BC Giữa Cái Chung Và Cái Riêng Và Vận Dụng Vào Việc Xậy Dựng Nền KTTT Ở Nước Ta

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 18

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


---------------*****---------------

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

BIỆN CHỨNG GIỮA CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG VÀ


VẬN DỤNG VÀO VIỆC XẬY DỰNG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG Ở NƯỚC TA

Sinh viên thực hiện : Đặng Thị Kim Anh


Mã sinh viên : 2213250002
Số thứ tự : 01
Lớp tín chỉ : TRIH114.2
Giảng viên hướng dẫn : TS. Đào Thị Trang

Hà Nội, 2023
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
---------------*****---------------

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

BIỆN CHỨNG GIỮA CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG VÀ


VẬN DỤNG VÀO VIỆC XẬY DỰNG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG Ở NƯỚC TA

Sinh viên thực hiện : Đặng Thị Kim Anh


Mã sinh viên : 2213250002
Số thứ tự : 01
Lớp tín chỉ : TRIH114.2
Giảng viên hướng dẫn : TS. Đào Thị Trang
MỤC LỤC

MỤC LỤC..................................................................................................................1
LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................3
NỘI DUNG................................................................................................................4
PHẦN I: Kiến thức cơ bản về cái chung và cái riêng và mối quan hệ biện
chứng giữa cái chung và cái riêng...........................................................................4
1/ Khái niệm cái riêng:............................................................................................4
2/ Khái niệm cái chung:..........................................................................................4
3/ Quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung:...............................................4
a. Quan điểm về mối quan hệ biện chứng giữa “cái chung – cái riêng” trong
lịch sử Triết học:.................................................................................................4
b. Phép biện chứng duy vật:................................................................................5
c. Ý nghĩa phương pháp luận:.............................................................................6
PHẦN II: Vận dụng quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng vào nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam:................................................................................7
1/ Khái niệm kinh tế thị trường:..............................................................................7
2/ Tính tất yếu phải tiến lên kinh tế thị trường ở Việt Nam:...................................7
3/ Nền kinh tế thị trường mang định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:...........9
4/ Thành tựu trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa:.....................................................................................................................10
5/ Tiếp tục xây dựng nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:.......12
a. Thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước
ta:.......................................................................................................................12
b. Hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại
hình doanh nghiệp và các tổ chức sản xuất kinh doanh:...................................12
c. Hoàn thiện thể chế bảo đảm đồng bộ các yếu tố của thị trường và phát triển
đồng bộ các loại thị trường:..............................................................................13
d. Hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội
trong từng bước, từng chính sách phát triển và bảo vệ môi trường:.................13
e. Hoàn thiện thể chế, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước về kinh tế, tăng cường sự tham gia của các tổ chức chính trị -

1
xã hội, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp và của nhân dân vào quá trình phát
triển kinh tế - xã hội:.........................................................................................13
Kết luận....................................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................16

2
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đang đối mặt với nhiều khó khăn trong quá trình xây dựng nền kinh tế.
Qua hàng nghìn năm lịch sử, đất nước chúng ta đã trải qua thời kỳ bị đô hộ kéo dài,
liên tục chiến đấu chống lại những kẻ xâm lược và phải chịu những tổn thất lớn về
cả vật chất và con người. Trong giai đoạn đầu xây dựng xã hội chủ nghĩa, việc áp
dụng nền kinh tế bao cấp đã làm chậm quá trình phát triển của nền kinh tế. Đối diện
với tình hình đó, Đảng và Nhà nước đã quyết định thực hiện một cuộc chuyển đổi
lớn, xây dựng nền kinh tế thị trường theo hướng xã hội chủ nghĩa. Bằng cách sáng
tạo, chủ động và tích cực áp dụng tư tưởng Mác-Lênin, đặc biệt là mối quan hệ biện
chứng giữa cái chung và cái riêng trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường, Việt
Nam đã từng bước phát triển và đạt được những mục tiêu và thành tựu nhất định.
Chúng ta đã vượt qua những khó khăn, thách thức, chủ động nắm bắt cơ hội và tích
cực hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Vì vậy, em lựa chọn xây dựng tiểu luận Biện chứng giữa cái chung và cái riêng
và vận dụng vào việc xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta với mục đích
phân tích, làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng, làm rõ tính
ứng dụng của mối quan hệ biện chứng đó với mục tiêu, đường lối xây dựng nền
kinh tế thị trường Việt Nam của Đảng và Nhà nước.
Do đây là lần đầu tiên trình bày bài tiểu luận và hiểu biết còn nhiều hạn chế nên
bài tiểu luận của em có thể không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận
được sự nhận xét, đánh giá và góp ý chỉnh sửa của cô để bài luận của em được hoàn
thiện hơn.

