Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 5

Dân tộc Chăm

Tên gọi khác: Chàm, Chiêm, Chiêm Thành, Chăm Pa, Hời...
Nhóm địa phương: Chăm Hroi, Chăm Poổng, Chà Và Ku, Chăm Châu Ðốc.
Dân số: 178.948 người (Theo số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số 01/4/2019).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Malayô - Polynéxia (ngữ hệ Nam Ðảo).
1. Dân số:
- Tổng dân số trên thế giới: Khoảng 1,3 triệu người (Năm 2019)
- Ở Việt Nam: 178.948 người năm 2019, năm 2009 là 161.729 người, xếp thứ 14 về
dân số trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
- Ở Campuchia: 950.000 người (Chiếm tổng số người Chăm trên thế giới)
- Ở Thái Lan: Khoảng 4000 người
- Ở Malaysia: Khoảng 50.000 người
2. Địa bàn
- Có hai nhánh là Chăm Tây với tổng dân số 331 ngàn cư trú ở Việt Nam, Campuchia
và các nước khác, và Chăm Đông với tổng dân số 135 ngàn cư trú chủ yếu ở Việt
Nam và Hoa Kỳ.
- Ngoài ra, ở Việt Nam còn có nhóm Chăm H'roi cư trú ở các tỉnh Phú Yên, Bình
Định, Gia Lai với tổng dân số 45 ngàn người.
- Dân tộc Chăm có mặt chủ yếu tại các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên của Việt
Nam, bao gồm Ninh Thuận, Bình Thuận, Đắk Nông và các khu vực lân cận

3. Nét văn hóa


a. Tôn giáo tín ngưỡng
- Người Chăm ở Việt Nam về mặt tín ngưỡng có 3 nhóm chính:

+ Chăm ở Ninh Thuận-Bình Thuận theo adat Cham.

+ Bini ở Ninh Thuận-Bình Thuận theo adat Bini, là 1 tôn giáo mang đậm tín
ngưỡng dân gian Champa, có ảnh hưởng nhưng độc lập với Hồi giáo.

+ Sunni (văn bản nhà nước ghi là Islam) ở An Giang và Nam Bộ theo Hồi giáo
các phe Sunni, đặc biệt là phái Shafi'i, họ có mối liên hệ gắn bó với thế giới các
phe Sunni bên ngoài, chủ yếu thông qua Hồi giáo ở Đông Nam Á như
Malaysia.

- Ngoài ra, cộng đồng Chăm H'roi ở miền núi theo tín ngưỡng dân gian cũng có thể
xếp vào nhóm thứ nhấy

- Tín ngưỡng dân gian truyền thống của người Chăm là niền tin vào những thần linh
(Pô Yang). Với niềm tin vào tín ngưỡng đa thần, người Chăm quan niệm thiên nhiên
và mọi vật thể xung quanh con người đều có linh hồn - tất cả đều có linh hồn và luôn
luôn có mối quan hệ với con người.

