Professional Documents
Culture Documents
Phân Tích Sâu Các TP Văn
Phân Tích Sâu Các TP Văn
Đây chỉ là một phần nhỏ của bộ tài liệu “phân tích
chuyên sâu các tp văn 12”. Nếu mọi người thấy tài liệu
chất lượng, muốn có đủ các bài ptich văn 12 để phục vụ
quá trình ôn thi/giảng dạy, liên hệ qua fb theo đường
link sau hoặc zalo: 0345350272 (Phí chỉ 55k cho tất cả
các tp 12)
Đề bài: Phân tích 9 câu thơ đầu bài thơ “Đất Nước
“của Nguyễn Khoa Điềm. Từ đó nhận xét quan
niệm về đất nước của nhà thơ.
1
BẢN QUYỀN THUỘC VỀ FB “TRUNG NGUYÊN”, “HƯNG NGUYÊN”
Bài làm
“Nghệ thuật chỉ làm nên câu thơ, trái tim mới làm
nên thi sĩ “(Andre Chenier). Thật vậy, Một tác phẩm
nghệ thuật được ví như “một bài ca đi cùng năm tháng
“chỉ khi nó để thương, để nhớ trong trái tim bạn đọc
bằng những tư tưởng, tình cảm chân thành. “Tình cảm
chân thành “ấy phải chăng là tình yêu đất nước - thứ
tình cảm đã làm xào xạc bao tâm hồn thi sĩ, và những
công trình trữ tình ấy đã ru ngọt trái tim bao độc giả
yêu thơ. Dọc phiên chợ Văn Chương, ta bắt gặp hình
ảnh đất nước trên từng gian hàng nhỏ. Ta đã từng bắt
hình ảnh của một đất nước “Nghiêng nghiêng trong
kháng chiến trường kì “ở “Bên kia sống Đuống “của
nhà thơ Hoàng Cầm, một đất nước “Bay lên bát ngát
giữa mùa xuân “trong thơ của Lê Anh Xuân. Và đến
với “Đất Nước “của Nguyễn Khoa Điềm ta lại thấy sức
sống của một đất nước rung lên mạnh mẽ từng nhịp,
như thấm sâu, đập những nhịp mạnh mẽ vào trong tim
mỗi chúng ta. Nguyễn Khoa điềm đã nhẹ nhàng thổi cái
hồn bình dị, giản đơn vào dáng hình kì vĩ của Đất
Nước, hóa những sự vật trừu tượng, lớn lao thành vật
2
BẢN QUYỀN THUỘC VỀ FB “TRUNG NGUYÊN”, “HƯNG NGUYÊN”
4
BẢN QUYỀN THUỘC VỀ FB “TRUNG NGUYÊN”, “HƯNG NGUYÊN”
Trên những ngày dài triền miên dõi theo hình hài
đất nước, ta bắt gặp hình ảnh đất mẹ từ lúc hình thành
thật hùng vĩ tuyệt đẹp, tráng lệ với vóc dáng kì vĩ, có gì
đó khó chạm tới qua từng mạch tư tưởng của bao thi sĩ.
Nguyễn Trãi trong bình ngô đại cáo khẳng định sự
tồn tại lâu đời của đất nước bằng các yếu tố văn hóa
văn hiến, cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán, sự
hiện diện của các triều đại lịch sử, các anh hùng hào
kiệt:
"Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế
một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có".
