Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 7

2.

TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ

2.1 TỔNG QUAN

Úc là một trong những nước tư bản có nền kinh tế tự vận hành theo chỉ số tự do kinh
tế. Úc có GDP trên đầu người là cao hơn một chút so với các quốc gia như Anh, Đức
và Pháp trong điều kiện với sức mua tương đương. Úc được xếp hạng thứ tư trong
Liên Hợp Quốc năm 2008 về phát triển con người và đứng thứ sáu trong The
Economist về chỉ số chất lượng của đời sống trên toàn thế giới năm 2005.

Việc nhấn mạnh hơn về tầm quan trọng của xuất khẩu hàng hoá hơn là củng cố các
nhà sản xuất đã gia tăng đáng kể về mặt thương mại của Úc trong thời kỳ tăng giá
hàng hóa từ năm 2000. Ngân sách hiện tại của Úc là hơn 7% của GDP âm: Úc đã liên
tục có những thâm hụt ngân sách hiện tại lớn trong hơn 50 năm.[19] Australia đã tăng
trưởng bình quân hàng năm là 3,6% trong hơn 15 năm, cũng ở trên mức trung bình
của OECD là 2,5%.[19]

Trong tháng 1 năm 2007, đã có 10.033.480 người có việc làm , với một tỷ lệ thất
nghiệp 4,6%.[20] Trong những thập kỷ vừa qua, lạm phát đã thường được ở mức 2-
3% và các mức lãi suất cơ bản là 5-6%. Các ngành dịch vụ của nền kinh tế, bao gồm
du lịch, giáo dục và dịch vụ tài chính, đóng góp 69% trong GDP.[21]

Mặc dù ngành nông nghiệp và tài nguyên thiên nhiên chỉ đóng góp tương ứng là 3%
và 5% trong GDP, nhưng chúng góp phần đáng kể vào hiệu suất xuất khẩu. Úc là thị
trường xuất khẩu lớn nhất của Nhật Bản, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Hàn Quốc và New
Zealand.[22]

Giàu tài nguyên thiên nhiên, Úc là một nước xuất khẩu lớn về sản phẩm nông nghiệp,
đặc biệt là mì và len, những khoáng sản như quặng sắt và vàng, và năng lượng trong
các hình thức khí thiên nhiên hóa lỏng và than. Australia có một lực lượng lao động
khoảng mười triệu người.[23]

Trong thập kỷ vừa qua, một trong những xu hướng quan trọng nhất ngành kinh
nghiệm của các nền kinh tế đã được sự tăng trưởng (trong điều kiện tương đối) của
khu vực khai thác khoáng sản (bao gồm cả dầu mỏ). Trong điều kiện đóng góp vào
GDP, khu vực này đã tăng từ khoảng 4,5% trong năm 1993-1994, đến gần 8% trong
năm 2006-2007.

Tăng trưởng trong lĩnh vực dịch vụ cũng đã tăng trưởng đáng kể, với bất động sản và
kinh doanh các dịch vụ nói riêng ngày càng tăng từ 10% đến 14,5% GDP so với cùng
kỳ, khiến nó trở thành phần lớn nhất trong GDP (trong điều kiện ngành). Sự tăng
trưởng này có được phần lớn tại các chi phí của ngành sản xuất, mà trong năn 2006-
2007 chiếm khoảng 12% GDP. Một thập kỷ trước đó, nó là thành phần kinh tế lớn
nhất trong nền kinh tế, chiếm chỉ hơn 15% GDP.[24]

KINH TẾ TỰ DO
2. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ

Từ đầu những năm 1980 trở đi, kinh tế Úc đã tiếp tục thực hiện theo nền kinh tế tự do.
Trong năm 1983, dưới thời thủ tướng Bob Hawke, đồng đô la Úc được thả nổi và
chính sách tài chính khôn khéo bãi bỏ sự điều tiết được đưa vào thực hiện. Đầu những
năm 1990 cho thấy nền kinh tế Úc lâm vào thoái trào và nợ của chính phủ tăng lên tới
$96 tỷ dưới thời thủ tướng Paul Keating.