b. Chữ viết
– Dân tộc chăm có chữ từ rất sớm, chữ Chăm được sáng tạo dựa vào hệ thống văn
tự Sascrit
- Chữ viết của người Chăm đang sử dụng hiện nay gọi là Akhar Thrah, ra đời từ
thế kỷ XVII. Chữ Akhar Thrah được xem là chữ viết phổ thông, được sử dụng phổ
biến trong tầng lớp chức sắc tôn giáo và cộng đồng người Chăm
c. Trang phục
- Ðàn ông mặc áo cánh ngắn xẻ ngực cài khuy. Ðàn
bà mặc áo dài chui đầu. Trang phục nam của người
Chăm có các đặc điểm như tóc dài quấn khăn, áo
cánh xẻ ngực màu sáng hoặc tối, áo cổ tròn cài cúc,
áo ngắn cộc tay, và áo dài xẻ nách trắng hoặc đỏ. Các
áo thường được trang trí với các đường viền và các
miếng kim loại hình tròn. Trang phục cổ truyền của
nam giới Chăm bao gồm chiếc váy và quần.
- Trang phục nữ của người Chăm thường bao gồm
việc đội khăn trên đầu. Có nhiều cách đội khăn như
phủ trên mái tóc, quấn gọn trên đầu, quấn theo lối chữ
nhân, hoặc quấn và phủ kín vai. Khăn đầu thường là
màu trắng, có hoa văn viền và các mô tip. Trang phục
lễ phục của nữ giới thường bao gồm áo dài màu trắng
và một chiếc khăn vắt vai.
- Màu chủ đạo trên y phục là màu trắng của vải sợi bông. Ngày nay, trong sinh hoạt
hằng ngày, người Chăm ăn mặc như người Việt ở miền Trung, chỉ có chiếc áo dài
chui đầu là còn thấy xuất hiện trong giới nữ cao niên.
d. Ẩm thực
- Người Chăm ăn cơm, gạo được nấu trong những nồi đất nung lớn, nhỏ. Thức ăn
gồm cá, thịt, rau củ, do săn bắt, hái lượm và chăn nuôi, trồng trọt đem lại. Thức uống
có rượu cần và rượu gạo. Tục ăn trầu cau rất phổ biến trong sinh hoạt và trong các lễ
nghi phong tục cổ truyền
e. Kiến trúc, điêu khắc
- Kiến trúc Chăm có từ thế kỷ thứ I sau công nguyên, là sự phát triển nghệ thuật sớm
nhất ở khu vực Đông Nam Á, chịu ảnh hưởng tư tưởng đạo giáo Ấn Độ. Có thể nhìn
thấy một tổng quan kiến trúc qua các di tích đền tháp xây dựng một kalan (ngôi đền
chính, bao quanh là những tháp nhỏ, những công trình phụ).
- Các nhà kiến trúc đã nghiên cứu, tổng kết các phong cách nghệ thuật kiến trúc
Chăm, tựu trung là: Phong cách Mỹ Sơn, phong cách Hòa Lai, phong cách Đồng
Dương và phong cách Panagar. Phong cách Đồng Dương được phát hiện vào thế kỷ
thứ X, đưa nghệ thuật Chăm lên tới đỉnh cao của nghệ thuật dân tộc bản địa. Kiến trúc
tự bộc bạch những khát vọng con người, giàu tính hiện thực.
- Điêu khắc cũng thể hiện nét đẹp kỳ vĩ, hùng tráng trong các nhân vật, nay vẫn còn
lưu giữ. Việc nhận định bốn phong cách nghệ thuật kiến trúc Chămpa từ Mỹ Sơn, Hòa
Lai, Đồng Dương đến Panagar là những nét tiêu biểu của kiến trúc, điêu khắc Chăm.

f. Nhà cửa
- Nhà ở của người Chăm là một quần thể nhà trong một khuôn viên (bây giờ do việc
quy hoạch phân lô đất theo kiểu nhà liên kế hẹp nên việc phát triển nhà theo quần thể
trong một khuôn viên dần không còn nữa). Mối quan hệ của các nhà trong quần thể
này đã thể hiện quá trình tan vỡ của hình thái gia đình lớn mẫu hệ để trở thành các gia
đình nhỏ.
- Ở Bình Thuận, các nhà trong một quần thể thường có mối quan hệ với nhau, và cấu
trúc nhà thường đơn giản với ba cột chính. Trong khi ở An Giang, cách tổ chức mặt
bằng sinh hoạt vẫn giữ phần nào hình thái của nhà thang yơ. Ở Châu Đốc, khuôn viên
nhà Chăm thường chỉ bao gồm nhà chính và nhà phụ, và cách bố trí trên mặt bằng
khác với các vùng khác.
- Khi xây dựng nhà mới, người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận thường tiến hành
các nghi lễ cúng thần như cúng Thổ thần và lễ phạt mộc để khởi công cho việc xây cất
ngôi nhà.·
- Các đặc điểm nhà ở và tập tục xây dựng nhà mới của người Chăm thể hiện sự đa
dạng và sự phong phú trong văn hóa kiến trúc và tập tục truyền thống của dân tộc

