Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 27

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


------------------------

TIỂU LUẬN
MÔN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ

ĐỀ TÀI: TÁC ĐỘNG CỦA HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC TOÀN

DIỆN VÀ TIẾN BỘ XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (CPTPP)

ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ

HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

Họ và tên sinh viên: Hoàng Mai


Mã sinh viên: 2314140711
Lớp tín chỉ: TRI115(HK1-2324)K62.8
Khoá: 62
Giảng viên hướng dẫn: Th.s Hoàng Văn Vinh

Hà Nội, tháng 11 năm 2023


1
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt


FTA Free Trade Agreement Hiệp định thương mại tự do
Comprehensive and Hiệp định Đối tác Toàn
CPTPP Progressive Agreement for diện và Tiến bộ xuyên Thái
Trans-Pacific Partnership Bình Dương
FDI Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GPD Gross Domestic Product Tổng sản phẩm nội địa
GSO General Statistics Office Tổng cục Thống kê
United Nations Conference Hội nghị Liên Hợp Quốc về
UNCTAD
on Trade and Development Thương mại và Phát triển
IMF International Monetary Fund Quỹ Tiền tệ Quốc tế

Oxford Committee Ủy ban cứu trợ nạn đói


Oxfam Oxford
for Famine Relief

CPI Consumer Price Index Chỉ số giá tiêu dùng

MỤC LỤC

2
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT...............................................................1
LỜI MỞ ĐẦU...............................................................................................3
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN HIỆP ĐỊNH CPTPP VÀ NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM....4
1.1. Tổng quan Hiệp định CPTPP.......................................................4
1.1.1. Giới thiệu chung...........................................................................4
1.1.2. Lịch sử hình thành........................................................................4
1.1.3. Nội dung chính của Hiệp định CPTPP........................................6
1.2. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam .........................................................................................................7
1.2.1. Quan niệm về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ......................................................................................................7
1.2.2. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa tại Việt Nam giai đoạn trước năm 2016.......................................8
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA CPTPP ĐỐI VỚI
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
TẠI VIỆT NAM..........................................................................................11
2.1. Thực trạng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa tại Việt Nam sau khi ký kết CPTPP..........................................11
2.1.1. Tình hình chung..........................................................................11
2.1.2. Các lĩnh vực chính......................................................................12
2.2. Tác động của CPTPP đối với nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.................................................................13
2.2.1. Tác động tích cực: cơ hội, lợi thế...............................................13
2.2.2. Tác động tiêu cực: những khó khắn, thách thức........................16
CHƯƠNG III. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KHUYẾN KHỊ ĐỂ TỐI ƯU HOÁ
LỢI ÍCH VÀ GIẢM THIỂU RỦI RO TỪ CPTPP...................................19
3.1. Khuyến nghị đối với Chính phủ, các bộ, ngành...........................19
3.2. Khuyến nghị đối với các doanh nghiệp.........................................21
KẾT LUẬN.................................................................................................23
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................24

3
LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh quốc tế ngày càng hội nhập và thay đổi, việc tham gia
các hiệp định thương mại quốc tế có vai trò quan trọng quyết định sự hình
thành và phát triển của nền kinh tế một quốc gia. Trong số đó, Hiệp định
Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) là một
trong những hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới đã trở thành một
trong những hiệp định quan trọng và có tác động sâu sắc đến kinh tế thế
giới.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam
đang trải qua thời kỳ phát triển và thích ứng mạnh mẽ trong bối cảnh toàn
cầu hóa kinh tế. Một trong những bước tiến quan trọng là tiến hành ký kết
và tham gia Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình
Dương (CPTPP), mở ra một chương mới đầy triển vọng và cơ hội cũng
như là thách thức mới.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam không
chỉ chú trọng vào quá trình phát triển kinh tế mà còn đặt mục tiêu đảm bảo
công bằng xã hội và phát triển bền vững. Việc tham gia vào CPTPP không
chỉ đòi hỏi Việt Nam phải thích ứng với các yêu cầu quốc tế mà còn đặt ra
những câu hỏi về việc làm thế nào để nền kinh tế định hướng xã hội chủ
nghĩa có thể tận dụng lợi ích từ hiệp định này mà vẫn giữ vững những giá
trị cốt lõi của mình. Đây là vấn đề đã thu hút được sự quan tâm của đông
đảo người lao động, các doanh nghiệp và chuyên gia nghiên cứu. Xuất phát
từ thực tiễn nêu trên, người viết lựa chọn đề tài này nhằm cung cấp một cái
nhìn sâu sắc hơn về tác động của CPTPP đối với nền kinh tế thị trường

4
định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam, đồng thời đề xuất những hướng
đi có lợi cho sự phát triển bền vững của đất nước.

CHƯƠNG I. TỔNG QUAN HIỆP ĐỊNH CPTPP VÀ NỀN KINH TẾ


THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

1.1. Tổng quan Hiệp định CPTPP

1.1.1. Giới thiệu chung


Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương gọi tắt
là Hiệp định CPTPP (tên tiếng anh là Comprehensive and Progressive
Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement). Nhằm mục tiêu
thiết lập một mặt bằng thương mại tự do chung cho các nước khu vực châu
Á – Thái Bình Dương, Hiệp định được xem là hiệp định thương mại tự do
(FTA) thế hệ mới, gồm nhiều bên ký kết. Hiện tại, Hiệp định có 11 nước
thành viên tham gia gồm: Brunei, Nhật Bản, Malaysia, Singapore,
Australia, New Zealand, Canada, Mexico, Chile, Peru và Việt Nam.

1.1.2. Lịch sử hình thành


Khởi đầu, Hiệp định Đối tác Kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình
Dương (Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement) có 4
nước tham gia là Bru-nây, Chi-lê, Niu Di-lân, Xinh-ga-po và vì vậy được
gọi tắt là Hiệp định P4.