Lý Thường Kiệt thì cất giọng oai hùng 1 khúc tự hào
trong Nam quốc sơn hà với 1 lòng tự tôn, tự hào về
lãnh thổ chủ quyền:
"Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
5
BẢN QUYỀN THUỘC VỀ FB “TRUNG NGUYÊN”, “HƯNG NGUYÊN”
8
BẢN QUYỀN THUỘC VỀ FB “TRUNG NGUYÊN”, “HƯNG NGUYÊN”
ngày xưa "ấy đi cùng con người trong khoảng trời tuổi
thơ, khi câu chuyện cổ dân gian đưa mỗi đứa trẻ vào
ranh giới thiện-ác để hiểu được bài học "ở hiền gặp
lành", nơi có cô Tấm, nơi có sọ Dừa, nơi có chàng
Thạch Sanh quả cảm, nơi có tiếng lòng xót xa của
người con đất Việt, khi chàng trai 28 tuổi ấy đã nhói
đau khi nhìn Tổ quốc bị xâm lăng, bị tàn phá, bởi vậy
đã cất lên tiếng gọi để khứ hồi 1 chuỗi kí ức xa xưa,
từng vệt nắng ấm ban sơ trong tuổi thơ mỗi người. Nó
gợi cho ta 1 niềm thích thú như ùa về 1 khoảng trời
xanh ngắt cùng hình ảnh "mẹ thường hay kể". Thân
thuộc biết mấy! Yêu thương biết chừng nào! Một bài
thơ nói về đất nước mà đọc lên ta rưng rưng nhớ mẹ,
nhớ thuở nhỏ nằm nôi bi bô tập nói, nhớ về công ơn
dưỡng dục sinh thành. Câu thơ như gợi cả chiều dài
lịch sử của Đất nước vọng về nguyên sơ. Tôi tựa hồ
nhớ tới những niềm thương nhớ trong thơ Lâm Thị
Mỹ Dạ:
"Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
10
BẢN QUYỀN THUỘC VỀ FB “TRUNG NGUYÊN”, “HƯNG NGUYÊN”
lên bậc tiền bối đã khuất. Tục nhuộm răng đen cũng từ
đó mà ra đời:
"Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng “
Sau ba câu thơ nói về sự ra đời của Đất nước, câu
thơ thứ tư đưa ta về những ngày tháng Đất nước bắt
đầu "lớn lên “như 1"con người", quá trình phát triển
của đất nước cũng trải qua những giai thoại đặc biệt:
“Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh
giặc". Câu thơ của NKD cũng thể hiện bản sắc văn hóa
dân tộc tuyệt vời, song song với cổ tích, truyền thuyết
đã đi vào các trang sách, vào kí ức của con người Việt,
qua đó, tác giả cũng khéo léo nhắc nhở về truyền thống
đánh giặc cứu nước của dân tộc, như Bác Hồ đã khẳng
định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là
một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay,
mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi
nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to
lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó
nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Và
trong câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm tinh thần ấy lại
một lần nữa làm cho ta thêm yêu truyền thống vẻ vang
12
BẢN QUYỀN THUỘC VỀ FB “TRUNG NGUYÊN”, “HƯNG NGUYÊN”
ấy. Câu thơ như dâng cơn sóng lòng ta lên bởi những
thanh âm trong trẻo tràn đầy tình cảm với hai từ "dân
mình". Nghe sao mà thân thương quá, nghe sao mà
nghẹn ngào xúc cảm! Đến đây, ta còn bắt gặp hình ảnh
Thánh Gióng nhổ bụi tre ngà quật mạnh vào giặc Ân,
khiến chúng khiếp đảm mà bỏ chạy, sự vươn mình của
cậu bé 3 tuổi trở thành 1 tráng sĩ oai hùng cũng là sự
vươn mình của cả dân tộc, từ những ngày đói khổ, năm
tháng đau thương đến những ngày vươn dậy hào hùng,
mang 1 sức mạnh quật khởi, kiên cường qua những giai
thoại đấu tranh và gìn giữ đất nước. Hình ảnh cây tre
đầu làng, trong từng kí ức, trong từng giấc mơ trưa mát
dịu của mảnh sân vườn nơi đáy lòng mỗi con cháu lạc
hồng cũng lẳng lặng tìm 1 chỗ đứng trong trang thơ
NKĐ. Tự bao giờ, làng quê Việt Nam đã gắn với tre,
với loài cây mộc mạc bình dị hệt như tính cách của
người Việt: thật thà, chất phác, hiền hậu và kiên cường.
Và tre cũng đã xuất hiện như dáng hình thân thuộc
của thi nhân:
“Tre xanh,
Xanh tự bao giờ?
Chuyện ngày xưa... đã có bờ tre xanh.
Thân gầy guộc, lá mong manh,
13
BẢN QUYỀN THUỘC VỀ FB “TRUNG NGUYÊN”, “HƯNG NGUYÊN”
phụ nữ Việt Nam nói chung qua câu thơ: "Tóc mẹ thì
bới sau đầu". Câu thơ cất lên như vẽ ra trước mắt
người đọc đoạn phim trắng đen ngắn ngủi bên hiên
nhà- nơi có mẹ đang ngồi, búi tóc gọn gàng, chỉn chu.
