “Mặt đường khát vọng”
với đoạn thơ “Đất Nước”, Nguyễn Khoa Điềm đã đưa chúng ta đến với những khám phá cực kỳ
mới mẻ về đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại đồng thời bộc lộ tình cảm
thắm thiết sâu nặng của mình đối với đất nước, nhân dân.
Đất nước là một trong những nguồn cảm hứng chung của nhiều nhà thơ nhà văn, ta đã
từng biết đến một đất nước thon thả giọt đàn bầu trong sáng tác của nhà thơ Tạ Hữu Yên, một
đất nước hình tia chớp trong thơ Trần Mạnh Hảo, hoặc cũng có thể là một đất nước nhìn từ xa,
nhìn từ biển của Nguyễn Việt Chiến... Còn với riêng Nguyễn Khoa Điềm, ông lại có những cảm
nhận mới khi tập trung vào quá trình hình thành, lớn lên và tồn tại của đất nước. Có thể nói
Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ đầu tiên và cũng là nhà thơ duy nhất trầm tư suy nghĩ và nói về
thời điểm ra đời của đất nước, với những dòng thơ mở đầu đầy suy tư:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa..." mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Từ "ta" ở đây vừa là lời tự xưng của nhà thơ, vừa có ý nghĩa đại diện cho cả một thế hệ
trong đó có cả "anh" và "em" cho nên trong quan niệm của tác giả đất nước có trước khi mỗi con
người, mỗi thế hệ lớn lên, đó là một đất nước có từ ngàn xưa từ rất lâu đời. Cũng trong mạch
cảm hứng ấy tác giả còn nhận ra rằng đất nước bắt đầu từ "miếng trầu bây giờ bà ăn", khéo léo
gợi lại một trong những tập tục nổi tiếng của người Việt xưa ấy là tục ăn trầu nhuộm răng, thờ
cúng, lễ lộc bằng trầu cau. Cũng có nghĩa là một đất nước được hình thành từ trước khi dân ta
biết đến tục ăn trầu, khi dân ta biết yêu nhau, gắn bó cùng nhau, miếng trầu bà ăn cũng có đến
hàng nghìn năm tuổi, cùng tuổi với đất nước.
Cũng trong mạch cảm xúc về thời điểm ra đời của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng
định:
“Tóc mẹ thì bới sau đầu
……….Đất Nước có từ ngày đó…”
Nguyễn Khoa Điềm lại tiếp tục khéo léo gợi lại những tập tục đặc trưng của dân tộc ta, phụ
nữ Việt Nam xưa vẫn ưa thích kiểu búi tóc thành búi thấp sau gáy rồi dùng trâm, dùng lược cố
định. Lời thơ cũng làm sống lại cái tình cảm vợ chồng thủy chung son sắt của cha, của mẹ cũng
như của biết bao đôi lứa trên đất nước này, đó là tình cảm sâu sắc biểu trưng bằng hình ảnh
"gừng cay muối mặn" xuất phát trong ca dao Việt Nam xưa. Rồi "Cái kèo cái cột thành tên" lại là
một tập tục độc đáo tâm linh của người Việt mà ở đó, họ đặt cho con cái mình những cái tên sao
cho thật xấu, thật tầm thường, dung dị mà gần gũi, phòng tránh cho khỏi bị ma quỷ, thần thánh để
ý mà bắt mất con, từ đó ta cũng thấy được tình cảm thiêng liêng sâu sắc của cha mẹ dành cho
những đứa con bé bỏng, những con người sẽ xây dựng đất nước mai sau. Câu thơ: "Hạt gạo
phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng" đã thể hiện sự thấu hiểu sâu sắc của tác giả về đời
sống vật chất của người Việt, gợi nhắc về nền văn minh lúa nước đã gắn bó với con người từ
thuở các vua Hùng dựng nước, để làm ra hạt gạo nhỏ bé con người đã phải bỏ ra biết bao công
sức, mới được thứ gạo sạch thơm trắng ngần. Và cũng tương tự như miếng trầu, hạt thóc, hạt lúa
cũng có cùng tuổi với đất nước, sánh vai đi cùng với đất nước, làm nên đất nước và con người
Việt Nam đã hàng ngàn năm nay. Đất nước có từ khi nhân dân ta biết đến tục ăn trầu, phụ nữ ta
biết búi tóc sau đầu, con người biết yêu thương nhau thủy chung tình nghĩa, biết đặt tên con là
"cái kèo", "cái cột", rồi biết làm ra hạt gạo để nuôi sống chính mình. Tất cả những định nghĩa trên
đều cho thấy một điều rõ ràng Nguyễn Khoa Điềm đang cố gắng xóa mờ đi cái khái niệm thời gian
lịch sử cụ thể, từ đó gợi lên một hình tượng đất nước có từ rất xa xưa, từ rất lâu đời.