Ngày 22 tháng 9 năm 2008, Hoa Kỳ tuyên bố tham gia vào P4 nhưng đề
nghị không phải trong khuôn khổ Hiệp định P4 cũ, mà các bên sẽ đàm phán
một Hiệp định hoàn toàn mới, gọi là Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP). Ngay sau đó, các nước Ốt-xtrây-lia và Pê-ru cũng tuyên bố
tham gia TPP.

5
Ngay từ khi TPP được hình thành, Việt Nam đã được các nước TPP
mời tham gia. Được sự đồng ý của Bộ Chính trị, Việt Nam đã tham gia
đàm phán ngay từ những ngày đầu với tư cách quan sát viên. Sau 3 phiên
đầu tham gia với tư cách trên, được sự phê chuẩn của Bộ Chính trị, nhân
Hội nghị Cấp cao APEC tổ chức từ ngày 13 đến ngày 14 tháng 11 năm
2010 tại thành phố Yokohama (Nhật Bản) Việt Nam đã tuyên bố chính
thức tham gia TPP.

Cùng với quá trình đàm phán, TPP đã tiếp nhận thêm các thành viên
mới là Ma-lai-xi-a, Mê-hi-cô, Ca-na-đa và Nhật Bản, nâng tổng số nước
tham gia lên thành 12.

Tuy nhiên, vào ngày 30 tháng 01 năm 2017, Hoa Kỳ đã chính thức
tuyên bố rút khỏi Hiệp định TPP. Trước sự kiện này, các nước TPP còn lại
đã tích cực nghiên cứu, trao đổi nhằm thống nhất được hướng xử lý đối với
Hiệp định TPP trong bối cảnh mới.

Sau rất nhiều nỗ lực, các nước đã đạt được bước tiến đột phá về TPP tại
cuộc họp cấp Bộ trưởng vào tối ngày 10 tháng 11 năm 2017 tổ chức bên lề
Tuần lễ Cấp cao APEC tại Đà Nẵng. Cụ thể là các Bộ trưởng đã thông qua
được tên gọi mới của Hiệp định TPP gồm 11 thành viên là Hiệp định Đối
tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), đồng thời ra
Tuyên bố chung của các Bộ trưởng khẳng định các nước đã thống nhất
được những vấn đề cốt lõi của Hiệp định này.

Ngày 08 tháng 3 năm 2018, các Bộ trưởng của 11 nước tham gia Hiệp
định CPTPP đã chính thức tham gia Lễ ký Hiệp định này tại thành phố
San-ti-a-gô, Chi-lê.

6
Ngày 14 tháng 01 năm 2019 Hiệp định chính thức có hiệu lực đối với
Việt Nam.

1.1.3. Nội dung chính của Hiệp định CPTPP

Hiệp định CPTPP gồm 07 Điều và 01 Phụ lục quy định về mối quan hệ
với Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã được 12 nước gồm
Ốt-xtrây-lia, Bru-nây Đa-rút-xa-lam, Ca-na-đa, Chi-lê, Hoa Kỳ, Nhật Bản,
Ma-lai-xi-a, Mê-hi-cô, Niu Di-lân, Pê-ru, Xinh-ga-po và Việt Nam ký ngày
04 tháng 2 năm 2016 tại Niu Di-lân; cũng như xử lý các vấn đề khác liên
quan đến tính hiệu lực, rút khỏi hay gia nhập Hiệp định CPTPP.

Theo đó, về cơ bản, Hiệp định CPTPP giữ nguyên nội dung của Hiệp
định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) nhưng cho phép các nước
thành viên tạm hoãn 20 nhóm nghĩa vụ (gồm 11 nghĩa vụ liên quan tới
Chương Sở hữu trí tuệ, 2 nghĩa vụ liên quan đến Chương Mua sắm của
Chính phủ và 7 nghĩa vụ còn lại liên quan tới 7 Chương là Quản lý hải
quan và Tạo thuận lợi Thương mại, Đầu tư, Thương mại dịch vụ xuyên
biên giới, Dịch vụ Tài chính, Viễn thông, Môi trường, Minh bạch hóa và
Chống tham nhũng) để bảo đảm sự cân bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của
các nước thành viên trong bối cảnh Hoa Kỳ rút khỏi Hiệp định TPP.

Về Hiệp định TPP, Hiệp định này gồm 30 Chương và 9 Phụ lục điều
chỉnh rất nhiều vấn đề từ thương mại truyền thống như mở cửa thị trường
hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, vốn phổ biến trong các Hiệp định thương mại tự
do (FTA); đến các vấn đề ít truyền thống hơn như mua sắm của các cơ quan
Chính phủ, thương mại điện tử, doanh nghiệp nhà nước và mở rộng ra cả các

7
vấn đề được coi là phi truyền thống trong đàm phán, ký các FTA như lao
động, môi trường, chống tham nhũng trong thương mại và đầu tư.

1.2. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

1.2.1. Quan niệm về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là
sự gán ghép chủ quan giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội, mà là sự
nắm bắt và vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường
trong thời đại ngày nay. Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở nhận thức tính
quy luật phát triển của thời đại và sự khái quát, đúc rút từ kinh nghiệm phát
triển kinh tế thị trường thế giới, đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam và ở Trung Quốc, để đưa ra chủ trương phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm sử dụng kinh tế thị
trường để thực hiện mục tiêu từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế trong thời kỳ
quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một kiểu kinh tế thị trường
mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường.

Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: Kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân
theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn
dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện
trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý, và phân phối. Nói cách khác, kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,
8
trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà
nước. Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế bằng chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, chính sách, pháp luật, và bằng cả sức mạnh vật chất của
lực lượng kinh tế nhà nước; đồng thời sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng
các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích
thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và
khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân
lao động, của toàn thể nhân dân.