Món nợ $96 tỷ của chính phủ đã được thanh toán đầy đủ vào giữa những năm 1996 và
2007 bởi chính phủ theo đường lối tự do của thủ tướng John Howard và giám đốc
ngân hàng Peter Costello. Trong suốt thời kỳ lãnh đạo, giới thiệu thuế hàng hóa và
dịch vụ (GST) tìm cách khuyến khích mức độ tiết kiệm giữa người có thu nhập thấp.
Để chống lại những hậu quả trong giảm tiêu thụ cho người thu nhập thấp, thuế thu
nhập đã được hạ xuống như là một sự đánh đổi cho việc giới thiệu GST. Tổng mức
thuế tại Úc từ đó đã được giảm xuống một cách nhất quán để khuyến khích tiêu thụ tư
nhân và đầu tư, trái với chi tiêu của chính phủ cao hơn.

Hiện tại các khu vực quan tâm đến một số nhà kinh tế lớn của Úc bao gồm thâm hụt
ngân sách hiện tại, thâm hụt ngân sách hiện tại của Úc trong năm 2007 - 2008 năm tài
chính đã được lên 4% đến $ 19,49 tỷ đồng (theo Cục Thống kê), việc thiếu thành công
trong xuất khẩu theo định hướng sản xuất công nghiệp, một bong bóng bất động sản,
và các khoản nợ lớn từ nước ngoài của khu vực tư nhân.

2.2 NGÀNH KINH TẾ

- Công nghiệp:
+ Các ngành công nghiệp chủ yếu của Ô-xtrây-li-a la: thực phẩm, khai khoáng, luvện
kim, hoá chất, vật liệu xây dựng,... Ngành khai khoáng đóng góp 5,6 % vào GDP
nhưng lại chiếm tới 35 % kim ngạch xuất khẩu cúa Ô-xtrây-li-a (năm 2020). Ngành
này phân bố ở nhiều nơi. Các ngành công nghiệp như: điện tử, tin học, chế tạo, thực
phẩm,.. phân bố chủ yếu ở phía đông và phía nam. Các trung tâm công nghiêp lớn là:
Xit-ni, Men-bon, Bri-xbên, A-dê-lai, Gi-lông, Pớc.

- Nông nghiệp:
+ Ô-xtray-li-a có nền nông nghiệp phát triển mạnh. Lúa mì là cây ngũ cốc hàng đầu
của đất nước này, được trồng nhiều ở phía đông nam và tây nam. Các cây trồng quan
trọng khác bao gồm: bông, thuốc lá, mía, ngô, nho, cam,... trồng chủ yếu ở các vùng
phía nam cúa đất nước.

+ Chăn nuôi cừu và bò phát triển mạnh. Cừu được nuôi ở hầu hết các vùng, nhưng có
hơn 1/3 tổng đàn cừu được chăn thả hoàn toàn trên đồng cỏ tự nhiên tại các vùng khô
hạn của Bắc Ô-xtray-li-a, Nam Ô-xtray-li-a và Quin-xlen. Hầu hết thịt bò của Ô-xtray-
li-a được nuôi ở Quin-xlen, Bắc Ô-xtray-li-a và Nam xứ Uên.

- Dịch vụ
+ Ngành dịch vụ chiếm vị trí chủ đạo trong nền kinh tế Ô-xtray-li-a, đóng góp tới
66,3% vào GDP và sử dụng 77,7% lực lượng lao động (năm 2020). Cơ cấu dịch vụ đa
dạng, trong đó phát triển mạnh du lịch, tài chính,…
2. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ

2.3 TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG

Kể từ đầu những năm 1990, tốc độ tăng trưởng GDP của Australia đã đạt trung bình
3,2% mỗi năm (cao hơn bất kỳ nền kinh tế tiên tiến lớn khác trên thế giới). Nền kinh
tế Australia đã ghi nhận một giai đoạn tăng trưởng kinh tế chưa từng có, chỉ bị gián
đoạn bởi ảnh hưởng do đại dịch COVID-19.
Nhu cầu rất lớn về tài nguyên thiên nhiên, năng lượng và nông sản từ các nền kinh tế
đang phát triển nhanh chóng ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, trong đó có
Việt Nam, đã và đang là một động lực quan trọng của tăng trưởng kinh tế và hội nhập
khu vực đối với Australia. Nhu cầu ngày càng tăng từ khu vực đối với giáo dục, du
lịch và các dịch vụ chuyên nghiệp khác của Australia cũng đã góp phần vào tăng
trưởng kinh tế của nước này. Sức mạnh và khả năng chống chịu tốt của nền kinh tế
Australia cũng dựa trên quản trị tốt và các thể chế mạnh mẽ.