Mái tóc mẹ đen tuyền, óng ả 1 màu, mượt mà như dòng
suối mát trong. Ý thơ gợi cho ta vẻ giản dị, tảo tần của
người phụ nữ vì chăm lo việc đồng áng, chăm chút gia
đình mà búi cuộn lên cao đẻ thuận lợi cho công việc
hàng ngày. Vẻ đẹp ấy đã được gợi nhắc qua câu ca dao
“
"Tóc ngang lưng vừa chừng em bới
Để chi dài cho rối lòng anh. “
Hình ảnh đó đã trở thành nét đặc trưng của văn hóa
nước ta, nó hằn ghi về 1 tập quán rất duyên, phảng phất
nét anh hùng, thể hiện tính tự tôn dân tộc, độc lập tự
chủ không quy phục phương Bắc, không quy phục
trước đế quốc và thực dân phương Tây. Những cái búi
ấy có thể không có châm cài đính ngọc lấp lánh nhưng
nó vẫn sáng ngời vẻ đẹp của tình yêu, của nét đẹp phụ
nữ Việt Nam, của tình thương của mẹ dành cho con,
của bà dành cho cháu. Chữ "bới “thể hiện sự gần gũi,
thân thuộc trong cách NKĐ viết về người phụ nữ Việt
15
BẢN QUYỀN THUỘC VỀ FB “TRUNG NGUYÊN”, “HƯNG NGUYÊN”
Nam. Tất cả đã tạo nên 1 hồn cốt dân tộc, vừa trân
trọng những người đã khuất, vừa là cốt cách, tâm hồn
của con người hiện đại, hồn cốt dân tộc ấy đã được
nuôi dưỡng thành 1 nền văn hóa suốt mấy nghìn năm.
Ở đó còn là đạo lý ân tình ân nghĩa ngàn đời của
cha mẹ, những con người cùng nhau cư trú, lao động,
chiến đấu trên mảnh đất cong cong hình chữ S để giữ
gìn tôn tạo dáng hình đất nước. Mà trong họ đạo lý ân
nghĩa thủy chung đã trở thành nét truyền thống: "Cha
mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn". “Cha mẹ
thương nhau “- câu thơ như 1 lời khẳng định, "nghe
“hạnh phúc ngập tràn trong lòng độc giả. Được chắt lọc
từ văn hóa dân gian, câu thơ trầm tính những ý tứ sâu
xa. Dù cuộc sống có thiếu thốn, có gian khổ nhưng cha
mẹ vẫn thương nhau bằng cái cay của gừng, cái mặn
của muối. Thành ngữ "gừng cay muối mặn “được sử
dụng đầy hữu ý, đó là những gia vị đậm đà, quen thuộc,
không thể thiếu trong ẩm thực việt, cái cay, cái mặn
đặc trưng không đổi của gừng và muối cũng như tình
yêu, ân nghĩa thủy chung của cha, của mẹ cũng mãi
mặn mà như vậy. Câu thơ như 1 lời răn dạy về đạo lí
trăm năm của vợ chồng, dạy con người ta sống có
16
BẢN QUYỀN THUỘC VỀ FB “TRUNG NGUYÊN”, “HƯNG NGUYÊN”
nghĩa tình, dẫu có hết tình thì vẫn còn chữ "nghĩa". Một
ngày nên duyên, cả đời ân tình không sao kể xiết:
"Muối 3 năm muối đang còn mặn
Gừng 9 tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Dẫu có xa nhau đi nữa thì 3 vạn 6 ngàn ngày
mới xa. “
Tác giả đã cảm nhận đất nước trong tình nghĩa, trong
gian nan, cay đắng, đồng cam cộng khổ, nặng nghĩa
nặng tình. Câu thơ được đúc lại thể hiện đạo nghĩa vợ
chồng, đó là truyền thống đạo lí, thuần phong mỹ tục
của con người Việt nam, nhắn gửi con cháu phải biết
yêu thương và sẻ chia, trân quý những giá trị ân tình
cao đẹp trong cuộc đời mình.