1.2.2. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa tại Việt Nam giai đoạn trước năm 2016
Trước năm 2016, Việt Nam đã chứng kiến sự phát triển vượt bậc của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính sách cải cách
kinh tế đã được triển khai mạnh mẽ, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh
nghiệp và thúc đẩy công nghiệp hóa đất nước.

Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mang lại
những lợi ích rõ ràng cho Việt Nam. Các doanh nghiệp được khuyến khích
và tự do hoạt động trong một môi trường cạnh tranh công bằng. Đồng thời,
các chính sách xã hội được thiết kế để nhằm giảm bớt khoảng cách giàu
nghèo và tạo điều kiện thuận lợi cho các tầng lớp yếu thế.

Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 7,5% trong giai đoạn 2000-2005 và
nền kinh tế đứng thứ 58 thế giới năm 2006 đã khiến Việt Nam được ví như

9
một nền kinh tế con hổ nhỏ ở Đông Nam Á (GSO, 2011; UNCTAD, 2008).
GDP bình quân đầu người của Việt Nam đạt 1.555 USD/năm vào năm
2012 và 1.700 USD vào năm 2013, bối cảnh của thiên niên kỷ mới khác xa
so với những năm 1990 (Dân Trí, 2013).

FDI bắt đầu phục hồi từ năm 2003 (vốn đăng ký 3,2 tỷ USD) đến năm
2006 (12 tỷ USD), tạo ra tăng trưởng và việc làm. Tư nhân hóa (cổ phần
hóa) các doanh nghiệp nhà nước cũng có sự cải thiện trong giai đoạn 2002-
06 với 2.813 doanh nghiệp được tư nhân hóa, so với một số ít vào những
năm 1990, 60 doanh nghiệp vào năm 2011 và 16 doanh nghiệp từ quý 1
năm 2012 đến 2013 (Báo Hải Quân, 2013).

Kết hợp giữa tốc độ tăng trưởng nhanh và sự bùng nổ của các thị
trường, Việt Nam đã thành công trong việc giảm tỷ lệ nghèo từ 28,9% năm
2002 xuống 18,1% năm 2004 và 15,5% năm 2006 (GSO, 2011). Lạm phát
được kiểm soát với chỉ số CPI bình quân trong kỳ ở mức 4,5%, một thành
tích đáng ghi nhận khi lạm phát luôn là căn bệnh kinh niên của thời kỳ hậu
Đổi mới.

Tuy vậy, việc phát triển của nền kinh tế này không chỉ gặp phải những
thách thức mà còn có những vấn đề cần được giải quyết. Trong giai đoạn
trước năm 2016, nền kinh tế của Việt Nam đầy biến động.

Đầu tiên là vấn đề tái diễn lạm phát. Trong quá trình phát triển, tốc độ
tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chủ yếu phụ thuộc vào việc tăng đầu tư
và chi tiêu chính phủ (IMF 2013). Tuy nhiên, trong những năm 1990 và
đầu những năm 2000, lạm phát khá nhẹ ở mức một con số do tổng đầu tư

10
được giữ ở mức dưới 35%. Tuy nhiên, từ năm 2006, tỷ lệ đầu tư trên sản
lượng đã tăng lên mức kỷ lục 43% vào năm 2007 (IMF 2013). Dòng tiền
chảy vào nền kinh tế và đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước đã gây ra
lạm phát hai con số vào năm 2008 (đỉnh 23%) và 2011 (18%), ảnh hưởng
đến tiêu dùng thực tế của tầng lớp trung lưu và người nghèo đa số, đặc biệt
khi tỷ lệ 50%-80% thu nhập trung bình của người dân được chi cho thực
phẩm (Oxfam, 2013). Sự đói nghèo có thể đe dọa sự ổn định chính trị và xã
hội.

Thâm hụt ngân sách liên tục trong 10 năm liên tiếp từ 2003 đến 2012 ở
mức trung bình 5,2% đã thúc đẩy chính phủ phát hành trái phiếu và vay từ
cộng đồng quốc tế để bù đắp thâm hụt (2012). Nợ công của Việt Nam đã
tăng lên trong những năm gần đây (mặc dù theo báo cáo vẫn nằm dưới
ngưỡng an toàn 60% GDP), tạo ra gánh nặng nợ lớn hơn cho Chính phủ.
Mặc dù thực tế là nguồn thu của chính phủ từ thuế và phí trong GDP ở Việt
Nam cao hơn hầu hết các nước trong ASEAN, (IMF 2012), Chính phủ vẫn
không đạt được mục tiêu thu do tình hình khó khăn của các doanh nghiệp
và các báo cáo của thua lỗ ở các doanh nghiệp FDI khổng lồ như Cocacola,
Pepsi hay Metro Cash & Carry. Nợ nước ngoài và sự kiểm soát yếu kém
đối với doanh nghiệp FDI có thể dẫn đến sự phụ thuộc của kinh tế Việt
Nam.

Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, nợ xấu ngày càng chồng chất.
Nhiều doanh nghiệp đã phải vay mượn tín dụng phi chính thức khiến hoạt
động tài chính ngầm này phát triển mạnh. Tín dụng đen được ước tính
tương đương khoảng 30% tổng tín dụng chính thức ở Việt Nam, tương

11
đương khoảng 50 tỷ USD (Dân Trí, 2013). Thị trường tín dụng chính thức
bị tắc nghẽn đan xen với thị trường ngầm mất kiểm soát có thể sẽ gây áp
lực lên sự ổn định chính trị nếu các vấn đề kinh tế - xã hội không được giải
quyết thỏa đáng và hiệu quả (Vương, Napier, Tran và Nguyen, 2013).

