Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 26

Bộ Giáo lý Đức Tin

TUYÊN NGÔN “DIGNITAS INFINITA”


VỀ PHẨM GIÁ CON NGƯỜI
Toàn văn Tuyên ngôn "Dignitas Infinita" – Về phẩm giá con người (tgpsaigon.net)
Giới thiệu
Trong Hội nghị ngày 15 tháng 3 năm 2019, Bộ Giáo lý Đức tin đã quyết định khởi xướng “việc
soạn thảo một bản văn nhấn mạnh đến tính chất không thể tránh khỏi của khái niệm phẩm giá của
nhân vị trong nhân học Kitô giáo và minh họa tầm quan trọng cũng như những ngụ ý tích cực về
mặt xã hội, chính trị và kinh tế, bằng cách quan tâm đến những phát triển mới nhất của chủ đề này
trong phạm vi học thuật và những hiểu biết đôi chiều của nó trong bối cảnh ngày nay”. Trong
đường hướng này, một dự án đầu tiên được soạn thảo vào năm 2019 này với sự giúp đỡ của một số
Chuyên gia đã được Hội đồng Tư vấn hạn chế (Consulta ristretta) của Bộ, được tổ chức vào ngày 8
tháng Mười cùng năm, đánh giá là không đạt yêu cầu.
Bản văn này đã được Bộ phận Giáo thuyết soạn thảo lại từ đầu, dựa trên sự đóng góp của nhiều
Chuyên gia khác nhau. Phiên bản này đã được trình bày và thảo luận trong Consulta ristretta ngày 4
tháng 10 năm 2021. Vào tháng 1 năm 2022, dự án mới được đệ trình lên Phiên họp toàn thể của Bộ,
đã được các Thành viên rút ngắn và đơn giản hóa.
Bản văn sửa đổi mới đã được xem xét vào ngày 6 tháng 2 năm 2023 bởi một Consulta ristretta và
Hội đồng này đã thực hiện các sửa đổi khác. Phiên bản mới này đã được đệ trình để xem xét tại
Phiên họp thường lệ của Bộ (Feria IV) vào ngày 3 tháng 5 năm 2023. Các thành viên đã đồng ý
rằng tài liệu, với một số sửa đổi, có thể được xuất bản. Trong buổi tiếp kiến dành cho tôi, vào ngày
13 tháng 11 năm 2023, Đức Thánh Cha Phanxicô đã phê chuẩn Deliberata (nghị quyết) của Feria IV
này. Nhân dịp này, ngài cũng yêu cầu tôi làm nổi bật hơn trong bản văn những vấn đề gắn liền với
chủ đề nhân phẩm, chẳng hạn như thảm kịch về nghèo đói, tình trạng người di cư, bạo lực đối với
phụ nữ, nạn buôn người, chiến tranh và những chủ đề khác tương tự. Khi thực hiện chỉ dẫn này của
Đức Thánh Cha, Bộ phận Giáo thuyết của Bộ đã dành một Hội nghị để nghiên cứu sâu về thông
điệp Fratelli tutti, trong đó đề xuất một phân tích độc đáo và nghiên cứu sâu sắc về vấn đề nhân
phẩm "trong mọi hoàn cảnh".
Nhắm đến Feria IV vào ngày 28 tháng 2 năm 2024, một bản văn dự thảo mới, được sửa đổi rộng rãi
đã được gửi, bằng thư đề ngày 2 tháng 2 năm 2024, tới các Thành viên của Bộ, với lời giải thích rõ
ràng như sau: “Phiên bản mới này được coi là cần thiết để đáp ứng một yêu cầu cụ thể của Đức
Thánh Cha. Ngài rõ ràng yêu cầu chú ý đến những vi phạm nghiêm trọng đối với phẩm giá con
người trong thời đại chúng ta, theo đường hướng của thông điệp Fratelli tutti. Do đó, Bộ phận Giáo
thuyết đã tiến hành rút gọn phần đầu của bản văn […] và khai triển chi tiết hơn những gì Đức
Thánh Cha đã chỉ ra”. Sau một thời gian dài soạn thảo, Phiên họp thường kỳ của Bộ cuối cùng đã
phê chuẩn, vào ngày 28 tháng 2 năm 2024, bản văn của Tuyên ngôn này. Do đó, trong buổi tiếp kiến
vào ngày 25 tháng 3 năm 2024, dành cho tôi và Đức ông Armando Matteo – Thư ký của Bộ phận
Giáo thuyết -, Đức Thánh Cha đã phê chuẩn Tuyên ngôn này và ra lệnh công bố nó.
Việc soạn thảo bản văn kéo dài 5 năm này cho phép chúng ta hiểu rằng đây là một tài liệu, do tính
nghiêm túc và trọng tâm của vấn đề phẩm giá trong tư tưởng Kitô giáo, đã đòi hỏi một quá trình
chín muồi lâu dài để đạt được phiên bản cuối cùng mà chúng tôi công bố hôm nay.
Trong ba phần đầu tiên, Tuyên ngôn nhắc lại các nguyên tắc cơ bản và các giả định về mặt lý thuyết
nhằm đưa ra những soi sáng quan trọng giúp tránh những nhầm lẫn thường xuyên xảy ra khi sử
dụng khái niệm “phẩm giá”. Phần thứ tư phân tích một số hoàn cảnh có vấn đề hiện nay trong đó
phẩm giá vô hạn và bất khả tước bỏ của mỗi con người không được nhìn nhận một cách thích đáng.
Việc tố cáo những vi phạm nghiêm trọng và hiện hành này đối với phẩm giá con người là một bổn
phận, bởi vì Giáo hội tin chắc rằng chúng ta không thể tách rời đức tin khỏi việc bảo vệ phẩm giá

1
con người, việc rao giảng Tin Mừng khỏi việc thăng tiến một cuộc sống có phẩm giá và linh đạo
khỏi sự dấn thân cho phẩm giá của mọi người.
Thực ra, phẩm giá này của mọi người có thể được hiểu là “vô hạn” (dignitas infinita), như thánh
Gioan Phaolô II đã tuyên bố trong một cuộc gặp gỡ với những người bị một số hạn chế hoặc khuyết
tật [1], để cho thấy giá trị được công nhận cho tất cả mọi người này vượt xa mọi hình dáng bên
ngoài hoặc những đặc điểm của cuộc sống cụ thể của con người như thế nào.
Trong thông điệp Fratelli tutti, Đức Thánh Cha Phanxicô muốn nhấn mạnh một cách đặc biệt rằng
phẩm giá này tồn tại “trong mọi hoàn cảnh”, mời gọi mỗi người bảo vệ nó trong mỗi bối cảnh văn
hóa, vào mọi thời điểm của cuộc sống của một nhân vị, độc lập với bất kỳ khiếm khuyết thể lý, tâm
lý, xã hội hoặc thậm chí là luân lý. Về vấn đề này, Tuyên ngôn cố gắng cho thấy rằng đó là một
chân lý phổ quát, mà tất cả chúng ta được kêu gọi thừa nhận, như một điều kiện cơ bản để xã hội
của chúng ta thực sự công bằng, hòa bình, lành mạnh và cuối cùng, thực sự là nhân bản.
Danh sách các chủ đề được Tuyên ngôn lựa chọn chắc chắn là không đầy đủ. Tuy nhiên, các chủ đề
được bàn đến chính là những chủ đề cho phép thể hiện những khía cạnh khác nhau của phẩm giá
con người mà ngày nay có thể bị lu mờ trong ý thức của nhiều người. Một số chủ đề sẽ dễ dàng
được chia sẻ bởi các nhóm xã hội khác nhau, một số khác sẽ ít được chia sẻ hơn. Tuy nhiên, tất cả
những chủ đề này dường như mang tính quyết định đối với chúng ta bởi vì, khi gộp lại với nhau,
chúng cho phép nhận ra sự hài hòa và phong phú của tư tưởng về phẩm giá nảy sinh từ Tin Mừng.
Tuyên ngôn này không có tham vọng tát cạn hết một chủ đề phong phú và mang tính quyết định
như vậy, nhưng muốn cung cấp một số yếu tố suy tư có thể được đảm nhận trong thời điểm lịch sử
phức tạp mà chúng ta đang trải qua, để giữa rất nhiều mối bận tâm và lo lắng, chúng ta không lạc
lối, cũng không chuốc lấy những đau khổ xé lòng và sâu đậm hơn.
Hồng y Víctor Manuel Fernández
Tổng trưởng

Dẫn nhập
1. (Dignitas infinita) Một phẩm giá vô hạn, được thiết lập một cách bất khả tước bỏ trong chính
hữu thể của nó, đều thuộc về mỗi nhân vị, trong mọi hoàn cảnh và trong bất kỳ trạng thái hay
tình huống nào của họ. Nguyên tắc này, hoàn toàn có thể được thừa nhận ngay cả chỉ bằng lý trí,
sẽ thiết lập tính tối thượng của nhân vị và việc bảo vệ các quyền của họ. Giáo hội, dưới ánh sáng
Mặc Khải, tái khẳng định và xác nhận không chút dè dặt phẩm giá hữu thể này của nhân vị, được
tạo dựng theo hình ảnh và giống như Thiên Chúa và được cứu chuộc trong Chúa Giêsu Kitô.
Chính từ chân lý này mà Giáo hội rút ra những lý do cho sự dấn thân của mình đối với những
người yếu đuối nhất và những người ít có quyền lực nhất, bằng cách luôn nhấn mạnh đến “tính
tối thượng của nhân vị và việc bảo vệ phẩm giá của họ trong mọi hoàn cảnh”.[2]
2. Phẩm giá hữu thể này cũng như giá trị độc nhất và cao quý của mỗi người nữ và mỗi người nam
đang sống trên thế giới này đã được Đại hội đồng Liên hợp quốc nhắc lại một cách uy tín trong
Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền (ngày 10 tháng 12 năm 1948).[ 3] Khi kỷ niệm 75 năm Văn
kiện này, Giáo hội nhận thấy cơ hội để tuyên bố một lần nữa niềm xác tín của mình rằng, được
Thiên Chúa tạo dựng và được Chúa Kitô cứu chuộc, mỗi con người phải được nhìn nhận và đối
xử với sự tôn trọng và yêu thương, chính vì phẩm giá bất khả tước bỏ của họ. Việc kỷ niệm nói
trên cũng mang lại cho Giáo hội cơ hội làm sáng tỏ một số hiểu lầm thường nảy sinh liên quan
đến phẩm giá con người và đề cập một số vấn đề cụ thể nghiêm trọng và cấp bách liên quan đến
phẩm giá đó.
3. Ngay từ đầu sứ mạng của mình, được thúc đẩy bởi Tin Mừng, Giáo hội đã nỗ lực khẳng định
quyền tự do và thăng tiến các quyền của mọi người.[4] Trong thời gian gần đây, nhờ tiếng nói
của các Đức Giáo hoàng, sự dấn thân này đã được trình bày một cách rõ ràng hơn qua lời kêu gọi
2
mới mẻ về việc nhìn nhận phẩm giá căn bản của nhân vị. Thánh Phaolô VI đã nói: “Không có
nền nhân chủng học nào sánh bằng nền nhân chủng học của Giáo hội về nhân vị – ngay cả với tư
cách là một cá nhân – về tính độc đáo và phẩm giá của nó, về tính bất khả xâm phạm và sự
phong phú của các quyền cơ bản của nó, về tính cách linh thiêng và có thể giáo dục của nó, về
khát vọng đạt tới sự triển nở toàn diện và sự bất tử của nó”.[5]
4. Thánh Gioan Phaolô II, vào năm 1979, tại Hội đồng Giám mục Châu Mỹ Latinh lần thứ ba ở
Puebla, đã tuyên bố: “Phẩm giá con người là một giá trị Tin Mừng không thể bị coi thường mà
không xúc phạm nghiêm trọng đến Đấng Tạo Hóa. Phẩm giá này bị chà đạp, ở cấp độ cá nhân,
khi người ta không quan tâm đúng mức đến các giá trị như tự do, quyền tuyên xưng tôn giáo,
quyền toàn vẹn về thể chất và tâm lý, quyền có những của cải thiết yếu, quyền sống… Nó bị chà
đạp, trên bình diện xã hội và chính trị, khi con người không thể thực hiện quyền tham gia của
mình hoặc phải chịu những ép buộc bất công và bất hợp pháp, hoặc những cuộc tra tấn về thể lý,
tâm lý, v.v. […] Nếu Giáo hội hiện diện để bảo vệ hoặc thăng tiến phẩm giá con người, thì Giáo
hội làm như vậy trong đường hướng sứ mạng của mình, dù mang tính chất tôn giáo chứ không
phải xã hội hay chính trị, nhưng không thể không coi con người trong sự toàn vẹn hữu thể của
nó.”[6]
5. Vào năm 2010, trước Hàn lâm viện Tòa Thánh về Sự sống, Đức Bênêđíctô XVI đã khẳng định
rằng phẩm giá con người là “một nguyên tắc cơ bản mà đức tin vào Chúa Giêsu Kitô chịu đóng
đinh và phục sinh luôn bảo vệ, nhất là khi nó bị coi thường khi đó là những người đơn sơ và
không có khả năng tự vệ.”[7] Trong một dịp khác, nói chuyện với các nhà kinh tế, ngài tuyên bố
rằng “nền kinh tế và tài chính không tồn tại cho chính chúng, chúng chỉ là một công cụ, một
phương tiện. Mục đích của chúng chỉ là nhân vị và sự thể hiện đầy đủ của nó về phẩm giá. Đây
là nguồn vốn duy nhất cần được bảo toàn.”[8]
6. Ngay từ đầu triều đại giáo hoàng của mình, Đức Thánh Cha Phanxicô đã mời gọi Giáo hội
“tuyên xưng một Người Cha yêu thương mỗi người vô tận” và “khám phá ra rằng “qua tình yêu
này Người ban cho họ một phẩm giá vô hạn””,[9] đồng thời nhấn mạnh cách mạnh mẽ rằng
phẩm giá vô hạn này tượng trưng cho một dữ kiện nguyên thủy cần được nhìn nhận một cách
trung thành và đón nhận với lòng biết ơn. Chính trên sự nhìn nhận và đón nhận này mới có thể
thiết lập một cuộc chung sống mới giữa con người với nhau, nhằm phát triển tương quan xã hội
trong một chân trời của tình huynh đệ đích thực: chỉ bằng cách “nhận ra phẩm giá của mỗi nhân
vị mà chúng ta mới có thể hồi sinh giữa tất cả mọi người một khát vọng toàn cầu về tình huynh
đệ”.[10] Theo Đức Thánh Cha Phanxicô, “nguồn gốc của nhân phẩm và tình huynh đệ này được
tìm thấy trong Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô,”[11] nhưng đó cũng là một niềm xác tín mà lý trí
con người có thể đạt được thông qua suy tư và đối thoại, bởi vì “nếu cần phải tôn trọng phẩm giá
của người khác trong mọi hoàn cảnh, thì đó không phải vì chúng ta phát minh ra hay giả định
phẩm giá của người khác, nhưng bởi vì thực sự có nơi họ một giá trị vượt xa những thứ vật chất
và các hoàn cảnh, và đòi hỏi chúng ta phải đối xử với họ một cách khác. Việc mỗi người đều có
một phẩm giá bất khả tước bỏ là một chân lý tương ứng với bản tính con người, bất chấp mọi
thay đổi về văn hóa”.[12] Quả thế, Đức Thánh Cha Phanxicô kết luận, “con người có cùng một
phẩm giá bất khả xâm phạm trong mọi giai đoạn lịch sử và không ai có thể cảm thấy mình được
cho phép bởi các hoàn cảnh để phủ nhận niềm xác tín này hoặc không hành động chống lại nó”.
[13] Trong viễn cảnh này, thông điệp Fratelli tutti của ngài đã tạo thành một loại Đại Hiến
Chương về các nhiệm vụ bảo vệ và thăng tiến phẩm giá con người hiện nay.
Một sự làm sáng tỏ cơ bản
7. Mặc dù ngày nay có một sự đồng thuận khá chung về tầm quan trọng và ảnh hưởng chuẩn mực
của phẩm giá cũng như giá trị duy nhất và siêu việt của mỗi con người,[14] nhưng cách diễn đạt
“phẩm giá nhân vị” thường có nguy cơ mang nhiều ý nghĩa và do đó đứng trước những hiểu lầm
có thể xảy ra[15] và “những mâu thuẫn khiến người ta tự hỏi liệu phẩm giá bình đẳng của tất cả
mọi người […] có thực sự được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và thăng tiến trong bất kỳ hoàn
cảnh nào hay không.”[16] Tất cả những điều này đưa chúng ta đến chỗ nhận ra khả năng phân
3
biệt bốn ý nghĩa về khái niệm phẩm giá: phẩm giá hữu thể, phẩm giá luân lý, phẩm giá xã hội và
cuối cùng là phẩm giá hiện sinh.
Ý nghĩa quan trọng nhất là phẩm giá hữu thể, liên quan đến nhân vị bởi sự kiện đơn giản là hiện
hữu và được Thiên Chúa muốn, tạo dựng và yêu thương. Phẩm giá này không bao giờ có thể bị
xóa bỏ và vẫn có giá trị vượt trên mọi hoàn cảnh mà các cá nhân có thể gặp phải. Khi nói đến
phẩm giá luân lý, người ta muốn nói đến việc thực thi quyền tự do của con người. Con người,
mặc dù có lương tâm, vẫn luôn mở ra khả năng hành động ngược lại lương tâm này. Khi làm như
vậy, con người chấp nhận một hành xử “thiếu phẩm giá” (indigne) với bản chất của mình như
những thụ tạo được Thiên Chúa yêu thương và được kêu gọi yêu thương người khác. Nhưng khả
năng này tồn tại. Và đó không phải là tất cả. Lịch sử cho thấy rằng việc thực thi quyền tự do đi
ngược lại luật yêu thương được Tin Mừng mặc khải có thể đạt đến đỉnh cao khôn lường trong sự
dữ gây ra cho người khác. Khi điều này xảy ra, chúng ta thấy mình phải đối mặt với những người
dường như đã mất hết dấu vết nhân tính, mất hết dấu vết phẩm giá. Về vấn đề này, sự phân biệt
được giới thiệu ở đây giúp phân định chính xác giữa khía cạnh phẩm giá luân lý có thể thực sự bị
“mất đi” và khía cạnh phẩm giá hữu thể không bao giờ có thể hủy bỏ. Và chính vì phẩm giá hữu
thể này mà chúng ta phải nỗ lực hết mình để tất cả những người đã làm điều ác được sám hối và
hoán cải.
8. Vẫn còn hai ý nghĩa khả thi khác của phẩm giá: xã hội và hiện sinh. Khi chúng ta nói về phẩm
giá xã hội, chúng ta đề cập đến những điều kiện trong đó một người đang sống. Chẳng hạn, trong
tình trạng nghèo đói cùng cực, khi những điều kiện tối thiểu không được đáp ứng để một người
có thể sống theo phẩm giá hữu thể của họ, chúng ta nói rằng cuộc sống của người nghèo này là
một cuộc sống “thiếu phẩm giá”. Cách diễn đạt này không hề hàm ý một sự phán xét đối với con
người, nhưng nhằm làm nổi bật sự kiện rằng phẩm giá bất khả tước bỏ của họ bị mâu thuẫn bởi
hoàn cảnh mà họ buộc phải sống. Ý nghĩa cuối cùng là phẩm giá hiện sinh. Ngày nay, người ta
ngày càng nói nhiều hơn về một cuộc sống “có phẩm giá” và một cuộc sống “thiếu phẩm giá”.
Chúng ta đang đề cập đến những hoàn cảnh đúng là hiện sinh: chẳng hạn trường hợp của một
người, mặc dù không thiếu thứ gì thiết yếu để sống, nhưng, vì nhiều lý do khác nhau, lại gặp khó
khăn để sống trong hòa bình, niềm vui và hy vọng. Trong những hoàn cảnh khác, chính sự hiện
diện của các bệnh tật trầm trọng, của các bối cảnh gia đình bạo lực, của một số chứng nghiện
bệnh hoạn và những khó chịu khác đã đẩy một người sống điều kiện sống của mình như là “thiếu
phẩm giá” khi đối diện với nhận thức về phẩm giá hữu thể không bao giờ có thể bị lu mờ này. Dù
sao đi nữa, những khác biệt được đưa ra ở đây chỉ nhắc lại giá trị bất khả tước bỏ của phẩm giá
hữu thể này, bắt nguồn từ chính hữu thể nhân vị và tồn tại trong mọi hoàn cảnh.
9. Cuối cùng, thật thích hợp để nhắc lại ở đây rằng định nghĩa cổ điển về nhân vị như một “thực thể
cá nhân có bản tính lý trí” [17] giải thích nền tảng của phẩm giá của nó. Thật vậy, với tư cách là
một “thực thể cá nhân”, nhân vị có được một phẩm giá hữu thể (nghĩa là ở cấp độ siêu hình của
chính hữu thể): đó là một chủ thể, sau khi nhận được sự hiện hữu từ Thiên Chúa, “tồn tại”, nói
cách khác, thực hiện sự tồn tại một cách tự trị. Trên thực tế, từ “lý trí” bao gồm tất cả các khả
năng của con người: khả năng biết và hiểu cũng như khả năng mong muốn, yêu thương, lựa
chọn, ước ao. Do đó, thuật ngữ “lý trí” cũng bao gồm tất cả các khả năng của cơ thể được liên
kết mật thiết với những khả năng được đề cập ở trên. Kiểu nói “bản tính” chỉ ra những điều kiện
cụ thể đối với con người làm cho những hoạt động và kinh nghiệm nghiệm khác nhau trở nên
khả thi: bản tính là “nguyên tắc hành động”. Con người không tạo ra bản tính của mình; họ sở
hữu nó như một món quà được nhận và có thể trau dồi, phát triển và làm phong phú thêm các
khả năng của mình. Khi thực hiện quyền tự do trau dồi những phong phú của bản tính mình,
nhân vị được xây dựng theo thời gian. Ngay cả khi, do những hạn chế hoặc điều kiện khác nhau,
không thể sử dụng những khả năng này, nhân vị luôn tồn tại như một “thực thể cá nhân” với tất
cả phẩm giá bất khả tước bỏ của mình. Chẳng hạn, đây là trường hợp của một đứa trẻ chưa chào
đời, một người vô thức, một người già đang hấp hối.