Trong những câu thơ đầu, nhà thơ đã sử dụng các từ
xưng hô quen thuộc trong đời sống mỗi người, từ "mẹ",
đến "bà “rồi "cha mẹ “- ta như đang được ở trong 1 sợi
dây máu thịt gắn bó bởi huyết thống, mà rằng ta đều là
"con rồng cháu tiên “cùng đoàn kết, thủy chung, yêu
thương nhau thành truyền thống đậm đà bản sắc dân
17
BẢN QUYỀN THUỘC VỀ FB “TRUNG NGUYÊN”, “HƯNG NGUYÊN”
tộc. Nhưng ta gắn bó với đất nước không chỉ bởi những
tình cảm thiêng liêng ấy, mà còn ở 1 quá trình cùng
nhau phấn đấu từ thuở hàn vi đến khi đủ đầy. Câu thơ:
“Cái kèo cái cột thành tên”, gợi nhắc một nét văn hóa
của người Việt, ta nhớ về mái nhà tranh, vách lá, nghe
tiếng kêu "kẽo kè kẽo kẹt “ở đâu vọng về. Đó là truyền
thống làm nhà “kèo - cột”, “cái kèo “
CÒN TIẾP...
18
BẢN QUYỀN THUỘC VỀ FB “TRUNG NGUYÊN”, “HƯNG NGUYÊN”
thì người ta còn nhắc về binh đoàn Tây Tiến. Sức nặng
của của hai câu thơ đổ dồn lên hai chữ “xa rồi” bởi binh
đoàn Tây Tiến đã xa nhân vật trữ tình cả về không gian
lẫn thời gian. Khi ông nói “xa rồi” là lúc những hình
ảnh của một quá khứ đang ập tới, nhấc bổng ông khỏi
mảnh đất thực tại để lửng lơ, chơi vơi trong nỗi nhớ.
Nhà thơ như để tiếng gọi yêu thương “Tây Tiến ơi!”
vọng về trong thời gian khổ ải nhưng nghĩa tình, đầy sự
gắn bó và cũng không ít những hi sinh mất mát, vọng về
một miền đất xa xôi, vọng tới những người đồng đội của
mình dù đã nằm lại nơi biên cương hay đang chiến đấu
ở những chiến trường khác. Âm hưởng của thơ có sức
vọng mạnh mẽ làm cho tiếng lòng của Quang Dũng như
xoáy vào tâm hồn người đọc những cảm xúc bâng
khuâng khó tả. Sau khúc dạo đầu ấy là tất cả những kỉ
niệm được hiện về trong nỗi nhớ mang một màu sắc
lung linh, đẹp một cách lạ thường. Kỉ niệm về một thời
chinh chiến với dòng sông Mã thân thương và khoảng
trời miền Tây theo thời gian cứ lần lượt hiện về. Thông
thường, khi nhớ về một điều gì, người ta thường nhớ
đến những kỉ niệm để lại dấu ấn sâu sắc, khó quên. Điều
đầu tiên Quang Dũng nhớ đến là núi rừng. Bởi núi rừng
là nơi xưa kia ông và đồng đội đã cùng sống, cùng chiến
BẢN QUYỀN THUỘC VỀ FB “TRUNG NGUYÊN”, “HƯNG NGUYÊN”
đấu, kề vai sát cánh bên nhau; ở đó in đậm bao nỗi khổ,
bao niềm vui của những người chiến sĩ. Kỉ niệm sống
dậy, tràn ngập trong tâm hồn nhà thơ một nỗi niềm nhớ
tiếc, nhớ những tháng ngày hành quân, nhớ quá khứ đã
xa, giờ đây chỉ còn là hoài niệm. Tính từ “chơi vơi” kết
hợp với điệp từ “nhớ” mang nhịp điệu của điệp khúc,
làm cho nỗi nhớ thêm da diết, sâu lắng. Ta cũng từng
bắt gặp cấu trúc thơ này trong thơ của Chế Lan Viên:
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ”. Nỗi nhớ ở
đây được vật chất hóa, tưởng như đang cất lên ở lưng
chừng trời, có thể khiến người đọc muốn rời chân khỏi
mảnh đất thực tại mà tham dự vào một cuộc viễn chinh
đầy khao khát. Nỗi nhớ của Quang Dũng là nhớ “chơi
vơi” - một nỗi nhớ không có hình, không có lượng, hình
như nhẹ tênh mà nặng vô cùng; nó vừa tạo âm hưởng
cho câu thơ vừa tạo sự vang vọng trong lòng người đọc.