Không chỉ dừng lại ở những phát hiện về thời gian ra đời của đất nước mà Nguyễn Khoa
Điềm còn có những cảm nhận tinh tế về phạm vi tồn tại của đất nước, điều này được nhà thơ
khẳng định một cách trực tiếp trong dòng thơ thứ hai của tác phẩm "Đất Nước có trong những cái
"ngày xửa ngày xưa..." mẹ thường hay kể". Lời thơ đã gợi ra một không khí đất nước trong những
câu chuyện cổ đặc biệt là truyện cổ tích, những câu chuyện vốn rất thân quen và gần gũi đối với
mỗi con người ngay từ thuở ấu thơ, từ trong những lời kể thiết tha, ngọt ngào của mẹ. Có thể thấy
rằng cách cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm khác hẳn cách cảm nhận về đất nước
của Lý Thường Kiệt trong Nam Quốc Sơn Hà là đất nước tồn tại trong sách trời, rất thiêng liêng
rất cao cả, rất thần bí. Với ông đất nước tồn tại và gắn bó mật thiết với con người từ trong những
gì gần gũi thân thuộc nhất, câu chuyện mẹ kể, miếng trầu bà ăn, hạt gạo ta trồng, từ trong những
cái tên của con người, đất nước không phải là khái niệm mơ hồ, bí ẩn mà nó mang một vẻ gần
gũi, thiết tha hòa mình với con người, với cuộc sống của nhân dân ta từ bao đời nay. Điều đó
càng được tác giả khẳng định trong những câu thơ sau:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn”
Đất nước có trong anh, trong em, trong mỗi người nên khi chúng ta yêu thương nhau đất
nước sẽ trở nên hài hòa nồng thắm, còn khi chúng ta đồng lòng chung sức thì đất nước sẽ vẹn
toàn to lớn. Trong cảm nhận của tác giả đất nước không chỉ là bầu không gian sống của mỗi con
người mà đất nước còn tồn tại hiện diện ngay trong bản thân của mỗi cá nhân "Đất Nước là máu
xương của mình".
Nguyễn Khoa Điềm nói về quá trình lớn lên của đất nước chỉ trong một câu thơ rất sâu sắc
"Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc". Đối với tác giả chính quá trình đấu
tranh bền bỉ, kiên cường đấu tranh chống giặc ngoại xâm đã giúp cho đất nước trưởng thành
vững chãi hơn. Câu thơ gợi nhớ lại truyền thuyết Thánh Gióng cổ xưa, người anh hùng nhổ tre
làm vũ khí diệt giặc, và trong những lần kháng chiến chống giặc ngoại xâm sau này, tre xanh luôn
có những vai trò nhất định trong kháng chiến, trở thành biểu tượng cho một dân tộc, một đất nước
kiêu hùng, mạnh mẽ quật cường như loài tre xanh, với sức sống tiềm tàng mãnh liệt.
Bên cạnh việc khám phá quá trình ra đời, hình thành và tồn tại của đất nước, Nguyễn
Khoa Điềm còn có những định nghĩa sâu sắc, độc đáo về đất nước. Thứ nhất, đất nước là sự
thống nhất của ba phương diện chiều rộng không gian địa lý, bề dày thời gian lịch sử và chiều sâu
văn hóa:
“Đất là nơi anh đến trường
Đất nước ở trong cái "ngày xửa ngày xưa" mẹ thường hay kể.
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Đất nước thực ra rất thân thuộc, gần gũi. Có thể cảm nhận được về đất nước qua những
gì hết sức đơn sơ: câu chuyện cổ tích mẹ kể, miếng trầu của bà, ngôi nhà mình ở, hạt gạo ta ăn...