3
NỘI DUNG
PHẦN I: Kiến thức cơ bản về cái chung và cái riêng và
mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng
1/ Khái niệm cái riêng:
- Phạm trù cái riêng dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình nhất
định.
Ví dụ: Cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 trong giai đoạn lịch sử chống giặc
ngoại xâm, mỗi hành tinh trong hệ mặt trời, mỗi thành viên trong lớp triết học của
trường Ngoại Thương...
- Phân biệt cái riêng với cái đơn nhất: Cái đơn nhất là những cái chỉ tồn tại một
sự vật, một hiện tượng nào đó mà không lặp lại ở các sự vật, hiện tượng khác, trong
khi giữa các cái riêng lại tồn tại một số đặc điểm chung nào đó.
- Ví dụ:
+ Trong tập thể lớp TRIH114.2, mỗi sinh viên là một cái riêng, tồn tại độc lập
riêng rẽ nhưng vẫn có điểm chung là cùng là sinh viên lớp TRIH114.2
+ Các đặc điểm chiều cao, cân nặng, dấu vân tay của mỗi sinh viên lớp
TRIH114.2 là khác nhau, chỉ có ở 1 người chứ không lặp lại chính xác ở người
khác. Do đó, những đặc điểm này chính là cái đơn nhất.
2/ Khái niệm cái chung:
- Phạm trù cái chung dùng để chỉ những mặt, thuộc tính, những yếu tố, những quan
hệ, tồn tại phổ biến ở nhiều sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: Trong tập thể sinh viên trường đại học Ngoại Thương thì thuộc tính “là sinh
viên trường đại học Ngoại thương” là cái chung của các thành viên trong tập thể...
- Cái chung thường chứa đựng ở trong nó tính quy luật, sự lặp lại.
Ví dụ: Quy luật cung - cầu, quy luật giá trị thặng dư là những đặc điểm chung mà
mọi nền kinh tế thị trường bắt buộc phải tuân theo.
3/ Quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung:
a. Quan điểm về mối quan hệ biện chứng giữa “cái chung – cái riêng” trong lịch sử
Triết học:
- Trong lịch sử triết học đã có hai quan điểm trái ngược nhau về mối quan hệ
giữa "cái riêng" và "cái chung":

4
+ Phái duy vật cho rằng "cái riêng" chỉ tồn tại tạm thời, thoáng qua, không phải
là cái tồn tại vĩnh viễn, thật sự độc lập với ý thức của con người. "Cái chung” không
phụ thuộc vào "cái riêng" mà còn sinh ra "cái riêng".
Chẳng hạn như, bên cạnh cái cây riêng lẻ, có ý niệm cái cây nói chung; bên cạnh
ngôi nhà riêng lẻ, có ý niệm ngôi nhà nói chung... Cái cây, ngôi nhà riêng lẻ, có ra
đời, tồn tại tạm thời và mất đi, nhưng ý niệm cái cây, ngôi nhà nói chung thì tồn tại
mãi mãi; cái cây, ngôi nhà riêng lẻ là do ý niệm cái cây, ngôi nhà nói chung sinh ra.
+ Phái duy tâm cho rằng chỉ có “cái riêng” tồn tại thực sự, còn “cái chung” là
những cái tên gọi trống rỗng, do tư tưởng con người bịa đặt ra, không phản ánh cái
gì trong hiện thực. Quan điểm này không thừa nhận nội dung khách quan của các
khái niệm.
Chẳng hạn như họ cho khái niệm con người, giai cấp, đấu tranh giai cấp, cách
mạng xã hội, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc,…không có ý nghĩa gì trong cuộc
sống của con người, chỉ là những từ trống rỗng, không cần thiết phải bận tâm tìm
hiểu. Ngay đến cả những khái niệm như vật chất, chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy
tâm,…cũng bị cho là những từ không có nghĩa. Như vậy ranh giới giữa chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa duy tâm bị xoá nhoà và con người không cần phải quan tâm
đến cuộc đấu tranh giữa các quan điểm triết học nữa.
- Cả quan niệm của phái duy vật và phái duy tâm đều sai lầm ở chỗ họ đã tách rời
cái riêng khỏi cái chung, tuyệt đối hoá cái riêng, phủ nhận cái chung, hoặc ngược
lại. Họ không thấy sự tồn tại khách quan và mối liên hệ khăng khít giữa chúng.
b. Phép biện chứng duy vật:
- Phép biện chứng duy vật cho rằng cái riêng, cái chung và cái đơn nhất đều tồn
tại khách quan, giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ với nhau. Điều đó thể hiện ở chỗ:
+ Thứ nhất: Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu
hiện sự tồn tại của mình. Nghĩa là không có cái chung thuần tuý tồn tại bên ngoài
cái riêng. Chẳng hạn không có cái cây nói chung tồn tại bên cạnh cây cam, cây
quýt, cây đào cụ thể. Những cây cam, cây quýt, cây đào... nào cũng có rễ, có thân,
có lá, có quá trình đồng hoá, dị hoá để duy trì sự sống. Những đặc tính chung này
lặp lại những cái cây riêng lẻ, và được phản ánh trong khái niệm "cây". Đó là cái
chung của những cái cây cụ thể. Rõ ràng cái chung tồn tại thực sự, nhưng không tồn
tại ngoài cái riêng mà phải thông qua cái riêng.
+ Thứ hai: Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Nghĩa là không
có cái riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập, không có liên hệ với cái chung. Ví dụ, mỗi
con người là một cái riêng, nhưng mỗi con người không thể tồn tại ngoài mối liên
hệ với xã hội và tự nhiên. Không cá nhân nào không chịu sự tác động của các quy
luật sinh học và các quy luật xã hội. Đó là những cái chung trong mỗi con người.

