Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 76

PHÂN TÍCH

CÁC NỘI DUNG TRỌNG TÂM


PHẦN THƠ - NGỮ VĂN 12

Mục lục
1. Tác phẩm Tây Tiến
1.1 Cảnh sông nước tây bắc
1.2 Bút pháp hiện thực và “đôi cánh lãng mạn” trong hình tượng người lính của Quang
Dũng
2. Việt Bắc
2.1 Đề bài 1:
2.2 Đề bài 2
2.3 Đề bài 3
2.4 Đề bài 4
2.5 Giá trị tác phẩm Việt Bắc Tố Hữu
-

3. Tác phẩm Đất N ước:


3.1 Đề bài 1:
3.2 Đề bài 2:
3.3 Đề bài 3:
3.4 Bài viết mẫu
4. Tác phẩm Sóng
4.1 Đề bài 1:
4.2 Đề bài 2:
4.3 Đề bài 3:

1
1. Tác phẩm Tây Tiến
1.1 Cảnh sông nước tây bắc

Nếu đêm liên hoan văn nghệ đem đến cho người đọc không khí say mê ngây ngất thì cảnh sông
nước Tây Bắc lại gợi cảm giác mênh mang, huyền ảo:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Tác giả Quang Dũng chỉ gợi ra các hình ảnh đẹp về thiên nhiên Tây Bắc, không đặc tả bất cứ
hình ảnh nào nhưng khung cảnh thiên nhiên vẫn hiện lên đầy thơ mộng, huyền ảo. Hình ảnh
thiên nhiên mang vẻ đẹp man mác buồn của một buổi chiều vắng lặng, giăng mắc sương nhiều
phía trong câu thơ đầu tiên. Hình ảnh sương sớm không phải sự chùng chình như trong sương
sớm của “Sang thu” - Hữu Thỉnh hay sự trong trẻo, thanh khiết trong “Chợ Tết” của Đoàn Văn
Cừ. Nét sương sớm xuất hiện trong buổi chiều Tây Bắc xuất hiện cùng đóa bông lau như có hồn
phảng phất trong gió. “Hồn lau” ủ ấp một linh hồn, một hơi thở miền sơn cước, cũng chan chứa
nét mộng mơ trong bức tranh tứ phía đầy sắc trắng mềm mại. Câu hỏi tu từ ẩn chứa trong câu
thơ như nỗi lòng băn khoăn, nỗi thương hoài niệm người phương xa khi nhớ về chốn cũ. Bến bờ
tĩnh lặng, hoang dại “như một bờ tiền sử” từng xuất hiện trong “Người lái đò sông Đà” của
Nguyễn Tuân. Nay, bến bờ Tây Bắc một lần nữa xuất hiện trong “Tây Tiến” của Quang Dũng
với vẻ đẹp nên thơ, trong sáng. Bông hoa rừng Tây Bắc xuất hiện trong bức tranh thiên nhiên
không đung đưa mà “đong đưa” như làm duyên với cảnh, với người. Hình ảnh bông hoa nhấp
nhô giữa dòng nước, trôi nổi theo những cuộn xoáy của dòng sông. Tất cả hiện lên đầy thơ
mộng, trong trẻo, ngọt ngào. Trên dòng sông ấy, con thuyền xuất hiện với dáng người uyển
chuyển, khéo léo, tự tin trên thuyền độc mộc. Giữa dòng nước lũ, hình ảnh đó tạo nên một vẻ
đẹp lãng mạn cho bức tranh thiên nhiên Tây Bắc - in sâu trong trí nhớ của tác giả về mảnh đất
núi rừng nơi đây. Có thể thấy, giống như nhận định của Xuân Diệu: “Đọc thơ Quang Dũng như

2
ngậm nhạc trong miệng”, ngòi bút tài hoa của Quang Dũng thể hiện thành công ở đoạn này: chất
nhạc, chất họa hòa quyện vào chất thơ.

Khác với khung cảnh núi rừng hoang sơ, hiểm trở trong khổ thơ đầu, bức tranh thiên nhiên Tây
Bắc trong khổ thơ thứ ba hiện lên thật nhẹ nhàng, thơ mộng:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy


Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Đoạn thơ mở đầu bằng cụm từ “người đi Châu Mộc”. Tác giả nhắc tới địa danh Châu Mộc
trên đường hành quân của binh đoàn Tây Tiến, điều này thêm một lần nữa nối dài tấm bản
đồ của nỗi nhớ trong mỗi trái tim người lính trẻ. Đối với chúng ta, đó có thể chỉ là tên một
điểm đến, nhưng đối với họ, đó là một kỉ niệm, một hồi ức, một mảnh của tâm hồn. Khung
cảnh “chiều sương ấy” hiện lên như một hình ảnh khắc họa buổi chia ly cả về không gian
(“sương”) và thời gian (“chiều ấy”). Màn “sương giăng là hình ảnh quen thuộc của núi rừng
Tây Bắc. Sương không chỉ xuất hiện trong thơ Quang Dũng, hình ảnh này từng xuất hiện cả
trong “Chợ Tết” - Đoàn Văn Cừ hay “Sang thu’ - Hữu Thỉnh. Ở đây, tác giả không phải
miêu tả một màn sương mù dày đặc che lấp tầm nhìn của những người lính giống như trong
khổ thơ đầu. Nhà thơ miêu tả một làn sương mỏng manh của buổi chiều núi rừng. Điều này
như khiến buổi chia ly thêm bâng khuâng, lãng mạn, mênh mang vô cùng… Phép điệp cấu
trúc được thể hiện đầy da diết, khắc khoải trong hai câu thơ tiếp theo đã đưa ta bước chân
vào những rung động của người lính: “Có thấy ...Có nhớ...”. Bằng thủ pháp tả cảnh ngụ tình
“hàng lau nẻo bến bờ”, cảm xúc lắng đọng trong câu thơ thêm sâu sắc. Điều này không
khỏi khiến bạn đọc băn khoăn: dường như nỗi buồn của con người đã nhuốm màu cảnh vật,
khiến cho lau kia nhìn cũng xác xơ ủ rũ? Về “dáng người trên độc mộc” xuất hiện trong câu
thơ thứ ba, ta không biết chính xác là ai. Đó có thể là những cô gái Thái đang chèo thuyền
tiễn người lính sang sông; cũng có thể là những chàng trai đang tự mình chèo thuyền qua
sông bắt đầu hành trình mới. Nhưng dù hiểu theo nét nghĩa nào, chiếc thuyền độc mộc giữa
dòng nước miên man vẫn khiến ta cảm thấy họ dường như cô đơn hơn khi phải xa nhau…
Có thể nói, đây không phải một cuộc chia ly đơn phương, mà những bịn rịn luyến lưu đến từ
cả hai phía. Những người lính cũng nghẹn ngào khi nói lời từ biệt, và những người dân cũng

3
như xao xuyến bồi hồi khi rời xa nhau. Câu thơ cuối kết thúc bằng từ láy “đong đưa”. Tác
giả không sử dụng từ “đung đưa’ - một sự chuyển động về cơ học mà sử dụng từ láy “đong
đưa”. Đó như một sự xao động về cảm xúc bên trong, dường như cánh hoa như làm duyên
giữa dòng nước, như cũng nửa muốn đi nửa muốn ở trong giây phút nói lời tạm biệt. Câu
thơ gợi cảm giác tình tứ trong tâm ý của người đi – kẻ ở. Đồng thời, kết thúc khổ thơ, bạn
đọc cảm nhận một cuộc chia tay thật bồng bềnh, lãng mạn. Có thể nói, khổ thơ đã thành
công miêu tả hình ảnh những cô gái Thái, những bông hoa của núi rừng Tây Bắc và sự ấm
áp nghĩa tình của người dân nơi đây. Khổ thơ tuy ngắn nhưng để lại những kỉ niệm sâu sắc
khắc ghi trong tim những người lính trẻ, chẳng thể nào nhạt phai, khơi gợi nơi bạn đọc
nhiều ấn tượng sâu sắc.
ây Tiến là tên một đoàn quân được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ kết hợp với bộ đội Lào
để bảo vệ biên giới Việt – Lào, làm hao mòn lực lực giặc Pháp. Họ xuất thân phần đông là
người Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên đi theo tiếng gọi của tổ quốc. Hình ảnh
người lính trong khổ thơ mang dáng vẻ hào hoa, lãng mạn, tâm hồn thi sĩ:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về viên chăn xây hồn thơ”
Từ “doanh trại” chỉ nơi đóng quân để nghỉ chân trên đường hành quân của đoàn binh Tây
Tiến. Động từ “bừng” xuất hiện làm rực sáng cả bức tranh. Ánh sáng ấy gợi nhắc đến những
ngọn đuốc thắp sáng không gian rực rỡ, xua tan đi cái u tối của cuộc chiến. Đó ko chỉ là
phút bừng sáng của ngoại cảnh, mà còn là ngọn lửa được thắp lên bên trong những người
lính. Người lính tìm thấy niềm vui hiếm hoi trên con đường hành quân vất vả. Chính ánh
sáng rực rỡ từ ngọn đuốc, từ nụ cười của những người dân, từ niềm hạnh phúc trong đêm
hội đã xua tan đi bao nhọc nhằn trước đó. Một đêm“hội đuốc hoa” trong góc nhìn tinh
nghịch của những người lính xuất hiện. Những ngọn đuốc của đêm lửa trại trở thành “đuốc
hoa” – vốn là thứ ánh sáng tượng trưng cho đêm tân hôn, cho kỷ niệm lứa đôi dạt dào, mãnh
liệt. Đây là vừa vẻ đẹp lãng mạn, vừa ngầm bộc lộ khao khát cháy bỏng trong sâu thẳm trái
tim những người lính trẻ: khao khát về một tình yêu mang tên mình. Người lính ngắm nhìn
những cô gái dân tộc. Thán từ “kìa em” đặt ngay đầu câu như một tiếng gọi thốt lên ngỡ
ngàng, bày tỏ sự sững sờ của chàng trai. Có lẽ, anh lính trẻ đang ngây ngất trước vẻ đẹp