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA CPTPP ĐỐI


VỚI NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA TẠI VIỆT NAM

2.2. Thực trạng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa tại Việt Nam sau khi ký kết CPTPP

2.1.1. Tình hình chung


Sau khi ký kết Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương CPTPP, Việt
Nam đã chứng kiến một thực trạng mới trong nền kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. CPTPP đã mở ra cơ hội và đặt ra những thách
thức mới cho Việt Nam trong việc thúc đẩy quốc gia đi vào một giai đoạn
phát triển mới. Theo Hiệp định, Việt Nam sẽ được các nước xóa bỏ ngay
khoảng 78 - 95% dòng thuế với hàng hóa thông thường, lộ trình xóa bỏ
thuế là 5 - 10 năm; đến cuối lộ trình sẽ xóa bỏ khoảng 98 - 100% số dòng
thuế (Bộ tài chính, 2019)

Tham gia hiệp định này mở ra cơ hội xuất khẩu rộng lớn cho các ngành
công nghiệp của Việt Nam như may mặc, điện tử, ô tô và hàng hóa nông
sản. Ngoài ra, CPTPP giúp thu hút đầu tư trực tiếp từ các quốc gia thành
viên thông qua việc loại bỏ hoặc giảm thuế nhập khẩu. Đây có thể được coi
là một trong những yếu tố quan trọng góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế
của đất nước. Dưới sự tác động của CPTPP, GDP của Việt Nam tăng 6,5%

12
(10 tỷ USD) so với giai đoạn trước (Tomoo Kikuchi, Kensuke Yanagida,
Huong Vo, 2017).

2.1.2. Các lĩnh vực chính


Các ngành công nghiệp xuất khẩu, như dệt may, điện tử, nông sản và
công nghệ, đặc biệt là các mặt hàng có lợi thế cạnh tranh của Việt Nam, đã
có thêm cơ hội tiếp cận các thị trường mới. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
việc ký kết Hiệp định giúp Việt Nam được hưởng lợi khá lớn từ xuất khẩu
với tổng kim ngạch tăng thêm hơn 4% tương đương khoảng 4 tỷ USD
(Thái Linh, 2018). Từ năm 2021, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
sang các nước thành viên Hiệp định CPTPP tăng 18,1% so với năm 2020,
đạt khoảng 45,7 tỷ USD. Đến năm 2022, tăng 17,3% so với năm 2021 đạt
53,6 tỷ USD. Giá trị xuất khẩu của chúng ta sang địa bàn cũng tăng tới
110% sau 5 năm, tức là thị trường tỷ USD có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu
cao nhất trong nhóm các nước Hiệp định CPTPP (Tạp chí tài chính, 2023).

Ngoài ra, sự thu hút đầu tư từ các quốc gia trong CPTPP đã tăng lên.
Theo số liệu từ Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), lũy kế
đến nay, các nhà đầu tư Singapore là 46,2 tỷ USD, Nhật Bản là 56,2 tỷ
USD. Trong khi đó Malaysia là 12,5 tỷ USD, Canada 5 tỷ USD, Australia
gần 1,86 tỷ USD, ... Có thể thấy hầu hết thành viên của Hiệp định CPTPP
đã đầu tư vào Việt Nam.

Lĩnh vực nông nghiệp của Việt Nam, đặc biệt là các sản phẩm nông sản
xuất khẩu, đã phát triển một cách mạnh mẽ. Các biện pháp thúc đẩy nâng
cao chất lượng, quy trình sản xuất và quản lý chất lượng sản phẩm đã trở
thành ưu tiên hàng đầu để đáp ứng yêu cầu xuất khẩu và cạnh tranh trên thị
13
trường quốc tế. Đóng góp 8,7% vào mức tăng trưởng chung của nền kinh tế
năm 2018, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đã có mức tăng khá cao
với 3,76%. Sang năm 2019, ngành nông nghiệp phấn đấu đạt tốc độ tăng
trưởng GDP ngành trên 3,0%, giá trị sản xuất đạt trên 3,11%, kim ngạch
xuất khẩu khoảng 42 - 43 tỷ USD (UBND tỉnh An Giang, 2019).

CPTPP đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các lĩnh vực
dịch vụ như du lịch, giáo dục, và công nghệ thông tin tại Việt Nam. Sự hấp
dẫn đầu tư từ các quốc gia thành viên đã thúc đẩy sự đổi mới và nâng cao
chất lượng trong các lĩnh vực này, mở ra cơ hội mới cho sự phát triển và
cạnh tranh. Các lĩnh vực mà ta đang có chính sách thu hút đầu tư nước
ngoài như y tế, cơ sở thể dục thể thao, dịch vụ vui chơi giải trí cho nhân
dân, dịch vụ môi trường, các dịch vụ phục vụ kinh doanh, … Trong đó
nhiều lĩnh vực cho phép các nước CPTPP thành lập doanh nghiệp 100%
vốn nước ngoài (Nội dung Hiệp định CPTPP).

2.2. Tác động của CPTPP đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Hiệp định CPTPP đã quy định 4 cam kết chính về việc cung cấp dịch
vụ qua biên giới. Có thể thấy, các cam kết này đều có những yêu cầu và
quy chuẩn rất cao về. Hiệp định CPTPP mở ra một thị trường mới với gần
500 triệu dân. Từ đây, Việt Nam được có thêm nhiều cơ hội cùng thách
thức nhất định về kinh tế, xã hội.

2.2.1. Tác động tích cực: cơ hội, lợi thế


Thứ nhất, việc mở rộng chuỗi cung ứng toàn cầu và tham gia vào thị
trường quốc tế đã trở nên thuận lợi hơn. Khi Hiệp định CPTPP có hiệu lực
với Việt Nam vào ngày 14 tháng 01 năm 2019, xuất nhập khẩu đã có sự

14
phát triển vượt bậc. Việc giảm thuế quan và loại bỏ các rào cản thương mại
đã tạo điều kiện lý tưởng cho doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tham gia
thị trường quốc tế một cách bình đẳng, tích cực và dễ dàng hơn trước. Điều
này không chỉ mở ra cơ hội xuất khẩu mở rộng mà còn giúp nền kinh tế tận
dụng những nguồn lực mới và đa dạng hóa các mối quan hệ thương mại.
Đặc biệt, thị trường các nước Châu Mỹ như Canada, Mexico… cũng khá
tiềm năng để Việt Nam có thể khai thác. Việc tăng trưởng kinh tế đạt cả
chiều rộng và chiều sâu.