5
+ Thứ ba: Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là cái
bộ phận, nhưng sâu sắc hơn cái riêng. Cái riêng phong phú hơn cái chung và ngoài
những đặc điểm chung, cái riêng còn có cái đơn nhất. Cái chung sâu sắc hơn cái
riêng vì cái riêng phản ánh thuộc tính, những mối liên hệ ổn định, tất nhiên, lặp lại
nhiều cái riêng cùng loại. Do vậy cái chung là cái gắn liền với cái bản chất, quy
định phương hướng tồn tại và phát triển của cái riêng. Có thể khái quát bằng công
thức:
Cái riêng = cái chung + cái đơn nhất
Cái chung chỉ giữ phần bản chất hình thành nên chiều sâu của sự vật còn cái
riêng là cái toàn bộ vì nó là một thực thể sống động. Trong cái riêng luôn tồn tại cái
chung và cái đơn nhất. Nhờ thế, giữa những cái riêng vừa có sự tách biệt, vừa có thể
tác động qua lại với nhau, chuyển hóa lẫn nhau. Sự va chạm giữa những cái riêng
vừa làm cho sự vật xích lại bởi cái chung, vừa làm cho sự vật tách xa nhau bởi cái
đơn nhất.Cũng nhờ sự tương tác này mà cái riêng có thể được phát hiện.
Ví dụ, người nông dân Việt Nam bên cạnh cái chung với nông dân của các nước
trên thế giới là có tư hữu nhỏ, sản xuất nông nghiệp, sống ở nông thôn…còn có đặc
điểm riêng là chịu ảnh hưởng của văn hoá làng xã, của các tập quán lâu đời của dân
tộc, của điều kiện tự nhiên của đất nước, cần cù lao động, chịu thương chịu khó…
+ Thứ tư: Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình
phát triển của sự vật. Sở dĩ như vậy là vì trong hiện thực cái mới bao giờ cũng xuất
hiện dưới dạng cái đơn nhất. Về sau theo quy luật, cái mới hoàn thiện dần và thay
thế cái cũ, trở thành cái chung, cái phổ biến, nhưng về sau nữa, khi không phù hợp
với điều kiện mới mà bị mất dần đi và trở thành cái đơn nhất. Như vậy sự chuyển
hóa từ cái đơn nhất thành cái chung là biểu hiện của quá trình cái mới ra đời thay
thế cái cũ. Ngược lại sự chuyển hoá từ cái chung thành cái đơn nhất là biểu hiện của
quá trình cái cũ, cái lỗi thời bị phủ định.
Chẳng hạn, sự thay đổi một đặc tính nào đấy của sinh vật trước sự thay đổi của
môi trường diễn ra bằng cách, ban đầu xuất hiện một đặc tính ở một cá thể riêng
biệt. Do phù hợp với điều kiện mới, đặc tính đó được bảo tồn, duy trì ở nhiều thế hệ
và trở thành phổ biến của nhiều cá thể. Những đặc tính không phù hợp với điều kiện
mới, sẽ mất dần đi và trở thành cái đơn nhất.
c. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu thị sự tồn tại
của mình, vậy nên chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng, xuất phát từ cái riêng, từ
những sự vật, hiện tượng riêng lẻ, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan của
con người bên ngoài cái riêng.