4
1. Một nhận thức dần dần về đặc tính trung tâm của phẩm giá con người
10. Ngay từ thời Cổ đại [18], người ta đã tìm thấy một nhận thức đầu tiên về phẩm giá con người,
vốn nằm trong viễn cảnh xã hội: mỗi con người được ban cho một phẩm giá đặc biệt, tùy theo
hạng bậc của mình và trong một trật tự nào đó. Từ lĩnh vực xã hội, từ này chuyển sang mô tả
những phẩm giá khác nhau của các sinh vật hiện diện trong vũ trụ. Theo quan điểm này, mọi sinh
vật đều có “phẩm giá” riêng, tùy theo vị trí của chúng trong sự hài hòa của tổng thể. Chắc chắn,
một số đỉnh cao của tư tưởng cổ đại đã bắt đầu thừa nhận một vị trí độc nhất dành cho con người,
trong chừng mực con người được phú bẩm lý trí và do đó có khả năng đảm nhận trách nhiệm đối
với bản thân và những sinh vật khác trên thế giới,[19] nhưng chúng ta vẫn còn xa với một tư
tưởng có khả năng thiết lập sự tôn trọng phẩm giá của mỗi con người, trong mọi hoàn cảnh.
Các viễn cảnh Thánh Kinh
11. Mặc Khải Thánh Kinh dạy rằng tất cả mọi người đều có một phẩm giá nội tại bởi vì họ được tạo
dựng theo hình ảnh và giống như Thiên Chúa: “Thiên Chúa phán: “Chúng ta hãy làm nên con
người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta”. […] Thiên Chúa sáng tạo con người theo
hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo
con người có nam có nữ” (St 1, 26-27). Nhân loại có một phẩm chất đặc thù, khiến nó không thể
bị giảm thiểu thành vật chất thuần túy. “Hình ảnh” không xác định linh hồn hay những khả năng
trí tuệ, nhưng xác định phẩm giá của người nam và người nữ. Cả hai, trong mối quan hệ bình
đẳng và yêu thương nhau, hoàn thành chức năng đại diện Thiên Chúa trong thế giới và được mời
gọi chăm sóc và nuôi dưỡng thế giới. Do đó, được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa có nghĩa
là sở hữu trong chúng ta một giá trị thánh thiêng siêu vượt mọi sự phân biệt về giới tính, xã hội,
chính trị, văn hóa và tôn giáo. Phẩm giá của chúng ta được ban cho chúng ta, nó không được đòi
hỏi hay do công trạng. Mỗi con người đều được Thiên Chúa yêu thương và mong muốn vì chính
nó và do đó, phẩm giá của họ là bất khả xâm phạm. Trong sách Xuất Hành, tâm điểm của Cựu
Ước, Thiên Chúa tỏ ra là Đấng nghe tiếng kêu than của người nghèo, nhìn thấy nỗi khốn cùng
của dân mình, chăm sóc những người bé mọn nhất và những người bị áp bức (x. Xh 3, 7; 22, 20 -
26). Người ta tìm thấy giáo huấn tương tự trong sách Đệ Nhị Luật (x. Đnl 12-26): ở đây, giáo
huấn về các quyền lợi được biến thành một “bản tuyên ngôn” về phẩm giá con người, đặc biệt
bênh vực ba nhóm người: trẻ mồ côi, góa phụ và người ngoại kiều. (x. Đnl 24, 17). Những giới
luật xưa của sách Xuất Hành được nhắc lại và hiện tại hóa qua lời rao giảng của các ngôn sứ,
những người đại diện cho lương tâm phê bình của dân Israel. Toàn bộ các chương của các ngôn
sứ Amos, Hôsê, Isaia, Mikha và Giêrêmia đều tố cáo sự bất công. Amos cay đắng chỉ trích sự
đàn áp người nghèo, việc không công nhận bất kỳ phẩm giá cơ bản nào của con người đối với
những người bị thiệt thòi nhất (x. Am 2, 7; 4, 1; 5, 11-12). Isaia tuyên bố tai họa chống lại những
kẻ chà đạp các quyền lợi của người nghèo, phủ nhận mọi công lý của họ: “Khốn thay những kẻ
đặt ra các luật lệ bất công, những kẻ viết nên các chỉ thị áp bức, để cản người yếu hèn hưởng
công lý!” (Is 10, 1-2). Giáo huấn ngôn sứ này được lấy lại trong văn chương khôn ngoan. Sách
Huấn ca so sánh sự áp bức người nghèo với tội giết người: “Cướp phương tiện sống của kẻ khác
là giết người; đoạt lương của người làm thuê là gây đổ máu” (Hc 34, 22). Trong các Thánh Vịnh,
mối quan hệ tôn giáo với Thiên Chúa bao hàm việc bảo vệ những người yếu đuối và thiếu thốn:
“Hãy bênh quyền lợi kẻ mồ côi, người hèn mọn; minh oan cho người khốn khổ, kẻ bần cùng,
giải phóng ai hèn mọn, ai nghèo túng, cứu khỏi nanh vuốt bọn ác nhân” (Tv 82, 3-4).
12. Chúa Giêsu sinh ra và lớn lên trong những điều kiện khiêm tốn và đã mặc khải phẩm giá của
những người nghèo khổ và những người lao động.[20] Trong suốt sứ vụ của mình, Chúa Giêsu
khẳng định giá trị và phẩm giá của tất cả những ai mang hình ảnh của Thiên Chúa, bất kể địa vị
xã hội và hoàn cảnh bên ngoài của họ. Chúa Giêsu đã phá bỏ các rào cản văn hóa và tôn giáo,
phục hồi phẩm giá cho những người bị loại bỏ hoặc bị coi là bên lề xã hội: người thu thuế (x. Mt
9, 10-11), phụ nữ (x. Ga 4, 1-42), trẻ em (x. Mc 10, 14-15), người phong cùi (x. Mt 8, 2-3),
người bệnh (x. Mc 1, 29-34), người ngoại kiều (x. Mt 25, 35), góa phụ (x. Lc 7, 11-15). Người
chữa lành, nuôi dưỡng, bảo vệ, giải phóng, cứu rỗi. Người được mô tả như một mục tử quan tâm
5
đến duy chỉ một con chiên lạc (x. Mt 18, 12-14). Người tự đồng hóa với những người anh em
hèn mọn nhất của mình: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ
nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 40). Theo ngôn ngữ Thánh Kinh,
“những người bé nhỏ” không chỉ là những trẻ em theo độ tuổi, mà còn là những môn đệ yếu
đuối, những người tầm thường nhất, những người bị loại trừ, bị áp bức, bị gạt sang một bên,
người nghèo, người bị gạt ra ngoài lề xã hội, người dốt nát, người bệnh tật, người bị hạ thấp bởi
các nhóm thống trị. Chúa Kitô vinh hiển sẽ xét xử theo tình yêu đối với người lân cận, hệ tại việc
đã giúp đỡ những người đói, khát, khách lạ, trần truồng, bệnh tật, tù đày, những người mà Người
tự đồng hóa (x. Mt 25, 34-36). Đối với Chúa Giêsu, việc thiện được làm cho mọi người, bất kể
mối liên hệ huyết thống hay tôn giáo, là tiêu chuẩn phán xét duy nhất. Thánh Phaolô Tông đồ,
khi viết cho giáo đoàn Galát, đã khẳng định rằng mọi Kitô hữu phải cư xử theo những đòi hỏi về
phẩm giá và tôn trọng quyền lợi của mọi người (x. Rm 13, 8-10), phù hợp với điều răn mới về
đức ái. (x. 1 Cr 13, 1-13).
Những phát triển trong tư tưởng Kitô giáo
13. Tiếp đến, sự phát triển tư tưởng Kitô giáo đã kích thích và đi kèm với sự tiến bộ trong suy tư của
con người về chủ đề phẩm giá. Nhân chủng học Kitô giáo cổ điển, dựa trên truyền thống vĩ đại
của các Giáo phụ, đã nhấn mạnh đến học thuyết về con người được tạo dựng theo hình ảnh và
giống như Thiên Chúa và đến vai trò đặc biệt của nó trong công trình tạo dựng.[21] Tư tưởng
Kitô giáo thời trung cổ, khi xem xét một cách có phê bình di sản của tư tưởng triết học cổ đại, đã
đi đến một tổng hợp về khái niệm nhân vị, thừa nhận trong đó nền tảng siêu hình về phẩm giá
của nó, như được chứng thực bằng những lời sau đây của thánh Tôma Aquinô: “Nhân vị biểu thị
những gì hoàn hảo nhất trong mọi bản tính: tức là, những gì tồn tại trong một bản tính có lý trí”.
[22] Phẩm giá hữu thể này, trong sự biểu hiện ưu việt của nó qua hành động tự do của con người,
sau đó đã được nhấn mạnh đặc biệt bởi chủ thuyết nhân bản Kitô giáo thời Phục hưng.[23] Ngay
cả trong tầm nhìn của các nhà tư tưởng hiện đại, chẳng hạn như Descartes và Kant, những người
cũng đặt vấn đề về một số nền tảng của nhân học Kitô giáo truyền thống, những vang vọng của
Mặc Khải vẫn có thể được cảm nhận một cách mạnh mẽ. Dựa trên một số suy tư triết học gần
đây hơn về cương vị của chủ thể tính lý thuyết và thực hành, suy tư Kitô giáo đã nhấn mạnh hơn
nữa chiều sâu của khái niệm phẩm giá, đạt đến một viễn cảnh độc đáo trong thế kỷ XX, chẳng
hạn như với chủ thuyết nhân vị. Viễn cảnh này không chỉ lấy lại vấn đề chủ thể tính, mà còn đào
sâu nó theo chiều hướng liên chủ thể và các mối quan hệ gắn kết các nhân vị với nhau.[24] Đề
xuất nhân học Kitô giáo đương đại cũng đã được làm phong phú nhờ tư tưởng nảy sinh từ cách
tiếp cận cuối cùng này.[25]
Thời hiện tại
14. Ngày nay, thuật ngữ “phẩm giá” chủ yếu được dùng để nhấn mạnh tính cách độc nhất của nhân
vị, bất khả sánh với các sinh vật khác trong vũ trụ. Từ viễn cảnh này, chúng ta hiểu cách thức mà
thuật ngữ phẩm giá được sử dụng trong Tuyên ngôn của Liên hợp quốc năm 1948, trong đó nói
về “phẩm giá gắn liền với tất cả các thành viên trong gia đình nhân loại và các quyền bình đẳng
và bất khả tước bỏ của họ”. Chỉ có đặc tính bất khả tước bỏ này của phẩm giá con người mới cho
phép nói về nhân quyền.[26]
15. Để làm rõ hơn khái niệm phẩm giá, điều quan trọng là phải nhấn mạnh rằng phẩm giá không
được những người khác ban cho nhân vị, dựa trên một số năng khiếu và phẩm chất, đến độ nó có
thể bị rút lại. Nếu phẩm giá được những người khác ban cho nhân vị, thì nó sẽ được ban cách có
điều kiện và có thể bị tước bỏ, và như thế chính ý nghĩa của phẩm giá (mặc dù rất đáng được tôn
trọng) sẽ có nguy cơ bị xóa bỏ. Trong thực tế, phẩm giá là nội tại của nhân vị, nó không được
ban cho một cách hậu nghiệm, nó có trước bất kỳ sự thừa nhận nào và không thể bị mất đi. Vì
vậy, tất cả mọi người đều có phẩm giá nội tại như nhau, cho dù họ có khả năng thể hiện nó một
cách thích đáng hay không.