Bởi nó không đo được, không cân được, chỉ biết nó lửng
lơ mà đầy ắp, mênh mông, nó chập chờn giữa hai bờ hư
– thực trong không gian bao la, nỗi nhớ trơ trọi, chênh
vênh, không có điểm tựa, nỗi nhớ rất rõ nhưng lại rất
đỗi mơ hồ trong thời gian xa xăm, lưu luyến đầy nhớ
thương. Nỗi nhớ “chơi vơi” ấy ta cũng từng bắt gặp
trong cái tương tư chiều của nhà thơ Xuân Diệu
BẢN QUYỀN THUỘC VỀ FB “TRUNG NGUYÊN”, “HƯNG NGUYÊN”
hiện ra trong nỗi nhớ rừng núi, nơi thử thách cũng là nơi
bao bọc, che chở đoàn quân. Bằng cách sử dụng câu
cảm thán và thủ pháp nghệ thuật nhân hóa, câu thơ trở
nên đẹp diệu kì. Do đó, “Tây Tiến” không chỉ để gọi tên
một đơn vị bộ đội mà nó đã trở thành một người bạn ‚tri
âm tri kỉ để nhà thơ giãi bày tâm sự.
Từ bức tranh toàn cảnh của nỗi nhớ “chơi vơi”, kỉ
niệm như ống kính quay phim làm hiện lên những
chặng đường đã qua. Với 6 câu thơ tiếp theo, Quang
Dũng đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên hũng vĩ, dữ dội
song cũng thơ mộng, trữ tình:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.”
sương giăng, nhớ đèo mây phủ”, sương trong thơ của
Chế Lan Viên có gì đó rất mơ mộng, trữ tình, làm cho
con người say đắm, tuy nhiên sương trong Tây Tiến lại
làm hiện lên con đường hành quân đầy chông gai, thử
thách, là hiện thực khắc nghiệt mà đoàn binh phải
đương đầu. Thế nhưng, với trái tim trẻ trung của người
thanh niên Hà Thành, các anh vẫn tìm thấy cái đẹp, cái
lãng mạn trong cái gian truân, vất vả ở hình ảnh “hoa
về”. “Hoa” đấy là ngọn đuốc hoa của những người dân
vùng biên giới đi đón bộ đội giữa rừng trong đêm khuya
chăng? Hay đó là những bông hoa rừng lung linh? Đó
cũng có thể là những đóa- hoa-người? Những cô gái trẻ
vùng biên cương lặng lẽ và hân hoan đón những chàng
lính trẻ về với rừng, với bản? Có lẽ Quang Dũng đã nói
tất cả, câu thơ của ông, sự sáng tạo ấy đã bao hàm và
ôm chứa tất cả những ý nghĩa đó. Câu thơ “ Mường Lát
hoa về trong đêm hơi” được gieo toàn thanh bằng lại
càng làm cho câu thơ thêm phần nhẹ nhàng, tạo cảm
giác thoải mái và sâu lắng. Cái hay ở đoạn thơ này chính
là cùng một lúc xuất hiện hai hình ảnh, hai trạng thái
tình cảm đối lập nhưng thống nhất, hài hòa với nhau:
vừa gợi sự mịt mù, lạnh lẽo của miền đất lạ cùng sự khó
khăn, vất vả của người lính Tây Tiến, đồng thời gợi lên
BẢN QUYỀN THUỘC VỀ FB “TRUNG NGUYÊN”, “HƯNG NGUYÊN”
oai phong lẫm liệt nơi núi rừng hoang vu. Song ở câu
thơ của Quang Dũng, người lính thật hồn nhiên và lãng
mạn, vừa thật, vừa khái quát, vừa giàu ý nghĩa tượng
trưng. Ta như nghe thấy tiếng cười rũ sạch mọi mệt
nhọc gian nan, rũ sạch cả “Bụi trường chinh phai bạc áo
hào hoa”. Mũi súng của họ như đang “ngửi” để thăm dò,
nhận biết, để thưởng thức hương vị mát lành của mây
trời. Nhờ đó mà thiên nhiên trở nên gần gũi với con
người và người lính được nâng lên một tư thế rất đỗi tự
hào. Đó là tư thế chiến thắng của con người tươi trẻ, lạc
quan, yêu đời. Tuy nhiên cần phải thấy thơ Quang Dũng
có một điểm rất nổi bật, đó là những hình ảnh tương
phản có giá trị nâng đỡ lẫn nhau về mặt cảm xúc. Cho
nên những “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” đã
trở thành vô nghĩa trong sự thử thách của thiên nhiên
đối với con người. Vì sau tất cả những thử thách ấy, là