6
- Cái chung là cái sâu sắc, cái bản chất chi phối cái riêng nên nhận thức phải
nhằm tìm ra cái chung và trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào cái chung để cải
tạo cái riêng. Trong hoạt động thực tiễn nếu không hiểu biết những nguyên lý chung
(không hiểu biết lý luận), sẽ không tránh khỏi rơi vào tình trạng hoạt động một cách
mò mẫm, mù quáng. Mặt khác, cái chung lại biểu hiện thông qua cái riêng, nên khi
áp dụng cái chung phải tuỳ theo cái riêng cụ thể để vận dụng cho thích hợp.
Ví dụ, khi áp dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, phải căn cứ vào
tình hình cụ thể của từng thời kỳ lịch sử ở mỗi nước để vận dụng những nguyên lý
đó cho thích hợp, có vậy mới đưa lại kết quả trong hoạt động thực.
- Trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định "cái đơn
nhất" có thể biến thành "cái chung" và ngược lại "cái chung" có thể biến thành "cái
đơn nhất", nên trong hoạt động thực tiễn có thể và cần phải tạo điều kiện thuận lợi
để "cái đơn nhất" có lợi cho con người trở thành "cái chung" và "cái chung" bất lợi
trở thành "cái đơn nhất".
Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung nhằm phát triển
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam một cách vững chắc, theo kịp các quốc gia khác
đồng thời cung cấp cơ sở vật chất cho công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.

PHẦN II: Vận dụng quan hệ biện chứng giữa cái chung
và cái riêng vào nền kinh tế thị trường ở Việt Nam:
1/ Khái niệm kinh tế thị trường:
Kinh tế thị trường là một hệ thống tự điều chỉnh nền kinh tế, bảo đảm có có năng
suất, chất lượng và hiệu quả cao, dư thừa và phong phú hàng hóa, dịch vụ được mở
rộng và coi như hàng hóa thị trường, năng động, luôn luôn đổi mới mặt hàng, công
nghệ và thị trường. Đó là một nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường, với
những đặc trưng cơ bản như: phát triển kinh tế hàng hóa, mở rộng thị trường, tự do
kinh doanh, tự do thương mại, tự định giá cả, đa dạng hóa sở hữu, phân phối do
quan hệ cung-cầu.
2/ Tính tất yếu phải tiến lên kinh tế thị trường ở Việt Nam:
- Về hoàn cảnh lịch sử, đất nước ta đã trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh giữ
nước khốc liệt mà ở đó, cơ sở vật chất vốn đã ít ỏi còn bị tàn phá nặng nề.
- Sau chiến tranh, nước ta tiếp tục xây dựng nền kinh tế bao cấp, kế hoạch hoá
tập trung dựa trên hình thức sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Trong thời gian
đầu sau chiến tranh, với sự nỗ lực của nhân dân ta, cùng sự giúp đỡ của các nước
trong hệ thống XHCN mà mô hình kế hoạch hoá đã phát huy được tính ưu việt của
nó. Từ một nền kinh tế lạc hậu và phân tán, bằng công cụ kế hoạch hoá nhà nước đã
tập trung vào tay mình một lượng vật chất quan trọng về đất đai, tài sản và tiền bạc