6
16. Đây là lý do tại sao Công đồng Vatican II nói về “phẩm giá cao quý của nhân vị, vượt trên mọi
sự và các quyền và nghĩa vụ của nó là phổ quát và bất khả xâm phạm” [27] Như những lời đầu
tiên của Tuyên ngôn Dignitatis humanae của Công đồng nhắc lại, “phẩm giá của nhân vị là đối
tượng của một nhận thức sâu sắc hơn bao giờ hết; ngày càng có nhiều người đòi hỏi cho con
người khả năng hành động theo những lựa chọn riêng của mình và hoàn toàn tự do chịu trách
nhiệm; không phải dưới áp lực của sự ép buộc, nhưng được hướng dẫn bởi ý thức về bổn phận
của mình.”[28] Quyền tự do tư tưởng và lương tâm này, cả cá nhân lẫn tập thể, dựa trên sự nhìn
nhận nhân phẩm “như được Lời Chúa và chính lý trí cho biết” [29]. Chính huấn quyền của Giáo
hội đã ngày càng suy tư chín chắn hơn về ý nghĩa của phẩm giá này, cũng như những đòi hỏi và
ngụ ý liên quan đến nó, khi nhận ra rằng phẩm giá của mỗi con người là như vậy trong mọi hoàn
cảnh.

2. Giáo hội công bố, thăng tiến và bảo đảm nhân phẩm
17. Giáo hội công bố phẩm giá bình đẳng của mọi người, bất kể điều kiện sống và phẩm chất của họ.
Lời công bố này dựa trên ba niềm xác tín mà, dưới ánh sáng đức tin Kitô giáo, mang lại cho
nhân phẩm một giá trị vô giá và củng cố những đòi hỏi nội tại của nó.
Một hình ảnh không thể xóa nhòa của Thiên Chúa
18. Trước hết, theo Mặc Khải, phẩm giá của con người xuất phát từ tình yêu của Đấng Tạo Hóa của
nó, Đấng đã in sâu vào con người những nét không thể xóa nhòa của hình ảnh Ngài (x. St 1,26),
mời gọi con người nhận biết Ngài, yêu mến Ngài và sống trong mối quan hệ giao ước với Thiên
Chúa và trong tình huynh đệ, công lý và hòa bình với tất cả mọi người nam và người nữ khác.
Theo tầm nhìn này, phẩm giá không chỉ liên quan đến linh hồn, mà còn đến nhân vị như một thể
thống nhất không thể chia cắt, và do đó cũng gắn liền với thân xác của nó, vốn tham dự vào hữu
thể của nhân vị theo cách của nó như hình ảnh của Thiên Chúa và cũng được mời gọi chia sẻ
vinh quang của linh hồn trong hạnh phúc của Thiên Chúa.
Chúa Kitô nâng cao phẩm giá con người
19. Niềm xác tín thứ hai nảy sinh từ sự kiện là phẩm giá của nhân vị đã được mặc khải trọn vẹn khi
Chúa Cha sai Con của mình đến, Đấng đã đảm nhận toàn bộ cuộc sống con người: “Qua mầu
nhiệm Nhập Thể, Con Thiên Chúa đã xác nhận phẩm giá của thân xác và linh hồn, vốn làm nên
con người” [30] Do đó, bằng cách hiệp nhất một cách nào đó với mọi người qua việc nhập thể
của mình, Chúa Giêsu Kitô đã xác nhận rằng mỗi người đều có một phẩm giá vô giá, bằng sự
kiện đơn giản là thuộc về cùng một cộng đồng nhân loại, và phẩm giá này không bao giờ có thể
bị mất đi.[ 31] Bằng việc công bố rằng Nước Thiên Chúa thuộc về người nghèo, người khiêm
nhường, người bị khinh miệt, những người đau khổ về thể xác và tinh thần; bằng cách chữa lành
mọi loại bệnh hoạn tật nguyền, ngay cả những bệnh tật nặng nề nhất như bệnh cùi; bằng cách
khẳng định rằng những gì chúng ta làm cho những người này, đó là chúng ta đang làm cho
Người, bởi vì Người hiện diện nơi những người này, Chúa Giêsu đã mang đến sự mới mẻ tuyệt
vời trong việc nhìn nhận phẩm giá của mỗi người, và trên hết, cả của những người bị coi là
“thiếu phẩm giá”. Nguyên tắc mới này trong lịch sử nhân loại, theo đó con người càng “xứng
đáng” (digne) được tôn trọng và yêu thương hơn khi họ yếu đuối hơn, khốn khổ hơn và đau khổ
hơn, đến mức mất đi “dáng vẻ” người của mình, đã làm thay đổi bộ mặt của thế giới, bằng việc
khai sinh ra những tổ chức chăm sóc những người có hoàn cảnh khó khăn: trẻ sơ sinh bị bỏ rơi,
trẻ mồ côi, người già bị bỏ rơi một mình, bệnh nhân tâm thần, người mắc bệnh nan y hoặc dị tật
nghiêm trọng, người sống trên đường phố.
Ơn gọi hướng tới phẩm giá trọn vẹn
20. Niềm xác tín thứ ba liên quan đến số phận cuối cùng của con người: sau công trình tạo dựng và
nhập thể, sự phục sinh của Chúa Kitô mặc khải cho chúng ta một khía cạnh khác của phẩm giá
con người. Thật vậy, “khía cạnh cao quý nhất của phẩm giá con người được tìm thấy nơi ơn gọi
7
hiệp thông với Thiên Chúa của con người”, [32] được định sẽ tồn tại đời đời. Như vậy, “phẩm
giá của sự sống không chỉ gắn liền với nguồn gốc của nó, với sự kiện nó đến từ Thiên Chúa, mà
còn với cứu cánh của nó, với định mệnh của nó là hiệp thông với Thiên Chúa để biết Ngài và yêu
mến Ngài. Chính dưới ánh sáng của chân lý này mà thánh Irênê đã nêu rõ và hoàn thành việc tôn
vinh con người: “Vinh quang của Thiên Chúa” chính là “con người sống động”, nhưng “sự sống
của con người là nhìn thấy Thiên Chúa”” [33].
21. Vì vậy, Giáo hội tin và khẳng định rằng tất cả mọi người, được tạo dựng theo hình ảnh và giống
như Thiên Chúa và được tái tạo [34] trong Ngôi Con làm người, chịu đóng đinh và phục sinh,
đều được mời gọi lớn lên dưới tác động của Chúa Thánh Thần để phản ánh vinh quang của Chúa
Cha, trong cùng hình ảnh này, thông phần vào sự sống đời đời (x. Ga 10,15-16,17,22-24; 2 Cr
3,18; Êph 1,3-14). Thật vậy, “Mặc Khải […] tỏ lộ toàn bộ phẩm giá của nhân vị” [35]
Dấn thân cho tự do
22. Mặc dù mỗi người đều có một phẩm giá nội tại và bất khả tước bỏ ngay từ đầu cuộc sống của
mình như một ân huệ không thể hủy bỏ, nhưng điều đó tùy thuộc vào quyết định tự do và có
trách nhiệm của họ để diễn đạt và thể hiện phẩm giá đó một cách trọn vẹn hay làm lu mờ nó.
Một số Giáo phụ – như thánh Irênê hay thánh Gioan Đamascô – đã phân biệt giữa hình ảnh và sự
giống như mà sách Sáng Thế Ký nói đến, nhờ đó cho phép một cái nhìn năng động về chính
phẩm giá con người: hình ảnh Thiên Chúa được ủy thác cho sự tự do của con người để, dưới sự
hướng dẫn và tác động của Chúa Thánh Thần, việc giống như Thiên Chúa của con người được
lớn lên và mỗi người có thể đạt được phẩm giá cao nhất của mình.[36] Quả thế, mỗi người được
mời gọi biểu lộ trên bình diện hiện sinh và luân lý tầm quan trọng hữu thể của phẩm giá của
mình trong chừng mực, với sự tự do của mình, họ hướng tới sự thiện đích thực, để đáp lại tình
yêu của Thiên Chúa. Như vậy, được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, nhân vị một mặt không
bao giờ mất đi phẩm giá của mình và không bao giờ ngừng được mời gọi tự do đón nhận sự
thiện; mặt khác, trong chừng mực nhân vị đáp lại sự thiện, phẩm giá của họ có thể được biểu lộ,
phát triển và trưởng thành một cách tự do, một cách năng động và tiến bộ. Điều này có nghĩa là
con người cũng phải nỗ lực sống xứng với phẩm giá của mình.
Như thế, chúng ta hiểu theo nghĩa nào tội lỗi có thể làm tổn thương và lu mờ phẩm giá con
người, như một hành vi trái ngược với phẩm giá này, nhưng đồng thời, nó không bao giờ có thể
xóa bỏ được sự kiện rằng con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Do đó, đức tin
góp phần một cách quyết định vào việc trợ giúp lý trí trong việc nhận thức về phẩm giá con
người, đồng thời đón nhận, củng cố và nêu bật những nét thiết yếu của nó, như Đức Bênêđíctô
XVI đã nhấn mạnh: “Hơn nữa, nếu không có sự sửa chữa mà tôn giáo mang lại, thì lý trí cũng có
thể rơi vào tình trạng méo mó, như khi nó bị ý thức hệ thao túng, hoặc khi nó được sử dụng một
cách phiến diện đến mức không còn có thể ý thức về phẩm giá nhân vị một cách đầy đủ nữa. Rốt
cục, chính sự lạm dụng lý trí này, là nguồn gốc của việc buôn bán nô lệ và nhiều tệ nạn xã hội
khác, trong đó ít nhất có các ý thức hệ toàn trị của thế kỷ XX.”[37]

3. Phẩm giá, nền tảng của các quyền và bổn phận của con người
23. Như Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc lại, “trong nền văn hóa hiện đại, quy chiếu gần nhất đến
nguyên tắc về phẩm giá bất khả tước bỏ của nhân vị là Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền,
được thánh Gioan Phaolô II xác định là một “cột mốc được đặt trên con đường đường dài và khó
khăn của loài người” và là “một trong những biểu hiện cao nhất của lương tâm con người””.[38]
Để chống lại những mưu toan nhằm thay đổi hoặc xóa bỏ ý nghĩa sâu xa của Tuyên ngôn này,
điều thích hợp là nhắc lại một số nguyên tắc thiết yếu luôn phải được tôn trọng.
Tôn trọng vô điều kiện phẩm giá con người
24. Trước hết, mặc dù sự nhạy cảm ngày càng tăng đối với chủ đề phẩm giá con người đã trở nên
phổ biến, nhưng ngày nay vẫn còn nhiều hiểu lầm về khái niệm phẩm giá, làm sai lệch ý nghĩa
8
của nó. Một số đề nghị sử dụng cách diễn đạt “phẩm giá nhân vị” (và các quyền của “nhân vị”)
thay vì “phẩm giá con người” (và các quyền của con người), bởi vì qua nhân vị họ chỉ hiểu một
“hữu thể có khả năng suy luận”. Vì vậy, họ lập luận rằng phẩm giá và các quyền được suy ra từ
khả năng hiểu biết và tự do, mà không phải con người nào cũng được phú cho. Do đó, đứa trẻ
chưa sinh ra sẽ không có phẩm giá nhân vị, cũng như người già không có khả năng tự trị hoặc
những người bị khuyết tật tâm trí.[39] Trái lại, Giáo hội nhấn mạnh đến sự kiện rằng phẩm giá
của mỗi nhân vị, chính vì nó mang tính nội tại, nên vẫn tồn tại “trong mọi hoàn cảnh”, và việc
thừa nhận phẩm giá đó trong mọi trường hợp không thể phụ thuộc vào phán đoán về khả năng
hiểu và hành động một cách tự do của một người. Nếu không, phẩm giá sẽ không gắn liền với
nhân vị, biệt lập với điều kiện của họ và do đó xứng đáng được tôn trọng vô điều kiện. Chỉ khi
nhìn nhận con người có một phẩm giá nội tại, không bao giờ có thể bị mất đi, thì mới có thể bảo
đảm được một nền tảng bất khả xâm phạm và an toàn cho phẩm chất này. Nếu không có quy
chiếu hữu thể, thì việc thừa nhận phẩm giá con người sẽ bị phó mặc cho những đánh giá khác
nhau và tùy tiện. Do đó, điều kiện duy nhất để có thể nói về phẩm giá nội tại gắn liền với nhân vị
là việc họ thuộc về loài người, đến độ “quyền của nhân vị là quyền của con người”.[40]
Một quy chiếu khách quan cho tự do của con người
25. Thứ hai, khái niệm phẩm giá con người đôi khi cũng bị lạm dụng để biện minh cho việc nhân
rộng một cách tùy tiện các quyền mới, mà nhiều quyền trong số đó thường xung đột với những
quyền đã được xác định ban đầu và thường xuyên dẫn đến xung đột với quyền sống cơ bản [41],
như thể khả năng diễn tả và thể hiện mỗi sở thích cá nhân hoặc mong muốn chủ quan đều phải
được đảm bảo. Như thế, phẩm giá được đồng nhất với một quyền tự do biệt lập và cá nhân chủ
nghĩa, có tham vọng áp đặt một số mong muốn và khuynh hướng chủ quan như là “các quyền”,
được tập thể bảo đảm và tài trợ. Nhưng phẩm giá con người không thể chỉ dựa trên những tiêu
chuẩn thuần túy cá nhân cũng như không thể được đồng hóa với chỉ phúc lợi tâm thể lý của cá
nhân đó mà thôi. Trái lại, việc bảo vệ nhân phẩm dựa trên những đòi hỏi mang tính cấu thành của
bản tính con người, vốn không phụ thuộc vào sự tùy tiện cá nhân cũng như sự thừa nhận của xã
hội. Do đó, các nghĩa vụ nảy sinh từ việc nhìn nhận phẩm giá của người khác và các quyền
tương ứng phát sinh từ đó có một nội dung cụ thể và khách quan, dựa trên bản tính chung của
con người. Nếu không có sự quy chiếu khách quan này, thì khái niệm phẩm giá trên thực tế sẽ
tùy thuộc vào sự tùy tiện và những mối quan hệ quyền lực đa dạng nhất.
Cấu trúc tương quan của nhân vị
26. Phẩm giá con người, dưới ánh sáng đặc tính tương quan của con người, giúp vượt qua quan điểm
giản lược về quyền tự do tự quy chiếu và chủ nghĩa cá nhân, vốn có tham vọng tạo ra các giá trị
riêng của mình mà không tính đến các chuẩn mực khách quan của sự thiện và mối tương quan
với những sinh vật khác. Thật vậy, ngày càng có nguy cơ hạn chế phẩm giá con người ở khả
năng tự ý quyết định về bản thân và số phận của mình, bất kể số phận của người khác, không
tính đến tư cách thành viên của mình trong cộng đồng nhân loại. Trong quan niệm sai lầm về tự
do như vậy, bổn phận và quyền lợi không thể được thừa nhận lẫn nhau để chúng ta quan tâm lẫn
nhau. Quả thế, như thánh Gioan Phaolô II nhắc nhở chúng ta, tự do nhằm “để phục vụ nhân vị và
sự thành toàn của nhân vị qua việc trao ban chính mình và đón nhận người khác; trái lại, khi
chiều kích cá nhân chủ nghĩa của nó bị tuyệt đối hóa, nó mất hết ý nghĩa đầu tiên của nó, chính
ơn gọi và phẩm giá của nó cũng bị phủ nhận.”[42]
27. Vì thế, phẩm giá của con người cũng bao gồm khả năng đảm nhận các nghĩa vụ đối với người
khác, một khả năng vốn gắn liền với chính bản tính con người.
28. Sự khác biệt giữa con người và các sinh vật khác, được rút ra từ khái niệm phẩm giá, không được
làm chúng ta quên đi sự tốt lành của những sinh vật thụ tạo khác, vốn tồn tại không chỉ tùy thuộc
con người, mà còn với một giá trị riêng, và do đó như những món quà được giao phó cho con
người và phải được trân trọng và vun trồng. Vì vậy, trong khi khái niệm phẩm giá được dành
riêng cho con người, thì sự tốt lành của các thụ tạo khác trong vũ trụ cũng phải được khẳng định
9
đồng thời. Như Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh: “Chính vì phẩm giá độc nhất của mình và
do được phú ban cho trí tuệ, con người được mời gọi tôn trọng công trình tạo dựng với những
quy luật nội tại của nó, […]: “Mỗi thụ tạo đều có sự tốt lành và sự hoàn hảo của riêng mình [… ]
Các thụ tạo khác nhau, được mong muốn nơi chính bản thân chúng, mỗi loài đều phản chiếu,
theo cách riêng của mình, một tia sáng của sự khôn ngoan và lòng tốt lành vô biên của Thiên
Chúa. Đây là lý do tại sao con người phải tôn trọng sự tốt lành riêng của mỗi thụ tạo để tránh
việc sử dụng sự vật một cách vô trật tự.”” [43] Hơn nữa, “ngày nay chúng ta buộc phải thừa nhận
rằng chỉ có thể duy trì một “nhân trung luận”. Nói cách khác, thừa nhận rằng cuộc sống con
người là không thể hiểu được và không bền vững nếu không có các thụ tạo khác.”[44] Theo viễn
cảnh này, “không phải là không có tầm quan trọng đối với chúng ta khi nhiều loài đang biến mất
và cuộc khủng hoảng khí hậu đang gây nguy hiểm cho cuộc sống của rất nhiều sinh vật”.[45]
Việc chăm sóc môi trường thực sự thuộc về phẩm giá của con người, bằng cách đặc biệt quan
tâm đến hệ sinh thái nhân bản vốn đang bảo tồn chính sự tồn tại của nó.
Giải phóng con người khỏi những ảnh hưởng tiêu cực trong các phạm vi luân lý và xã hội
29. Những điều kiện tiên quyết cơ bản này, dù cần thiết đến đâu, cũng không đủ để bảo đảm sự triển
nở của nhân vị trong sự tôn trọng phẩm giá của họ. Cho dù “Thiên Chúa tạo dựng con người có
lý trí bằng cách ban cho họ phẩm giá của một nhân vị có khả năng sáng kiến và làm chủ các
hành động của mình”[46] nhắm tới điều thiện, thì ý chí tự do thường thích sự dữ hơn sự thiện.
Đây là lý do tại sao quyền tự do của con người cũng cần được giải thoát. Trong Thư gửi tín hữu
Galát, khi khẳng định rằng “chính để chúng ta được tự do mà Chúa Kitô đã giải thoát chúng ta”
(Gl 5, 1), thánh Phaolô nhắc lại nhiệm vụ đặc thù của mỗi Kitô hữu, trên vai họ có trách nhiệm
giải thoát, được mở rộng ra toàn thế giới (x. Rm 8, 19tt). Đó là một sự giải thoát mà, từ trái tim
con người, được mời gọi lan tỏa và thể hiện sức mạnh nhân bản hóa của nó trong mọi mối quan
hệ.
30. Tự do là một món quà tuyệt vời của Thiên Chúa. Ngay cả khi thu hút chúng ta bằng ân sủng của
Ngài, Thiên Chúa làm như vậy để sự tự do của chúng ta không bao giờ bị xâm phạm. Do đó, sẽ
là một sai lầm nghiêm trọng khi nghĩ rằng, xa rời Thiên Chúa và sự giúp đỡ của Ngài, chúng ta
có thể tự do hơn và, do đó, chúng ta cảm thấy có phẩm giá hơn. Bị tách rời khỏi Đấng Tạo Hóa,
sự tự do của chúng ta chỉ có thể trở nên suy yếu và bị lu mờ. Cũng tương tự như thế nếu sự tự do
được tưởng tượng độc lập với bất kỳ quy chiếu chiếu nào khác ngoài chính nó và coi bất kỳ mối
quan hệ nào với sự thật có trước là một mối đe dọa. Do đó, việc tôn trọng tự do và phẩm giá của
người khác cũng sẽ bị suy giảm. Đây là những gì Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI giải thích:
“Một ý chí nghĩ mình hoàn toàn không có khả năng tìm kiếm sự thật và sự thiện thì không còn lý
do khách quan hay động cơ để hành động, ngoài những lý do và động cơ bị áp đặt bởi những lợi
ích nhất thời và tùy tiện của nó, nó không có một “căn tính” để bảo tồn và xây dựng bằng cách
đưa ra những lựa chọn thực sự tự do và có ý thức. Do đó, nó không thể đòi hỏi sự tôn trọng từ
những “ý chí” khác, những ý chí cũng tách rời khỏi hữu thể sâu xa hơn của họ và, do đó, có thể
đòi áp đặt những “lý do” khác hoặc thậm chí không có “lý do” nào. Ảo tưởng cho rằng người ta
có thể tìm thấy trong chủ thuyết tương đối luân lý chìa khóa của sự chung sống hòa bình, trên
thực tế, là nguồn gốc của sự chia rẽ và của sự phủ nhận phẩm giá con người.[47]
31. Vả lại, sẽ là phi thực tế khi khẳng định một quyền tự do trừu tượng, thoát khỏi mọi điều kiện, bối
cảnh hoặc giới hạn. Trái lại, “việc thực thi quyền tự do cá nhân một cách đúng đắn đòi hỏi những
điều kiện cụ thể thuộc trật tự kinh tế, xã hội, pháp lý, chính trị và văn hóa”[48], những điều kiện
này thường không được thỏa mãn. Theo nghĩa này, chúng ta có thể nói rằng một số người được
hưởng “quyền tự do” lớn hơn những người khác. Đức Thánh Cha Phanxicô đặc biệt tập trung
vào điểm này: “Một số người sinh ra trong những gia đình giàu có, nhận được một nền giáo dục
tốt, lớn lên được ăn uống đầy đủ hoặc tự nhiên có những khả năng đặc biệt. Những người đó
chắc chắn sẽ không cần một Nhà nước tích cực và sẽ chỉ đòi hỏi tự do. Nhưng rõ ràng, quy tắc
tương tự không có giá trị cho người khuyết tật, cho một người sinh ra trong một gia đình rất
nghèo, cho người đã hưởng được một nền giáo dục có chất lượng thấp và nguồn lực hạn chế để
10
chăm sóc bệnh tật của mình cách thích hợp. Nếu xã hội được quản lý chủ yếu bởi các tiêu chí tự
do thị trường và hiệu quả, thì sẽ không có chỗ cho họ và tình huynh đệ chỉ là một biểu hiện lãng
mạn khác.”[49] Do đó, cần phải hiểu rằng “việc giải phóng khỏi những bất công thúc đẩy tự do
và phẩm giá của con người” [50] ở mọi cấp độ và trong mọi mối tương quan của hành động của
con người. Để có thể thực hiện được sự tự do đích thực, “chúng ta phải đặt lại phẩm giá con
người ở trung tâm và, trên trụ cột này, các cơ cấu xã hội thay thế mà chúng ta cần đến phải được
xây dựng”.[51] Tương tự như vậy, sự tự do thường bị che khuất bởi nhiều ép buộc về tâm lý, lịch
sử, xã hội, giáo dục và văn hóa. Sự tự do lịch sử và đích thực luôn cần được “giải thoát”. Và
quyền cơ bản về tự do tôn giáo cũng phải được tái khẳng định.
32. Đồng thời, rõ ràng là lịch sử nhân loại cho thấy sự tiến bộ trong việc hiểu biết về phẩm giá và tự
do của con người, không phải không có những bóng tối và nguy cơ suy thoái. Điều này được
chứng minh bằng sự kiện là có một khát vọng ngày càng tăng – cũng dưới ảnh hưởng của Kitô
giáo, vốn tiếp tục là men ngay cả trong các xã hội ngày càng thế tục hóa – nhằm xóa bỏ nạn phân
biệt chủng tộc, chế độ nô lệ và việc bị gạt ra ngoài lề xã hội đối với phụ nữ, trẻ em, người bệnh
và người khuyết tật. Nhưng con đường gay go này còn lâu mới kết thúc.