Thứ hai, CPTPP đã tạo ra môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư từ
nước ngoài, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp trong nước.
Việc cải thiện môi trường kinh doanh và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho
các nhà đầu tư nước ngoài cũng như doanh nghiệp địa phương giúp nâng
cao năng lực cạnh tranh và hấp thụ công nghệ mới, từ đó thúc đẩy sự tăng
trưởng kinh tế bền vững. Quá trình tự do hóa thương mại và hội nhập kinh
tế quốc tế ngày càng sâu rộng và CPTPP sẽ giúp Việt Nam trở thành một
trong những địa chỉ hấp dẫn về đầu tư, từ đó các doanh nghiệp có thể thu
hút được dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với giá trị lớn hơn, có
được kinh nghiệm quản lý điều hành và nhận chuyển giao công nghệ hiện
đại từ các tập đoàn lớn nước ngoài. Tham gia CPTPP giúp các doanh
nghiệp Việt Nam có thể tham gia chuỗi giá trị ở khu vực và trong khối, từ
đó hạn chế sự phụ thuộc vào một khu vực hay một thị trường.
Thứ ba, việc áp dụng và tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế từ CPTPP đã
thúc đẩy Việt Nam nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ. Để hướng tới
“luật chơi” trên thương trường quốc tế, Việt Nam phải tạo ra những đổi
mới, nâng cao chất lượng dịch vụ vì CPTPP đặt ra chuẩn mực rất cao về

15
việc cung cấp dịch vụ qua biên giới. CPTPP đã quy định: về các tiêu chuẩn
kỹ thuật, chuyên môn, cấp phép, cùng với sự minh bạch, khách quan và rõ
ràng...Do đó, các doanh nghiệp cũng có thêm động lực để phát triển mạnh
mẽ hơn, trau chuốt kỹ càng dịch vụ của mình, sử dụng các nguồn nhân lực
một cách có chọn lọc, hợp lý… Điều này cũng góp phần nâng cao điều
kiện, môi trường làm việc và quyền lợi của người lao động. Bên cạnh đó,
CPTPP có chứa các điều khoản về bảo vệ môi trường. Việt Nam cần thích
nghi với các quy định này để đảm bảo mức độ phát triển kinh tế không làm
tổn hại đến môi trường và nguồn lực tự nhiên.
Thứ tư, CPTPP đã tạo ra tiềm năng mạnh mẽ để đa dạng hóa kinh tế và
phát triển các ngành công nghiệp mới. Việc mở rộng lĩnh vực kinh doanh
và phát triển các ngành mới có thể tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới và
nâng cao thu nhập cho người lao động, từ đó tăng cường sự phát triển bền
vững cho nền kinh tế Việt Nam. Việt Nam được đánh giá là nước có nguồn
nhân lực dồi dào, trình độ cải thiện hơn trước so với nhiều nước thành viên
CPTPP. Thị trường cung ứng dịch vụ qua biên giới giữa các nước thành
viên tăng trưởng tốc độ cao hơn đồng nghĩa với việc có nhiều việc làm hơn,
nâng cao thu nhập cho người dân hơn. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã nghiên
cứu và cho ra số liệu rằng CPTPP có thể cải thiện việc làm cho 20.000 đến
30.000 lao động mỗi năm. Ngoài ra, khi kinh tế phát triển hơn, nước ta có
thêm nguồn kinh phí để cải thiện nguồn lao động cả về thể lực và trí lực.
Thứ năm, CPTPP tạo động lực để Việt Nam cải cách thể chế. Bên cạnh
việc tận dụng cơ hội CPTPP mang lại về ưu đãi thuế, CPTPP còn tạo áp lực
thúc đẩy cải cách thể chế để mở rộng thị trường, tạo môi trường đầu tư,
kinh doanh thông thoáng, minh bạch. Cải cách thể chế sẽ mang lại nhiều lợi

16
ích cho Việt Nam nên vừa là nhu cầu, vừa là yêu cầu bắt buộc khi Việt
Nam tham gia “sân chơi chung”. Việt Nam phải duy trì được đà cải cách
liên tục và có chất lượng sau khi gia nhập CPTPP. Nếu cải cách thể chế có
tính thụ động và thiếu sự tích cực, xuyên suốt tới các cấp cơ sở thì chắc
chắn thách thức sẽ nhiều hơn cơ hội mà CPTPP mang lại.