4
lộng lẫy hơn hẳn ngày thường của những thiếu nữ miền sơn cước. Sự ngạc nhiên ấy như đi
kèm một câu hỏi “xiêm áo tự bao giờ” ý nói em đã thay trang phục từ khi nào mà anh chẳng
hay. Trong tiếng nhạc Tây Bắc, chân dung “nàng” hiện lên thẹn thùng, e ấp, dịu dàng. Sự nữ
tính đó khiến những cô gái càng thêm thu hút biết bao… Và những chàng lính cũng đã rung
động đến nhường nào. Và dường như, tác giả như đã gieo nhạc vào tâm hồn những người
lính, gọi dây những xúc cảm nồng nàn, thiết tha; tiếp thêm sức mạnh và động lực để họ
vững chắc thêm tay súng. Sự lãng mạn trong tâm hồn không phải vật cản khiến người lính
chùn bước, mà là nguồn cảm hứng để họ mạnh mẽ hơn mỗi ngày.
Viết về người lính Tây Tiến, Quang Dũng không hề che giấu cái bi (bi thương)
nhưng cái bi lại được nâng đỡ bằng đôi cánh lãng mạn để cái bi trở thành “bi tráng”. Hình
ảnh của những nấm mồ “rải rác” nơi biên cương vẫn xứ gợi cảm giác nơi biên cương:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ”
Người lính không tiếc những năm tháng thanh xuân, năm tháng tuổi trẻ, họ ra đi để hiện
thực hóa lý tưởng của dân tộc, nguyện hiến dâng thân mình cho sự nghiệp Cách mạng của
đất nước. Ta từng bắt gặp hình ảnh người lính ấy trong “Đồng chí” - Chính Hữu, cũng từng
“cảm nhận” cái bắt tay nhanh chóng của người đồng đội trong “Bài thơ về tiểu đội xe không
kính” - Phạm Tiến Duật. Nhiều người trong số họ đã ngã xuống! Họ biết rõ từ ngày họ rời
xa quê hương, ít ai có cơ hội “ngoảnh lại” khi đất nước hòa bình:
“Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
(Đất nước - Nguyễn Đình Thi)
Họ ngã xuống. Người lính mãi nằm lại đất mẹ, để lại một “đời xanh” trong tâm tưởng người
đồng đội, trong sự ghi nhận của quê hương, Tổ quốc. Đời xanh là biểu tượng cho tuổi trẻ,
cụm từ đặt sau chữ “chẳng tiếc” (một khẩu ngữ) đã thể hiện tinh thần tự nguyện sẵn sàng
vượt lên cái chết, hiến dâng cả sự sống cho nghĩa lớn của dân tộc.
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Dường như ngay lúc này, chẳng điều gì cản trở người lính Tây Tiến. Anh lính trẻ khi ngã
xuống chỉ có manh chiếu, thậm chí một số người trong số họ không có manh chiếu đắp. Tác
giả chứng kiến khung cảnh bi thương này, ngậm ngùi, xót xa. Ông thay vào đó là tấm “áo
bào” sang trọng và khúc nhạc tiễn đưa là âm thanh trầm hùng của dòng sông Mã.
“Áo bào thay chiếu anh về đất

5
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Một sự thật bi thương dưới ngòi bút của Quang Dũng vẫn chói ngời vẻ đẹp lý tưởng. Người
lính mang dáng dấp chiến sĩ thuở xưa. Âm thanh của dòng sông Mã làm cho sự hy sinh của
người lính không bị bi lụy mà thấm đẫm tinh thần bi tráng. Tác giả đã sử dụng hàng loạt từ
Hán Việt (biên cương, viễn xứ, chiến trường, độc hành,...) với cách nói giảm nói tránh “về
đất” để làm mờ cái bi thương thể hiện tinh thần xả thân của người lính. Khúc độc hành của
dòng sông Mã giống như một lễ tang long trọng với tiếng tiễn đưa của dòng sông; lời chia ly
của núi rừng dành cho người lính trẻ. Thiên nhiên trường tồn, bất tận nhưng cuộc đời con
người hữu hạn. tác giả khẳng định người lính tuy đã hy sinh nhưng họ vẫn sống mãi trong
trái tim người dân và núi rừng Tây Bắc.

6
1.2 Bút pháp hiện thực và “đôi cánh lãng mạn” trong hình tượng người lính của
Quang Dũng

Một nhà văn nước ngoài từng nói “Ở Việt nam có bao nhiêu bông hoa đẹp, là có bấy nhiêu
anh hùng”. Những người lính thực sự là những bông hoa như vậy, những bông hoa kiên
cường mọc lên từ những vùng sỏi đá, cằn khô. Nhựa sống của nó là ý chí và lòng dũng cảm
phi thường. Các anh đã trở thành nguồn cảm hứng để Tố Hữu viết trong thiết tha: “Kính
chào anh con người đẹp nhất”, để Phạm Hổ tin yêu tự hào: “Những dũng sĩ đâm lê núi
thành/Mắt tìm thù sao bay rực rỡ”. Và nhà thơ Quang Dũng bằng tài năng và trái tim thương
nhớ đồng đội cũ cũng đã khắc họa nên những nét chân thực nhất về hình ảnh người lính Tây
Tiến trong cuộc kháng chiến chống Pháp với hình tượng bi tráng hào hùng… Có lẽ, bút
pháp hiện thực và “đôi cánh lãng mạn” trong hình tượng người lính của Quang Dũng đã
được khắc họa rõ nét nhất qua đoạn thơ:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc


Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”

Là một nghệ sĩ đa tài, Quang Dũng đã chạm vào địa hạt thơ ca bằng những nét chữ rất riêng,
rất tinh tế. Không ngạc nhiên khi trong thơ của ông luôn có tính nhạc dịu dàng, trìu mến
cùng những đường nét chấm phá đầy sức sống của hội họa. Với hồn thơ phóng khoáng, hồn
hậu, lãng mạn, tài hoa, những tác phẩm của nhà thơ “xứ Đoài mây trắng” luôn để lại ấn
tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Ai đó đã nói rằng: “thơ Quang Dũng: trước sau, là thơ
tình. Đó là tình yêu cuộc sống, yêu người, yêu đồng bào đồng đội… tất cả những tâm tình
ấy luôn luôn bập bềnh trên những đợt sóng của lịch sử. Nó dạt dào, hay dặt dìu trên những

7
đợt sóng xưa thổi lộng vào thời đại”. Và nói như Nguyễn Đình Thi, đó là thứ thơ khiến
người ta “tìm ra một dòng nước mát lành giữa khốc khô cuộc chiến oanh liệt”. “Tây Tiến” là
bài thơ chảy ra từ nguồn mạch ấy, được tác giả viết vào năm 1948 tại làng Phù Lưu Chanh,
khi nhà thơ đã rời đơn vị cũ. Thoạt đầu, Quang Dũng định đặt tên đứa con tinh thần vô giá
này là “Nhớ Tây Tiến”, sau đó ông bỏ từ “nhớ”, chỉ để lại “Tây Tiến”. Có lẽ, nhờ sự gọt bỏ
này mà “Tây Tiến” không dừng lại ở tên gọi một địa danh thông thường, mà nó là dấu ấn
lịch sử, là hào khí của một thời, có khả năng tự phát nghĩa để sống mãi muôn thời.