7
để ổn định và phát triển kinh tế. Nền kinh tế kế hoạch hoá trong thời kỳ này tỏ ra
phù hợp, đã huy động ở mức cao nhất sức người sức của cho tiền tuyến.
- Sau ngày giải phóng miền Nam, trên bức tranh về nền kinh tế nước ta tồn tại
một lúc cả ba hình thức: kinh tế tự cấp tự túc, kinh tế kế hoạch hoá tập trung và kinh
tế hàng hoá. Do sự không hài hoà giữa các nền kinh tế và sự chủ quan cứng nhắc
không cân nhắc tới sự phù hợp của cơ chế quản lý mà chúng ta đã không tạo ra
được động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển mà còn gây lãng phí tài nguyên, ô
nhiễm môi trường... Lúc này, nước ta đồng thời cũng bị cắt giảm nguồn viện trợ từ
các nước XHCN.
Tất cả những nguyên nhân đó đã khiến cho nền kinh tế nước ta trong những năm
cuối thập kỷ 80 lâm vào khủng hoảng trầm trọng, đời sống nhân dân bị giảm sút,
thậm chí ở một số nơi còn bị nạn đói đe doạ. Nguyên nhân của sự suy thoái này là
từ những sai lầm cơ bản như:
+ Chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất được thực hiện trên một quy mô lớn
trong điều kiện chưa cho phép, khiến cho một bộ phận tài sản vô chủ và không sử
dụng có hiệu quả nguồn lực vốn đang rất khan hiếm của đất nước trong khi dân số
ngày một gia tăng với tỉ lệ khá cao (2,2%).
+ Thực hiện việc phân phối theo lao động cũng trong điều kiện chưa cho phép.
Khi tổng sản phẩm quốc dân thấp đã dùng hình thức vừa phân phối bình quân vừa
phân phối lại một cách gián tiếp đã làm mất động lực của sự phát triển.
+ Việc quản lý kinh tế của nhà nước sử dụng các công cụ hành chính, mệnh lệnh
theo kiểu thời chiến không thích hợp với yêu cầu tự do lựa chọn của người sản xuất
và người tiêu dùng đã không kích thích sự sáng tạo của hàng triệu người lao động.
Chính vì việc quá tập trung vào cái bên ngoài cái riêng, đó là những mục tiêu
phát triển, xây dựng mà quên đi cái riêng là những sở hữu tư nhân và cá nhân. Điều
đó trái với quy luật phát triển và quan hệ giữa cái chung và cái riêng dẫn đến những
hậu quả nghiêm trọng, làm kìm hãm sự phát triển kinh tế. Đồng thời trước những
đổi thay của tình hình kinh tế thế giới là các nước tư bản chủ nghĩa đã sớm chuyển
sang kinh tế thị trường và đạt được những bước tăng trưởng mạnh trong nền kinh tế.
Đó là những yêu cầu cấp bách đòi hỏi phải thay đổi phương hướng, con đường
nhằm cải thiện nền kinh tế trong nước. Nói cách khác đó là những điều kiện tiên
quyết yêu cầu cái chung phải trở thành cái đơn nhất và cái đơn nhất phải trở thành
cái chung, tức là cơ chế quản lý kinh tế từ kế hoạch tập trung phải trở thành nền
kinh tế thị trường hội nhập cùng thế giới.
Chính vì vậy mà từ đại hội Đảng VI, chúng ta đã có quyết định về việc chuyến
sang kinh tế thị trường, đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử Việt Nam. Tuy
nhiên việc chuyển đổi tiếp thu cần phải là bản chất chứ không chỉ dừng lại ở hình

8
thức, phải giữ được cái đơn nhất cần thiết của nền kinh tế đất nước, từ đó còn phải
xây dựng một nền kinh tế mới về chất, thể hiện sự phát triển, phủ định biện chứng
đối với nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Việc chuyển đổi này mặc dù đã gây
ra rất nhiều khó khăn cho nền kinh tế trong nước nhưng đó là một bước phát triển
tất yếu cần thiết đúng theo quy luật biện chứng giữa cái chung và cái riêng.
3/ Nền kinh tế thị trường mang định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:
- Đảng và nhà nước đã vận dụng chủ động, sáng tạo mối quan hệ biện chứng giữa
cái chung và cái riêng vào việc quản lí nền kinh tế nước ta để đạt được nhiều thành
tựu. Điều đó được thể hiện ở việc quan tâm đến phát triển từng cá thể - tức cái
riêng, đồng thời hướng những cái riêng này theo một cái chung nhất định là định
hướng xã hội chủ nghĩa. Học tập, tiếp thu nền kinh tế thị trường của các nước tư bản
nhưng không làm mất cái đơn nhất là bản chất xã hội chủ nghĩa. Điều này đã giúp
cho chúng ta xây dựng được nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam, thể hiện qua các mặt:
+ Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển
lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp
trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối nhằm thực hiện dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
+ Về sở hữu: Phát triển theo hướng còn tồn tại các hình thức sở hữu khác nhau,
nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định
hướng xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống
nhân dân và thực hiện công bằng xã hội nên phải từng bước xác lập và phát triển
chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất chủ yếu một cách vững chắc, tránh
nóng vội xây dựng ồ ạt mà không tính đến hiệu quả như trước đây.
+ Về quản lý: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải có sự
quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền
kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, kế hoạch, chính sách đồng thời sử dụng cơ chế
thị trường, các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý kinh tế thị trường để kích
thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy tính tích cực và hạn chế những mặt
tiêu cực, khuyết tật của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động của
toàn thể nhân dân.
+ Về phân phối: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện đa
dạng hoá các hình thức phân phối. "Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết
quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn
lực khác và thông qua phúc lợi xã hội". Cơ chế phân phối này vừa tạo động lực kích
thích các chủ thể kinh tế nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng

9
thời hạn chế những bất công trong xã hội. Thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn liền
với tiến bộ, công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển.
+ Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường nước ta còn thể
hiện ở chỗ tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hóa, giáo dục, xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân
dân, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn
nhân lực của đất nước.
Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ
nghĩa thể hiện trình độ tư duy, và vận dụng của Đảng ta về quy luật về sự phù hợp
giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Đây là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.
4/ Thành tựu trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa:
Trên cơ sở nhận thức lý luận, quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam
về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước đã đạt được
những thành tựu to lớn sau đây:

Thứ nhất, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát triển;
kinh tế vĩ mô ổn định vững chắc hơn, các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được
bảo đảm, tốc độ tăng trưởng duy trì ở mức khá cao; quy mô và tiềm lực nền k inh tế
tăng lên, chất lượng tăng trưởng được cải thiện. Nhận thức về nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn.