2.2.2. Tác động tiêu cực: những khó khắn, thách thức

Thứ nhất, Việt Nam phải đối mặt với việc thích nghi với các tiêu chuẩn
mới và quy định phức tạp từ CPTPP. Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ
xuyên Thái Bình Dương là một FTA thế hệ mới, tiêu chuẩn cao và toàn
diện, không chỉ đề cập tới các lĩnh vực truyền thống mà còn xử lý những
vấn đề mới, phi truyền thống, như lao động, môi trường, mua sắm của
chính phủ, doanh nghiệp nhà nước. CPTPP đặt ra các yêu cầu và tiêu chuẩn
cao về minh bạch hóa, các quy định về bảo hộ sở hữu trí tuệ, đưa ra cơ chế
giải quyết tranh chấp có tính ràng buộc và chặt chẽ, do vậy, tham gia Hiệp
định này không tránh khỏi những khó khăn khi phải đáp ứng đầy đủ những
chuẩn mực về chất lượng hàng xuất khẩu, cạnh tranh nguồn lao động chất
lượng cao... Việc tuân thủ các yêu cầu về quy chuẩn, an toàn và môi trường
có thể đòi hỏi sự đầu tư lớn từ các doanh nghiệp để thay đổi quy trình sản
xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm, gây áp lực tài chính và công nghệ
lên các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Thứ hai, sự cạnh tranh từ các đối thủ trong khu vực trở nên gay gắt.
CPTPP mở cửa thị trường rộng lớn, tạo điều kiện cho hàng hóa và dịch vụ
từ các nền kinh tế khác có thể cạnh tranh trực tiếp với sản phẩm của Việt
Nam. Điều này đặt ra yêu cầu cao về năng lực cạnh tranh và sự nâng cao
chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam để có thể tồn tại và phát
17
triển trên thị trường. Sự cạnh tranh diễn ra quyết liệt không chỉ ở thị trường
các nước tham gia Hiệp định mà ngay tại thị trường Việt Nam trên cả ba
cấp độ: sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia. Các doanh nghiệp nước
ngoài, với những thuận lợi về tài chính, trình độ quản trị, chuỗi phân phối
toàn cầu sẽ nhanh hơn doanh nghiệp Việt Nam trong việc hưởng lợi từ các
ưu đãi thuế quan. Việc phải mở cửa cho hàng hóa, dịch vụ của các nước đối
tác tại thị trường Việt Nam đồng nghĩa với việc doanh nghiệp Việt Nam
phải cạnh tranh gay gắt hơn tại “sân nhà”, điều này sẽ gây nên không ít áp
lực cho hàng hóa Việt Nam trong việc cạnh tranh với hàng hóa của các
quốc gia khác ngay tại thị trường nội địa.

Thứ ba, việc điều chỉnh lại chính sách và hệ thống pháp luật cũng là
một vấn đề tương đối nan giải. Để thích nghi với các điều khoản của
CPTPP, Việt Nam cần điều chỉnh và cải thiện các chính sách liên quan đến
đầu tư, sở hữu trí tuệ, và môi trường kinh doanh. Điều này đòi hỏi sự linh
hoạt và tính đồng thuận cao từ các cấp quản lý và doanh nghiệp.

Thứ tư, CPTPP sẽ dẫn tới thách thức về giảm nguồn thu ngân sách nhà
nước. Việc cắt giảm thuế nhập khẩu theo cam kết sẽ làm giảm doanh thu
của nhà nước, tuy nhiên sẽ không tác động đột ngột do trong CPTPP có đến
7/10 nước đã có FTA với Việt Nam; chỉ còn 3 nước là Ca-na-đa, Mê-hi-cô
và Pê-ru là chưa có FTA với Việt Nam, nhưng thương mại với 3 nước hiện
còn khiêm tốn. Sức ép thương mại song phương với 3 nước không lớn bởi
cơ cấu xuất, nhập khẩu của những nước này có tính bổ sung hơn là cạnh
tranh đối với cơ cấu xuất, nhập khẩu của Việt Nam và hiện Việt Nam đang
xuất siêu sang cả 3 nước.

18
Thứ năm, việc bảo vệ các lợi ích của người lao động và người tiêu dung
cũng là một vấn đề cần lưu ý. Sự hội nhập sâu rộng có thể tạo ra áp lực để
tăng cường quyền lợi lao động và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, đồng
thời đảm bảo rằng quy định kinh tế không chỉ tập trung vào lợi ích của
doanh nghiệp mà còn phải cân nhắc đến các yếu tố xã hội và môi trường.

19
CHƯƠNG III. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KHUYẾN KHỊ ĐỂ TỐI ƯU HOÁ
LỢI ÍCH VÀ GIẢM THIỂU RỦI RO TỪ CPTPP

3.1. Khuyến nghị đối với Chính phủ, các bộ, ngành
Thứ nhất, Nhà nước cần quy định rõ quy định năm 2013 Hiến pháp, rà
soát hệ thống pháp luật (như Luật Thuế, Luật Hải quan và Luật Thương
mại) để tiếp tục sửa đổi, bổ sung cho phù hợp cam kết trong CPTPP và tiếp
tục xem xét hoạt động của thị trường (lao động, đất đai, thị trường chứng
khoán và những thứ khác) và yếu tố sản xuất, kinh doanh nhằm đảm bảo
hoạt động đầy đủ, đồng bộ của họ có mối liên hệ chặt chẽ với các quy
phạm pháp luật và đáp ứng các cam kết trong thỏa thuận. Chính phủ cần
thực hiện nỗ lực hơn nữa trong cải cách thể chế, cải thiện đầu tư và kinh
doanh môi trường, tạo cơ hội tốt cho cộng đồng doanh nghiệp. Hơn nữa,
Chính phủ cần cơ cấu lại bộ máy nhà nước từ cấp trung ương đến địa
phương theo hướng nhỏ gọn tổ chức và hoạt động hiệu quả, tinh giản biên
chế, nâng cao chuyên môn của công chức, phát triển đội ngũ công chức
chuyên nghiệp có phẩm chất chính trị và nghề nghiệp tốt đạo đức đáp ứng
yêu cầu của hội nhập quốc tế.

Thứ hai, Nhà nước cần đẩy mạnh thực hiện các cam kết về cải cách và
tái cơ cấu nền kinh tế nền kinh tế với các ưu tiên trên ba cốt lõi lĩnh vực
như đầu tư công, tài chính, doanh nghiệp và tái cơ cấu nông nghiệp. Đây là
yêu cầu ngày càng cấp bách trong bối cảnh hội nhập hiện nay. Nhà nước
cần tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, phối hợp đồng bộ chính sách tài chính
và tiền tệ cũng như chính sách tỷ giá hối đoái. Việt Nam cần đánh giá các
dự án sử dụng vốn nước ngoài một cách cẩn thận bằng và giám sát sự luân
chuyển của của các dòng vốn ngắn hạn và các giao dịch vốn trên thị trường
20
chứng khoán. Ngoài ra, Việt Nam cần từng bước mở cửa thị trường vốn ra
quốc tế nhà đầu tư phù hợp với hội nhập đúng tiến độ, đảm bảo cam kết
quốc tế và sự liên kết với khả năng theo dõi và quản lý vốn đầu tư của nhà
đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, Nhà nước cần thúc đẩy thị trường trái phiếu,
đặc biệt trái phiếu doanh nghiệp hơn nữa.