một cảm xúc đầy kiêu hãnh của người lính, họ bất chấp
mọi khó khăn để vươn tới một tầm cao lồng lộng giữa
đỉnh trời “Áo vải chân không đi lùng giặc đánh”. Hình
ảnh ấy gợi nhớ đến những dòng thơ trong “Lên Tây
Bắc” của Tố Hữu:
“Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
BẢN QUYỀN THUỘC VỀ FB “TRUNG NGUYÊN”, “HƯNG NGUYÊN”
cao, cồn mây, dốc thẳm, đâu chỉ có mưa ngàn, muỗi
rừng, vắt núi, mà còn có biết bao thử thách của rừng
thiêng, nước độc. Nếu ở mấy câu đầu tác giả mở rộng
thiên nhiên miền Tây Bắc mênh mông qua không gian
hùng vĩ, thơ mộng của những cơn mưa rừng, với độ cao
chạm đến mây trời của đỉnh núi Tây Bắc, thì đến với hai
câu thơ sau thiên nhiên lại được khám phá theo chiều
của thời gian:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Thiên nhiên Tây Bắc như rùng mình trong bản giao
hưởng của đại ngàn với tiếng thác gầm và tiếng chân
cọp dữ. Với rừng núi Tây Bắc, cứ mỗi buổi chiều ta lại
nghe thác “gầm thét” đổ xuống từ trên cao và cứ mỗi
đêm lại nghe tiếng cọp gầm gừ. Điều đó như là một sự
liên tục, tuần hoàn khép kín thông qua hai trạng từ chỉ
thời gian “chiều chiều” và “đêm đêm’’. Đó là những âm
thanh dữ dội, bí hiểm, man rợn như khúc hòa tấu của
chốn oai linh. Cũng là danh từ riêng nhưng Mường Lát
lãng mạn bao nhiêu, thơ mộng bao nhiêu thì Mường
Hịch dữ dằn, đầy sát khí bấy nhiêu. Tên địa danh
Mường Hịch đọc lên có cảm giác nặng nề như tiếng
BẢN QUYỀN THUỘC VỀ FB “TRUNG NGUYÊN”, “HƯNG NGUYÊN”
chân cọp rậm rịch đi trong đêm. Rừng núi mang một
không khí rờn rợn, nguyên vẹn vẻ hoang sơ của nó. Ở
nơi xa xôi, con người lần đầu đặt chân đến, khi mà thiên
nhiên vẫn đang làm chủ thì khó khăn chắc chắn còn tăng
thêm gấp bội lần. Những nguy hiểm vẫn rập rình đâu
đó, đó là sự quyết liệt mà binh đoàn Tây Tiến đã một
thời vượt qua. Vị chúa rừng xanh ấy như đang trêu đùa
trước những nỗi sợ của những chàng trai trẻ Hà Thành.
Từ “trêu” là cách nói dí dỏm, hài hước, đẩy nỗi sợ hãi
của người lính lùi xa, dù khó khăn là vậy, rừng thiêng
nước độc có thể cướp đi mạng sống của các anh bất cứ
lúc nào nhưng các anh vẫn chỉ xem đó là một trò đùa để
che dấu đi nỗi sợ hãi trước thiên nhiên rộng lớn, qua đó
thể hiện sự bản lĩnh, cùng nét tinh nghịch của những
chàng trai Hà Thành. Mỗi vần thơ để lại trong tâm trí
người đọc một ấn tượng: gian nan tột cùng mà cũng can
trường tột bậc. Với những sự đe dọa từ mọi phía phong
tỏa, chúng ta thêm một lần nữa càng thấm thía những
khó khăn, vất vả của người lính Tây Tiến khi phải sống
và chiến đấu ngơi nước độc, rừng thiêng. Dù cho có bao
nhiêu khó khăn, thử thách đi chăng nữa thì đoàn quân
vẫn tiến bước, người nối người băng lên phía trước. Uy
lực thiên nhiên như bị giảm xuống và giá trị con người
BẢN QUYỀN THUỘC VỀ FB “TRUNG NGUYÊN”, “HƯNG NGUYÊN”
được nâng lên một tầm vóc mới. Trong đoạn thơ này,
Quang Dũng có lẽ đã nói quá lên về cái ghê gớm của
núi rừng chỉ là để làm bật lên vẻ đẹp hào hùng của con
người chứ không phải để hạ thấp nó. Như vậy, bằng
cách dùng từ độc đáo cùng bút pháp tả thực chân thật,
Quang Dũng đã vẽ ra trước mắt người đọc bức tranh
đậm mùi gian khổ của chiến tranh, như mang đến cho
người đọc một bộ phim về chiến tranh chân thực hết
sức.