Các yếu tố thị trường và các loại thị trường từng bước phát triển đồng bộ, gắn với
thị trường khu vực và thế giới. Một số thị trường phát triển mạnh, vận hành tương
đối thông suốt, như thị trường hàng hóa, dịch vụ, thị trường chứng khoán. Quy mô,
phạm vi tự do hóa các loại thị trường ngày càng được mở rộng,... Các thành tố cơ
bản của thị trường tài chính, như thị trường tín dụng ngân hàng, thị trường chứng
khoán, thị trường bảo hiểm cùng nhiều loại công cụ tài chính, giấy tờ có giá đã được
hình thành tương đối hoàn chỉnh và đang được đưa vào vận hành, góp phần tạo điều
kiện thu hút, tạo ra nguồn vốn cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thị
trường tiền tệ phát triển với quy mô giao dịch ngày càng tăng, hàng hóa trên thị
trường tiền tệ ngày càng đa dạng, hoạt động của thị trường góp phần thúc đẩy cơ
chế điều hòa vốn ngắn hạn một cách linh hoạt trong phạm vi toàn hệ thống các ngân
hàng, từ đó phát huy hiệu quả sử dụng vốn của các ngân hàng thương mại.

Hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với phát triển các yếu tố thị trường, các loại thị
trường ngày càng được nâng cao, thủ tục hành chính từng bước được hoàn thiện,
đáp ứng yêu cầu phát triển các loại thị trường. Nhiều rào cản tham gia thị trường

10
được dỡ bỏ; môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện rõ rệt, khởi nghiệp sáng
tạo và phát triển doanh nghiệp khá sôi động.

Doanh nghiệp nhà nước từng bước được sắp xếp, tổ chức lại có hiệu quả hơn; kinh
tế tư nhân ngày càng khẳng định là một động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế
tập thể từng bước được đổi mới gắn với cơ chế thị trường; kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài phát triển nhanh, là bộ phận quan trọng của nền kinh tế.

Hội nhập kinh tế quốc tế phát triển sâu, rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình
thức, ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do song phương, đa phương thế hệ mới;
kim ngạch xuất, nhập khẩu, thu hút vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh, đóng góp tích
cực vào tăng trưởng kinh tế và sự phát triển của đất nước.

Thứ hai, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đem lại
những thay đổi rất to lớn cho Việt Nam trong công cuộc đổi mới.

Mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Việt Nam đã ra khỏi nhóm các
nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Quy mô GDP theo giá hiện hành năm 2022 ước
đạt 9,513 triệu tỷ đồng, tương đương 409 tỷ USD. GDP bình quân đầu người năm
2022 theo giá hiện hành ước đạt 95,6 triệu đồng/người, tương đương 4.110 USD (1).
Cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội xét trên phương diện quan hệ sở hữu, gồm khoảng
27% từ kinh tế nhà nước, 4% từ kinh tế tập thể, 30% từ kinh tế hộ, 10% từ kinh tế
tư nhân trong nước và 20% từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài(2).

Đặc biệt, sau khi cơ bản khống chế được đại dịch COVID-19, từ quý IV-2021 nền
kinh tế Việt Nam đã mở cửa trở lại và có những bước hồi phục và tăng trưởng mạnh
mẽ. Năm 2022, tăng trưởng GDP đạt 8,02%, lạm phát cơ bản bình quân tăng 2,59%
so với năm 2021, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 371,85 tỷ USD, tăng 10,6% so
với năm trước; kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt 360,65 tỷ USD, tăng 8,4% so với
năm trước. Thặng dư cán cân thương mại 11,2 tỷ USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài thực hiện tại Việt Nam đạt 22,4 tỷ USD, tăng 13,5% so với năm trước.

An sinh xã hội đạt nhiều kết quả quan trọng, nhất là trong giáo dục, y tế, hỗ trợ các
đối tượng có hoàn cảnh khó khăn. Nhiều dịch bệnh vốn phổ biến trước đây đã được
khống chế thành công. Người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi được cấp
bảo hiểm y tế miễn phí. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh
giảm gần ba lần. Đến tháng 4-2022, cả nước có 5.706/8.227 xã đạt chuẩn nông thôn
mới, trong đó 663 xã đạt chuẩn nâng cao và 71 xã đạt chuẩn kiểu mẫu (3); hầu hết các
xã nông thôn đều có đường ô-tô đến trung tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu
học và trung học cơ sở, trạm y tế và điện thoại.