Ngay từ trong chiến tranh, các nhà văn của chúng ta đã mong mỏi làm sao để “ôm cho hết
vòng tay của mình hiện thực bề bộn”, để mỗi tác phẩm là những mùa hoa nở rộ vẻ đẹp tinh
thần con người trong kháng chiến trường kỳ. Với ý nghĩa đó, sự hiện diện của các tác phẩm
như “Tây Tiến” đã “bám gót theo từng bước đi của đời sống” qua việc sử dụng bút pháp
hiện thực như ý kiến mà nhà phê bình Nguyễn Đăng Điệp nhận xét.
Nguyễn Đình Thi viết: “Văn nghệ phụng sự kháng chiến, nhưng chính kháng chiến đem đến
cho văn nghệ một sức sống mới. Sắt lửa mặt trận đang đúc lên nền văn nghệ của chúng ta”.
Chính bởi vậy, trong trang thơ của Quang Dũng, ta không chỉ thấy một hiện thực gai góc,
khốc liệt thời kỳ bom đạn mà lấp lánh ẩn sau từng con chữ là vẻ đẹp bình dị, phóng khoáng,
đẫm chất thơ trong ngòi bút người lính Hà thành. Chính nhờ “đôi cánh lãng mạn” mà hiện
thực khắc nghiệt của chiến tranh được che phủ, nâng đỡ và tô đậm sự bay bổng của hình
tượng. Chất thơ Quang Dũng được làm nên từ trái tim hồn hậu, tài hoa, cùng với chiến
chinh thời li loạn: vừa đượm sắc buồn quê hương, vừa phảng phất chất văn hóa Xứ Đoài
vốn vang danh với nhiều nhân kiệt. Và bài thơ “Tây Tiến” đã làm sống dậy cả một trung
đoàn, từ đó địa danh Tây Tiến đã trường tồn trong lịch sử và ký ức mỗi người. Nó như một
viên ngọc sáng trong tâm hồn, tấm lòng và thơ ca Việt… Đúng như nhiều người nhận thấy,
nếu chân dung người lính Tây Tiến chỉ có phần hào hùng mà thiếu đi chất hào hoa thì chắc
chắn sẽ khó lòng được yêu thích đến thế.

Không chỉ khó khăn trên chiến trường, những câu chuyện về bệnh tật và nơi khí hậu khắc
nghiệt mà người lính phải trải qua, cũng được đưa vào trong thơ của Quang Dũng:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”.

8
Nhà thơ miêu tả sự thật về đời sống chiến đấu gian khổ của người lính Tây Tiến vừa thiếu
ăn vừa phải đối mặt với căn bệnh sốt rét rừng. Điều này làm cho diện mạo của các anh trở
nên khác lạ "không mọc tóc”, da “xanh màu lá”. Trước hiện thực tàn khốc, có những người
lính cạo trọc đầu để tiện chiến đấu nhưng cũng có những người vì căn bệnh sốt rét rừng
buộc phải bỏ đi mái tóc đã từng gắn bó với mình suốt bao năm. Trong thơ Nguyễn Đức
Mậu, căn bệnh sốt rét cũng trở đi trở lại. Nó bám riết lấy tuổi thanh xuân của người lính:
“Nơi thuốc súng trộn vào áo lính - Cơn sốt rét rừng đi dọc tuổi thanh xuân”. Nhà thơ như
“vật vã” cùng với những trận sốt rét ác liệt giữa rừng sâu khi “cơn sốt rét ngấm vào tận cùng
cơ thể”:
“Cái phút người anh như lửa nóng
Núi cũng ngồi, cũng đứng khác chi anh
Những câu thơ lẫn vào cơn sốt
Con chữ cháy đen xiêu vẹo dáng hình”
(Nhật kí sau cơn sốt)
Nhưng khó khăn ấy không vùi dập hình tượng người lính mà càng tô đậm sự bất khuất, kiên
cường trong những chiến sĩ áo xanh. Họ hiện lên với tinh thần thép không gì cản nổi. Tác
giả sử dụng cụm từ “Quân xanh màu lá” để chỉ sự ngụy trang của những người lính khi
tránh máy bay thăm dò của địch. Tuy nhiên, đó cũng có thể là sự xanh xao, gầy gò trên biết
bao khuôn mặt vốn thiếu ăn, thiếu ngủ lo cho chiến trận chống quân thù. Mặc dù khó khăn
đến vô cùng thế nhưng họ vẫn giữ sự uy nghiêm, kiên định “dữ oai hùm” với một tinh thần
bất khuất khi chiến đấu với kẻ thù chẳng khác gì một vị chúa tể sơn lâm nơi rừng sâu.

Không chỉ “mắt trừng gửi mộng qua biên giới” tiến về phía trước, chẳng có chút sợ sệt hay
chịu thua, họ còn mang theo những giấc mộng đa tình “Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm”.
Thực tế, sự tương phản giữa “mắt trừng gửi mộng” và “đêm mơ Hà Nội” hàm chứa sự hô
ứng nội tại bên trong và khoảnh khắc riêng tư. Giấc mơ kia vì thế không phải là sự yếu lòng
mà là sự soi tỏ về một miền nghĩa lý nằm sâu trong tâm khảm họ. “Dáng Kiều thơm” là
bóng hình người con gái mà họ yêu ở quê nhà, là hình dáng của người vợ, người thương mà
họ đã dành cả trái tim mình để thương yêu hết mực. Bởi chiến trang đang loạn lạc, thứ tình
cảm riêng tư ấy họ phải gác lại sang một bên để dành chỗ cho lý tưởng cách mạng, cho ánh
sáng rạng ngời mang tên Tổ quốc. Lẽ ra phải coi đó là một vẻ đẹp hiếm, nhất là trong bối

9
cảnh tình hậu phương trong thơ kháng chiến chống Pháp chủ yếu dành cho các thôn nữ
“khúc khích” cuối nương dâu hay sau lũy tre làng. Nhưng chính vì “mộng rớt”, “buồn rớt”
tiểu tư sản ấy mà Quang Dũng trở thành “lạc điệu”. Những người lính Hà thành mặc dù có
lúc nhớ về quê nhà, nhớ về tình cảm riêng tư. Song, họ vẫn luôn đặt cái chung lên trên cái
riêng, đặt lợi ích cộng đồng lên trên hết. Và những tình cảm ấy cũng là động lực để họ tiến
về phía trước.

Hai câu thơ tiếp theo đã vẽ nên một bức tranh đượm buồn và xót xa về sự hy sinh của người
lính:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Họ mất ở chốn đất khách quê người, nơi vốn chẳng phải quê hương mà họ được chôn rau
cắt rốn. Từ láy “rải rác” như tô đậm thêm nỗi buồn của người nằm xuống khi họ phải cô đơn,
lạc lõng ở một miền đất xa, nơi không có mẹ hiền, cha chờ, vợ mong; cũng chẳng có những
người đồng đội kề bên như lúc trước. Bởi bom đạn kẻ thù đã phá tan những mô đất mà họ
nằm xuống thành hố bom, bãi cát đầy đau thương và xót xa. Mặc dù vậy nhưng họ chẳng
“tiếc đời xanh”: Họ chẳng tiếc tuổi trẻ hay thân mình khi hi sinh vì non sông, gấm vóc. Họ
chủ động và tự nguyện “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”, chẳng hề luyến tiếc bất kì một
điều gì; chỉ tiếc khi đất nước chưa hòa bình, độc lập. Đó là một tinh thần cao đẹp của người
lính cụ Hồ. Các từ Hán Việt được sử dụng khiến cho lời thơ mang âm hưởng trang trọng.
Tác giả thiêng liêng hóa sự ra đi của những người lính vô danh, đã âm thầm cống hiến tuổi
xuân cho nước nhà...