Giọng thơ suy tư thường vẫn hay đặt ra các câu hỏi và tự trả lời. Đoạn thơ mở đầu cũng
có thể được coi là những câu trả lời cho câu hỏi: Đất nước có từ bao giờ? Và lịch sử lâu đời của
đất nước ta được cắt nghĩa không bằng sự nối tiếp của các triều đại hay các sự kiện lịch sử mà
bằng những câu thơ gợi nhớ đến các truyền thuyết xa xưa: truyện Trầu cau, truyền thuyết Thánh
Gióng, nền văn minh sông Hồng cùng những phong tục, tập quán riêng biệt có từ lâu đời... đó
chính là đất nước được cảm nhận ở chiều sâu của văn hoá và lịch sử.
Tiếp theo, trong mạch thơ chính luận - trữ tình, là câu trả lời cho câu hỏi: Đất nước là gì?
Đó là sự cảm nhận về đất nước trong sự thống nhất, hài hoà các phương diện địa lí và lịch sử,
không gian và thời gian. Xuất thân từ một thế hệ trí thức trẻ mà những tri thức văn hoá được
trang bị còn tươi rói, tác giả chia tách ý niệm đất nước thành hai yếu tố đất và nước để cảm nhận
và suy tư sâu hơn không dừng lại ở bình diện khái niệm mà ở một bình diện khác sâu hơn, thể
hiện một cái nhìn về hình tượng đất nước thiêng liêng bằng quan niệm mới của tuổi trẻ nên vừa
mang tính cá thể vừa hết sức táo bạo:
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi hai ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm…”
Trong mắt của người trẻ tuổi, đất nước này là cái cõi đầy thơ mộng với bao kỷ niệm dịu
ngọt của tình yêu. Đất nước, cái không gian tuyệt diệu của tình yêu không chỉ của thế hệ hiện tại
mà còn là của bao thế hệ đã đi qua hướng mãi suy tư của ta tới cội nguồn, tới: “Những ai đã
khuất/Những ai bây giờ/Yêu nhau và sinh con đẻ cái/Gánh vác phần người đi trước để lại/Dặn dò
con cháu chuyện mai sau…” Cái không gian của tình yêu ấy, theo dòng suy cảm của tác giả mà
mở rộng các chiều kích, rồi hướng tới một cái nhìn toàn vẹn và nhiều chiều về đất nước trong
chiều dài của lịch sử và chiều rộng của địa lý, chiều sâu của văn hoá và phong tục… Từ đó, mạch
thơ hướng vào những suy ngẫm về trách nhiệm của thế hệ mình, một thế hệ tự ý thức về bổn
phận của chính mình với đất nước:
“Em ơi, Đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”
Đây là những lời tâm sự nhiều hơn là kêu gọi, giáo huấn. Vì thế, sức truyền cảm của ý thơ
vẫn rất mạnh.
Ở phần sau của đoạn trích, tác giả nhấn mạnh quan niệm “Đất Nước của nhân dân”. Thực
ra, đây cũng là tư tưởng cốt lõi của cả đoạn trích, nhưng ở phần sau thì được triển khai trên hai
hướng vừa khơi sâu vừa phát hiện nhiều ý nghĩa mới. Những phát hiện thú vị và độc đáo của tác
giả về đất nước trên các phương diện: địa lý, văn hoá, phong tục… muôn vàn những vẻ đẹp, theo
tác giả, đều là kết tinh của bao công sức và khát vọng của nhân dân, của những người bình
thường, vô danh. Đây là lí do vì sao khi nói về bốn nghìn năm lịch sử của đất nước, nhà thơ
không điểm tên các triều đại cùng bao nhân vật anh hùng trong sử sách mà nhấn mạnh đến lớp
lớp những người vô danh:
“Có biết bao người con gái con trai
Đất nước ghi dấu những kỷ niệm riêng tư đẹp đẽ của mỗi con người. Ở những câu thơ
trên tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật có thể coi là chơi chữ. Khi tách đất nước thành hai
thành tố: “Đất” và “Nước”. Đất nước là từ ghép thì là khái niệm chỉ tổ quốc, một khái niệm trừu
tượng. Khi tách “đất nước” thành hai từ đơn thì “đất” và “nước” chỉ cái khái niệm cụ thể. Biện
pháp nghệ thuật chiết tự này có tác dụng đưa đất nước từ một khái niệm trừu tượng trở thành
những gì gần gũi cụ thể thân thiết nhất. Mỗi con người gắn bó với Tổ quốc mình cũng thiêng liêng
bình dị như gắn bó máu thịt không thể thiếu.