Nhờ kinh tế phát triển, Việt Nam có điều kiện để chăm sóc tốt hơn người có công,
phụng dưỡng Mẹ Việt Nam Anh hùng, chăm lo phần mộ của các liệt sĩ đã hy sinh vì
Tổ quốc. Đời sống văn hóa cũng được cải thiện đáng kể; sinh hoạt văn hóa phát
triển phong phú, đa dạng. Việt Nam hiện có khoảng 70% dân số sử dụng internet, là
một trong những nước có tốc độ phát triển internet cao nhất thế giới. Liên hợp quốc

11
đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa
Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ.

Có thể nói, việc thực hiện đường lối đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đã đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích
cực ở Việt Nam: Kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói
giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được
giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại
và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng
cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố.

5/ Tiếp tục xây dựng nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:
Thực tiễn phát triển nhanh về kinh tế, ổn định về chính trị, xã hội và vị thế ngày
càng cao của Việt Nam trên trường quốc tế đã đặt ra yêu cầu cho Đảng và Nhà nước
cần tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII, những chủ trương và giải pháp cụ thể
được đề ra là:
a. Thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta:
Đó là nền kinh tế mà trong đó các thiết chế, công cụ và nguyên tắc vận hành
được tự giác tạo lập và sử dụng để giải phóng mạnh mẽ nhất sức sản xuất, từng
bước nâng cao đời sống nhân dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
Là nền kinh tế vừa tuân theo các quy luật khách quan của thị trường, vừa chịu sự
chi phối bởi các quy luật kinh tế và các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, thông qua
vai trò quản lý, điều hành định hướng của Nhà nước, do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
b. Hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình
doanh nghiệp và các tổ chức sản xuất kinh doanh:
- Hoàn thiện chính sách phân phối để các nguồn lực của đất nước ngày càng
được sử dụng với hiệu quả cao hơn và giải quyết tốt hơn các quan hệ giữa tích lũy
và tiêu dùng, giữa tăng trưởng kinh tế và chính sách xã hội, giữa lợi ích Nhà nước,
doanh nghiệp và người lao động, giữa các khu vực, vùng, miền...
- Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các chủ thể
trong nền kinh tế để doanh nghiệp nhà nước góp phần đắc lực vào vai trò chủ đạo
của kinh tế nhà nước, đồng thời các loại hình doanh nghiệp khác cùng phát triển
mạnh mẽ, cùng hợp tác đầu tư lẫn nhau, liên doanh, liên kết và cạnh tranh lành
mạnh, bình đẳng trong cùng một mặt bằng pháp lý.
- Tăng cường đầu tư và đổi mới cơ chế quản lý của Nhà nước để các đơn vị sự
nghiệp công lập phát triển mạnh mẽ, có hiệu quả. Thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu

12
trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp về tổ chức bộ máy, biên chế, nhân sự và về tài
chính trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao.
- Thay thế những quy chế không còn phù hợp bằng cơ chế mới (nhất là chính
sách tài chính - mô hình quản lý) để tạo điều kiện cho lực lượng báo chí Việt Nam
phát triển theo mô hình báo chí - truyền thông hiện đại, có bản lĩnh chính trị -
nghiệp vụ vững vàng, tiềm lực kinh tế mạnh, kỹ thuật - công nghệ tiên tiến để hoàn
thành tốt chức năng, nhiệm vụ trong tình hình mới.
c. Hoàn thiện thể chế bảo đảm đồng bộ các yếu tố của thị trường và phát triển đồng
bộ các loại thị trường:
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế về giá, về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong
kinh doanh, thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà
nước. - Đa dạng hóa các loại thị trường hàng hóa, dịch vụ theo hướng văn minh,
hiện đại, tương thích với các phương thức giao dịch quốc tế theo các cam kết và lộ
trình mở cửa hội nhập ngày càng cao.
Đặc biệt chú trọng đổi mới hoạt động của Ngân hàng Nhà nước theo đúng chức
năng của một ngân hàng trung ương hiện đại, trên cơ sở đó phát huy tốt hơn vai trò
điều hành thị trường tiền tệ, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm
phát. Bên cạnh đó là tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại, thực hiện tốt việc
cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước, thu hút được các đối tác chiến
lược (kể cả trong và ngoài nước), song Nhà nước giữ cổ phần chi phối.
- Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật để thị trường chứng khoán tiếp tục
phát triển lành mạnh, thị trường bảo hiểm phát triển đa dạng với chất lượng cao, các
quyền về đất đai, bất động sản vận động theo cơ chế thị trường, phát huy vai trò một
nguồn vốn to lớn trong sản xuất kinh doanh.
- Hệ thống chính sách, pháp luật về tiền lương, tiền công cần sớm hoàn thiện đi
đôi với kiểm soát lạm phát để bảo đảm thu nhập thực tế ngày càng tăng cho người
hưởng lương.
d. Hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội
trong từng bước, từng chính sách phát triển và bảo vệ môi trường:
Tiếp tục khuyến khích làm giàu đi đôi với tích cực giảm nghèo, vươn lên no ấm, tập
trung đầu tư phát triển kinh tế - xã hội ở một số vùng trọng điểm có tỷ lệ hộ nghèo
cao, thu hẹp hợp lý khoảng cách giàu nghèo giữa các đối tượng, các vùng, không để
sự chênh lệch đó trở thành vấn đề xã hội bức xúc.