g. Phương tiện vận chuyển: Chủ yếu và thường xuyên vẫn là cái gùi cõng trên lưng.
Cư dân Chăm cũng là những người thợ đóng thuyền có kỹ thuật cao để hoạt động trên
sông và biển. Họ làm ra những chiếc xe bò kéo, trâu kéo có trọng tải khá lớn để vận
chuyển trên bộ.
h. Nghi lễ, hội hè, đám
- Lễ Tết: Người ta thực hiện nhiều nghi lễ nông
nghiệp trong một chu kỳ năm như: lễ khai mương
đắp đập, lễ hạ điền, lễ mừng lúa con, lễ mừng lúa
ra đòng. Tuy nhiên, lễ lớn nhất vẫn là lễ Bon Katê
được tổ chức linh đình tại các đền tháp vào giữa
tháng mười âm lịch
- Cưới xin: Phụ nữ chủ động trong quan hệ luyến
ái. Hôn nhân cư trú phía nhà vợ, con sinh ra đều theo họ mẹ. Sính lễ do nhà gái lo liệu.
- Ma chay: Người Chăm có hai hình thức đưa người chết về thế giới bên kia là thổ
táng và hỏa táng. Nhóm cư dân theo đạo Bà la môn thường hỏa táng theo giáo luật,
còn các nhóm cư dân khác thì thổ táng. Những người trong cùng một dòng họ thì được
chôn cất cùng một nơi theo huyết hệ mẹ.
i. Văn nghệ: Nhạc cụ Chăm nổi bật có trống mặt da Paranưng, trống vỗ, kèn xaranai.
Nền dân ca - nhạc cổ Chăm đã để lại nhiều ảnh hưởng đến dân ca - nhạc cổ của người
Việt ở miền Trung như
4. Hoạt động kinh tế
- Người Chăm có truyền thống nông nghiệp ruộng nước, giỏi làm thuỷ lợi và làm
vườn trồng cây ăn trái. Bên cạnh việc làm ruộng nước vẫn tồn tại loại hình ruộng khô
một vụ trên sườn núi. Bộ phận người Chăm ở Nam Bộ lại sinh sống chủ yếu bằng
nghề chài lưới, dệt thủ công và buôn bán nhỏ, nghề nông chỉ là thứ yếu.
- Nghề thủ công phát triển ở vùng Chăm nổi tiếng là dệt lụa tơ tằm và nghề gốm nặn
tay, nung trên các lò lộ thiên. Việc buôn bán với các dân tộc láng giềng đã xuất hiện từ
xưa. Vùng duyên hải miền Trung đã từng là nơi hoạt động của những đội hải thuyền
nổi tiếng trong lịch sử.

5. Xã hội
- Hôn nhân gia đình: Gia đình người Chăm mang truyền thống mẫu hệ, mặc dù xã hội
Chăm trước đây là xã hội đẳng cấp, phong kiến. ở những vùng theo Hồi giáo Islam,
tuy gia đình đã chuyển sang phụ hệ, vai trò nam giới được đề cao, nhưng những tập
quán mẫu hệ vẫn tồn tại khá đậm nét trong quan hệ gia đình, dòng họ với việc thờ
cúng tổ tiên.
- Cư dân Chăm vốn được phân thành hai thị tộc: Cau và Dừa như hai hệ dòng Niee và
Mlô ở dân tộc £ đê. Về sau thị tộc Cau biến thành tầng lớp của những người bình dân,
trong khi thị tộc Dừa trở thành tầng lớp của quý tộc và tăng lữ. Dưới thị tộc là các
dòng họ theo huyết hệ mẹ, đứng đầu là một người đàn bà thuộc dòng con út. Mỗi dòng
họ lại có nhiều chi họ. Xã hội cổ truyền Chăm được phân thành các đẳng cấp như xã
hội ấn Ðộ cổ đại. Họ có những vùng cư trú riêng và có những ngăn cách rõ rệt: không
được thiết lập quan hệ hôn nhân, không sống cùng một xóm, không ăn cùng một
mâm...

You might also like