Nói về thời gian lịch sử, tác giả gợi lại những thần thoại những truyền thuyết về dân tộc,
những thần thoại, những truyền thuyết này là rất quen thuộc với mỗi người Việt Nam. Như truyền
thuyết Lạc Long Âu Cơ “đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng” truyền thuyết vua Hùng với ngày giỗ
Tổ, truyền thuyết Thánh Gióng với vó ngựa sắt đi qua “trăm ao đầm còn để lại”. Việc gợi lại những
huyền tích những huyền sử này có tác dụng thể hiện thời gian “đằng đẵng” trong suốt chiều dài
lịch sử đồng thòi gợi lên niềm tự hào sâu xa ở mỗi người Việt Nam. Ai là người Việt Nam mà
không nhớ về cội nguồn dân tộc.
Nói về nền văn hoá đất nước, Nguyễn Khoa Điềm cũng định nghĩa thật giản dị. Văn hoá
đó là phong tục tập quán quen thuộc đối với mỗi người dân. Trên thế giới cho đến hôm nay đã có
trên bốn nghìn năm định nghĩa về văn hoá, bao nhà tư tưởng bao triết gia, bao nhà văn hoá cố
gắng đi tìm một định nghĩa chính xác nhất về văn hoá. Nguyễn Khoa Điềm góp thêm một định
nghĩa giản dị mà sâu xa. Văn hoá ấy là phong tục tập quán thành thói quen thành nếp sống của
mỗi con người. Văn hoá ấy là phong tục ăn trầu của bà, là phong tục búi tóc sau đầu của mẹ.
Từ những cảm nhận trên tác giả đi đến một mục đích quan trọng nhất: đất nước có trong
mỗi người vì vậy mỗi cá nhân phải có trách nhiệm đối với đất nước.
Điều đặc sắc nhất là tác giả cảm nhận đất nước không chỉ như cái khách thể ở ngoài con
người mà còn cái chủ thể có trong mỗi con người, đã trở thành máu thịt thành cuộc đời của mỗi
con người:
“Em ơi em
Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời”
Chính vì xác định được trong mỗi con người có một phần đất nước nên nhà thơ xác định
mồi cá nhân phải biết hy sinh cho đất nước cho dân tộc. Cách cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm
rất gần với cách cảm nhận của Chế Lan Viên khi viết về đất nước:
“Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ôi! Tổ quốc nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi con sông”
Điểm đặc sắc nhất trong chương “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ đã cảm
nhận đất nước trong sự đối chiếu bởi tư tưởng chủ đạo Đất Nước của Nhân dân.
Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” chính là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ chương Đất
Nước đã từng được thể hiện trong phần đầu nhưng tập trung kết tinh là ở giai đoạn hai của
chương V này.
Để viết về Đất Nước của Nhân dân, tác giả đã sử dụng ngay những sáng tạo của nhân
dân. Để thể hiện tư tưởng Đất Nước của Nhân dân thì không gì tốt hơn là dùng ngay lời ăn tiếng
nói của nhân dân. Chính vì vậy mà ở đoạn này tác giả đã sử dụng rộng rãi những chất liệu của
văn hoá dân gian. Nhà thơ gọi lại những thần thoại truyền thuyết về Lạc Long Âu Cơ, Hùng
Vương, về truyện cổ tích trầu cau, truyện cổ tích nàng Vọng Phu chờ chồng, truyền, thuyết Thánh
Gióng. Tác giả cũng tạo dựng ý thơ từ những câu ca dao tục ngữ, câu thơ “Cha mẹ thương nhau
bằng gừng cay muối mặn” có nguồn gốc từ câu ca dao: “Tay nâng chén muối đĩa gừng, gừng cay
muối mặn xin đừng quên nhau”. Còn câu thơ: “Dạy anh biết yêu em từ thủa trong nôi” có xuất xứ
từ câu ca dao: “yêu em từ thủa trong nôi em nằm em khóc anh ngồi anh ru”. Việc sử dụng rộng rãi
chất liệu dân gian để nói về đất nước không đơn thuần là thủ pháp nghệ thuật mà còn là sự thấm
nhuần sâu sắc tư tưởng Đất Nước của Nhân dân.