Thành công kinh tế của Australia được phản ánh trong các biện pháp cạnh tranh quốc
tế và mức độ thuận lợi kinh doanh, bao gồm:
* Tính đến năm 2020, Australia là nền kinh tế lớn thứ 13 trên thế giới, với GDP hàng
năm gần 1,4 nghìn tỷ USD9;
* Chỉ số Năng lực Cạnh tranh Toàn cầu của Diễn đàn Kinh tế Thế giới năm 2019 xếp
hạng Australia ở vị trí thứ 16;
* Chỉ số Thuận lợi Kinh doanh của Ngân hàng Thế giới năm 2020 đã xếp hạng
Australia ở vị trí 14.
Australia nhận thấy thành công liên tục của nền kinh tế của mình phụ thuộc vào việc
đảm bảo việc tham gia của lực lượng lao động nữ giới và an ninh kinh tế của nữ giới.
Vào tháng 5 năm 2021, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của nữ giới tại Australia là
61,8% và chênh lệch về thu nhập giữa nam giới và nữ giới vẫn tồn tại ở mức 13,4%.

Để nhận thức các thách thức lâu dài và những thử thách do đại dịch COVID-19 gây ra,
Australia tiếp tục ưu tiên sự tham gia của nữ giới vào nền kinh tế cùng với một loạt
các biện pháp được đưa ra, ví dụ như trong Tuyên bố An ninh Kinh tế Phụ nữ 2020 và
Tuyên bố ngân sách phụ nữ 2020-2021.

GDP CỦA ÚC

Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Úc vào năm 2022 là 1,692.96 tỷ USD theo số liệu
mới nhất từ Ngân hàng thế giới. Theo đó chỉ số GDP Úc tăng 133.92 tỷ USD so với
con số 1,559.03 tỷ USD trong năm 2021. Ước tính GDP Úc năm 2023 là 1,838.38 tỷ
USD nếu vẫn giữ nguyên tốc độ tăng trưởng như năm vừa rồi. Với giả định tình hình
kinh tế Úc và kinh tế thế giới không có nhiều biến động. Số liệu GDP của Úc được ghi
nhận vào năm 1960 là 18.61 tỷ USD, trải qua khoảng thời gian 63 năm, đến nay giá trị
GDP mới nhất là 1,692.96 tỷ USD. Đạt đỉnh tăng trưởng cao nhất 1,692.96 tỷ USD
vào năm 2022. Biểu đồ GDP của Úc giai đoạn 1960 - 2022 Phóng To Quan sát Biểu
đồ GDP của Úc giai đoạn 1960 - 2022 chúng ta có thể thấy trong gian đoạn 1960 -
2022 chỉ số GDP: đạt đỉnh cao nhất vào năm 2022 là 1,692.96 tỷ USD có giá trị thấp
nhất vào năm 1960 là 18.61 tỷ USD.
2. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ

Quan sát Biểu đồ GDP của Úc giai đoạn 1960 - 2022 chúng ta có thể thấy trong gian
đoạn 1960 - 2022 chỉ số GDP: đạt đỉnh cao nhất vào năm 2022 là 1,692.96 tỷ USD có
giá trị thấp nhất vào năm 1960 là 18.61 tỷ USD.

* NHẬN XÉT:
- GDP của nước này giai đoạn 2000-2020 có xu hướng tăng nhanh giai đoạn 2000-
2010 và sư tăng vẫn duy trì ở mức ổn định từ năm 2010-2020.
- Ngược lại, tốc độ tăng trưởng GDP tại có xu hướng giảm dần và thậm chí chỉ chạm
mốc 0,0%.
2. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ

* NHẬN XÉT:
- Nhìn chung, giai đoạn 2000-2020, GDP các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ
sản và thuế sản phẩm trừ trợ cáp sản phẩm có xu hướng giảm (cụ thể lần lượt là 3,1 ->
2,0% và 7,9 -> 6,2%), trong khi đó các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ có xu
hướng tăng lên ( cụ thể lần lượt 24,6 -> 25,5% và 64,4 -> 66.3%).