Thứ ba, Nhà nước cần tăng cường truyền thông và phổ biến các CPTPP
tới doanh nghiệp và người dân mỗi nước ngành, lĩnh vực để họ có thể hiểu
rõ và nhận thức đầy đủ về nội dung cam kết trong thỏa thuận. Cùng với đẩy
mạnh công tác truyền thông và phổ biến, Bộ Công Thương cần hợp tác với
các tỉnh và các thành phố trực thuộc trung ương trên toàn quốc cung cấp
thông tin về các cam kết trong CPTPP theo từng lĩnh vực cụ thể. Dựa trên
đó, con người và cộng đồng của doanh nghiệp sẽ chủ động xác định chiến
lược và mục tiêu kinh doanh và nhanh chóng thích ứng và đáp ứng các yêu
cầu đặt ra trong bối cảnh mới. Ngoài ra, họ sẽ lựa chọn những ngành, sản
phẩm trọng điểm có lợi thế so sánh để thúc đẩy xuất khẩu và tham gia sâu
vào chuỗi cung ứng của các tập đoàn lớn ở khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương.

Thứ tư, Nhà nước cần phát triển giải pháp khắc phục tác động tiêu cực
của thỏa thuận, ưu tiên hơn những ngành công nghiệp mũi nhọn có triển
vọng. Ví dụ, cần phải phát triển công nghiệp hỗ trợ để giảm nhập khẩu
nguyên liệu từ các nước khác cho ngành dệt may và nâng cao chất lượng
đáp ứng các tiêu chuẩn đã cam kết cho ngành nuôi trồng thủy sản. Doanh
nghiệp thuộc sở hữu của nhà nước cần phải có kế hoạch hỗ trợ người lao
động bị mất việc làm về mặt bảo hiểm và đào tạo nghề.

21
3.2. Khuyến nghị đối với các doanh nghiệp
Thứ nhất, doanh nghiệp cần tích cực, chủ động tìm hiểu thông tin, cam
kết, tác động của CPTPP để hiểu rõ và nắm vững quy định trong khuôn khổ
hiệp định. Việc hiểu rõ những quy định điều chỉnh, ưu đãi về thương mại
dịch vụ, về thị trường, đặc biệt là các thông tin về ưu đãi đầu tư giúp doanh
nghiệp có nhiều lợi thế phát triển và cạnh tranh. Điều này giúp doanh
nghiệp có cái nhìn bao quát, có kiến thức cần thiết và sự chuẩn bị kỹ lưỡng
về nhiều mặt để có kế hoạch xây dựng chiến lược phát triển. Đây được xem
là điều kiện tiên quyết để tận dụng và thực thi hiệu quả cơ hội mà CPTPP
đem lại.
Thứ hai, muốn tận dụng các cơ hội về các ưu đãi, lợi thế về thương mại
dịch vụ trong CPTPP, sự đầu tư hợp lý về nguồn lực là rất quan trọng.
Doanh nghiệp cần chuẩn bị thời gian, nhân lực, công nghệ, kỹ thuật, tài
chính cho công tác này để đảm bảo việc thực hiện, áp dụng CPTPP hiệu
quả, tránh được những rủi ro trong quá trình thực thi. Trong bất cứ việc gì,
sự chuẩn bị kỹ lưỡng là nền tảng vững chắc cho những bước đi của doanh
nghiệp.
Thứ ba, bên cạnh tìm hiểu kĩ càng thông tin, chuẩn bị những yếu tố cần
thiết, doanh nghiệp nên chuẩn bị một tâm thế cạnh tranh trong khu vực và
quốc tế. Khi đã trang bị đầy đủ cho mình những nền tảng cần thiết cho sự
phát triển như kiến thức, tài chính, vật chất, con người, doanh nghiệp cần
tập trung cải thiện sản phẩm và chất lượng dịch vụ của mình. Để làm được
việc này, đòi hỏi phải có tư duy sáng tạo, sự nhạy bén với thị trường, kinh
nghiệm thực tiễn của từng doanh nghiệp. Nhờ vậy, doanh nghiệp nắm giữ

22
lợi thế cạnh tranh rất lớn, qua đó nâng cao uy tín thương hiệu và phát triển
hơn nữa trong tương lai.
Thứ tư, doanh nghiệp Việt Nam cần từ bỏ cách kinh doanh cũ và
đổi mới hoạt động của họ để theo kịp xu hướng hiện đại. Sự cải tiến cũng là
sự phát triển tất yếu xu hướng hiện đại lành mạnh và văn minh môi trường
kinh doanh.
Thứ năm, việc hợp tác, liên kết, liên doanh với các đối tác để cùng kinh
doanh tận dụng cơ hội từ CPTPP là kỳ vọng của nhiều doanh nghiệp. Đồng
thời, hợp tác, liên kết với các doanh nghiệp khác trong các vấn đề khác
ngoài kinh doanh nhưng có tác động trực tiếp và hữu ích tới hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp cũng là điều cần chú ý. Doanh nghiệp có thể triển
khai một số hoạt động trực tiếp hoặc gián tiếp để tác động đến triển vọng
kinh doanh trên cơ sở tiết kiệm chi phí và tăng cường sự hợp tác.