Khép lại đoạn trích chính là lời tiễn biệt của thiên nhiên dành cho người lính đã anh dũng
ngã xuống nơi chiến trường:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Tác giả đã kết hợp hình ảnh “áo quần” và “chiến bào” để tạo thành cụm từ đầy trang trọng
và uy nghiêm “áo bào”. Cụm từ ấy như một sự nâng niu, trân trọng và bù đắp những thiệt
thòi và tổn thương khi những người lính áo xanh phải nằm lại ở chiến trường trong khi đến
một tấm chiếu che người cũng chẳng có. Ngoài ra từ “áo bào” còn được tác giả sử dụng

10
nhằm thiêng liêng hoá sự hy sinh - đưa cái chết của những người lính trở nên trang trọng
như sự băng hà của các vua chúa. Vì các anh đã đóng góp cả mạng sống của mình để bảo vệ
non sông, gấm vóc. Bên cạnh đó, cách nói giảm nói tránh được sử dụng tinh tế qua động từ
“về đất” : tạo một cảm giác nhẹ nhàng , bình yên với một niềm tin rằng những người lính sẽ
được vòng tay của đất mẹ hãy nói cách khác là Tổ quốc ta chở che, chào đón khi đã hoàn
thành sứ mệnh thiêng liêng cao cả của mình. Nhà thơ Phan Quế từng nhận xét: “Sông Mã
gầm lên khúc độc hành” - Câu thơ như một tuyệt bút thiên nhiên về sông Mã. Âm vang của
câu thơ là khí tiết của con sống chiến trận, quả cảm và dũng mãnh trong trong độc khúc binh
lửa của mình mà tạo nên chất hiệp sĩ của tứ thơ”. Quả đúng như vậy! “Sông Mã” là một
người bạn vốn đồng hành cùng các anh trong suốt chặng đường hành quân nay cũng như
đau thương, thét gào đến tột cùng khi các anh rời xa chốn chiến trường của tổ quốc để về
yên giấc dưới lòng sâu. Sông Mã như thét gào, oán hận và thay lời trách móc kẻ thù - những
kẻ gieo rắc các tội ác dã man, tàn bạo, vô nhân tính khi xâm lăng non sông đất nước Việt.
Khúc độc hành này cũng chính là khúc nhạc đau thương tiễn đưa người lính về nơi an nghỉ
cuối cùng. Đây không chỉ là khúc nhạc buồn mà còn là khúc nhạc đầy trang trọng và uy
nghiêm của dân tộc ta.

Mỗi tác phẩm xuất sắc là một phát minh về hình thức và khám phá về nội dung. Quả thực,
thi phẩm “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng đã làm được điều ấy. Với bút pháp sử thi kết
hợp cảm hứng lãng mạn, lời thơ “Tây Tiến” vang vọng âm hưởng của những giai điệu du
dương, ngọt ngào, đan xen với những đường nét chấm phá sắc sảo từ “cây cọ ngôn từ”.
Giọng thơ linh hoạt, biến đổi theo dòng cảm xúc của nhân vật trữ tình: khi tha thiết bồi hồi
với nỗi nhớ, khi bùng lên mạnh mẽ. Tất cả sự tinh tế ấy đã tạo nên một ốc đảo riêng biệt cho
Quang Dũng khi viết về hình tượng người lính trong kháng chiến chống Pháp.

Có thể nói, chính những câu thơ của Quang Dũng cũng như một “sợi tơ dài” đã giúp ta hình
dung, kết nối với những tháng ngày gian lao mà vĩ đại của lịch sử dân tộc qua hình ảnh đoàn
binh Tây Tiến ra đi mà “không tiếc cuộc đời mình”. Họ là "Những chàng trai chưa trắng nợ
anh hùng" (Chính Hữu) đã mang cái chí của nam nhi thời loạn, đã xếp bút nghiên ra sa
trường. “Gian nan chốn sa trường vừa là thách thức vừa là cơ hội để chất kiêu hùng Tây

11
Tiến tỏa sáng”, và chính vì thế mà hình ảnh của các anh luôn mang lại nhiều cảm động
giống như trong sáng tác thơ mà Thôi Hữu từng viết:
“ Lòng tôi xao xuyến tình thương xót
Muốn viết bài thơ thấm lệ nhoà
Tặng những anh tôi từng rỏ máu
Đem thân xơ xác giữ sơn hà”.

12
2. Việt Bắc
2.1 Đề bài 1:
Phân tích 8 câu thơ đầu bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu

a. Đặt vấn đề
- Tác giả:
● Vị trí: Tố Hữu là nhà thơ lớn của thi ca Việt Nam hiện đại. Các chặng đường thơ của Tố
Hữu gần như song hành với các giai đoạn đấu tranh cách mạng của đất nước.
● Phong cách: Thơ Tố Hữu đậm chất biên niên sử với nội dung trữ tình - chính trị.
- Tác phẩm “Việt Bắc”
● Trích trong tập thơ cùng tên. Bài thơ được lấy cảm hứng từ quá trình Tố Hữu hoạt động
cách mạng ở chiến khu Việt Bắc cho đến khi đất nước giải phóng, các đồng bào từ miền
ngược trở về miền xuôi. Nhân sự kiện trọng đại ấy của dân tộc, Tố Hữu sáng tác bài thơ
“Việt Bắc”.
● Đại ý:
+ Tái hiện thành công những kỉ niệm của cách mạng và kháng chiến ở Việt Bắc, khẳng định
sự chung thủy với đồng bào Việt Bắc và quê hương đất nước.
+ Vẽ ra được viễn cảnh tương lai tươi sáng cho tổ quốc.
=> “Việt Bắc” được đánh giá là đỉnh cao của thơ Tố Hữu, vừa là bản hùng ca về cách
mạng, vừa là bản tình ca về tình nghĩa con người.
b. Giải quyết vấn đề
* 8 câu đầu tiên: Nỗi niềm người đi, kẻ ở trong cuộc chia tay lưu luyến nhớ thương
1. Nghệ thuật biểu đạt
● Dùng thể thơ lục bát: Tạo ấn tượng gần gũi, mang đậm bản sắc dân tộc.
Sử dụng cách đối đáp nam-nữ ân tình trong ca dao để chỉ mối quan hệ cách mạng -> Tăng
tính cường điệu, xúc cảm, dễ dàng chạm đến trái tim của người đọc, có sức hút, men say
thấm sâu vào lòng người.
Sử dụng cách đối đáp nam-nữ ân tình trong ca dao để chỉ mối quan hệ cách mạng -> Tăng
tính cường điệu, xúc cảm, dễ dàng chạm đến trái tim của người đọc, có sức hút, men say
thấm sâu vào lòng người.
*Lời của người ở lại (Việt Bắc):

13
● Câu hỏi tu từ đồng cấu trúc được lặp lại hai lần: “Mình về mình có nhớ ta?”, “Mình về
mình có nhớ không?”
+ Dấu hiệu nghệ thuật quen thuộc được biểu đạt trong ca dao dân gian, cách xưng hô bình dị,
thấm đẫm nghĩa tình, vượt xa thứ tình cảm tầm thường, giản đơn. Hỏi chỉ là cái cớ để bộc lộ
tình cảm
+ Hai câu hỏi thể hiện sâu sắc khung cảnh chia tay bịn rịn nhớ nhung của lứa đôi, chất liệu
dân gian vận dụng tinh tế vào dòng thơ hiện đại
=> Hai câu hỏi đã khái quát tình cảm gắn bó ruột thịt, da diết nghĩa tình cách mạng, thể
hiện sâu sắc nỗi nhớ của người ở lại với người về xuôi.
● Lối xưng hô “mình - ta” mang âm hưởng của tình yêu lứa đôi:
+ Cụm từ được lặp xuyên suốt bài thơ, được xây dựng dựa trên tiết tấu biến hóa: mình về -
mình đi- mình về.
+ Thống nhất cảm hứng và tư tưởng tình cảm cho toàn bộ bài thơ. Kết tinh sâu lắng của yếu
tố trữ tình trong phong cách thơ Tố Hữu.
+ Khoảng cách “mình” - “ta” nằm cân xứng ở đầu và cuối, nhưng Tố Hữu đã dùng tính từ
“nhớ” với dụng ý xích gần lại hai đại từ ấy
=> Từ sự kết hợp sâu sắc của hai chủ thể “mình” - “ta”, người đọc càng có cơ sở để cảm
nhận rõ nét hơn về sự hài hòa của các yếu tố nghệ thuật tác động xung quanh, nhìn nhận
toàn diện và sâu sắc tình cảm của người ra đi với người ở lại.
a, Nỗi niềm người ở lại:
“- Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.”
● Cụm từ “mười lăm năm ấy” gợi nhắc đến khoảng thời gian khi “Kháng nhật Thuở còn
Việt Minh” và sau đó là cuộc kháng chiến chống Pháp. Xuyên suốt một cột mốc lịch sử
nổ lửa và đau thương, nhưng những thứ quý giá đọng lại vẫn là những tình cảm “thiết
tha mặn nồng”. “Mười lăm năm” còn khẳng định sâu sắc khoảng thời gian gắn bó, mặn
nồng giữa cán bộ và đồng bào Tây Bắc.