Tuy nhiên, trong con mắt của người thi sĩ Quang
Dung, thiên nhiên Tây Bắc không chỉ có sương lấp, dốc
lên khúc khuỷu, heo hút cồn mây hay tiếng gầm gào cuả
thác dữ và chúa sơn lâm, mà ở đó còn là bức tranh thiên
nhiên thơ mộng và yên bình. Ném vào trong khung cảnh
ấy là một bức tranh thủy mặc hiện đại làm xao động
lòng người: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” Giữa âm
điệu gồ ghề của những thanh trắc, câu thơ thả xuống
toàn thanh bằng, tạo một dấu lặng đột ngột của khúc
quân hành, mở ra nét nhạc bâng khuâng man mác hồn
người. Cũng chính vì thế mà câu thơ đã trả cho người
đọc trạng thái cân bằng, lâng lâng. Hình ảnh ấy tạo sự
tương phản gay gắt trong diện mạo thẩm mĩ của vùng
đất này. Âm hưởng nhịp nhàng, nhè nhẹ của những
thanh bằng cùng với cách ngắt nhịp 2/2/3 như kéo dài
âm điệu mượt mà trong lời thơ, vẽ ra trước mắt ta một
BẢN QUYỀN THUỘC VỀ FB “TRUNG NGUYÊN”, “HƯNG NGUYÊN”
không gian mênh mông, bao la. Không gian ấy được thu
vào tầm mắt người lính một thế đứng rất “lính’’. Tuy
rằng những cơn mưa rừng bất chợt mang đến cho người
lính Tây Tiến sự giá rét, nhưng khi đưa ánh mắt sang
ngang, xa xa, lẫn trong màn mưa núi, sương rừng, người
lính thấy bản làng mờ ảo, thấp thóang trong thung lũng,
lúc ẩn, lúc hiện. Nhà thơ đã rất sáng tạo khi nói đến mưa
rừng bằng cụm từ “mưa xa khơi”. Hình ảnh thơ với cấu
trúc ngôn từ lạ, táo bạo: “xa khơi” vốn là hình ảnh tả
không gian biển, nay được Quang Dũng sử dụng để tả
cảnh không gian núi rừng. Hình ảnh này khép dòng thơ
làm cho câu thơ đẹp như một bức tranh lụa mềm mại,
rất nên thơ. Âm điệu thơ nhẹ nhàng, như thể giúp người
đọc hình dung những ngôi nhà đang bồng bềnh giữa
biển khơi. Nó gợi lên một cái gì đó rất kì bí, hoang sơ
giữa trốn núi rừng. Thiên nhiên hùng tráng được miêu tả
bằng hình, bằng âm, bằng nhịp điệu và đặc biệt là bằng
cảm hứng lãng mạn để sự hiểm trở của thiên nhiên khơi
gợi cảm hứng chinh phục trong con người. Vượt lên
gian khổ, hi sinh, hành trang người lính đầy ắp những kỉ
niệm đẹp của tình quân dân:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Hai câu thơ cuối đoạn gợi cảm giác tươi mát, ngọt ngào
về cuộc sống thanh bình thoáng bắt gặp trên
đường hành quân. Đằng sau vẻ hoang dại, bí ẩn của đại
BẢN QUYỀN THUỘC VỀ FB “TRUNG NGUYÊN”, “HƯNG NGUYÊN”
ngàn hiện lên hình ảnh con người với vẻ đẹp thật thơ
mộng, lãng mạn. Bút pháp của Quang Dũng biến thiên
nhiên: đang gân guốc, dữ dằn thoắt đã dịu dàng, e ấp.