4. Một số vi phạm nghiêm trọng đối với nhân phẩm


33. Dưới ánh sáng của những suy tư đã được đưa ra cho đến nay về đặc tính trung tâm của phẩm giá
con người, phần cuối cùng của Tuyên ngôn đề cập đến một số vi phạm cụ thể và nghiêm trọng
đối với phẩm giá đó. Tuyên ngôn làm như vậy theo tinh thần Huấn quyền của Giáo hội, được thể
hiện đầy đủ trong giáo huấn của các Đức Giáo hoàng gần đây, như chúng ta đã đề cập. Chẳng
hạn, Đức Thánh Cha Phanxicô không bao giờ mệt mỏi kêu gọi tôn trọng phẩm giá con người:
“Mọi người đều có quyền sống có phẩm giá và được phát triển đầy đủ, và quyền cơ bản này
không thể bị từ chối bởi bất kỳ quốc gia nào. Con người có quyền này ngay cả khi họ không hiệu
quả lắm, ngay cả khi họ sinh ra hoặc lớn lên với những hạn chế. Bởi vì điều này không làm tổn
hại đến phẩm giá vô hạn của nhân vị, vốn không dựa trên hoàn cảnh, nhưng trên giá trị hữu thể
của họ. Khi nguyên tắc cơ bản này không được bảo vệ, sẽ không có tương lai cho tình huynh đệ
cũng như cho sự sống còn của nhân loại.”[52] Mặt khác, ngài không ngừng chỉ ra cho mọi người
thấy những vi phạm cụ thể đối với phẩm giá con người trong thời đại chúng ta, kêu gọi mỗi
người gia tăng trách nhiệm và dấn thân tích cực.
34. Để chỉ ra một số trong nhiều vi phạm nghiêm trọng đối với phẩm giá con người trong thế giới
đương đại, chúng ta có thể nhắc lại những gì Công đồng Vatican II đã dạy về vấn đề này. Phải
thừa nhận rằng “bất cứ điều gì chống lại chính sự sống, chẳng hạn như bất kỳ hình thức giết
người, diệt chủng, phá thai, an tử và thậm chí cả cố ý tự sát” đều chống lại phẩm giá con người.
Cũng gây tổn hại đến phẩm giá của chúng ta “bất cứ điều gì làm nên sự vi phạm đến tính toàn
vẹn của nhân vị, chẳng hạn như cắt xẻo, tra tấn về thể xác hoặc tinh thần, những ép buộc về tâm
lý”.[54] Và cuối cùng “tất cả những gì xúc phạm phẩm giá con người, chẳng hạn như những điều
kiện sống dưới nhân bản, bỏ tù tùy tiện, lưu đày, nô lệ, mại dâm, buôn bán phụ nữ và thanh niên;
hoặc những điều kiện làm việc xuống cấp khiến người lao động trở thành công cụ lợi nhuận
thuần túy mà không quan tâm đến nhân cách tự do và trách nhiệm của họ”.[55] Chủ đề án tử
hình cũng phải được đề cập ở đây[56]: án tử hình cũng vi phạm phẩm giá của mỗi con người,
vốn không thể tước bỏ trong mọi hoàn cảnh. Trái lại, cần phải thừa nhận rằng “việc cương quyết
bác bỏ án tử hình cho thấy có thể thừa nhận phẩm giá bất khả tước bỏ của mỗi con người và chấp
nhận vị trí của họ trong vũ trụ này đến mức độ nào. Vì nếu tôi không từ chối phẩm giá này với
tên tội phạm tồi tệ nhất, thì tôi sẽ không từ chối nó với bất kỳ ai, tôi sẽ cho mỗi người khả năng
chia sẻ hành tinh này với tôi bất chấp điều gì có thể chia cắt chúng ta.”[57] Cũng có vẻ thích hợp
để nhắc lại phẩm giá của những người bị bỏ tù, thường bị buộc phải sống trong những điều kiện
thiếu phẩm giá, và việc thực hành tra tấn gây tổn hại đến phẩm giá vượt trên mọi giới hạn của
mỗi con người, ngay cả khi họ phạm những tội ác nghiêm trọng.

11
35. Không có tham vọng đầy đủ, dưới đây chúng tôi lưu ý đến một số vi phạm nghiêm trọng về
phẩm giá con người, đặc biệt mang tính thời sự.