14
● Điệp ngữ câu hỏi tu từ “Mình về mình có nhớ” biểu hiện tâm trạng bồn chồn, khắc khoải
khi đi với những vế câu “có nhớ ta”, “có nhớ không” -> Khơi dậy bao nhiêu kỉ niệm
chảy trôi trong quá trình đấu tranh và gắn bó cùng nhau.
● Không chỉ hướng về thời gian mà nỗi nhớ còn bao trùm cả không gian. Hoàn cảnh chia
tay được khắc họa rõ nét qua các từ ngữ được chia tách, đan xen vào nhau: “Nhìn cây
nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”, đó là những sự vật có mối quan hệ khăng khít, gắn bó
chặt chẽ với nhau. Điều đó càng tạo ấn tượng sâu sắc để gợi đến tình cảm son sắt, khăng
khít giữa cán bộ và đồng bào miền ngược. Ý thơ vừa có yếu tố tả thực, vừa có yếu tố trữ
tình, đem đến nhiều suy ngẫm về tình nghĩa, đạo lý, nét đẹp trong đời sống dân tộc: uống
nước nhớ nguồn. Đây cũng là lẽ sống cao cả, một tình cảm đã nhiều lần xuất hiện trong
thơ của Tố Hữu:
“ Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay
Ra sông nhớ suối, có ngày nhớ đêm”.
● Trong đoạn thơ có sử dụng nhiều từ “có thấy” , “có nhớ”
- Một hành động tác động vào thị giác, một hành động tác động vào tâm tưởng.
- Một hành động hướng về hiện tại, một hành động chiêm nghiệm đến quá khứ .
● Thể hiện sâu sắc lời nhắn nhủ chân thành. Khuyên nhủ người ra đi đừng quên
nhìn lại những kỉ niệm đẹp đẽ.
* Lời người ra đi (Cán bộ):
“ - Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
● Nỗi nhớ của những người ở lại đã được người ra đi thấu hiểu, đồng cảm. Đại từ “ai”
chính là người ở lại, nhưng sắc thái phiếm chỉ đã khiến cho mạch cảm xúc trở nên hư ảo,
vọng lên từ sâu thẳm bên trong núi rừng đại ngàn. Nhưng bằng tình cảm da diết, hai
người đã kết nối và cảm thấu được với nhau. Người ở lại “thiết tha”, người ra đi “tha
thiết”.
● Những âm thanh ấy cứ quấn quít, vương vấn theo từng bước chân người ra đi. Các cặp
từ láy “bâng khuâng”, “bồn chồn” được vận dụng một cách khéo léo, giàu giá trị biểu
cảm gợi tả sự vương vấn, lưu luyến trong buổi chia tay. Nhịp thơ 4/3 chia cách câu thơ

15
thành hai vế đăng đối lẫn nhau cũng thể hiện được sự đăng đối trong cảm xúc. Từ láy
“bồn chồn” không đơn thuần diễn tả thái độ bên trong mà còn bộc lộ ra bên ngoài ở hành
động, bước chân, ánh mắt, khiến buổi chia tay càng trở nên da diết, khắc khoải.
● Hình ảnh hoán dụ “áo chàm” cụ thể đến nao lòng. Đó là hình ảnh những người lao động
bình dị, chất phát, khốn khó nhưng giàu nghĩa tình, thấp bé, đông đảo nhưng ý chí lớn
lao. Chính chiếc “áo chàm” ấy đã góp một phần rất lớn vào sự thành công của cuộc
kháng chiến dân tộc. Chiếc áo ấy cũng xuất hiện trong “buổi phân li” nao lòng, càng
khiến cho người ra đi phải xao xuyến, khắc khoải.
● Họ “cầm tay nhau”, họ kết nối cùng nhau, họ nối liền hai tâm hồn với nhau, nhưng lại
“không nói gì”. Cái hay của Tố Hữu được thể hiện ở cái sự tĩnh lặng ở bên ngoài nhưng
lại vang dội ở bên trong ấy. Thực chất “không nói gì ấy” chính là quá nhiều điều để nói,
chỉ là chẳng ai biết phải bày tỏ điều gì đầu tiên. Dấu ba chấm ở cuối dòng lại trở thành
khoảng lặng giá trị nhất, thay thế cho toàn bộ những lời hay ý đẹp, thể hiện rõ nét cảm
xúc nhớ nhung vừa khó nói nhưng lại dễ hình dung .
● Nhịp thơ 3/3/4 chập chững, bồn chồn, thay thế cho nhịp chẵn thông thường => Biểu thị
xúc cảm ứa trào, ngập ngừng của giọng điệu thơ cũng chính là ngập ngừng của tình cảm.
=> Bốn câu thơ vừa là sự đồng lòng, vừa là nỗi nhớ nhung của người ra đi với người ở lại,
vừa tái hiện khung cảnh chia ly bịn rịn, da diết trong ngày chiến thắng. Đó là thứ tình cảm
đẹp, quý giá trong tình yêu con người với quê hương, đất nước dù đó chỉ là mảnh đất xa lạ:
“ Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”
(Tiếng hát con tàu - Chế Lan Viên).
III. ĐÁNH GIÁ NGHỆ THUẬT
● Đoạn thơ vận dụng sâu sắc yếu tố văn học dân gian vào tác phẩm trữ tình hiện
đại. Khiến cho mạch cảm xúc trở nên thân thuộc, khắc khoải, dễ chạm đến trái
tim người đọc.
● Hình thức đối đáp chỉ là cái cớ để bộc lộ cái vang dội thẳm sâu trong nội tâm, sự
phân thân trong cảnh chia tay của chủ thể trữ tình.
● Giọng điệu vận dụng sâu lắng, khoan thai, ngọt ngào kết hợp với hình thức thơ
lục bát, hình ảnh thơ bình dị, ngôn ngữ thơ cô đọng, đa nghĩa.

16
2.2 Đề bài 2
Đọc đoạn trích sau:

- Mình về mình có nhớ ta?


Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...

(“Việt Bắc” – Tố Hữu)


Phân tích đoạn thơ trên, từ đó nhận xét ngòi bút trữ tình chính trị của nhà thơ.

Trong bài thơ “Tạm biệt”, Tố Hữu viết:


“Xin tạm biệt đời yêu quý nhất
Còn mấy vần thơ một nắm tro
Thơ gửi bạn đường tro gửi đất
Sống là cho, chết cũng là cho.”
Phải chăng, đó là tâm nguyện của những nhà thơ, nhà văn, người trọn đời đã hiến dâng tài
năng cho Tổ quốc, cho Đảng và nhân dân? Văn chương, thơ ca chính là sự kết tinh vẻ đẹp
của thời đại. Âm vang của lịch sử dường như đọng lại đẹp nhất, rực rỡ nhất qua những trang
văn, trang thơ. Chiến tranh đã qua đi, bụi thời gian phủ dày lên chiến trường, lên bia mộ
những anh hùng. Nhưng văn học nghệ thuật bằng sứ mệnh thiêng liêng của mình đã tái hiện
và khắc sâu những hình ảnh oanh liệt thời khói lửa ấy. Mỗi thời kỳ lịch sử, mỗi sự kiện cách
mạng qua đu lại để lại vô số hoài niệm, lưu luyến cho các tác phẩm văn chương. Và khi
nhắc đến nhà thơ của thời đại, của cách mạng ta phải nhắc đến tên tuổi của Tố Hữu. Hầu hết
các tác phẩm của ông luôn song hành cùng cách mạng. Một trong những tác phẩm tiêu biểu
nhất của ông là bài thơ “Việt Bắc”. Bài thơ đã tái hiện chân thực kỷ niệm cách mạng và nỗi

17
nhớ da diết của kẻ ở người đi qua những lượt lời hỏi đáp giữa cán bộ về xuôi và nhân dân
Việt Bắc. Nỗi nhớ ấy đặc biệt được thể hiện qua đoạn thơ như một lời nhắc nhở ở đầu tác
phẩm, qua đó ta thấy được ngòi bút trữ tình chính trị sâu sắc của nhà thơ:
“- Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
……
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…?”

Thơ Tố Hữu là dòng thơ trữ tình chính trị. Cái tôi trữ tình trong thơ ông ngay từ đầu đã là
cái tôi chiến sĩ (Từ ấy), càng về sau càng xác định là cái tôi nhân danh đảng, nhân danh dân
tộc (Ta đi tới). Việt Bắc là quê hương cách mạng, là căn cứ vững chắc của bộ đội ta trong
kháng chiến chống Pháp. Tại nơi đây,người dân Việt Bắc đã che chở. đùm bọc cho Đảng, kề
vai sát cánh cùng bộ đội ta. Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (1954), hiệp định
Giơnevơ được ký kết, một trang sử mới của đất nước được mở ra. Tháng 10/1954, các cơ
quan của trung ương Đảng và chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Cuộc sống
thay đổi có tính bước ngoặt: từ chiến tranh sang hòa bình, từ núi rừng về thành thị. Biết bao
băn khoăn, trăn trở về tấm lòng son sắt, thủy chung nơi những người từng được đùm bọc,
che chở, bao lưu luyến với những tấm lòng “đồng cam cộng khổ”, “chia ngọt sẻ bùi”, những
bâng khuâng thương nhớ của kẻ ở người đi đã tuôn trào ra.