Không gian địa lý của đất nước, thời gian lịch sử của dân tộc và truyền thống văn hoá vật
chất, tinh thần đều được cảm nhận trong sự gắn bó với nhân dân do nhân dân sáng tạo.
Trở lại với không gian địa lý của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm có cách cảm nhận kỳ thú
khi nói về danh lam thắng cảnh của đất nước. Những danh thắng đó đâu chỉ là tặng vật của tạo
hoá ban cho mà còn là hình hài còn là số phận là ước vọng của bao cuộc đời bình dị chung đúc
lên. Nếu không có bao người vợ chờ chồng qua những cuộc chiến tranh, những cuộc ly tán thì
làm sao có sự tích nàng vọng phu trên cả 3 miền đất nước. Nếu không có công lao gian nan dựng
nước của Vua Hùng thì làm sao có sự tích 99 con voi quay về đất tổ. Nếu không có chiến công
của Thánh Gióng đuổi giặc Ân thì làm sao có sự tích về những ao đầm mà vó ngựa còn để lại. Và
trên đất nước này bao đôi lứa yêu nhau bao cặp vợ chồng chung thuỷ đã lại hình thành hòn Trống
Mái thuỷ chung và núi Bút non Nghiên hay là bao quyết tâm bao ước vọng của những người học
trò nghèo đã hóa thân thành hình hài sông núi. Từ cách cảm nhận này Nguyễn Khoa Điềm đã viết
những câu thơ trữ tình chính luận về đất nước:
“Những người vợ nhớ chồng góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên”. Không chỉ ở nhân dân
hoá thân vào đất nước mà nhân dân còn lưu lại trong những tên đất tên làng. Bao địa danh trên
đất nước này mang những tên người nôm na bình bị, những “Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà
Điểm”. Nhân dân đã hóa thân vào đất nước:
“Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…”
Với Nguyễn Khoa Điềm thì lịch sử dân tộc cũng do nhân dân sáng tạo ra. Viết về đất nước
tác giả không điểm lại những triều đại, những anh hùng nổi danh trong lịch sử mà ghi nhận công
lao của những anh hùng vô danh. Những anh hùng vô danh ấy chính là nhân dân vô tận. Họ là
những con người sống giản dị và bình tâm trong thầm lặng họ hi sinh cho đất nước. Họ là những
con người không ai nhớ mặt đặt tên nhưng chính họ là người “làm ra Đất Nước”.
Trở lại với nền văn hoá dân tộc, Nguyễn Khoa Điềm khẳng định chính nhân dân là người
sáng tạo những giá trị vật chất và tinh thần.
Nhân dân truyền lại cho các thế hệ sau những giá trị vật chất từ hạt lúa đến ngọn lửa,
truyền lại cho cháu con những giá trị tinh thần: Họ để lại cho thế hệ sau ngôn ngữ tiếng nói:
“truyền lại giọng mình cho con tập nói”, họ để lại những tên đất tên làng: “gánh theo tên đất tên
làng trong những chuyến di dân”.
Để khẳng định vai trò sáng tạo văn hoá của nhân dân Nguyễn Khoa Điềm trở về với kho
tàng văn học dân gian với ca dao tục ngữ. Vì chính ở đây là nơi lưu giữ những sáng tạo tinh thần
văn hoá của nhân dân là nơi truyền giữ tâm hồn dân tộc. Đi vào kho tàng văn học dân gian tác giả
khẳng định nhân dân chính là người sáng tạo, phát huy hai truyền thống lớn là truyền thống yêu
nước bất khuất và nhân ái nghĩa tình. Truyền thống nhân ái nghĩa tình với câu thơ: “Dạy anh biết
yêu em từ thủa trong nôi”, “Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội” (có nguồn gốc từ câu ca
dao: “Cầm vàng mà lội qua sông/Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”). Truyền thống yêu
nước bất khuất với câu thơ: “Biết trồng tre đợi ngày thành gậy. Đi trả thù mà không sợ dài lâu” có
xuất xứ từ câu ca dao (Thù này ắt hẳn còn lâu/Trồng tre nên gậy gặp đâu đánh què).