Thảm kịch nghèo khổ


36. Một trong những hiện tượng góp phần đáng kể vào việc phủ nhận phẩm giá của rất nhiều người
là tình trạng nghèo đói cùng cực, gắn liền với việc phân phối của cải không đồng đều. Như thánh
Gioan Phaolô II đã từng chỉ ra, “một trong những bất công lớn nhất của thế giới đương đại nằm
ở chỗ có tương đối ít người lại sở hữu nhiều, trong khi nhiều người hầu như không có gì cả. Đó
là sự bất công trong việc phân phối tồi tệ của cải và dịch vụ vốn ban đầu dành cho tất cả mọi
người.”[58] Vả lại, sẽ là ảo tưởng nếu đưa ra một sự phân biệt đơn giản giữa “các nước giàu” và
“các nước nghèo”: Quả thật, Đức Bênêđíctô XVI đã thừa nhận rằng “xét về bản thân, của cải thế
giới đang tăng lên, nhưng sự bất bình đẳng lại đang gia tăng. Ở các nước giàu, các phạm trù xã
hội mới đang trở nên nghèo hơn và các hình thức nghèo đói mới đang xuất hiện. Ở những khu
vực nghèo hơn, một số nhóm được hưởng một kiểu phát triển quá mức, trong đó tiêu dùng và
lãng phí đi đôi với nhau, điều này tương phản một cách không thể chấp nhận được với những
hoàn cảnh nghèo đói phi nhân bản thường xuyên. “Tai tiếng về sự chênh lệch đáng phẫn nộ” vẫn
còn” [59] trong đó phẩm giá của người nghèo bị phủ nhận hai lần, vừa do thiếu các nguồn lực
sẵn có để đáp ứng các nhu cầu cơ bản của họ vừa do sự thờ ơ mà những người sống bên cạnh họ
đối xử với họ.
37. Do đó, với Đức Thánh Cha Phanxicô, cần phải kết luận rằng “sự giàu có đã tăng lên, nhưng bằng
những bất bình đẳng; và do đó, xảy ra tình trạng “nghèo khổ mới xuất hiện”. Khi người ta nói
rằng thế giới hiện đại đã giảm nghèo, người ta nói như vậy bằng cách đo lường sự nghèo khổ
bằng những tiêu chí từ thời xa xưa vốn không thể so sánh được với thực tế hiện tại.”[60] Kết quả
là, tình trạng nghèo khổ lan rộng “theo nhiều cách, chẳng hạn như nỗi ám ảnh về việc giảm chi
phí lao động mà không tính đến những hậu quả nghiêm trọng mà việc này gây ra, bởi vì tình
trạng thất nghiệp là kết quả trực tiếp của nó đã mở rộng ranh giới của nghèo khổ.”[61] Trong số
những “tác động tàn phá của Đế chế Tiền bạc”,[62] phải thừa nhận rằng “không có tình trạng
nghèo khổ nào tồi tệ hơn tình trạng nghèo khổ tước đi lao động và phẩm giá của lao động”.[63]
Nếu một số người sinh ra ở một đất nước hoặc một gia đình mà họ có ít khả năng phát triển hơn,
thì chúng ta phải thừa nhận rằng điều này đi ngược lại với phẩm giá của họ, vốn chính là phẩm
giá giống như phẩm giá của những người sinh ra trong một gia đình hoặc đất nước giàu có. Tất
cả chúng ta đều phải chịu trách nhiệm, ở những mức độ khác nhau, về sự bất bình đẳng rõ rệt
này.
Chiến tranh
38. Một thảm kịch khác phủ nhận phẩm giá con người là việc xảy ra chiến tranh, ngày nay cũng như
mọi thời đại: “Các cuộc chiến tranh, bạo lực, bách hại vì những lý do chủng tộc hoặc tôn giáo, và
rất nhiều cuộc gây tổn hại đến nhân phẩm […] đang gia tăng “một cách đau đớn ở nhiều vùng
trên thế giới, đến mức mang những nét của cái mà người ta có thể gọi là ‘chiến tranh thế giới thứ
ba phân mảnh””.[64] Với những hủy diệt và đau đớn kèm theo, chiến tranh gây tổn hại đến phẩm
giá con người trong ngắn hạn và dài hạn: “Trong khi tái khẳng định quyền tự vệ chính đáng bất
khả tước bỏ, cũng như trách nhiệm bảo vệ những người mà sự tồn tại của họ bị đe dọa, chúng ta
phải thừa nhận rằng chiến tranh luôn luôn là một “thất bại của nhân loại”. Không có cuộc chiến
nào đáng để người mẹ phải rơi nước mắt khi chứng kiến con mình bị thương tật hoặc chết chóc;
không có cuộc chiến nào đáng để mất đi mạng sống, dù chỉ là của một nhân vị duy nhất, một hữu
thể thiêng liêng, được tạo dựng theo hình ảnh và giống như Đấng Tạo Hóa; không có cuộc chiến
nào đáng để đầu độc ngôi nhà chung của chúng ta; và không có cuộc chiến nào đáng để những
người tuyệt vọng buộc phải rời bỏ quê hương và bị tước đoạt, từ lúc này sang lúc khác, mái nhà
và tất cả các mối liên hệ gia đình, bằng hữu, xã hội và văn hóa vốn đã được xây dựng, đôi khi
trong nhiều thế hệ. ”[65] Tất cả các cuộc chiến tranh, bởi sự kiện đơn giản là chúng mâu thuẫn
12
với phẩm giá con người, đều là “những xung đột không giải quyết được vấn đề nhưng sẽ làm
tăng thêm vấn đề”.[66] Điều này thậm chí còn nghiêm trọng hơn trong thời đại chúng ta, nơi rất
nhiều thường dân vô tội chết bên ngoài chiến trường đã trở thành chuyện bình thường.
39. Đó là lý do tại sao, ngay cả ngày nay, Giáo hội chỉ có thể lấy những lời của các Đức Giáo hoàng
làm của mình, khi lặp lại với thánh Phaolô VI: “Đừng bao giờ chiến tranh nữa, đừng bao giờ
chiến tranh nữa!” »,[67] và yêu cầu, cùng với thánh Gioan Phaolô II, “với tất cả mọi người nhân
danh Thiên Chúa và nhân danh con người: đừng giết người! Đừng chuẩn bị sự hủy diệt và tiêu
diệt loài người! Hãy nghĩ đến những người anh em của các bạn đang phải chịu cảnh đói nghèo!
Hãy tôn trọng phẩm giá và tự do của mọi người! ”.[68] Đây chính là tiếng kêu của Giáo hội và
của toàn thể nhân loại trong thời đại chúng ta. Cuối cùng, Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh
rằng “chúng ta không còn có thể nghĩ đến chiến tranh như một giải pháp nữa, bởi vì những rủi ro
có thể sẽ luôn lớn hơn lợi ích giả định được gán cho nó. Đối mặt với thực tế này, ngày nay rất
khó bảo vệ các tiêu chí hợp lý, đã chín muồi ở thời khác, để nói về một “cuộc chiến tranh chính
đáng” có thể xảy ra. Đừng bao giờ chiến tranh nữa! ”.[69] Vì nhân loại thường rơi vào những lỗi
lầm như trong quá khứ, nên “để xây dựng hòa bình, chúng ta phải thoát khỏi lôgic về tính hợp
pháp của chiến tranh”.[70] Mối quan hệ mật thiết giữa đức tin và phẩm giá con người khiến cho
việc chiến tranh dựa trên niềm tin tôn giáo trở nên mâu thuẫn: “Ai kêu cầu danh Thiên Chúa để
biện minh cho chủ nghĩa khủng bố, bạo lực và chiến tranh thì không đi trên con đường của Ngài:
chiến tranh nhân danh tôn giáo trở thành một cuộc chiến tranh chống lại chính tôn giáo”.[71]
Lao động của người di cư
40. Người di cư nằm trong số những nạn nhân đầu tiên của nhiều hình thức nghèo khổ. Phẩm giá của
họ không chỉ bị xâm phạm tại đất nước của họ,[72] nhưng chính mạng sống của họ cũng bị đe
dọa vì họ không còn phương tiện để lập gia đình, lao động hoặc nuôi sống bản thân.[73] Hơn
nữa, một khi đến những quốc gia có thể đón tiếp họ, “người di cư không được coi là đủ xứng
đáng để tham gia vào đời sống xã hội như bất kỳ người nào khác và người ta quên rằng họ có
cùng phẩm giá nội tại như bất kỳ ai khác. […] Người ta sẽ không bao giờ nói rằng họ không phải
là con người, nhưng trên thực tế, thông qua những quyết định và cách đối xử với họ, người ta
cho thấy họ bị coi là những người kém giá trị hơn, kém quan trọng hơn, kém nhân tính hơn”.[74]
Do đó, thật cấp bách phải luôn nhớ rằng “mọi người di cư đều là một nhân vị, và như thế, sở hữu
những quyền cơ bản bất khả tước bỏ vốn phải được mọi người tôn trọng trong mọi hoàn cảnh”
[75] Đón tiếp họ là một cách quan trọng và có ý nghĩa để bảo vệ “phẩm giá bất khả tước bỏ của
mỗi nhân vị bất kể nguồn gốc, màu da hay tôn giáo” [76]
Buôn bán người
41. Việc buôn bán người cũng phải bị coi là vi phạm nghiêm trọng đến nhân phẩm.[77]. Nó không
phải là mới, nhưng sự phát triển của nó đã mang những chiều kích bi thảm trước mắt chúng ta,
đó là lý do tại sao Đức Thánh Cha Phanxicô đã tố giác nó bằng những lời lẽ đặc biệt mạnh mẽ:
“Tôi tái khẳng định rằng “việc buôn bán người” là một hoạt động hèn hạ, một sự xấu hổ đối với
xã hội của chúng ta vốn coi mình là văn minh! Những kẻ khai thác và khách hàng ở mọi cấp độ
cần tự vấn lương tâm một cách nghiêm túc trước bản thân và trước Thiên Chúa! Giáo hội ngày
nay nhắc lại lời kêu gọi mạnh mẽ của mình, để phẩm giá và vị trí trung tâm của mỗi nhân vị luôn
được bảo vệ, trong sự tôn trọng các quyền cơ bản, như được nhấn mạnh trong học thuyết xã hội
của mình, những quyền mà Giáo hội đòi hỏi chúng ta phải thực sự mở rộng đến những nơi chúng
không được công nhận đối với hàng triệu người nam và người nữ ở mỗi châu lục. Trong một thế
giới mà chúng ta nói rất nhiều về quyền lợi, nhân phẩm thường bị chà đạp biết bao! Trong một
thế giới mà người ta nói quá nhiều về quyền, có vẻ như thứ duy nhất để có được chúng là
tiền.”[78]
42. Vì những lý do này, Giáo hội và nhân loại không được từ bỏ cuộc đấu tranh chống lại các hiện
tượng “buôn bán các cơ quan và các mô người, khai thác tình dục trẻ em, lao động nô lệ – bao
gồm cả mại dâm –, buôn bán ma túy và vũ khí, chủ nghĩa khủng bố và tội phạm quốc tế có tổ
13
chức. Quy mô của những hoàn cảnh này và số lượng sinh mạng vô tội mà chúng hy sinh đến độ
chúng ta phải tránh mọi cám dỗ rơi vào chủ nghĩa duy danh của những tuyên bố có tác dụng xoa
dịu lương tâm. Chúng ta phải đảm bảo rằng các thể chế của chúng ta thực sự hữu hiệu trong cuộc
chiến chống lại tất cả những tai họa này.”[79] Đối mặt với những hình thức phủ nhận phẩm giá
con người đa dạng và tàn bạo như vậy, cần phải ngày càng nhận thức rõ hơn rằng “việc buôn bán
người là một tội ác chống lại nhân loại” [80]. Về cơ bản, nó phủ nhận phẩm giá con người ít nhất
theo hai cách: “Việc buôn bán người làm biến dạng nhân tính của nạn nhân, bằng cách xúc phạm
đến tự do và phẩm giá của họ. Nhưng đồng thời, nó làm mất nhân tính của người buôn bán.”[81]
Lạm dụng tình dục
43. Phẩm giá sâu xa gắn liền với con người trong toàn bộ thể xác và tâm trí của họ cũng cho phép
chúng ta hiểu tại sao bất kỳ hành vi lạm dụng tình dục nào đều để lại những vết sẹo sâu xa trong
tâm hồn của người phải chịu đựng nó: Thật vậy, họ cảm thấy bị tổn thương trong nhân phẩm của
mình. Đây là “những đau khổ có thể kéo dài suốt đời và không có sự ăn năn nào có thể chữa lành
được. Hiện tượng này lan rộng trong xã hội, nhưng nó cũng ảnh hưởng đến Giáo hội và là một
trở ngại nghiêm trọng cho sứ mạng của Giáo hội.”[82] Từ đó, Giáo hội luôn dấn thân chấm dứt
mọi hình thức lạm dụng, bắt đầu từ chính mình.
Bạo lực đối với nữ giới
44. Bạo lực đối với nữ giới là một vụ bê bối toàn cầu, ngày càng được thừa nhận. Trong khi phẩm
giá bình đẳng của nữ giới được thừa nhận bằng lời nói, thì ở một số nước, sự bất bình đẳng giữa
nữ giới và nam giới là rất nghiêm trọng và ngay cả ở những nước phát triển và dân chủ nhất,
thực tại xã hội cụ thể lại chứng thực sự kiện là nữ giới thường không được công nhận là có cùng
phẩm giá như nam giới. Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh thực tế này bằng cách nói rằng
“việc tổ chức các xã hội trên toàn thế giới còn lâu mới phản ánh rõ ràng sự kiện rằng nữ giới có
cùng phẩm giá và quyền lợi như nam giới. Người ta khẳng định một điều bằng lời nói, nhưng các
quyết định và thực tế lại mang đến một thông điệp khác. Đó là một sự kiện, “nghèo khổ gấp đôi
là những người nữ phải chịu đựng những hoàn cảnh bị loại trừ, ngược đãi và bạo lực, bởi vì, họ
thường thấy mình có ít cơ hội nhất để bảo vệ quyền lợi của mình.”[83]
45. Thánh Gioan Phaolô II đã thừa nhận rằng “còn nhiều việc phải làm để thân phận của người nữ và
người mẹ không dẫn đến bất kỳ sự phân biệt kỳ thị nào. Điều cấp bách là phải đạt được sự bình
đẳng hữu hiệu về quyền của nhân vị ở mọi nơi và do đó đạt được sự bình đẳng về lương bổng
cho một công việc như nhau, việc bảo vệ các bà mẹ đang đi làm, công bằng trong thăng tiến
nghề nghiệp, bình đẳng giữa vợ chồng trong quyền gia đình, sự công nhận mọi thứ gắn liền với
quyền và bổn phận của công dân trong chế độ dân chủ.”[84] Những bất bình đẳng trong những
lĩnh vực này là những hình thức bạo lực khác nhau. Ngài cũng nhắc lại rằng “đã đến lúc phải
mạnh mẽ lên án các hình thức bạo lực tình dục thường nhắm vào phụ nữ làm đối tượng, bằng
cách tạo ra các công cụ lập pháp bảo vệ thích hợp. Nhân danh sự tôn trọng nhân vị, chúng ta
không thể không tố cáo nền văn hóa hoan lạc chủ nghĩa và hám lợi đang lan rộng, cổ vũ việc
khai thác tính dục một cách có hệ thống, thậm chí đẩy các bé gái ngay từ khi còn rất nhỏ rơi vào
vòng hư hỏng và biến thân xác mình thành món hàng hóa.”[85] Trong số các bạo lực đối với phụ
nữ, làm sao không đề cập đến việc ép buộc phá thai, vốn ảnh hưởng đến cả mẹ và con, rất
thường để thỏa mãn thói ích kỷ của đàn ông? Và làm sao lại không đề cập đến việc thực hành
chế độ đa thê – như Sách Giáo lý Giáo hội Công giáo nhắc nhở – vốn trái với phẩm giá bình
đẳng của người nữ và người nam và cũng trái với “tình yêu vợ chồng vốn là duy nhất và độc
hữu”? [86]
46. Trong chân trời bạo lực đối với nữ giới này, hiện tượng giết hại nữ giới sẽ không bao giờ bị lên
án đủ. Về mặt trận này, sự dấn thân của toàn thể cộng đồng quốc tế phải chặt chẽ và cụ thể, như
Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhở: “Tình yêu dành cho Đức Maria phải giúp chúng ta có thái
độ nhìn nhận và biết ơn đối với người nữ, đối với những người mẹ và người bà của chúng ta,
những người là thành trì trong đời sống của các thành đô chúng ta. Hầu như luôn im lặng, họ
14
giúp cuộc sống tiến về phía trước. Đó là sự im lặng và sức mạnh của niềm hy vọng. Cảm ơn
chứng tá của họ. […] Tuy nhiên, nhìn vào những người mẹ và người bà, tôi muốn mời gọi anh
chị em hãy chiến đấu chống lại một tai họa đang ảnh hưởng đến lục địa Châu Mỹ của chúng ta:
vô số trường hợp giết hại phụ nữ. Có rất nhiều hoàn cảnh bạo lực bị che giấu đằng sau rất nhiều
bức tường. Tôi mời gọi anh chị em đấu tranh chống lại nguồn gốc của đau khổ này, bằng cách
yêu cầu khuyến khích luật pháp và văn hóa bác bỏ mọi hình thức bạo lực.”[87]
Phá thai
47. Giáo hội không ngừng nhắc nhở rằng “phẩm giá của mỗi con người có một đặc tính nội tại, có
giá trị từ lúc được thụ thai cho đến khi chết tự nhiên. Chính việc khẳng định phẩm giá này là điều
kiện tiên quyết không thể tránh khỏi để bảo vệ sự tồn tại cá nhân và xã hội, cũng như là điều kiện
cần thiết để tình huynh đệ và tình bạn xã hội được thể hiện giữa tất cả các dân tộc trên trái đất”.
[88] Dựa trên giá trị bất khả xâm phạm này của sự sống con người, Huấn quyền của Giáo hội
luôn lên tiếng chống lại việc phá thai. Về vấn đề này, thánh Gioan Phaolô II viết: “Trong số tất
cả những tội ác mà con người có thể phạm chống lại sự sống, việc phá thai có những đặc điểm
khiến nó trở nên đặc biệt nghiêm trọng và đáng lên án. […] Nhưng ngày nay, trong lương tâm
của nhiều người, nhận thức về mức độ nghiêm trọng của nó đã dần trở nên lu mờ. Việc chấp
nhận phá thai trong tâm thức, trong phong tục và trong chính luật pháp là một dấu hiệu hùng hồn
của một cuộc khủng hoảng rất nguy hiểm về ý thức luân lý, vốn ngày càng trở nên không thể
phân biệt giữa thiện và ác, ngay cả khi quyền cơ bản được sống đang bị đe dọa. Trước hoàn cảnh
nghiêm trọng như vậy, việc can đảm đối mặt với sự thật và gọi sự việc bằng đúng tên của chúng
là điều cần thiết hơn bao giờ hết, không nhượng bộ cho những thỏa hiệp dễ dãi hoặc cho cám dỗ
tự lừa dối mình. Về vấn đề này, lời khiển trách của Ngôn sứ vang lên một cách dứt khoát: “Khốn
thay những kẻ bảo cái tốt là xấu, cái xấu là tốt, những kẻ biến tối thành sáng, sáng thành tối” (Is
5, 20). Chính trong trường hợp phá thai, người ta nhận thấy sự phát triển của những thuật ngữ
mơ hồ, chẳng hạn như “chấm dứt thai kỳ”, vốn có xu hướng che giấu bản chất thực sự của nó và
làm giảm bớt tính nghiêm trọng của nó trong công luận. Hiện tượng ngôn ngữ này chắc chắn
chính là triệu chứng của sự bất ổn mà lương tâm gặp phải. Nhưng không lời nào có thể thay đổi
được thực tại của sự việc: phá thai, bất kể nó được thực hiện bằng cách nào, đều là hành vi giết
người có chủ ý và trực tiếp đối với một con người trong giai đoạn đầu của cuộc đời, nằm giữa
lúc thụ thai và khi sinh ra”[89] ]. Do đó, những đứa trẻ chưa sinh ra là “những người không có
khả năng tự vệ và vô tội nhất, những người mà ngày nay người ta muốn phủ nhận nhân phẩm để
có thể biến chúng thành những gì người ta muốn, bằng cách tước đoạt mạng sống của chúng và
thúc đẩy luật pháp để làm cho không ai có thể ngăn cản được.” [90] Do đó, cần phải khẳng định
một cách mạnh mẽ và rõ ràng, kể cả trong thời đại của chúng ta, rằng “việc bảo vệ sự sống chưa
sinh ra này gắn liền mật thiết với việc bảo vệ mọi quyền con người. Nó giả định niềm tin rằng
con người luôn thánh thiêng và bất khả xâm phạm, trong mọi hoàn cảnh và mọi giai đoạn phát
triển của mình. Con người tự nó là một mục đích và không bao giờ là một phương tiện để giải
quyết những khó khăn khác. Nếu niềm tin này biến mất, sẽ không còn những nền tảng vững chắc
và thường hằng để bảo vệ nhân quyền, vốn sẽ luôn phụ thuộc vào những sở thích tùy tiện của
những kẻ có quyền lực vào lúc đó. Chỉ lý trí thôi cũng đủ để nhận ra giá trị bất khả xâm phạm
của mỗi mạng sống con người, nhưng nếu chúng ta cũng nhìn nó từ đức tin, thì “bất kỳ sự vi
phạm nào đối với phẩm giá nhân vị của con người đều đòi hỏi sự trừng phạt trước sự hiện diện
của Thiên Chúa và trở thành một sự xúc phạm đến Đấng Tạo Hóa của con người” [91]. Ở đây,
thật đáng ghi nhớ sự dấn thân quảng đại và can đảm của thánh Têrêsa Calcutta trong việc bảo vệ
mọi sự sống được thụ thai.
Mang thai hộ
48. Giáo hội cũng có quan điểm chống lại việc thực hành mang thai hộ, qua đó đứa trẻ, vô cùng có
phẩm giá, lại trở thành một đồ vật đơn giản. Về vấn đề này, những lời của Đức Thánh Cha
Phanxicô thật rõ ràng: “Con đường dẫn đến hòa bình đòi hỏi phải tôn trọng sự sống, mọi sự sống
của con người, bắt đầu từ sự sống của thai nhi trong bụng mẹ, vốn không thể xóa bỏ hay trở
15
thành một đối tượng mặc cả. Về vấn đề này, tôi nhận thấy việc thực hành của cái gọi là mang
thai hộ là đáng tiếc, nó làm tổn hại nghiêm trọng đến phẩm giá của người nữ và trẻ em. Nó dựa
trên việc khai thác hoàn cảnh túng thiếu vật chất của người mẹ. Một đứa trẻ luôn là một món quà
