Professional Documents
Culture Documents
LỊCH SỬ ĐẢNG
LỊCH SỬ ĐẢNG
Vấn đề thực lực cách mạng từ Hội nghị Geneve (1954) đến Hội nghị Paris
(1973) - Bài học trong quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay
Thành phần tham dự gồm Bốn bên nhưng thực chất lại là lập trường hai bên giữa
Việt Nam và Hoa Kỳ, không có sự tham dự và tác động của bên thứ ba, điều này
đã tạo lợi thế cho Việt Nam trên bàn đàm phán.Đến tháng 01/1969, phiên họp đầu
tiên của Hội nghị giữa Bốn bên chính thức diễn ra tại Paris. Trong giai đoạn đầu,
lập trường hai bên còn rất xa nhau, khiến các cuộc thảo luận diễn ra vô cùng gay
gắt. Tuy nhiên,trong thời gian này, trái ngược với Mỹ, Việt Nam lại chiếm được
ưu thế lớn trên mặt trận quân sự. Những thắng lợi quân sự của Việt Nam trong
các chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, Đông Bắc và Đông Nam Campuchia trong
năm 1971; các chiến dịch tiến công Trị- Thiên, Bắc Tây Nguyên, Đông Nam Bộ,
Bắc Bình Định, Khu 8 Nam Bộ... trong năm 1972 đã làm quân Mỹ - ngụy bị thiệt
hại nặng nề,từng bước làm phá sản chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và tạo
thế thuận lợi cho Việt Nam trên bàn đàm phán. Ngoài ra, Việt Nam đã tận dụng
triệt để lợi thế của bối cảnh bên ngoài lúc bấy giờ để đưa Hiệp định Paris lên bàn
đàm phán:
(1)Đó là sự ủng hộ của đông đảo cộng đồng người Việt, trong đó có rất nhiều sinh
viên đi từ miền Nam sang Pháp du học;
(2) Vai trò của dư luận (không ở đâu có khả năng tập hợp được dư luận và
thông tin một cách nhạy bén như ở Paris, địa điểm có thể ví như đầu não thông
tin của thế giới lúc bấy giờ). Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Việt Nam
luôn chiếm gần một nửa thời lượng thông tin thời sự quốc tế, đặc biệt là giai đoạn
cuối của tiến trình đàm phán Hiệp định Paris;
(3) Sự giúp đỡ về vật chất của Đảng Cộng sản Pháp (PCF) dành cho Việt Nam
khi tham gia đàm phán, một lực lượng chính trị rất mạnh ở Pháp lúc bấy giờ. PCF
còn có vai trò tích cực trong việc tập hợp các lực lượng chính trị và nhân dân Pháp
ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam và phản đối cuộc chiến tranh
xâm lược của Mỹ. PCF còn là cầu nối giữa Việt Nam và Pháp (vì hai nước lúc
bấy giờ chưa có quan hệ ngoại giao ở cấp đại sứ).
Khác với Hội nghị quốc tế Geneva về Đông Dương năm 1954, Hội nghị Paris là
một cuộc đàm phán tay đôi do Việt Nam thắng lớn và chủ động đề xướng. Còn
Mỹ, bị thất bại nặng nề buộc không thể không chấp nhận thương lượng để tìm
một lối thoát danh dự.
Mỹ phải coi Việt Nam dân chủ cộng hoà là một bên đối thoại trực tiếp và bình
đẳng để giải quyết mọi vấn đề của cuộc chiến tranh Việt Nam. Cuộc đàm phán
Paris mở ra cục diện “vừa đánh, vừa đàm,” phản ánh một giai đoạn chiến đấu cực
kỳ gay go, quyết liệt giữa Việt Nam và Mỹ.
Đây cũng là đỉnh cao của sự kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng cả 3 mặt trận: quân sự,
chính trị và ngoại giao; giữa cuộc chiến đấu của quân và dân Việt Nam trên chiến
trường với cuộc đấu tranh trên bàn đàm phán và trên trường quốc tế.
Ngày 13/5/1968, Hội nghị Paris về Việt Nam chính thức khai mạc. Khác với Hội
nghị Geneva năm 1954, khi đó ta "đánh rồi mới đàm," lần này ta vừa đánh vừa
trực tiếp đàm phán với đối phương.
Trong giai đoạn 1 của Hội nghị (từ ngày 13/5 đến 31/10/1968), mục tiêu của ta là
đòi Mỹ chấm dứt ném bom vô điều kiện miền Bắc. Giai đoạn này, đàm phán diễn
ra gần như đồng thời với đợt hai và ba của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết
Mậu Thân 1968.