Từ sự cảm nhận trên Nguyễn Khoa Điềm đi đến kết luận nhân dân là người sáng tạo ra
đất nước trên tất cả các bình diện nhân dân là người xây dựng đất nước và cũng là người bảo vệ
phát triển đất nước:
“Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước nhân dân”
Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” đã từng xuất hiện trong truyền thống lịch sử. Ở “Bình
Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi đã khẳng định vai trò to lớn của nhân dân trong cuộc kháng chiến
chống Minh:
“Nhân dân bốn cõi một nhà
Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới”
Với Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Nguyễn Đình Chiểu đã dựng một tượng đài bất tử về
những người anh hùng vô danh, về những người nông dân nghĩa sĩ. Phan Bội Châu đã khẳng
định sự gắn bó giữa nhân dân với đất nước:
“Dân là dân nước
Nước là nước dân”
Ở bài thơ “Đất nước”, Nguyễn Đình Thi khẳng định cụ thể hơn đất nước gắn bó với người
anh hùng áo vải:
“Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng”
Những người dân bình thường giản dị, những người lao động chất phác thật thà. Khi cầm
súng đứng lên bảo vệ Tổ quốc thì chính họ là những anh hùng…
Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” từng manh nha (xuất hiện) trong truyền thống lịch sử
được Nguyễn Khoa Điềm để nâng lên một tầm cao mới trong thời đại chống Mỹ. “Đất Nước của
Nhân dân” được cảm nhận một cách toàn diện cả trong chiều dài thời gian, chiều rộng không gian
và chiều sâu văn hoá. Nhà thơ không những khẳng định sự gắn bó với nhân dân mà còn khẳng
định vai trò to lớn của nhân dân.
Trong kho tàng văn học dân gian đã có nhiều bài thơ hay viết về chủ đề Tổ quốc. Có khi
lòng yêu nước thể hiện qua sự gắn bó với mảnh đất quê hương như “Bên kia sông Đuống” của
Hoàng Cầm. Có khi lại là sự gắn bó quê hương cách mạng như Việt Bắc của Tố Hữu. Ở “Đất
nước” của Nguyễn Đình Thi là cảm hứng thi ca mang tính chất tổng hợp về chủ đề Tổ quốc được
chi phối bởi ý thức, niềm tự hào làm chủ đất nước. Nguyễn Khoa Điềm cũng cảm nhận đất nước
về nhiều phương diện, chương “Đất nước” cũng là cảm hứng thi ca mang tính chất tổng hợp
nhưng lại rọi chiếu bởi tư tưởng chủ đạo là tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”. Đây là đóng góp
riêng và là đóng góp không nhỏ của Nguyễn Khoa Điềm trong dòng thơ viết về đất nước.
Nét mới trong cảm nhận về Đất nước - Mẫu 7
Thơ ca Việt Nam ba mươi năm chiến tranh là một dàn hợp xướng về đất nước. Khi nhắc
đến đề tài này, chắc chắn ta không thể quên được “Đất nước” trích trong chương V trường ca
“Mặt đường khát vọng” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Tác phẩm đã thể hiện những nét cảm
nhận mới mẻ về đất nước của nhà thơ.
Trước tiên, nét mới mẻ trong cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đó là ở thời
điểm ra đời của đất nước. Nhà thơ đã xóa nhòa đi thời gian lịch sử cụ thể để gợi lên một đất
nước rất lâu đời, chỉ biết rằng: “Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi”. Không chỉ vậy, đó còn là phạm
vi tồn tại của đất nước. Đất nước không chỉ là không gian sống bình thường của mỗi con người
mà đất nước còn tồn tại hiện diện ngay trong bản thân của mỗi cá nhân "Đất Nước là máu xương
của mình" - gắn bó máu thịt với mỗi người dân. Đất nước còn hiện diện trong những câu chuyện
cổ đặc biệt là truyện cổ tích, những câu chuyện vốn rất thân quen và gần gũi đối với mỗi con
người ngay từ thuở ấu thơ, từ trong những lời kể thiết tha, ngọt ngào của mẹ:
“Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể”
Ở đây, đất nước không phải là một cái gì đó mơ hồ, bí ẩn mà rất gần gũi, quen thuộc với
mỗi người.