GDP BÌNH QUÂN ĐÀU NGƯỜI CỦA ÚC

Vào năm 2022 là 65,099.85 USD/người theo số liệu mới nhất từ Ngân hàng thế giới.
Theo đó chỉ số GDP bình quân đầu người Úc tăng 4,402.60 USD/người so với con số
60,697.25 USD/người trong năm 2021. Ước tính GDP bình quân đầu người Úc năm
2023 là 69,821.79 USD/người nếu vẫn giữ nguyên tốc độ tăng trưởng như năm vừa
rồi. Với giả định tình hình kinh tế Úc và kinh tế thế giới không có nhiều biến động. Số
liệu GDP bình quân đầu người của Úc được ghi nhận vào năm 1960 là 1,810.60
USD/người, trải qua khoảng thời gian 62 năm, đến nay giá trị GDP bình quân đầu
người mới nhất là 65,099.85 USD/người. Đạt đỉnh tăng trưởng cao nhất 68,198.42
USD/người vào năm 2013. Biểu đồ GDP bình quân đầu người của Úc giai đoạn 1960
- 2022 Phóng To Quan sát Biểu đồ GDP bình quân đầu người của Úc giai đoạn 1960 -
2022 chúng ta có thể thấy trong gian đoạn 1960 - 2022 chỉ số GDP bình quân đầu
người: đạt đỉnh cao nhất vào năm 2013 là 68,198.42 USD/người có giá trị thấp nhất
vào năm 1960 là 1,810.60 USD/người.
2. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ

Quan sát Biểu đồ GDP bình quân đầu người của Úc giai đoạn 1960 - 2022 chúng ta có
thể thấy trong gian đoạn 1960 - 2022 chỉ số GDP bình quân đầu người: đạt đỉnh cao
nhất vào năm 2013 là 68,198.42 USD/người có giá trị thấp nhất vào năm 1960 là
1,810.60 USD/người.

2.4 TRIỂN VỌNG VÀ DỰ BÁO

Trong bài phát biểu trước báo giới ngày hôm nay, Thống đốc Ngân hàng Dự trữ
Australia Philip Lowe cho biết, ông lạc quan về triển vọng của nền kinh tế Australia
trong năm 2022. Tiến sỹ Philip Lowe dự báo trong năm 2022, GDP Australia sẽ tăng
trưởng 4,25% và con số này của năm 2023 là 2%.

Kết quả này đạt được là nhờ nền kinh tế Australia đã đối mặt với đại dịch tốt hơn sự
mong đợi, đồng thời nền kinh tế cũng đã phục hồi mạnh mẽ sau mỗi lần dịch bùng
phát. Sau đợt dịch biến thể Delta bùng phát vào năm ngoái, nền kinh tế Australia đã
nhanh chóng hồi phục, số lượng việc làm mới được tạo ra ngày càng nhiều, tỷ lệ thất
nghiệp thấp, tiền lương đang tăng và ngân sách của các gia đình và công ty đều đang ở
trong tình trạng tốt. Cụ thể, trong năm 2021, GDP của Australia tăng 5%, cao hơn
1,5% so với dự báo; tỷ lệ thất nghiệp chỉ còn 4,2%, so với con số 6% của dự báo.
Khoản tiền tiết kiệm của các gia đình trong tài khoản ngân hàng trong 2 năm vừa qua
cũng lên tới 200 tỷ AUD.
2. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ

Tuy nhiên, theo báo cáo triển vọng kinh tế 2024 của Liên Hợp Quốc, nền kinh tế
Australia sau khi đại dịch Covid-19 qua đi, vẫn đang đối mặt với hàng loạt thách thức,
khó khăn khi GDP thực tế năm 2023 chỉ đạt mức tăng trưởng khoảng 1,9% và sẽ tiếp
tục giảm xuống trong năm 2024, với mức lạm phát dự báo vẫn ở mức cao.

You might also like