Khổ thơ đầu tiên của Việt Bắc là một bằng chứng trong thơ ca có họa (thi trung hữu họa).
Bốn câu thơ trong khổ thơ chính là lời nhắn nhủ của người ở lại, khơi gợi những kỉ niệm
nghĩa tình. Trong đó, ở hai câu thơ đầu tiên ta bắt gặp những nỗi nhớ về thời gian:
“- Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”
Dấu “-” ở đầu đoạn trích như đánh dấu lượt lời mới, mở đầu cho cuộc đối thoại của kẻ ở
người đi. Nó khiến lời thơ như có chất văn xuôi, như một câu chuyện kể tuần tự từng lượt
thoại của các nhân vật. Trước khoảnh khắc chia tay đầu lưu luyến ấy, đồng bào đã không
thể kiềm nổi mà kết thành một câu hỏi. Đó là một câu hỏi tu từ, một câu hỏi như sự trăn trở
không biết rằng cán bộ khi về tới thủ đô rồi liệu có nhớ đến họ hay không. Câu hỏi này vốn

18
dĩ đã không cần câu trả lời. Nó như một cách để nhân dân Việt Bắc bày tỏ nỗi nhớ nhưng,
quyến luyến một đoạn tình cảm sắp rời xa. Tác giả tiếp tục đề cập đến nỗi nhớ qua cụm từ
chỉ thời gian “Mười lăm năm ấy”, vừa là một danh từ chỉ thời gian vừa là một cụm danh từ
để ấp êm những hoài niệm. Mười lăm năm là một con số cụ thể, ấy vậy mà Tố Hữu lại dùng
nó với từ ngữ mang tính phiếm chỉ “ấy”. Đó là khoảng thời gian gắn bó với biết bao ân tình
của nhân dân Việt Bắc và cán bộ cách mạng (từ 19401954). Từ “ấy” như mở ra một miền
cảm xúc dạt dào khiến con người trở nên mơ hồ và xúc động trước sự chảy trôi vô tình của
thời gian, khiến cho khoảng thời gian vốn đã gắn bó nay càng trở nên lãng mạn. Và dường
như con số “mười lăm năm” không khó để chúng ta có thể bắt gặp trong văn chương:
“Những là rày ước mai ao
Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình”
Con số ấy đã từng được nhắc đến trong “Truyện Kiều”. Cũng là mười lăm năm, cũng biết
bao tình nghĩa, các tác giả đều muốn nhắn nhủ rằng: Càng gắn bó lâu, con người ta càng day
dứt khi phải nói lời tạm biệt.

Ở hai câu tiếp theo, nhân dân dường như muốn nhắc đến cảm xúc gắn bó và nỗi nhớ trong
không gian thiên nhiên Việt Bắc:
“Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”
Tác giả sử dụng điệp từ “nhìn”, “nhớ” thể hiện nỗi nhớ bao trùm cả không gian luôn tha
thiết, thường trực trong lòng người ở lại. Vẫn là câu hỏi tu từ nhắc nhở người đi về tình cảm
của người ở lại. Liệu về với Hà Nội của đèn đường, của phố thị, những cảnh sắc thiên nhiên
của Việt Bắc nơi đây liệu có khiến người quên đi không? Với những hình ảnh được liệt kê
“cây”, “núi”, “sông”, “nguồn”,.. Tố Hữu như lồng vào đó ý tứ của câu tục ngữ “Uống nước
nhớ nguồn” bên cạnh việc khắc họa hình ảnh núi rừng thân thương nơi Việt Bắc.

Qua bốn câu thơ đầu tiên, người đọc thấy được cách sử dụng linh hoạt, nhuần nhuyễn lối
xưng hô mình ta của tác giả. Trong ca dao Việt Nam, “mình ta” như khúc hát ví dặm của
người ở người về, tuy hai mà một, tuy một mà hai. Ta có thể bắt gặp lối xưng hô này trong
rất nhiều ca dao Việt Nam:
“Mình nhớ ta như cà nhớ muối

19
Ta nhớ mình như cuội nhớ trăng”
Hay:
“Mình về ta chẳng cho về
Ta níu vạt áo ta đề câu thơ”
Sáng tạo của Tố Hữu đã diễn tả tình cảm cách mạng cho mối quan hệ trở nên gần gũi thân
thiết. Cũng bởi quá thân thiết nên những người ở lại nơi núi rừng ai cũng bồi hồi, lo lắng
mình sẽ bị lãng quên giữa muôn vàn niềm vui nơi thủ đô hoa lệ kia. Đó có lẽ cũng là câu trả
lời cho câu hỏi vì sao “Việt Bác” bắt đầu bằng lời của người ở lại chứ không phải của người
ra đi? Phải chăng là người ra đi sẽ ít day dứt hơn khi bước về phía trước với bao điều mới
mẻ đang chờ đón, còn người ở lại sẽ khắc khoải nơi chốn cũ, sẽ mãi ôm bóng hình của
những khung cảnh cũ, đau đớn khôn nguôi. Hay người ở mở lời trước vì họ sợ bị lãng quên,
khi thời gian qua đi, người vì niềm vui chốn xa kia mà bỏ lại ta ở ngày xưa cũ. Ta từng bắt
gặp sự lãng quên ấy trong thơ của Nguyễn Duy:
“Từ hồi về thành phố
Quen ánh điện cửa gương
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường”
Khi con người trở về với phố thị, ánh trăng thủy chung, cái ánh trăng “hồn nhiên như cây
cỏ” cũng hóa “người dưng qua đường”. Nỗi lo lắng của người ở không phải không có căn
cứ; thậm chí nó còn là một biểu hiện tâm lí thường gặp: nỗi lo âu bị quên lãng khi li biệt.

Tố Hữu từng nói: “Thơ chỉ bật ra khi trong tim anh mọi thứ đã thật ứ đầy”. Tác giả là người
mang tâm trạng của người ra đi, chính từ những niềm thương, những lưu luyến với đồng bào
Việt Bắc đã trào ra trong tim mà thi nhân đã viết nên những lời đáp của cán bộ về xuôi ở
khổ thơ thứ hai:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi”
“Đi” chính là người ở lại. Với đại từ phiếm chỉ “ai”, tác giả như xóa mờ đôi chút bóng hình
người ở lại. Dụng ý nghệ thuật ấy đã tô đậm thêm nỗi nhớ nhung, luyến tiếc trong lòng
người cán bộ về xuôi. Ta còn bắt gặp được điểm sáng nghệ thuật qua từ láy “tha thiết”. Ông
đảo lại từ

20
“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
Họ cầm tay nhau trong không khí bịn rịn, nghẹn ngào mà “không nói nên lời”. “Biết nói gì
hôm nay” không phải là không có gì để nói mà là có quá nhiều điều nhưng lại như nghẹn lại,
như bất hữu trước tình cảm trào dâng mãnh liệt. Dấu ba chấm cuối khổ thơ xuất hiện như
một nốt nhạc ngân dài sự lưu luyến, tình cảm cứ nối tiếp tình cảm…
“Các anh đi ngày ấy đã lâu rồi
Xóm làng tôi còn nhớ mãi
Các anh đi bao giờ trở lại
Xóm làng tôi trai gái vẫn chờ mong”
(Bao giờ trở lại - Hoàng Trung Thông)

Trong những bài thơ về kháng chiến, chúng ta bắt gặp không ít những dòng thơ thấm đẫm
tình quân dân. Tố Hữu một chiến sĩ cách mạng luôn lồng ghép vào thơ ông không khí cách
mạng và những sự kiện lịch sử. Song chúng không khô khan mà lại vô cùng tha thiết, dịu
dàng. Tố Hữu với ngòi bút trữ tình chính trị đã biến sự kiện lịch sử năm 1954 ấy thành một
thời khắc sâu sắc và quyến luyến giữa quân và dân. Thơ ca chính là nơi nuôi dưỡng tình
cảm, giáo dục luân lí và truyền tụng đạo đức. “Việt bắc” bằng ngòi bút trữ tình chính trị của
nhà văn đã thành công mang đến cho người đọc kiến thức lịch sử, chính trị thời cuộc mà
thắm tình, đẫm lệ vô cùng.