Hai mặt trận đánh-đàm đã có sự phối hợp, hỗ trợ cho nhau nhưng tác dụng trực
tiếp còn ít vì trên bàn thương lượng, Mỹ chưa đi vào đàm phán thực chất, chưa
"ngả bài" hoàn toàn. Ta chủ yếu đấu tranh để kéo Mỹ xuống thang từng bước
Sau khi Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc hoàn toàn, giai đoạn 2 bắt đầu từ
25/1/1969 khi mở ra đàm phán 4 bên, các cuộc gặp riêng Lê Đức Thọ-H.Kissinger
và đi đến ký Hiệp định Paris về Việt Nam.
Càng về cuối cục diện "vừa đánh vừa đàm" càng được phát huy cao độ. Đỉnh cao
trong việc vận dụng thành công nghệ thuật này được thể hiện ở thời điểm tháng
3/1972 khi Mỹ đơn phương ngừng không thời hạn Hội nghị Paris, ném bom trở
lại miền Bắc. Trung ương Đảng vẫn chủ trương duy trì Hội nghị Paris với mục
tiêu làm diễn đàn tuyên truyền để tranh thủ dư luận quốc tế và kết hợp với chiến
trường để đấu tranh với Mỹ về mặt ngoại giao.
Quán triệt chỉ đạo này, phái đoàn ta tại Paris đã đấu tranh, đòi Mỹ phải nối lại
đàm phán theo hướng giải quyết toàn bộ về vấn đề chiến tranh Việt Nam.
Ngày 08/10/1972, phái đoàn Việt Nam đưa cho Mỹ bản dự thảo “Hiệp định về
chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam”và đề nghị thảo luận để đi đến
ký kết. Lúc đầu, bản dự thảo được các bên nhất trí 11 Tạp chí Quản lý nhà nước -
Số 324 (1/2023) nhưng đến ngày 22/10/1972, phía Mỹ lật lọng viện dẫn chính
quyền Nguyễn Văn Thiệu đòi sửa đổi bản dự thảo.
Đêm ngày 18/12/1972, Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon ra lệnh ném bom hủy
diệt Hà Nội và Hải Phòng bằng B52. Cuộc đụng đầu lịch sử trong 12 ngày đêm
được ví là “Trận Điện Biên Phủ trên không” kết thúc bằng việc 38 pháo đài bay
B52 và 43 máy bay chiến đấu khác của Mỹ bị bắn rơi ngay trên bầu trời Hà Nội.
Chiến thắng này đã đập tan hoàn toàn ý chí xâm lược của Mỹ tại Việt Nam. Thất
bại của Mỹ trên chiến trường miền Nam cùng với thất bại của không quân chiến
lược Mỹ trên bầu trời Hà Nội đã buộc Mỹ phải chấp nhận thất bại, nối lại đàm
phán tại Paris.Trên tư thế bên chiến thắng, phái đoàn Việt Nam tại cuộc đàm phán
đã kiên quyết đấu tranh giữ vững nội dung của dự thảo Hiệp định đã thỏa thuận.
Để có được một Hội nghị Paris khai cuộc ngày 13/5/1968 đã là khó khăn không
hề nhỏ, nhưng để có một Hội nghị Paris kết thúc với kết quả đúng như phía ta
mong muốn lại còn khó khăn gấp bội. Thậm chí, nhiều nhà nghiên cứu còn cho
rằng trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của nhân dân Việt Nam, có lẽ chưa
có cuộc đàm phán nào kéo dài và cam go như Hội nghị Paris: tới 4 năm, 8 tháng,
với vô vàn những giằng co, đấu trí, đấu lý căng thẳng, quyết liệt, kiên trì, bền bỉ
đeo đuổi nhau từng chút một giữa ta và Mỹ.
Khi nhìn lại cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, nhiều nhà bình luận quốc tế
đánh giá Hội nghị Paris là bức tranh hùng hồn nhất của cuộc đụng đầu lịch sử giữa
một bên là lực lượng cách mạng nhất với một bên là thế lực hiếu chiến, tàn bạo
nhất và Hiệp định Paris là “huyền thoại của thế kỷ XX.”
3. Bài học trong quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, ngoại giao chỉ phát huy vai trò và công dụng trên nền tảng sức mạnh
tổng hợp của đất nước được thể hiện trên mọi phương diện: kinh tế, chính trị, quân
sự... Thực sự, chúng ta chỉ có thể giành được thắng lợi trên bàn đàm phán khi
chúng ta giành được chiến thắng trên chiến trường. Thắng lợi về quân sự ở Điện
Biên Phủ góp phần quyết định vào thắng lợi về ngoại giao ở Giơ-ne-vơ.