Đặt biệt nhất đó chính là những định nghĩa thật mới mẻ về đất nước. Trong mỗi một thời
đại khác nhau lại có những quan điểm khác nhau về đất nước. Nếu ở thời trung đại, quan niệm
đất nước phải là của vua, lãnh thổ do vua cai quản: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư”. Thì đến thời
cận đại, khi bàn về đất nước, Phan Bội Châu cho rằng: “Dân là dân nước, nước là nước dân”.
Tuy rằng tư tưởng trên đã thể hiện tư tưởng tiến bộ hơn so với thời hiện đại nhưng vẫn còn mang
nặng ý thức hệ của nhà nước phong kiến phương Đông và hệ tư tưởng tư sản. Đến thời đại Hồ
Chí Minh các nhà thơ mới có ý thức sâu sắc nhất, thấm thía nhất về tư tưởng đất nước là của
nhân dân, của quảng đại số đông quần chúng:
“Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng”
(Nguyễn Đình Thi)
Với Nguyễn Khoa Điềm, nhân dân mới là chủ sở hữu duy nhất của đất nước.
Đất nước còn là sự thống nhất của ba phương diện: chiều rộng không gian, chiều dài lịch
sử và chiều sâu văn hóa. Trước hết, suy tư về đất nước trên chiều rộng lãnh thổ đó là điều không
mới, nhưng chỗ đặc sắc nhất của Nguyễn Khoa Điềm là ông không gắn lãnh thổ với đế cư, với
thiên thư mà gắn với nhân dân vĩ đại:
“Đất là nơi anh đến trường
……….Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Theo cảm nhận của nhà thơ, “Đất nước” là không gian vô cùng gần gũi thân thương, là
một cõi đầy thơ mộng, ngọt ngào gắn với bao kỉ niệm của tình yêu mỗi con người.
Và:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
……….Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”
Đất nước đã trở thành một phần linh thiêng trong cuộc sống của con người. Mỗi người chỉ
đóng góp một phần nhỏ bé để làm nên đất nước thôi. Cho nên xây dựng bảo vệ và hi sinh vì Đất
Nước là vai trò trách nhiệm cao cả của chúng ta bởi “Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân”.
Khi suy tư về “Đất nước” theo chiều dài lịch sử, điều đó cũng không phải mới mẻ. Nhưng
cái mới của nhà thơ là khi nói về lịch sử mấy ngàn năm của Đất nước không dùng những sử liệu
như những nhà thơ khác:
“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương”
(Nguyễn Trãi)
Cũng không nhắc đến những anh hùng hữu danh trong lịch sử:
“Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc,
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn,
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc.
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng…”
hòa nhịp với cuộc chiến đấu chống đế quốc xâm lược. Đoạn trích “Đất Nước” là một trong những
đoạn thơ hay về đề tài đất nước trong thơ Việt Nam hiện đại. Đặc biệt 9 câu thơ đầu, đó là cảm
xúc nồng nàn, tư duy sâu lắng về chiều dài đất nước. Qua đó đoạn thơ góp phần là trọn vẹn thêm
những cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước.
Về phương diện nội dung, nói về nguồn cội đất nước, khát khao đi tìm câu trả lời “Đất
nước có từ bao giờ” là nỗi khát khao không riêng gì Nguyễn Khoa Điềm. Văn học dân gian lý giải
cội nguồn đất nước qua những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết đẫm màu huyền thoại như Lạc
Long Quân và Âu Cơ đẻ ra bọc trăm trứng, đó là sự tích quả bầu mẹ giải thích sự ra đời của 54
dân tộc anh em nước Việt. Thơ ca trung đại lại khẳng định cội nguồn đất nước gắn với thiên thư
tối thượng ở “Nam quốc sơn hà”, ở “Bình ngô đại cáo” gắn với tên các vương triều hùng mạnh
Triệu, Đinh, Lý, Trần. Cội nguồn đất nước ta đẹp cao cả thiêng liêng nhưng xa xôi tựa sương khói