Bài thơ “Việt Bắc” để lại ấn tượng bởi bức tranh thiên nhiên con người Việt Bắc. Bằng cách
sử dụng thể thơ lục bát mang âm hưởng sâu lắng, giọng điệu thủ thỉ tâm tình cùng các biện
pháp tu từ hoán dụ, điệp ngữ,... Tố Hữu đã mang đến cho người đọc sự khâm phục tinh thần
bất khuất, đoàn kết giữa một thời khói lửa hào hùng đã qua. Quả thật không sai “Thái độ
toàn tâm toàn ý với Cách mạng là nguyên nhân chính làm nên thành công của nhà thơ Tố
Hữu”.

21
Chế Lan Viên từng nhận xét thơ Tố Hữu: “Thơ anh mà ru người trong nhạc, vừa thức người
bằng ý”. Những trang thơ “Việt Bắc” không chỉ thu hút chúng ta bởi sắc điệu trữ tình mà
còn chín bằng tình cảm con người trong chiến tranh bom đạn. Tố Hữu vừa làm cách mạng,
vừa làm thư. Làm thơ để phục vụ cách mạng, làm cách mạng để làm giàu nguồn cảm hứng
cho thơ. Trong thời kì kháng chiến chống Pháp, Tố Hữu đã tạo nên một thế giới trong kiệt
tác của mình. Những vần thơ ấy biết bao gian khổ, nhưng rất đời, rất tình ở Việt Bắc. Mà
nói như Hoài Thanh “văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có và luyện những
tình cảm ta sẵn có”

2.3 Đề bài 3
Nêu cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau:

“Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về”

(Việt Bắc – Tố Hữu)

Từ đó, liên hệ với đoạn thơ trong “Tây Tiến" (Quang Dũng):

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Bài làm:

Chế Lan Viên từng viết :

22
“ Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ

Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương

Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn !”

Từ xưa đến nay, “nỗi nhớ” luôn là nguồn cảm hứng mãnh liệt của biết bao thi nhân. “Nỗi
nhớ” chính là tác nhân thúc đẩy những cảm xúc, những rung động mạnh mẽ từ sâu bên
trong trái tim. Đúng như Tố Hữu từng nói : ” Thơ chỉ trào là khi trong tim mọi thứ đã ứ
đầy”. Chính nỗi nhớ làm đầy ắp , thậm chí tràn ngập những tình cảm bên trong những
người nghệ sĩ để họ tạo nên những công trình vĩ đại. Và có lẽ vì thế mà Tố Hữu đã gửi
gắm hết những tâm tư, tình cảm và nỗi nhớ của mình đối với chiến khu Việt Bắc qua bài
thơ “ Việt Bắc “. Đặc biệt, nỗi nhớ đong đầy, mãnh liệt nhất được thể hiện qua khổ thơ
sau :

“ Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa, người thương đi về .”

Tố Hữu được coi là “ cánh chim đầu đàn “ của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Ông
dùng ngòi bút của mình như thứ vũ khí để chiến đấu và “bay theo đường dân tộc đang
bay” ( Chế Lan Viên ). Là một nhà thơ luôn hướng đến “ lẽ sống lớn, tình cảm lớn”, cống
hiến hết mình vì sự nghiệp của dân tộc. Thơ của Tố Hữu chủ yếu khai thác các vấn đề
chính trị nhưng không chỉ là các sự kiện lịch sử khô khan mà còn là “ tiếng lòng của
người cầm bút”. Vì thế, Xuân Diệu mới cho rằng “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên rất đỗi
trữ tình”. Và “Việt Bắc” là một tác phẩm như thế. Bài thơ được sáng tác năm 1954, khi
các cơ quan, cán bộ rời khỏi thủ đô gió ngàn để trở về thủ đô ánh sáng – Hà Nội. Thi
nhân viết tác phẩm để lưu giữ lại khoảnh khắc đáng nhớ. Đồng thời bày tỏ tình cảm, nỗi
nhớ với chiến khu thân thương đã gắn bó bấy lâu. “Việt Bắc” còn là một thước phim

23
quay chậm mang ta trở về với quá khứ nghĩa tình, chạm vào một mảng kí ức, một góc
nhỏ trong tim của cán bộ về xuôi cũng như nhân dân Việt Bắc.

Khổ thơ trên như một bức tâm thư của thi nhân về nỗi nhớ dành cho thiên nhiên nơi thủ
đô gió ngàn lắm vất vả nhưng chan chứa tình nghĩa. “Nỗi nhớ người yêu” là nỗi nhớ vô
cùng khắc khoải, thường trực trong trái tim mỗi người đang yêu. Có lẽ vì thế mà Xuân
Quỳnh cũng từng tâm sự rằng :

“ Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức “

Đó là một nỗi nhớ khiến con người ta thao thức, đắm say. Nhà thơ Tố Hữu đã rất khéo
léo khi so sánh nỗi nhớ của mình với nỗi nhớ người yêu để làm bật lên những xúc cảm
mạnh mẽ. Qua đó, ông cho người đọc thấy được tình cảm sâu đậm mà ông dành cho
mảnh đất đau thương nhưng anh dũng vô ngần này. Nỗi nhớ không chỉ trở nên sâu đậm
mà còn thiêng liêng, cao cả. Những người dân Việt Bắc luôn luôn giúp đỡ, sẵn sàng chia
sẻ miếng cơm, manh áo cho bộ đội. Có thể nói, câu thơ “Trăng lên đầu núi, nắng chiều
lưng nương” tác giả đã sử dụng phép tiểu đối giữa khung cảnh cao vút của bầu trời và ánh
nắng vàng dưới nương ngô. Điều đó làm bật lên nỗi nhớ da diết, kéo dài cả ngày lẫn đêm.
Ánh trăng là biểu hiện của ánh sáng nghĩa tình, gắn bó, mang đến cho người đọc cảm
giác bồi hồi, nhớ thương. Ta cảm giác được hòa mình vào cảnh sắc nơi đây để tận hưởng,
cảm nhận về miền kí ức đã xa. “Nắng chiều lưng nương” là màu vàng óng ả của những
ruộng lúa, bã ngô. Thể hiện một vụ mùa bội thu, một năm sản xuất thành công. Mặt khác,
những hình ảnh “trăng” và “nắng” ấy cũng gợi lên một không khí bình yên, êm ả, ấm áp
khiến ta có thể sống chậm lại để trân trọng từng khoảnh khắc của hiện tại. Tất cả hòa
quyện tạo nên một nỗi nhớ lớn lao, sâu sắc vượt lên cả không gian, thời gian thậm chí
vượt qua cả quy luật của tạo hóa.

24
Nỗi nhớ khắc khoải ấy không chỉ tồn tại cùng với ánh “trăng” và “nắng chiều” mà còn
gắn với “những bản khói cùng sương”. Điều đó tạo nên một không gian bình dị, thơ
mộng khiến ta đắm say. Nhà thơ da diết nhớ về từng chi tiết, từng sự vật, con người nơi
đây. Mọi thứ đều như khắc sâu trong tâm thức của thi nhân để rồi trào ra qua những vần
thơ đầy lưu luyến, bịn rịn. Câu thơ còn tạo nên một bức tranh đồng quê chân thực, mộc
mạc. Tác giả như dẫn người đọc đi tham quan vùng đất mà ông đã gửi gắm biết bao niềm
thương, nỗi nhớ. “Việt Bắc” trong Tố Hữu còn hiện lên qua hình ảnh bếp lửa. “Bếp lửa”
là biểu tượng cho những gia đình Việt Nam, những gì thân thuộc, gần gũi nhất. Nó là thứ
đã sưởi ấm con người trong những đêm đông giá rét nơi thiên nhiên hùng vĩ nhưng có
phần khắc nghiệt. Ta cũng từng bắt gặp hình ảnh này trong lời thơ da diết của Bằng Việt.
Bếp lửa là nơi ấm cúng, chứa chan tình cảm gia đình, là tình yêu thương thắm thiết giữa
người với người. Những lúc các cán bộ và người dân Việt Bắc cùng quây quần bên bếp
lửa và những cuộc trò chuyện thân mật có lẽ đó là kí ức tươi đẹp mà ai dù đã rời xa chốn
cũ cũng sẽ không bao giờ quên. Nỗi nhớ luôn thường trực từ sáng sớm đến tận khuya,
hiện hữu trong bóng dáng người thương nồng đậm, ân tình.