13
e. Hoàn thiện thể chế, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản
lý nhà nước về kinh tế, tăng cường sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội,
các tổ chức xã hội, nghề nghiệp và của nhân dân vào quá trình phát triển kinh tế - xã
hội:
- Tăng cường chỉ đạo nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để xác định rõ, cụ thể
và đầy đủ hơn mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN. Coi trọng đổi mới tư
duy, công tác tuyên truyền, giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân
dân thống nhất nhận thức về vấn đề này, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội. Đổi
mới công tác tổ chức và cán bộ, đặc biệt là cán bộ trong lĩnh vực xây dựng và thực
thi thể chế kinh tế...
- Đổi mới, nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước phù hợp với
những yêu cầu của quá trình phát triển thể chế mới và hội nhập kinh tế quốc té...
- Nâng cao vai trò của các tổ chức dân cử, tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã
hội, nghề nghiệp và của nhân dân để tham gia có hiệu quả vào quá trình hoạch định,
thực thi và giám sát thực hiện pháp luật, chính sách phát triển kinh tế - xã hội.

14
Kết luận
Tiểu luận với đề tài "Biện chứng giữa cái chung và cái riêng và vận dụng vào nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam" của tôi đã nêu ra những kiến thức cơ bản về cái
chung và cái riêng, mối quan hệ biện chứng giữa chúng. Cái chung và cái riêng gắn
bó chặt chẽ với nhau. Cái chung tồn tại bên trong cái riêng, thông qua cái riêng để
thể hiện sự tồn tại của mình, còn cái riêng tồn tại trong mối liên hệ dẫn đến cái
chung. Vận dụng vào nền kinh tế ở Việt Nam, đất nước ta đã tiến hành phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tiếp thu cái chung của nền kinh
tế thế giới nhưng không làm mất cái đơn nhất, bản sắc của nền kinh tế Việt Nam.
Thực hiện đúng quy luật phát triển chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng,
đạt mức tăng trưởng kinh tế cao. Tiểu luận đã phân tích thành tựu của nền kinh tế
đạt được qua việc vận dụng nguyên lý cơ bản của Mác Lênin.
Tuy đạt được nhiều thành tựu nhưng chúng ta vẫn phải tiếp tục cải thiện những
điểm thiếu sót nhằm hoàn thiện nền kinh tế, tiêu biểu là cải thiện nhận thức, thống
nhất quan điểm để mỗi cá nhân đều tin tưởng vào nền kinh tế thị trường bản chất xã
hội chủ nghĩa ở nước ta thông qua việc giáo dục tuyên truyền. Đồng thời là tăng
cường công tác quản lí của Nhà nước, kích thích các doanh nghiệp cá nhân cạnh
tranh phát triển công bằng, lành mạnh. Tích cực hội nhập, học hỏi nền kinh tế quốc
tế, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào Việt Nam. Qua đó làm cho nền kinh
tế của nước ta năng động, phát triển, hội nhập cùng thế giới.

15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lenin
2. Mai Ngọc Cường, Lý thuyết hiện đại về kinh tế thị trường
3. Nguyễn Sinh Cúc, Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa
4. Đỗ Đức Thịnh, Nhà nước trong kinh tế thị trường các nước đang phát triển ở
Châu Á
5. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (khóa XIII)
6. Tổng cục Thống kê: “Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm 2022”,
Trang thông tin điện tử Tổng cục Thống kê,
https://www.gso.gov.vn/bai-top/2022/12/bao-cao-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-quy-iv-
va-nam-2022/

16

You might also like