Chiến binh Tây Tiến hào hùng mà cũng rất đỗi hào hoa,
rất nhạy cảm trước vẻ đẹp thiên nhiên và đằm thắm tình
người. Chữ “nhớ” đứng ở đầu câu thơ như kết tụ lại bao
tình cảm nhớ thương, bao bồi hồi, xao xuyến vấn
vương. Câu thơ giống như tiếng gọi thoảng thốt ngân
lên từ trong tiềm thức.“Nhớ ôi” là một câu cảm thán gợi
nỗi bâng khuâng khi hồi tưởng lại những kỉ niệm ấm áp:
lúc đoàn binh dừng lại sau một đoạn đường hành quân
vất vả, lều trại được dựng lên ở một bản làng, một bếp
lửa ánh đỏ hồng, một nồi xôi hương bay ngào ngạt, khói
bếp, khói cơm bay lên hòa quyện vào khói lam chiều.
Khung cảnh ấy mới đầm ấm làm sao! Nó cho ta thấy
tình cảm của tác giả được hướng vào nội tâm như tiếng
gọi hoài niệm, xao xuyến, cháy bỏng trong trái tim nhà
thơ. Và nỗi nhớ ấy không kìm nén được nữa để rồi phải
thốt lên thành lời. Nhớ “cơm lên khói”, nhớ “thơm nếp
xôi” là nhớ hương vị núi rừng Tây Bắc, nhớ tình nghĩa,
nhớ tấm lòng cao cả của đồng bào người dân Tây Bắc.
Bữa cơm lên khói tỏa lan mùi nếp xôi gợi cái không khí
gia đình ấm áp, xua tan đi cảm giác trống vắng trong
BẢN QUYỀN THUỘC VỀ FB “TRUNG NGUYÊN”, “HƯNG NGUYÊN”
tâm hồn những người chiến sĩ. Lúc đó, đồng đội quây
quần bên nhau, quên đi bao vất vả, gian khổ. Chiến
tranh lùi lại vào một góc khuất, nhường chỗ cho cảnh
sinh hoạt tươi vui. Chữ “mùa” ở đây là một mốc thời
gian đã trở thành dấu ấn in sâu trong trái tim người
chiến sĩ. Tác giả không dùng “mùa vụ” mà lại sử dụng
từ “mùa em” – một từ ngữ sáng tạo, độc đáo - thể hiện
tình yêu, nỗi nhớ trở thành hoài niệm. “Mùa em” không
phải là một trong bốn mùa xuân, hạ, thu, đông của đất
trời mà là mùa của riêng Quang Dũng khi nhớ về Tây
Tiến, nhớ về nơi đã đi qua, ghi lại những kỉ niệm thời
trẻ của mình, nó là mùa của kỉ niệm, của những hồi ức.
Đọng lại trong hai câu thơ là hình ảnh người con gái
Mai châu cần cù, tần tảo và có vẻ đẹp tâm hồn trong
sáng, là một sáng tạo độc đáo về con người trong ngôn
ngữ thi ca, tứ thơ hàm chứa bao tình thương nỗi nhớ,
nhịp thơ vì thế trở nên uyển chuyển, mềm mại. Giữa cái
khổ đau, đoạn thơ bỗng khép lại bằng một kỉ niệm thật
ấm áp, như một tiếng hát vui bỗng vút lên. Cái tình cảm
thắm thiết ấy, sự hào hoa, nét lãng mạn ấy được bồi đắp
trong tâm hồn người chiến sĩ, có lẽ bởi đó là tâm hồn
của những
chàng trai, “thanh lịch’’ xuất thân từ Hà thành. Đây là
BẢN QUYỀN THUỘC VỀ FB “TRUNG NGUYÊN”, “HƯNG NGUYÊN”
đoạn thơ có sức tạo hình hết sức độc đáo. Cảm hứng
lãng mạn đã làm cho hình tượng người lính trở nên rực
rỡ. Hình tượng nghệ thuật vừa bám sát hiện thực
BẢN QUYỀN THUỘC VỀ FB “TRUNG NGUYÊN”, “HƯNG NGUYÊN”
41