và không bao giờ là đối tượng của một hợp đồng. Do đó, tôi mong muốn cộng đồng quốc tế sẽ
cam kết ngăn cấm thực hành này ở cấp độ toàn cầu.”[92]
49. Việc thực hành mang thai hộ trước hết gây tổn hại đến phẩm giá của đứa trẻ. Thực vậy, mọi đứa
trẻ, từ khi được thụ thai, sinh ra và lớn lên thành trai hay gái, cho đến khi trưởng thành, đều có
một phẩm giá bất khả xâm phạm được thể hiện rõ ràng, mặc dù theo một cách riêng biệt và khác
biệt, trong mỗi giai đoạn cuộc sống của nó. Do đó, trẻ em có quyền, nhờ phẩm giá bất khả tước
bỏ của mình, có một nguồn gốc hoàn toàn nhân bản và phi nhân tạo, và có quyền nhận được món
quà của một sự sống vốn thể hiện đồng thời phẩm giá của người trao tặng nó và của người đón
nhận nó. Việc thừa nhận phẩm giá của nhân vị cũng bao hàm việc thừa nhận phẩm giá của sự kết
hợp vợ chồng và của việc sinh sản của con người trong mọi chiều kích của họ. Theo nghĩa này,
ước muốn chính đáng có con không thể bị biến thành một “quyền có con” vốn không tôn trọng
phẩm giá của chính đứa trẻ như một người nhận được món quà sự sống nhưng không [93].
50. Việc làm mẹ thế đồng thời gây tổn hại đến phẩm giá của chính người nữ bị ép buộc phải làm
việc đó hoặc người nữ được tự do quyết định chịu theo nó. Với cách thực hành như vậy, người
nữ tách mình ra khỏi đứa trẻ đang lớn lên trong mình và trở thành một phương tiện đơn giản nô
lệ cho lợi nhuận hoặc ham muốn độc đoán của người khác. Điều này hoàn toàn mâu thuẫn với
phẩm giá cơ bản của mỗi con người và với quyền của họ luôn được thừa nhận vì chính mình chứ
không bao giờ là công cụ của bất cứ điều gì khác.
An tử và trợ tử
51. Có một trường hợp đặc biệt gây tổn hại đến phẩm giá con người, thầm lặng hơn nhưng đang tiến
triển nhiều . Nó có đặc điểm là sử dụng một quan niệm sai lầm về phẩm giá con người để đảo
ngược nó chống lại chính sự sống. Sự nhầm lẫn này, rất phổ biến ngày nay, được đưa ra ánh sáng
khi người ta nói về an tử. Chẳng hạn, đạo luật công nhận khả năng an tử hoặc trợ tử đôi khi được
gọi là “đạo luật về quyền được chết với phẩm giá” (“death with dignity acts”). Ý tưởng cho rằng
an tử hoặc trợ tử là phù hợp với việc tôn trọng phẩm giá của nhân vị đang lan rộng. Trước nhận
xét này, cần phải tái khẳng định một cách mạnh mẽ rằng đau khổ không làm cho người bệnh
đánh mất đi phẩm giá nội tại và bất khả tước bỏ của họ, nhưng nó có thể trở thành một cơ hội
củng cố mối liên kết thuộc về nhau và ý thức về giá trị của mỗi nhân vị đối với toàn thể nhân
loại.
52. Chắc chắn rằng phẩm giá của người bệnh trong tình trạng nguy kịch hoặc cuối đời đòi hỏi mỗi
người phải thực hiện những nỗ lực thích hợp và cần thiết để giảm bớt nỗi đau khổ của họ thông
qua việc chăm sóc giảm nhẹ thích hợp và tránh bất kỳ việc bám riết điều trị nào hoặc bất kỳ sự
can thiệp không cân xứng nào. Sự chăm sóc này đáp ứng “bổn phận thường xuyên hiểu biết nhu
cầu của bệnh nhân: nhu cầu hỗ trợ, giảm đau, nhu cầu về cảm xúc, tình cảm và tinh thần”.[94]
Nhưng một nỗ lực như vậy hoàn toàn khác biệt, khác hẳn, và thậm chí trái ngược với quyết định
kết liễu mạng sống của chính mình hoặc mạng sống của người khác dưới sức nặng của đau khổ.
Sự sống con người, ngay cả trong tình trạng đau đớn, vẫn mang một phẩm giá phải luôn được
tôn trọng, không thể bị mất đi và vẫn phải được tôn trọng một cách vô điều kiện. Thật vậy, không
có điều kiện nào mà nếu không có nó thì cuộc sống con người không còn phẩm giá và do đó có
thể bị đàn áp: “Sự sống có cùng một phẩm giá và cùng một giá trị đối với tất cả mọi người: việc
tôn trọng sự sống của người khác cũng giống như sự tôn trọng mà chúng ta phải có đối với cuộc
sống của chính mình”.[95] Vì vậy, việc giúp đỡ người tự sát chấm dứt cuộc sống của họ là một
sự tấn công khách quan vào nhân phẩm của người yêu cầu, ngay cả khi việc đó là để thực hiện
mong muốn của họ: “Chúng ta phải đồng hành cùng mọi người cho đến khi chết, nhưng không
được kích động hay khuyến khích bất kỳ hình thức tự tử nào. Tôi nhắc lại rằng quyền được chăm
sóc và điều trị cho tất cả mọi người phải luôn ưu tiên, để những người yếu đuối nhất, đặc biệt là
người già và người bệnh, không bao giờ bị loại trừ. Thật vậy, sự sống là một quyền, chứ không
16
phải cái chết, cái chết phải được đón nhận chứ không phải được ban cho. Và nguyên tắc luân lý
này liên quan đến tất cả mọi người, chứ không chỉ các Kitô hữu hay các tín hữu.”[96] Như đã
nói, phẩm giá của mỗi nhân vị, dù yếu đuối hay đau khổ, đều bao hàm phẩm giá của tất cả mọi
người.
Gạt bỏ người khuyết tật
53. Dĩ nhiên, một trong những tiêu chuẩn để xác thực sự quan tâm thực sự đối với phẩm giá của mỗi
cá nhân là sự quan tâm dành cho những người thiệt thòi nhất. Thật không may, thời đại của
chúng ta không được biết đến với sự quan tâm như vậy: một nền văn hóa vứt bỏ đang chiếm ưu
thế.[97] Để chống lại xu hướng này, tình trạng của những người đang ở trong hoàn cảnh khiếm
khuyết về thể lý hoặc tâm lý đáng được chú ý và quan tâm đặc biệt. Tình trạng dễ bị tổn thương
đặc biệt này, [98] có mặt nhiều trong các trình thuật Tin Mừng, đặt ra câu hỏi phổ quát về nhân
vị có nghĩa là gì, đặc biệt từ một tình trạng khiếm khuyết hoặc khuyết tật. Vấn đề về khuyết tật
của con người cũng có những hàm ý rõ ràng theo quan điểm văn hóa xã hội, trong chừng mực,
trong một số nền văn hóa, người khuyết tật đôi khi bị gạt ra ngoài lề xã hội và thậm chí bị áp
bức, bị đối xử như “đồ bỏ” thực sự. Trên thực tế, mỗi con người, bất kể thân phận dễ bị tổn
thương của mình, đều nhận được phẩm giá của họ từ chính sự kiện họ được Thiên Chúa muốn và
yêu thương. Vì những lý do này, việc hòa nhập và tham gia tích cực vào đời sống xã hội và Giáo
hội của tất cả những người, bằng cách này hay cách khác, bị đánh dấu bởi sự mong manh hoặc
khuyết tật, cần được khuyến khích càng nhiều càng tốt.[99]
54. Ở một viễn cảnh rộng lớn hơn, cần nhớ rằng “bác ái, vốn là trái tim tinh thần của chính trị, luôn
là tình yêu ưu tiên dành cho những người hèn mọn nhất, âm thầm thúc đẩy mọi hành động vì lợi
ích của họ. […] “Chăm sóc sự mong manh cần có sức mạnh và sự dịu dàng, đấu tranh và quảng
đại, giữa một mô hình duy chức năng và tư nhân hóa vốn dẫn đến ‘nền văn hóa vứt bỏ’ một cách
không thể tránh khỏi. [… Điều này] có nghĩa là lãnh trách nhiệm về người đang ở trong hoàn
cảnh đau khổ và bên lề nhất của họ và có khả năng xức dầu cho họ bằng phẩm giá”. Như thế,
chúng ta cũng tạo ra một hoạt động mãnh liệt, bởi vì “mọi thứ phải được thực hiện để bảo vệ địa
vị và phẩm giá của nhân vị.” [100]
Lý thuyết về giống
55. Trước hết, Giáo hội mong muốn “tái khẳng định rằng mỗi người, bất kể khuynh hướng tính dục
của họ, phải được tôn trọng trong phẩm giá của họ và được đón nhận với sự tôn trọng, với sự
quan tâm để tránh “bất kỳ dấu hiệu phân biệt kỳ thị bất công nào” và đặc biệt là bất kỳ hình thức
gây hấn và bạo lực nào”.[101] Đây là lý do tại sao cần phải tố cáo sự kiện đi ngược lại phẩm giá
con người là, ở một số nơi, nhiều người bị cầm tù, tra tấn và thậm chí bị tước đoạt sự sống tốt
lành chỉ vì xu hướng tính dục của họ.
56. Đồng thời, Giáo hội nhấn mạnh những điểm phê phán mạnh mẽ trong lý thuyết về giống
(gender). Về vấn đề này, Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc lại rằng “con đường dẫn đến hòa bình
đòi hỏi phải tôn trọng nhân quyền, theo công thức, đơn giản nhưng rõ ràng, được chứa đựng
trong Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, mà chúng ta vừa kỷ niệm 75 năm. Đây là những nguyên
tắc rõ ràng về mặt lý trí và được chấp nhận rộng rãi. Thật không may, những mưu toan được thực
hiện trong những thập niên gần đây nhằm đưa vào các quyền mới không hoàn toàn quan trọng so
với những quyền được xác định ban đầu và không phải lúc nào cũng được chấp nhận, đã dẫn đến
cuộc thực dân hóa ý thức hệ, trong đó lý thuyết về giống đóng vai trò trung tâm, vốn rất nguy
hiểm vì nó xóa bỏ những khác biệt trong tham vọng làm cho mọi người bình đẳng.” [102]
57. Liên quan đến lý thuyết về giống, mà tính vững chắc về mặt khoa học của nó là đối tượng của
nhiều cuộc tranh luận trong cộng đồng các chuyên gia, Giáo hội nhắc nhở rằng sự sống con
người, trong tất cả các thành phần của nó, thể chất và tinh thần, là một ân huệ của Thiên Chúa,
phải được đón nhận với lòng biết ơn và nhằm phục vụ sự thiện. Muốn tự quyết, theo đòi hỏi của
lý thuyết về giống, mà không lưu tâm đến chân lý cơ bản này của sự sống con người như một ân
huệ, không có nghĩa gì khác hơn là nhượng bộ trước cơn cám dỗ lâu đời của con người tự coi
17
mình là Thiên Chúa và cạnh tranh với vị Thiên Chúa tình yêu đích thực được Tin Mừng mạc
khải cho chúng ta.
58. Khía cạnh thứ hai của lý thuyết về giống là nó tìm cách phủ nhận sự khác biệt lớn nhất có thể có
giữa các sinh vật: sự khác biệt giới tính. Sự khác biệt nền tảng này không chỉ là sự khác biệt lớn
nhất mà người ta có thể tưởng tượng, mà còn là sự khác biệt đẹp nhất và mạnh mẽ nhất: nó thể
hiện, trong cặp nam nữ, sự tương hỗ đáng ngưỡng mộ nhất và do đó là nguồn gốc của kỳ công
không bao giờ ngừng làm chúng ta ngạc nhiên này, tức là sự xuất hiện của những con người mới
trên thế giới.
59. Theo nghĩa này, việc tôn trọng thân xác của chính mình và thân xác của người khác là điều thiết
yếu trước sự gia tăng và đòi hỏi về các quyền mới do lý thuyết về giống đưa ra. Ý thức hệ này
“cho phép hình dung một xã hội không có sự khác biệt giới tính và làm suy yếu nền tảng nhân
học của gia đình”.[103] Do đó, không thể chấp nhận được rằng “một số ý thức hệ thuộc loại này,
vốn có tham vọng đáp ứng những khát vọng đôi khi có thể hiểu được, lại muốn áp đặt như một
tư tưởng duy nhất, thậm chí quyết định việc giáo dục trẻ em. Cần nhấn mạnh rằng “giới tính sinh
học (sex) và vai trò văn hóa xã hội của giới tính (gender) có thể được phân biệt, nhưng không thể
tách rời” [104] Vì vậy, mọi mưu toan nhằm che giấu việc quy chiếu đến sự khác biệt giới tính bất
khả loại bỏ giữa nam và nữ phải bị bác bỏ: “Chúng ta không thể tách biệt nam giới khỏi nữ giới
trong công trình do Thiên Chúa tạo dựng, vốn đi trước mọi quyết định và kinh nghiệm của chúng
ta, và là nơi có các yếu tố sinh học rõ ràng”.[105] Chỉ khi mỗi nhân vị có thể nhận ra và chấp
nhận sự khác biệt này trong tính hỗ tương thì họ mới có khả năng khám phá ra chính mình một
cách trọn vẹn, với phẩm giá và căn tính riêng của mình.
Chuyển đổi giới tính
60. Phẩm giá của thân xác không thể bị coi là thấp kém hơn phẩm giá của nhân vị. Sách Giáo lý
Giáo hội Công giáo rõ ràng mời gọi chúng ta nhìn nhận rằng “thân xác con người tham dự vào
phẩm giá của “hình ảnh Thiên Chúa”.”[106] Một chân lý như vậy đáng được ghi nhớ, đặc biệt
khi nó liên quan đến vấn đề chuyển đổi giới tính. Quả thật, con người bao gồm cả thân xác và
linh hồn không thể tách rời, và thân xác là nơi sống động, nơi mà tính nội tâm của linh hồn được
bộc lộ và biểu lộ, kể cả qua mạng lưới các mối quan hệ của con người. Cấu thành hữu thể con
người, linh hồn và thân xác như thế tham dự vào phẩm giá đặc trưng của mỗi con người này.
[107] Về vấn đề này, cần phải nhớ rằng thân xác con người tham dự vào phẩm giá của nhân vị,
trong chừng mực nó được ban cho những ý nghĩa nhân vị, đặc biệt trong điều kiện giới tính của
nó.[108] Thật vậy, chính nơi thân xác mà mỗi người nhận ra mình được sinh ra bởi những người
khác, và chính qua thân xác của mình mà người nam và người nữ có thể thiết lập một mối quan
hệ yêu thương có khả năng sinh ra những người khác. Về sự cần thiết phải tôn trọng trật tự tự
nhiên của nhân vị, Đức Thánh Cha Phanxicô dạy rằng “công trình tạo dựng đi trước chúng ta và
phải được đón nhận như một quà tặng. Đồng thời, chúng ta được mời gọi bảo vệ nhân loại của
mình, và điều này trước hết có nghĩa là chấp nhận và tôn trọng nó như nó đã được tạo ra.”[109]
Kết quả là, bất kỳ sự can thiệp chuyển đổi giới tính nào, theo nguyên tắc chung, đều có nguy cơ
đe dọa phẩm giá độc nhất mà một người đã nhận được từ thời điểm thụ thai. Điều này không loại
trừ khả năng một người có những dị thường về bộ phận sinh dục vốn đã bộc lộ rõ ràng khi sinh
ra hoặc phát triển sau này, có thể chọn nhận hỗ trợ y tế để giải quyết những dị thường này. Trong
trường hợp này, việc phẫu thuật sẽ không cấu thành sự chuyển đổi giới tính theo nghĩa được hiểu
ở đây.
Bạo lực kỹ thuật số
61. Sự tiến bộ của công nghệ kỹ thuật số, mặc dù mang lại nhiều khả năng thăng tiến phẩm giá con
người, lại ngày càng có xu hướng tạo ra một thế giới trong đó sự khai thác, loại trừ và bạo lực
được phát triển, có thể đi xa đến mức làm tổn hại đến phẩm giá nhân vị. Hãy nghĩ xem, thông
qua những phương tiện này, người ta có thể dễ dàng gây tổn hại đến danh thơm tiếng tốt của ai
đó thông qua tin tức giả mạo và những lời vu khống. Về điểm này, Đức Thánh Cha Phanxicô
18
nhấn mạnh rằng “việc nhầm lẫn giữa giao tiếp với tiếp xúc thuần túy qua mạng là không lành
mạnh. Trên thực tế, “thế giới kỹ thuật số cũng là không gian của sự cô độc, thao túng, khai thác
và bạo lực, cho đến trường hợp cực đoan là web đen. Các phương tiện truyền thông kỹ thuật số
có thể khiến con người có nguy cơ lệ thuộc, cô lập và dần dần mất tiếp xúc với thực tại cụ thể, do
đó cản trở sự phát triển các mối quan hệ liên vị đích thực. Các hình thức bạo lực mới đang lan
rộng qua mạng xã hội, chẳng hạn như hành vi bắt nạt trên mạng; trang web cũng là một kênh phổ
biến nội dung khiêu dâm và khai thác con người vì mục đích tình dục hoặc thông qua cờ
bạc.”[110] Bằng cách này, ở đâu các khả năng kết nối được nhân lên, thì điều nghịch lý là mọi
người ngày càng thấy mình bị cô lập và thiếu các mối quan hệ liên vị: “Trong truyền thông kỹ
thuật số, người ta muốn phơi bày mọi thứ và mỗi người trở thành đối tượng của những cái nhìn
lùng sục, vạch trần và tiết lộ, thường là ẩn danh. Sự tôn trọng dành cho người khác đã bị tan vỡ,
và vì thế, cùng lúc với việc tôi gạt bỏ, phớt lờ và giữ khoảng cách với người khác, tôi có thể
không chút xấu hổ xâm chiếm cuộc sống của họ từ đầu đến cuối”. [111] Những xu hướng như
vậy biểu lộ mặt tối của tiến bộ kỹ thuật số.
62. Trong viễn cảnh này, nếu công nghệ phải phục vụ phẩm giá con người chứ không làm tổn hại nó
và nếu nó phải thúc đẩy hòa bình thay vì bạo lực, thì cộng đồng nhân loại phải chủ động đề cập
những xu hướng này trong sự tôn trọng phẩm giá con người và thúc đẩy sự thiện: “Trong thế giới
toàn cầu hóa này, “các phương tiện truyền thông có thể góp phần giúp chúng ta cảm thấy gần gũi
nhau hơn; giúp chúng ta nhận thức được một ý thức mới mẻ về sự hiệp nhất của gia đình nhân
loại, thúc đẩy tình liên đới và sự dấn thân nghiêm túc cho một cuộc sống có phẩm giá hơn [cho
tất cả mọi người…] Các phương tiện truyền thông có thể giúp chúng ta trong lĩnh vực này, đặc
biệt là ngày nay, khi các mạng lưới truyền thông của con người đã đạt đến một sự tiến triển phi
thường. Đặc biệt, internet có thể mang lại nhiều cơ hội gặp gỡ và liên đới hơn giữa tất cả mọi
người, và đó là một điều tốt, đó là một món quà từ Thiên Chúa. Nhưng cần phải liên lỉ đảm bảo
rằng các hình thức truyền thông hiện tại hướng chúng ta một cách hiệu quả đến một cuộc gặp gỡ
quảng đại, đến việc chân thành tìm kiếm chân lý toàn diện, phục vụ người nghèo, gần gũi với họ,
đến nhiệm vụ xây dựng công ích”. [112]
Kết luận
63. Nhân dịp kỷ niệm 75 năm ban hành Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (1948), Đức Thánh Cha
Phanxicô nhắc lại rằng tài liệu này “giống như một con đường chính yếu, trên đó có nhiều bước
tiến tới đã được thực hiện, nhưng vẫn còn thiếu rất nhiều, và đáng tiếc là đôi khi chúng ta lại đi
thụt lùi. Dấn thân cho nhân quyền không bao giờ kết thúc! Về phương diện này, tôi gần gũi với
tất cả những người, dù không đưa ra lời tuyên bố nào, trong cuộc sống cụ thể hàng ngày của họ,
nhưng đang đấu tranh và trả giá bằng chính con người mình để bảo vệ quyền lợi của những
người bị loại trừ”.[113]
64. Chính trong tinh thần đó, qua Tuyên ngôn này, Giáo hội khẩn khoản yêu cầu đặt việc tôn trọng
phẩm giá con người, trong mọi hoàn cảnh, ở trung tâm của việc dấn thân cho công ích và của
mọi hệ thống pháp luật. Quả thế, việc tôn trọng phẩm giá của mỗi nhân vị là nền tảng thiết yếu
cho chính sự tồn tại của bất kỳ xã hội nào muốn xây dựng trên luật pháp công bằng chứ không
dựa trên sức mạnh quyền lực. Chính trên cơ sở thừa nhận phẩm giá con người mà các quyền cơ
bản của con người được bảo vệ, những quyền đi trước và thiết lập mọi sự chung sống văn minh.
[114]
65. Do đó, mỗi người, và đồng thời, mỗi cộng đồng nhân loại phải nhận thức được phẩm giá con
người một cách cụ thể và hiệu quả, trong khi các Nhà nước có bổn phận không chỉ bảo vệ nó mà
còn đảm bảo những điều kiện cần thiết cho sự triển nở của nó trong khuôn khổ thăng tiến toàn
diện nhân vị: “Trong hoạt động chính trị, cần phải nhớ rằng “vượt trên mọi vẻ bề ngoài, mỗi
người đều vô cùng thánh thiêng và xứng đáng sự yêu thương và tận tâm của chúng ta””.[115]
66. Ngay cả ngày nay, trước rất nhiều vi phạm đối với nhân phẩm, đang đe dọa nghiêm trọng đến
tương lai của nhân loại, Giáo hội vẫn khuyến khích việc thăng tiến phẩm giá của mỗi nhân vị, bất
19
kể phẩm chất thể lý, tinh thần, văn hóa, xã hội và tôn giáo của họ. Giáo hội làm như vậy với
niềm hy vọng, xác tín về sức mạnh tuôn chảy từ Chúa Kitô phục sinh, Đấng đã mạc khải trọn
vẹn phẩm giá toàn diện của mọi người nam và người nữ. Sự xác tín này trở thành lời kêu gọi
trong lời của Đức Thánh Cha Phanxicô: “Tôi xin mỗi người trên thế giới này đừng quên phẩm
giá của mình mà không ai có quyền lấy đi khỏi họ” [116].