thời gian. Còn cội nguồn đất nước trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm lại bình dị, gần gũi,
quen thuộc đến thân thương:
“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể”
Cụm từ “ngày xửa ngày xưa” gợi nỗi xa xăm trong chiều dài thời gian lịch sử, gợi cái gần
gũi vô biên vì nó gần với kí ức ấu thơ của mỗi con người vì tuổi thơ ai chẳng một lần nghe cổ tích
và câu chuyện nào chẳng bắt đầu từ “ngày xửa ngày xưa”. Ngay từ những câu đầu Nguyễn Khoa
Điềm đưa cội nguồn đất nước về con người ngay từ thuở nằm nôi:
“Sơ sinh lòng mẹ đưa nôi
Hồn thiêng đất nước vẫn ngồi bên con”
Cội nguồn đất nước trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm còn gắn với “miếng trầu bà
ăn”, “cây tre dân mình trồng mà đánh giặc”, “tóc mẹ bới sau đầu”, “muối mặn gừng cay” trong tình
cha mẹ, “cái kèo cái cột thành tên”, “hạt gạo hai sương giần sàng, xay giã, trong những mĩ tục
thuần phong, tục đặt tên, tục ăn trầu, bới tóc. Những hình ảnh hiện ra quen thuộc như từ trang đời
bước vào trang thơ. Bước ra từ ca dao cổ tích, miếng trầu gợi sự tích trầu cau thắm nghĩa anh
em, đượm tình chồng vợ, về cậu bé lên ba làng Gióng đánh giặc Ân, “gừng cay muối mặn” xuất
hiện trong lời nhắc nhở về lẽ thủy chung:
“Tay nâng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quen nhau”
Hạt gạo nhắc nhở ta về câu ca dao:
“Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”
Tất cả tập trung làm rõ một cội nguồn đất nước vừa thân thương vừa gần gũi, vừa cao cả
thiêng liêng vừa mộc mạc vừa bay bổng mĩ lệ, vừa quen thuộc vừa mới lạ. Đó là sắc diện riêng
của đất nước mà chỉ Nguyễn Khoa Điềm mới nhận ra.
Thơ hay không chỉ nằm ở nội dung mà còn thể hiện ở hình thức biểu hiện của nó. Sự mới
mẻ ở hình thức trong đoạn trích nằm ở thể thơ tự do, câu thơ ngắn dài linh hoạt, nhịp nhanh,
chậm phong phú thể hiện cảm xúc suy tư, sôi nổi. Ngôn ngữ thơ giản dị, tự nhiên gần với khẩu
ngữ nên rất tự nhiên sống động. Thơ tự do, nhiều từ, nhiều ngữ nhưng không hề khô khan bởi
Nguyễn Khoa Điềm đã khéo léo sử dụng một loạt điệp từ, điệp hình ảnh, điệp cấu trúc góp phần
làm giọng thơ thêm nhiệt hứng, câu thơ thêm hình ảnh. Thêm vào đó còn là tài năng sử dụng chất
liệu dân gian rất riêng, rất độc đáo. Không trích dẫn nguyên văn ca dao, tục ngữ, dân ca, không
kể lể dài dòng các phong tục tập quán, các truyện cổ tích, truyền thuyết, tác giả chỉ bắt lấy rất
nhạy cái hồn của chất liệu dân gian để gợi liên tưởng, gợi suy ngẫm cho độc giả, tạo ra cảm giác
vừa quen vừa lạ.
Như vậy, cái mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm đã thành công trong việc tạo ra cái mới trong
cảm xúc, tạo ra cái mới trong hình tượng. Điều này làm nên bài học muôn thuở cho người nghệ sĩ
về phong cách, về sức sáng tạo. Đó cũng chính là quy luật kế thừa và cách tân tồn tại muôn đời
trong dòng chảy văn học, là đặc trưng của nền văn học Việt Nam và cả nền văn học thế giới. Qua
đây, bạn đọc cũng tiếp thu được kinh nghiệm khi đọc một tác phẩm văn học, đó là phải khám phá
được nét riêng, được sự mới mẻ khác biệt trong phong cách mỗi tác giả để hiểu được cho trọn
cái tư tưởng mà người nghệ sĩ muốn gửi gắm.
Tsekhop đã khẳng định rằng: “Nếu một tác giả không có lối đi riêng của mình thì người đó
sẽ không bao giờ trở thành nhà văn được”. Quả đúng thế, nếu Đất Nước trong thơ Nguyễn Khoa
Điềm không có điều gì mới mẻ thì chắc chắn tên tuổi của nhà thơ và tác phẩm sẽ không còn chỗ
đứng quan trọng trong trái tim người đọc muôn thời.