23
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh tự do hóa thương mại ngày càng được mở rộng, việc
tham gia ký kết các FTA thế hệ mới ngày càng nhiều đã tạo ra một sân chơi
công bằng, bình đẳng, thuận lợi hơn cho các thành viên trong đó có Việt
Nam phát triển về mọi lĩnh vực.
Việc tham gia vào các FTA thế hệ mới như CPTPP đòi hỏi Việt Nam
phải tạo ra hành lang pháp lý phù hợp và tương thích với việc thực thi
CPTPP. Về cơ bản, pháp luật Việt Nam đã linh hoạt đáp ứng được hầu hết
các tiêu chuẩn đề ra theo các cam kết trong Hiệp định CPTPP. Tuy nhiên,
vấn đề cần phải đặt ra là làm thế nào để các doanh nghiệp nắm vững các
quy định của CPTPP và tận dụng được những cơ hội mà hiệp định mang
lại. Chính vì vậy, cách thức nội luật hóa và thực thi các quy định mới là
điều quan trọng nhất mà nhà nước cần làm trong bối cảnh này.
Dựa vào cơ sở lý luận và thực tiễn đã nêu, có thể thấy rằng CPTPP tác
động nhiều chiều, cả tiêu cực lẫn tích cực, đến nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Việc phân tích, đánh giá các quy định
trong CPTPP đã giúp chúng ta có thêm kiến thức về các lĩnh vực kinh tế -
xã hội để từ đó đặt ra mục tiêu phấn đấu, đồng thời tận dụng cơ hội, vượt
qua thách thức hiện nay.
Với những nghiên cứu và đánh giá trên, người viết hy vọng sẽ cung cấp
những thông tin hữu ích và ý kiến đóng góp hiệu quả về các quy định điều
chỉnh thương mại dịch vụ trong khuôn khổ Hiệp định CPTPP tới Việt Nam.
Từ đó, Việt Nam sẽ có những cải cách phù hợp để hoàn thiện cơ chế,
chính sách, hệ thống pháp luật, tận dụng và thực thi hiệu quả cơ hội mà
CPTPP đem lại trong giai đoạn hiện nay và tương lai.

24
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nguyễn Phú Trọng, “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
Quan niệm và giải pháp phát triển,” Tạp Chí Cộng Sản,
2007. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/208
1/kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia---quan-niem-va-giai-
phap-phat-trien.aspx
[2]. “Tác động của Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình
Dương đối với Việt Nam”, Viện Nghiên Cứu Khoa Học Xã Hội Và
Nhân Văn, Aug. 12, 2020. https://www.vass.gov.vn/nghien-cuu-khoa-
hoc-xa-hoi-va-nhan-van/tac-dong-cua-hiep-dinh-doi-tac-toan-dien-va-
tien-bo-xuyen-thai-binh-duong-doi-voi-viet-nam-94
[3]. “Nội dung hiệp định CPTPP,” Trung Tâm WTO.
https://trungtamwto.vn/fta/177-noi-dung-hiep-dinh/1
[4]. Phạm Thu, “Gia nhập Hiệp định CPTPP mở ra nhiều cơ hội cho kinh tế
Việt Nam,” Tạp Chí Tài Chính, Oct. 28, 2023.
https://tapchitaichinh.vn/gia-nhap-hiep-dinh-cptpp-mo-ra-nhieu-co-hoi-
cho-kinh-te-viet-nam.html
[5]. Phạm Thị Thanh Bình, “Việt Nam với CPTPP: Cơ hội và thách
thức,” Tạp Chí Cộng Sản, May 08,
2019. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-
ninh-oi-ngoai1/-/2018/54880/viet-nam-voi-cptpp--co-hoi-va-thach-
thuc.aspx#
[6]. Nguyễn Tấn Dũng, “Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương, cơ hội
và thách thức-Hành động của chúng ta,” Báo Nhân Dân, Feb. 16, 2016.
[7]. “Nông nghiệp ‘bứt phá’ năm 2019 và thách thức trước CPTPP,” TBT
an Giang, Jan. 08, 2019. http://tbtagi.angiang.gov.vn/nong-nghiep-but-
pha-nam-2019-va-thach-thuc-truoc-cptpp-6804.html
[8]. “CPTPP: Cơ hội và thách thức cho nông sản Việt,” Bộ Công Thương
Việt Nam, Jul. 02,
2019. https://moit.gov.vn/tu-hao-hang-viet-nam/cptpp-co-hoi-va-thach-
thuc-cho-nong-san-viet.html
[9]. “Tổng quan các cam kết về thuế mà các nước CPTPP dành cho Việt
Nam,” Bộ Công Thương Việt Nam, Nov. 28,
2022. https://moit.gov.vn/tin-tuc/thi-truong-nuoc-ngoai/tong-quan-cac-
cam-ket-ve-thue-ma-cac-nuoc-cptpp-danh-cho-viet-nam.html

25
[10]. “Việt Nam sau 02 năm thực thi CPTPP từ góc nhìn doanh
nghiệp,” Trung Tâm WTO,
2021. https://trungtamwto.vn/file/20909/bao-cao.pdf
[11]. Quan Hoang Vương, “Vietnam’s political economy: a discussion on
the 1986-2016 period,” CEB Working Paper, 2014.
[12]. Quan Hoang Vuong, “Vietnam’s Political Economy in Transition
(1986-2016),” CEB Working Paper, Dec. 2020,
doi: 10.31219/osf.io/48kus.
[13]. V. S. Ha and Q. Lê, “The impact of participation in the
comprehensive and progressive trans-pacific partnership agreement on
exports: The case of Vietnam,” Management Science Letters, pp. 1269–
1280, Jan. 2019, doi: 10.5267/j.msl.2019.4.015.
[14]. Ngo Van Vu, “Impacts of Comprehensive and Progressive Agreement
for Trans-Pacific Partnership on Vietnam,”
2019. https://scholar.dlu.edu.vn/thuvienso/bitstream/DLU123456789/1
18236/1/42929-685-135919-1-10-20191012.pdf

26

You might also like