Đức Thánh Cha Phanxicô, trong buổi tiếp kiến dành cho vị Tổng trưởng ký tên dưới đây và Thư
ký của Bộ phận Giáo thuyết của Bộ Giáo lý Đức tin, vào ngày 25 tháng 3 năm 2024, đã phê
chuẩn Tuyên ngôn này, được quyết định trong Phiên họp thường kỳ của Bộ này vào ngày 28
tháng 2 năm 2024, và ra lệnh xuất bản.

Được ban hành tại Rôma, tại trụ sở của Bộ Giáo lý Đức tin, vào ngày 2 tháng 4 năm 2024, kỷ
niệm 19 năm ngày qua đời của thánh Gioan Phaolô II.
Hồng y Víctor Manuel Fernández
Tổng trưởng
Đức ông Armando Matteo
Thư ký Bộ phận Giáo thuyết
Được tiếp kiến ngày 25 tháng 3 năm 2024
PHANXICÔ

Chú thích:
[1] Thánh Gioan Phaolô II, Kinh Truyền Tin với người khuyết tật tại Nhà thờ chánh tòa Osnabrück
(16/11/1980): Insegnamenti III/2 (1980), 1232.
[2] Phanxicô, Tông huấn Laudate Deum (ngày 4 tháng 10 năm 2023), số 39: Osservatore Romano
(4/10/2023), III.
[3] Năm 1948, Liên Hợp Quốc thông qua Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, bao gồm 30 điều. Từ
“phẩm giá” xuất hiện năm lần, ở những vị trí chiến lược: trong những lời đầu tiên của Lời mở đầu
và trong câu đầu tiên của Điều 1. Phẩm giá này được tuyên bố “gắn liền với mọi thành viên của gia
đình nhân loại” (Lời nói đầu) và “Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và
các quyền” (Điều 1).
[4] Nếu nhìn vào thời hiện đại, chúng ta có thể thấy rằng Giáo hội đã dần dần nhấn mạnh đến tầm
quan trọng của phẩm giá con người. Chủ đề này được phát triển cách đặc biệt trong thông điệp
Rerum novarum (1891) của Đức Lêô XIII, trong thông điệp Quadragesimo anno (1931) của Đức
Giáo hoàng Piô XI và trong Diễn văn cho các tham dự viên Hội nghị của Liên hiệp Nữ hộ sinh
Công giáo Ý (1951) của Đức Giáo hoàng Piô XII. Tiếp đến, Công đồng Vatican II đã đặc biệt đào
sâu vào vấn đề này, bằng cách dành cả một tài liệu cho vấn đề này với Tuyên ngôn Dignitatis
humanae (1965) và cũng bàn luận về quyền tự do của con người trong Hiến chế Mục vụ Gaudium
et spes (1965).
[5] Thánh Phaolô VI, Tiếp kiến chung (4/9/1968): Insegnamenti VI (1968), 886.
[6] Thánh Gioan Phaolô II, Diễn văn tại Đại hội lần thứ ba của Hội đồng Giám mục châu Mỹ Latinh
(28/1/1979), III.1-2: Insegnamenti II/1 (1979), 202-203.
[7] Bênêđíctô XVI, Diễn văn cho các tham dự viên Đại hội đồng của Hàn lâm viện Giáo hoàng về
Sự sống (13/2/2010): Insegnamenti VI/1 (2011), 218.

20
[8] Bênêđíctô XVI, Diễn văn cho các tham dự viên cuộc họp chung lần thứ 45 của Ngân hàng Phát
triển của Hội đồng Châu Âu, Sala Clementina (12/6/2010): Insegnamenti VI/1 (2011), 912-913.
[9] Phanxicô, Tông huấn Evangelii gaudium (24/11/2013), số 178: AAS 105 (2013), 1094, trích dẫn
Đức Gioan Phaolô II, Kinh Truyền Tin với người khuyết tật tại Nhà thờ chánh tòa Osnabrück
(16/11/1980): Insegnamenti III/2 (1980), 1232.
[10] Phanxicô, Thông điệp Fratelli tutti (3/10/2020), số 8: AAS 112 (2020), 971.
[11] Ibidem, số 277: AAS 112 (2020), 1069.
[12] Ibidem, số 213: AAS 112 (2020), 1045.
[13] Ibidem, số 213: AAS 112 (2020), 1045, trích dẫn Đức Phanxicô, Sứ điệp các tham dự viên Hội
nghị Quốc tế “Nhân quyền trong thế giới đương đại: Chinh phục, thiếu sót, phủ nhận” (10/12/2018):
Osservatore Romano (10-11 dicembre 2018), 8.
[14] Tuyên ngôn của Liên Hợp Quốc năm 1948 được tiếp nối và khai triển bởi Công ước quốc tế về
các quyền dân sự và chính trị của Liên Hợp Quốc năm 1966 và Đạo luật cuối cùng của Hội nghị về
an ninh và tợp tác ở Châu Âu, năm 1975.
[15] Xem Ủy ban Thần học Quốc tế, Phẩm giá và Quyền của nhân vị (1983), Dẫn nhập, 3. Có thể
tìm thấy bản tóm tắt giáo huấn Công giáo về phẩm giá con người trong Sách Giáo lý Giáo hội Công
giáo, trong chương có tựa đề “Phẩm giá của nhân vị”, các số 1700-1876.
[16] Phanxicô, Thông điệp Fratelli tutti (3/10/2020), số 22: AAS 112 (2020), 976.
[17] Boèce, Contra Eutychen et Nestorium, c. 3: PL 64, 1344: “persona estrationis naturae individua
substantia”. Xem thánh Bônaventura, In I Sent., d. 25, a. 1, q. 2; thánh Tôma Aquinô, Summa
Theologiae, I, q. 29, a. 1, resp.
[18] Vì Tuyên ngôn này không nhằm mục đích soạn thảo một khảo luận đầy đủ về khái niệm phẩm
giá, vì muốn ngắn gọn, nên chỉ có văn hóa Hy Lạp và Rôma cổ điển được đề cập ở đây, như một
điểm tham chiếu cho suy tư triết học và thần học của Kitô giáo sơ khai.
[19] X. ad es. Cicéron, De Officiis 1, 105-106: “sed pertinet ad omnem officii quaestionem semper
in promptu habere, quantum natura hominis pecudibus reliquisque beluis antecedat […] Atque
etiam si considerare volumus, quae sit in natura excellentia et dignitas, intellegemus, quam sit turpe
diffluere luxuria et delicate ac molliter vivere quamque honestum parce, continenter, severe, sobrie”
(Scriptorum Latinorum Bibliotheca Oxoniensis, ed. M. Winterbottom, Oxford 1994, 43; "Trong bất
kỳ nghiên cứu nào liên quan đến đạo đức, điều quan trọng là phải ghi nhớ sự khác biệt sâu xa tồn tại
giữa bản tính con người và bản tính của gia súc và những động vật khác […] Và nếu chúng ta muốn
xem xét địa vị của con người trong bản tính và phẩm giá của nó, chúng ta sẽ hiểu rằng chẳng thích
đáng tí nào khi để cho bản thân bị hư hỏng bởi sự xa hoa và sống buông thả, trái lại, thật là phù hợp
với đạo đức lành mạnh khi sống giản dị, tiết dục, khổ chế, điều độ.” (Des devoirs, bản dịch của Ch.
Apphun, Garnier, Paris, 1933).
[20] Xem thánh Phaolô VI, Lời của Đức Thánh Cha nhân chuyến viếng thăm Vương cung thánh
đường Truyền Tin ở Nadarét (5/1/1964): AAS 56 (1964), 166-170.
[21] Trong số vô số tài liệu tham khảo, chẳng hạn xem thánh Clêmentê thành Rôma, 1 Clem. 33, 4s:
PG 1, 273; Théophile d’Antioche, Ad Aut. Tôi, 4: PG 6, 1029; thánh Clêmentê thành Alexandria,
Strom. III, 42, 5-6: PG 8, 1145; Ibidem, VI, 72, 2: PG 9, 293; thánh Irênê thành Lyon, Adv. Haer. V,
6, 1: PG 7, 1137-1138; Origen, De princ. III, 6.1: PG 11, 333; thánh Augustinô, De Gen. ad litt. VI,
12: PL 34, 348. De Trin. XIV, 8, 11: PL 42, 1044-1045.
[22] Thánh Tôma Aquinô, Summa Theologiae, I, q. 29, a. 3, resp.: ”persona significat id, quod est
perfectissimum in tota natura, scilicet subsistens in rationali natura.”