Thứ hai, trong quá trình đàm phán, chúng ta phải quán triệt quan điểm nhân
nhượng có nguyên tắc. Rõ ràng, khi chấp nhận cùng nhau đàm phán tức là mỗi
bên đều có điểm mạnh, yếu của mình; trên bàn đàm phán, bên nào cũng cố gắng
giành phần có thể và nhân nhượng cho đối phương những điều mình chưa thể. Vì
vậy, trong quá trình đàm phán, sự nhân nhượng lẫn nhau là điều tất yếu nhưng
điều không bao giờ được phép nhân nhượng là độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh
thổ. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn: “Mục đích bất di bất dịch của ta
vẫn là hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững
chắc nhưng sách lược của ta phải linh hoạt”. Vì thế, trong quá trình đàm phán,
nhà ngoại giao phải biết nhân nhượng đúng mức, không quá tả để phá vỡ đàm
phán, không quá hữu để tổn hại đến lợi ích cơ bản của dân tộc.
Thứ ba là tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng -là nhân tố quyết
định mọi thắng lợi. Sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng mở ra mặt trận ngoại giao,
phát huy thế mạnh của ngoại giao, phối hợp với các mặt trận chính trị,quân sự;
lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, thống nhất các mặt trận, “vừa đánh, vừa đàm”, tạo
ra sức mạnh tổng hợp, giành toàn thắng. Trong suốt quá trình đàm phán, Bộ
Chính trị đã luôn theo dõi và chỉ đạo sát sao cả về chiến lược và sách lược đối với
hai đoàn đàm phán để đi đến thắng lợi cuối cùng.
Tiếp đến là bài học về tầm quan trọng của thực lực. Thắng lợi của Hội nghị Paris
bắt nguồn từ những thắng lợi trên chiến trường,từ sự lớn mạnh không ngừng về
thế và lực của ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đó là sức mạnh của
chính nghĩa, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo sáng
suốt của Đảng và sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế; sức mạnh từ sự kết hợp tài tình giữa
các mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao; giữa đánh và đàm, giữa chiến trường
và bàn đàm phán.
Bên cạnh đó, Hội nghị Paris còn là bài học tiêu biểu về kết hợp sức mạnh của dân
tộc với sức mạnh của thời đại. Trong suốt quá trình đàm phán tại Paris, chúng ta
đã có được sự ủng hộ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ
nghĩa, chúng ta đã tranh thủ được sự đồng tình của dư luận quốc tế, kể cả dư luận
tiến bộ Mỹ, góp phần tạo nên một mặt trận nhân dân thế giới rộng lớn ủng hộ Việt
Nam. Để vượt qua những thách thức lớn, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là phương cách cực kỳ quan trọng
bảo đảm thắng lợi. Cuộc chiến đấu vì độc lập dân tộc, thống nhất đất nước của
Nhân dân ta thắng lợi vì đã phát huy được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, sự ủng
hộ và giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, của Nhân dân yêu chuộng hòa bình
trên thế giới, thực hiện đúng lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh“Đoàn kết, đoàn
kết, đại đoàn kết. Thành Công, thành công, đại thành công”
Nói đến Việt Nam thời hiện tại, chúng ta không thể không nói đến bức thông điệp
tràn đầy hào khí mà Đại hội XIII của Đảng (tháng 1/2021) gửi đến toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân ta. Tác giả của bức thông điệp đó chính là Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng. Đồng chí khẳng định: Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi
mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội: “Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử… Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao
giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.
Đồng chí gióng lên hồi chuông: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn
vinh, hạnh phúc”, phấn đấu đến giữa thế kỷ 21, nước ta trở thành một nước phát
triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Một chân trời mới đã hừng lên trước sự nghiệp đổi mới và phát triển của dân tộc
ta. Bước tiếp con đường rộng mở, chúng ta tự hào siết chặt hàng ngũ, tiến lên dưới
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Đảng.
Nói đến Việt Nam thời hiện tại, chúng ta cũng không thể không nói đến hình ảnh
và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
nói: “Chúng ta đã xây dựng nên một trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc
sắc và độc đáo của Thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”,
“gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển” (“Thân gầy guộc, lá mong manh/ Mà
sao nên lũy, nên thành tre ơi!”), thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của
dân tộc Việt Nam. Đó là: Mềm mại, khôn khéo, nhưng rất kiên cường, quyết liệt;
linh hoạt, sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, kiên định, can trường trước mọi thử thách,
khó khăn vì độc lập dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Đoàn kết, nhân ái,
nhưng kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Biết nhu, biết cương;
biết thời, biết thế; biết mình, biết người; biết tiến, biết thoái, “tùy cơ ứng biến”,
“lạt mềm buộc chặt”!”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hội nghị Paris: Cuộc đấu trí tuệ và bản lĩnh https://bom.so/gXkMS6
2. Hiệp định Genève - Dấu son của ngoại giao Việt Nam https://bom.so/U3IXGP
3.Từ Geneva đến Paris: Về vấn đề tự chủ chiến lược hiện nay
https://bom.so/9MqIey
4. Từ Hiệp định Paris 1973 đến Việt Nam thời hiện tại https://bom.so/XlahFh