21
[23] Chỉ cần nghĩ đến Jean Pic de la Mirandola và bản văn nổi tiếng của ông Oratio de hominis
dignitate (1486).
[24] Đối với một nhà tư tưởng người Do Thái như E. Levinas (1906-1995), con người được đánh
giá cao bởi sự tự do của mình ở chỗ họ nhận ra mình có trách nhiệm vô hạn đối với người khác.
[25] Một số nhà tư tưởng lớn của Kitô giáo trong thế kỷ XIX và XX, như thánh J.H. Newman, Chân
phước A. Rosmini, J. Maritain, E. Mounier, K. Rahner, H.U. von Balthasar, và những người khác,
đã thành công trong việc đề nghị một tầm nhìn về con người có thể đối thoại một cách hợp thức với
các dòng tư tưởng đầu thế kỷ XXI của chúng ta, bất kể nguồn cảm hứng của họ là gì, ngay cả hậu
hiện đại.
[26] Đây là lý do tại sao “Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền […] ngầm gợi ý rằng nguồn gốc của
các quyền con người bất khả tước bỏ nằm ở phẩm giá của mỗi nhân vị”: Ủy ban Thần học Quốc tế,
Tìm kiếm một nền đạo đức phổ quát. Cái nhìn mới về luật tự nhiên (2009), số 115.
[27] Công đồng Vatican II, Hiến chế Gaudium et spes (7/12/1965), số 26: AAS 58 (1966), 1046;
toàn bộ chương đầu tiên của phần đầu tiên của Hiến chế các số 11-22) được dành bàn về “Phẩm giá
của nhân vị”.
[28] Công đồng Vatican II, Tuyên ngôn Dignitatis humanae (7/12/1965), số 1: AAS 58 (1966), 929.
[29] Ibidem, số 2: AAS 58 (1966), 931.
[30] Bộ Giáo lý Đức tin, Huấn thị Dignitas Personae (8/9/2008), số 7: AAS 100 (2008), 863. Xem
thêm thánh Irênê thành Lyon, Adv. Haer. V, 16, 2: PG 7, 1167-1168.
[31] Vì “qua việc nhập thể của Người, Con Thiên Chúa một cách nào đó đã hiệp nhất với mọi
người” (Công đồng Vatican II, Hiến chế Gaudium et spes (7/12/1965), số 22: AAS 58 (1966),
1042), nên phẩm giá của mỗi con người được Chúa Kitô mặc khải cho chúng ta một cách trọn vẹn.
[32] Công đồng Vatican II, Hiến chế Gaudium et spes (7/12/1965), số 19: AAS 58 (1966), 1038.
[33] Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp Evangelium vitae (25/3/1995), số 38: AAS 87 (1995), 443,
trích dẫn thánh Irênê thành Lyon, Adv. Haer. IV, 20,7: PG 7, 1037-1038.
[34] Thực vậy, Chúa Kitô đã ban cho những người được rửa tội một phẩm giá mới, phẩm giá “làm
con Thiên Chúa”: xem Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, các số 1213, 1265, 1270, 1279.
[35] Công đồng Vatican II, Tuyên ngôn Dignitatis humanae (7/12/1965), số 9: AAS 58 (1966), 935.
[36] Xem thánh Irênê thành Lyon, Adv. Haer. V, 6, 1. V, 8, 1. V, 16, 2: PG 7, 1136-1138. 1141-1142.
1167-1168; thánh Gioan Đamascô, De fide orth. 2, 12: PG 94, 917-930.
[37] Bênêđíctô XVI, Diễn văn tại Hội trường Westminster (17/9/2010): Insegnamenti VI/2 (2011),
240.
[38] Phanxicô, Tiếp kiến chung (12/8/2020): Osservatore Romano (13 agosto 2020), 8, trích dẫn
thánh Gioan Phaolô II, Diễn văn tại Đại hội đồng Liên Hợp Quốc (2/10/1979), 7 và Id., Diễn văn tại
Đại hội đồng Liên Hợp Quốc (5/10/1995), 2.
[39] Xem Bộ Giáo Lý Đức Tin, Huấn thị Dignitas Personae (8/9/2008), số 8: AAS 100 (2008), 863-
864.
[40] Ủy ban Thần học Quốc tế, Tự do tôn giáo vì lợi ích của mọi người (2019), số 38.
[41] Xem Phanxicô, Diễn văn cho các Thành viên Ngoại giao đoàn bên cạnh Tòa thánh chúc mừng
năm mới (8/1/2024): Osservatore Romano (8 gennaio 2024), 3.
[42] Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp Evangelium vitae (25/3/1995), số 19: AAS 87 (1995), 422.
[43] Phanxicô, Thông điệp Laudato si’ (24/5/2015), số 69: AAS 107 (2015), 875, trích dẫn Sách
Giáo lý Giáo hội Công giáo, số 339.
22
[44] Phanxicô, Tông huấn Laudate Deum (4/10/2023), số 67: Osservatore Romano (4 ottobre 2023),
IV.
[45] Ibidem, số 63: Osservatore Romano (4 ottobre 2023), IV.
[46] Sách Giáo lý Giáo hội Công giáo, số 1730
[47] Bênêđíctô XVI, Sứ điệp cho Ngày Hòa bình Thế giới (1/1/2011), số 3: Insegnamenti VI/2
(2011), 979.
[48] Hội đồng Giáo hoàng “Công lý và Hòa bình”, Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội, số
137.
[49] Phanxicô, Thông điệp Fratelli tutti (3/10/2020), số 109: AAS 112 (2020), 1006.
[50] Hội đồng Giáo hoàng “Công lý và Hòa bình”, Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội, số
137.
[51] Phanxicô, Diễn văn cho các tham dự viên Cuộc Hội ngộ Thế giới của các Phong trào Nhân dân
(28/10/2014): AAS 106 (2014), 858.
[52] Phanxicô, Thông điệp Fratelli tutti (3/10/2020), số 107: AAS 112 (2020), 1005-1006.
[53] Công đồng Vatican II, Hiến chế Gaudium et spes (7/12/1965), số 27: AAS 58 (1966), 1047.
[54] Ibidem.
[55] Ibidem.
[56] Xem Giáo lý Giáo hội Công giáo, số 2267 và Bộ Giáo lý Đức tin, Thư gửi các Giám mục về
công thức mới của số 2267 của sách Giáo lý Giáo hội Công giáo về án tử hình (1/8/2018), các số 7-
8.
[57] Phanxicô, Thông điệp Fratelli tutti (3/10/2020), số 269: AAS 112 (2020), 1065.
[58] Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp Sollicitudo rei socialis (30/12/1987), số 28: AAS 80
(1988), 549.
[59] Bênêđíctô XVI, Thông điệp Caritas in veritate (29/6/2009), số 22: AAS 101 (2009), 657, trích
dẫn thánh Phaolô VI, Thông điệp Populorum progressio (26/3/1967), số 9: AAS 59 (1967), 261-
262.
[60] Phanxicô, Thông điệp Fratelli tutti (3/10/2020), số 21: AAS 112 (2020), 976, trích dẫn
Bênêđíctô XVI, Thông điệp Caritas in veritate (29/6/2009), số 22: AAS 101 (2009), 657.
[61] Ibidem, số 20: AAS 112 (2020), 975-976. Xem thêm “Lời cầu nguyện với Đấng Tạo Hóa” ở
cuối Thông điệp này.
[62] Ibidem, số 116: AAS 112 (2020), 1009, trích dẫn Phanxicô, Diễn văn cho các tham dự viên
Cuộc Hội ngộ Thế giới của các Phong trào Nhân dân (28/10/2014): AAS 106 (2014), 851-852.
[63] Ibidem, số 162: AAS 112 (2020), 1025, trích dẫn Phanxicô, Diễn văn cho các Thành viên
Ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh (12/1/2015): AAS 107 (2015), 165.
[64] Ibidem, số 25: AAS 112 (2020), 978, trích dẫn Phanxicô, Sứ điệp cho Ngày Hòa bình Thế giới
lần thứ 49, 1 tháng 1 năm 2016 (8/12/2015): AAS 108 (2016), 49.
[65] Phanxicô, Sứ điệp cho các tham dự viên Diễn đàn Paris về Hòa bình lần thứ 6 (10/11/2023):
Osservatore Romano (10 novembre 2023), 7, trích dẫn Id., Tiếp kiến chung (23/3/2022):
Osservatore Romano (23 marzo 2022), 3.
[66] Phanxicô, Diễn văn tại Hội nghị các quốc gia thành viên Công ước – khung của Liên hợp quốc
về biến đổi khí hậu (COP 28) (2/12/2023): Osservatore Romano (2 dicembre 2023), 2.
[67] Xem Thánh Phaolô VI, Diễn văn tại Liên Hiệp Quốc (4/10/1965): AAS 57 (1965), 881.
23
[68] Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptor hominis (4/3/1979), số 16: AAS 71 (1979),
295.
[69] Phanxicô, Thông điệp Fratelli tutti (3/10/2020), số 258: AAS 112 (2020), 1061.
[70] Phanxicô, Diễn văn tại Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc (14/6/2023): Osservatore Romano (15
giugno 2023), 8.
[71] Phanxicô, Diễn văn cho Ngày Thế giới Cầu nguyện cho Hòa bình (20/9/2016): Osservatore
Romano (22 settembre 2016), 5.
[72] Xem Phanxicô, Thông điệp Fratelli tutti (3/10/2020), số 38: AAS 112 (2020), 983: “Do đó,
cũng cần phải “tái khẳng định quyền không di cư, nghĩa là có thể ở lại quê hương của mình””, trích
dẫn Bênêđíctô XVI, Sứ điệp Ngày Thế giới Di Dân và Tị Nạn (12/10/2012): AAS 104 (2012), 908.
[73] Xem Phanxicô, Thông điệp Fratelli tutti (3/10/2020), số 38: AAS 112 (2020), 982-983.
[74] Ibidem, số 39: AAS 112 (2020), 983.
[75] Bênêđíctô XVI, Thông điệp Caritas in veritate (29/6/2009), số 62: AAS 101 (2009), 697.
[76] Phanxicô, Thông điệp Fratelli tutti (3/10/2020), số 39: AAS 112 (2020), 983.
[77] Ở đây có thể hữu ích khi nhắc lại lời tuyên bố của Đức Phaolô III về phẩm giá của những
người hiện diện trên các vùng đất thuộc “Tân Thế giới” trong sắc chỉ Pastorale officium
(29/5/1537), trong đó ngài khẳng định – dưới hình phạt của vạ tuyệt thông – rằng cư dân của những
vùng lãnh thổ này, “ngay cả khi họ ở ngoài lòng Giáo hội, không vì thế mà bị tước đoạt quyền tự do
hoặc quyền sử dụng tài sản của mình, […] vì họ là người và do đó có khả năng tin và đạt được sự
cứu rỗi.” (“licet extra gremium Eccelesiae tồn tại, non tamen sua libertate, aut rerum suarum
dominio […] privandos esse, et cum homines, ideoque fidei et salutis capaces sint”): DH 1495.
[78] Phanxicô, Diễn văn cho các tham dự viên Phiên họp toàn thể của Hội đồng Giáo hoàng về Mục
vụ cho người di cư và người đi lại (24/5/2013): AAS 105 (2013), 470-471.
[79] Phanxicô, Thông điệp Fratelli tutti (3/10/2020), số 188: AAS 112 (2020), 1036, trích dẫn Id.,
Diễn tại Liên Hợp Quốc (25/9/2015): AAS 107 (2015), 1039.
[80] Phanxicô, Diễn văn cho một nhóm tân đại sứ nhân dịp đệ trình Uỷ nhiệm thư (12/12/2013):
Osservatore Romano (13 dicembre 2013), 8.
[81] Phanxicô, Diễn văn cho các tham dự viên Hội nghị Quốc tế về Buôn bán Người (11/4/2019):
AAS 111 (2019), 700.
[82] Tài liệu chung cuộc của Đại hội thường kỳ lần thứ XV của Thượng Hội đồng Giám mục
(27/10/2018), số 29.
[83] Phanxicô, Thông điệp Fratelli tutti (3/10/2020), số 23: AAS 112 (2020), 977, trích dẫn Id.,
Tông huấn Evangelii gaudium (24/11/2013), số 212: AAS 105 (2013), 1108.
[84] Thánh Gioan Phaolô II, Thư gửi phụ nữ (29/6/1995), số 4: Insegnamenti XVIII/1 (1997), 1874.
[85] Ibidem, số 5: Insegnamenti XVIII/1 (1997), 1875.
[86] Sách Giáo lý Giáo hội Công giáo, số 1645.
[87] Phanxicô, Diễn văn tại buổi mừng lễ Đức Mẹ – Đức Mẹ Cửa Thành (20/01/2018): AAS 110
(2018), 329.
[88] Phanxicô, Diễn văn cho các tham dự viên Phiên họp toàn thể của Bộ Giáo lý Đức tin
(21/1/2022): Osservatore Romano (21 gennaio 2022), 8.
[89] Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp Evangelium vitae (25/3/1995), 58: AAS 87 (1995), 466-
467. Về vấn đề tôn trọng phôi người, xem Bộ Giáo lý Đức tin, Huấn thị Donum vitae (22/2/1987):
“Thực hành giữ cho phôi người sống sót, in vivo (thử nghiệm trên động vật) hoặc in vitro (trong
24
ống nghiệm), với mục đích thử nghiệm hoặc thương mại là hoàn toàn trái ngược với phẩm giá con
người” (I, 4): AAS 80 (1988), 82.
[90] Phanxicô, Tông huấn Evangelii gaudium (24/11/2013), 213: AAS 105 (2013), 1108.
[91] Ibidem.
[92] Phanxicô, Diễn văn cho các thành viên Ngoại giao đoàn bên cạnh Tòa thánh để chúc mừng
năm mới (8/1/2024): Osservatore Romano (8 gennaio 2024), 3.
[93] Xem Bộ Giáo Lý Đức Tin, Huấn thị Dignitas Personae (8/9/2008), số 16: AAS 100 (2008),
868-869. Tất cả những khía cạnh này được nhắc lại một cách rõ ràng trong Huấn thị của Bộ Giáo lý
Đức tin lúc bấy giờ có tựa đề Donum vitae (22/2/1987): AAS 80 (1988), 71-102.
[94] Bộ Giáo Lý Đức Tin, Thư Samaritanus bonus (14/7/2020), V, số 4: AAS 112 (2020), 925.
[95] Xem Ibidem, V, số 1: AAS 112 (2020), 919.
[96] Phanxicô, Tiếp kiến chung (9/2/2022): Osservatore Romano (9 febbraio 2022), 3.
[97] Xem đặc biệt là Phanxicô, Thông điệp Fratelli tutti (3/10/2020), các số 18-21: AAS 112 (2020),
975-976: “Sự gạt ra ngoài lề toàn cầu.” Số 188 của cùng Thông điệp này đã xác định một “nền văn
hóa vứt bỏ”.
[98] Xem Phanxicô, Diễn văn cho các tham dự viên Hội nghị của Hội đồng Giáo hoàng Cổ võ Tân
Phúc Âm hóa (21/10/2017): Osservatore Romano (22 ottobre 2017), 8: “Tính dễ bị tổn thương
thuộc về bản chất của con người”.
[99] Xem Phanxicô, Sứ điệp nhân Ngày Quốc tế Người khuyết tật (3/12/2020): AAS 112 (2020),
1185-1186.
[100] Phanxicô, Thông điệp Fratelli tutti (3/10/2020), các số 187-188: AAS 112 (2020), 1035-1036,
trích dẫn Id., Diễn văn tại Nghị viện Châu Âu, (25/11/2014): AAS 106 (2014), 999, và Id., Diễn văn
trước tầng lớp lãnh đạo và ngoại giao đoàn, Bangui – Cộng hòa Trung Phi (29/11/2015): AAS 107
(2015) 1320.
[101] Phanxicô, Tông huấn Amoris laetitia (19/3/2016), số 250: AAS 108 (2016), 412-413, trích
dẫn Sách Giáo lý Giáo hội Công giáo, số 2358.
[102] Phanxicô, Diễn văn cho các Thành viên Ngoại giao đoàn bên cạnh Tòa thánh để chúc mừng
năm mới (8/1/2024): Osservatore Romano (8 gennaio 2024), 3.
[103] Phanxicô, Tông huấn Amoris laetitia (19/3/2016), số 56: AAS 108 (2016), 334.
[104] Ibidem, trích dẫn Phiên họp thường kỳ lần thứ XIV của Thượng Hội đồng Giám mục, Relatio
Finalis (24/10/2015), 58.
[105] Phanxicô, Tông huấn Amoris laetitia (19/3/2016), số 286: AAS 108 (2016), 425.
[106] Sách Giáo lý Giáo hội Công giáo, số 364.
[107] Điều này cũng có giá trị đối với việc tôn trọng thi thể của người quá cố; chẳng hạn, xem Bộ
Giáo lý Đức tin, Huấn thị Ad resurgendum cum Christo (15/8/2016), số 3: AAS 108 (2016), 1290:
“Khi chôn cất thân xác các tín hữu, Giáo hội xác nhận niềm tin vào sự sống lại của thể xác và muốn
nhấn mạnh đến phẩm giá cao cả của thân xác con người, như một phần của con người, mà thân xác
chia sẻ lịch sử.” Tổng quát hơn, xem thêm Ủy ban Thần học Quốc tế, Một số vấn đề hiện tại liên
quan đến cánh chung học (1990), số 5: “Con người được kêu gọi đến sự sống lại”.
[108] Xem Phanxicô, Thông điệp Laudato si’ (24/5/2015), số 155: AAS 107 (2015), 909.
[109] Phanxicô, Tông huấn Amoris laetitia (19/3/2016), số 56: AAS 108 (2016), 344.

25
[110] Phanxicô, Tông huấn Christus vivit (25/3/2019), số 88: AAS 111 (2019), 413, trích dẫn Tài
liệu chung cuộc của Phiên họp thường kỳ lần thứ XV của Thượng Hội đồng Giám mục
(27/10/2018), số 23.
[111] Phanxicô, Thông điệp Fratelli tutti (3/10/2020), số 42: AAS 112 (2020), 984.
[112] Phanxicô, Thông điệp Fratelli tutti (3/10/2020), số 205: AAS 112 (2020), 1042, trích dẫn Id.,
Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông Xã hội lần thứ 48 (24/1/2014): AAS 106 (2014), 113.
[113] Phanxicô, Kinh Truyền Tin (10/12/2023): Osservatore Romano (11 dicembre 2023), 12.
[114] Xem Ủy ban Thần học Quốc tế, Phẩm giá và Quyền của nhân vị (1983), số 2.
[115] Phanxicô, Thông điệp Fratelli tutti (3/10/2020), số 195: AAS 112 (2020), 1038, trích dẫn Id.,
Tông huấn Evangelii gaudium (24/11/2013), số 274: AAS 105 (2013), 1130.
[116] Phanxicô, Thông điệp Laudato si’ (24/5/2015), số 205: AAS 107 (2015), 928.

26

You might also like