Cùng viết về nỗi nhớ nơi chiến trường xưa cũ, Quang Dũng cũng có đoạn thơ sau :

“ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Đều là những nỗi nhớ khắc khoải về thiên nhiên Tây Bắc. Một thiên nhiên hùng vĩ, tráng
lệ nhưng cũng nguy hiểm vô lường. Giống với Tố Hữu, Quang Dũng cũng khắc ghi từng
khung cảnh, địa điểm mà nhà thơ đã từng đi qua. Là nỗi nhớ luôn trực chờ, tha thiết. Từ
“ơi” thể hiện tiếng gọi đầy xúc cảm và tràn trề như “nỗi nhớ người yêu” trong Việt Bắc.
Chỉ với một từ ngữ, nhà thơ đã bộc lộ hết cả tấm lòng của mình dành cho thiên nhiên nơi
đây. Một nỗi nhớ “chơi vơi” , vô định. Có lẽ vì nỗi nhớ quá lớn đến nỗi không thể diễn tả
bằng lời. Nhà thơ Quang Dũng cũng đã tái hiện cho bạn đọc về cảnh sắc đẹp đẽ trên con
đường hành quân “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”. Cuộc hành quân không chỉ có

25
những khó khăn gian khổ mà còn có những giây phút bình yên ngắm nhìn trong cảnh
xung quanh.

Bằng tài năng và tình cảm sâu sắc dành cho vùng đèo cao Tây Bắc, Tố Hữu đã vẽ lên bức
tranh thiên nhiên Tây Bắc mộc mạc, giản dị, gần gũi. Giọng thơ ngọt ngào, tha thiết, tâm
tình mang đến cảm giác thân thuộc, gắn bó và khơi gợi nguồn cảm xúc nơi độc giả. Thi
phẩm là khúc tình ca về nỗi nhớ mà nhà thơ gửi gắm đến chiến khu Việt Bắc và người
dân nơi đây. Đồng thời, thi nhân muốn bày tỏ tấm lòng, sự hiến dâng cho Tổ quốc cách
mạng.

Khép lại tác phẩm nhưng những dư âm về nỗi nhớ vẫn còn mãi trong lòng bạn đọc. Từ đó,
tác phẩm nhắc nhở thế hệ mai sau phải luôn biết khắc ghi, nhớ ơn những công lao to lớn
của ông cha ta. “Việt Bắc” sẽ luôn sống mãi với thời gian và ghi dấu ấn đậm nét với mỗi
thế hệ bạn đọc. Đặc biệt, tác phẩm một lần nữa khẳng định tấm lòng kiên trung với Đảng
và sẵn sàng hi sinh vì độc lập, tự do của dân tộc. Đúng như nhà thơ từng nhận định :

“Trái tim anh chia ba phần tươi đỏ

Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều

Phần cho thơ và phần để em yêu.”

2.4 Đề bài 4
Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ “Việt Bắc” - Tố Hữu
Tố Hữu là một nhà thơ tiêu biểu cho nền văn Việt Nam hiện đại. Ông là một nhà thơ với
tư tưởng cộng sản, một nhà thơ lớn, thơ ông gắn liền với cách mạng. Tố Hữu còn gắn bó với
dân sâu sắc. Vì vậy mà trong các tác phẩm của ông luôn gần gũi với nhân dân. Ông để lại
một sự nghiệp văn chương phong phú, giàu giá trị với phong các trữ tình - chính trị sâu sắc
đậm đà bản sắc dân tộc. Tiêu biểu là bài Việt Bắc. Có thể nói, kết tinh của tác phẩm được
lắng đọng trong mười câu thơ diễn tả nỗi nhớ của người về xuôi với cảnh thiên nhiên và con
người Việt Bắc hòa quyện thành bức tranh tứ bình.
"Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

26
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung"
Việt Bắc được Tố Hữu sáng tác vào tháng 10 năm 1954 ngay sau khi cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp thắng lợi, các cơ quan trung ương Đảng và chính quyền từ Việt Bắc về
lại thủ đô Hà Nội. Tố Hữu cũng là một trong những cán bộ sống gắn bó với Việt Bắc nhiều
năm, nay từ biệt chiến khu để về xuôi. Bài thơ như được viết trong buổi chia tay lưu luyến
ấy. Và có lẽ đẹp nhất trong nỗi nhớ Việt Bắc là những ấn tượng không phai về sự hòa quyện
của người dân với thiên nhiên núi rừng cao đẹp.
"Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người"
Mở đầu đoạn thơ là câu hỏi tu từ. Nhưng hỏi chỉ là cái cớ để thể hiện tâm tư tình cảm,
nhấn mạnh nỗi nhớ da diết của người về Thủ đô. Hai câu đầu là lời hỏi đáp của ta của người
cán bộ kháng chiến về xuôi. Ta hỏi mình có nhớ ta. Người cách mạng về xuôi hỏi người
Việt Bắc để bộc lộ tâm trạng của mình là dù có ở nơi xa xôi , dù có xa cách nhưng lòng ta
vẫn gắn bó với Việt Bắc. Chữ "ta" và "nhớ" được điệp đi điệp lại thể hiện lòng thủy chung
son sắc. Nỗi nhớ hướng về "những hoa cùng người" hướng về thiên nhiên , núi rừng và con
người Việt Bắc. "Hoa" là sự kết tinh của hương sắc, còn "người" là kết tinh của đời sống xã
hội. Xét cho cùng, "người ta là hoa của đất". Hoa và người được đặt cạnh nhau càng làm tôn
lên vẻ đẹp cho nhau, làm sáng lên cả không gian núi rừng, Việt Bắc trùng điệp.
Những câu thơ tiếp theo tái hiện cụ thể, chân thực vẻ đẹp bốn mùa của chiến khu. Cảnh
và người hòa quyện đan xen vào nhau. Cứ một câu thơ lục tả cảnh thì lại có một câu thơ bát
tả người. Mỗi mùa có một vẻ đẹp nét đặc trưng riêng tạo thành một bức tranh tứ bình ngập
tràn ánh sáng , màu sắc , đường nét âm thanh vui tươi, ấm áp.
"Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng"

27
Mở đầu cho bức tranh tứ bình lại là khung cảnh mùa Đông. Chúng ta vẫn luôn thắc mắc
rằng tại sao tác giả không diễn tả mùa theo trật tự quy luật tự nhiên là Xuân, Hạ, Thu, Đông
lại là mùa Đông trước. có lẽ vì, thời điểm tác giả sáng tác bài thơ này là vào tháng 10 năm
1954, đó là thời điểm của mùa đông nên khung cảnh mùa đông việt bắc tạo cảm hứng để
ông viết về mùa đông trước.
Nhớ về mùa đông Việt Bắc, tác giả không nhớ về cái giá buốt, lạnh lẽo, âm u. Tố Hữu
nhớ đến những ngày màu đông rực rỡ, nắng ấm. Màu xanh bạt ngàn của núi rừng Việt Bắc.
nó giống như màu nên làm nổi bật lên màu đỏ tươi của hoa chuối. Hình ảnh "hoa chuối đỏ
tươi" - hình ảnh đặc trưng của rừng núi Việt Bắc vào mùa đông, nó giống như ngọn đuốc,
đốm lửa rực rỡ thắp sáng bức tranh mùa đông, xua tan đi cái u tối, lạnh lẽo của núi rừng nơi
đây. Cả không gian như được sưởi ấm. Tô điểm thêm nét đẹp đặc trưng của mùa Đông Việt
Bắc. Đằng sau bức tranh mùa đông ấy, ẩn hiện lên hình ảnh người nông dân lao động leo lên
đèo cao để đi làm nương rẫy. Một hình ảnh khỏe khoắn của người lao động như được tỏa
sáng, rực rỡ hơn. Tố Hữu sử dụng nghệ thuật đảo ngữ, ông không dùng "ánh nắng" là một
danh từ mà lại dùng "nắng ánh" - một động từ, nhằm làm cho hình ảnh người lao động đẹp
và rực rỡ hơn.
Kết thúc mùa đông lạnh giá, Tố Hữu đưa chúng ta đến với mùa Xuân ấm áp vui hơn
"Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang"
Mùa xuân - hình ảnh bông hoa "mơ nở trắng rừng" là loài hoa đặc trưng của mùa xuân
nơi Việt Bắc. Hoa nở trắng xóa cả khu rừng. Màu không phải màu trăngs điểm như trong
bài Truyện Kiều của Nguyễn Du "cành lê trắng điểm một vài bông hoa". Đó là màu trắng
tinh khiết, tinh khôi khoác lên cho núi rừng Việt Bắc. Và đằng sau mùa xuân tinh khiết, nhẹ
nhàng, thơ mộng ấy. Nhà thơ nhớ đến những người đan nón. Hình ảnh "người chuốt từng
sợi giang" đã làm nổi bật đức tính cần cù, tỉ mỉ, khéo léo, tài hoa của những con người nơi
đây. Họ đã làm ra những sợi giang nõn nà để đan thành những chiếc nón. Đó là vật để che
nắng che mưa không thể thiếu của người dân nơi đây và đó cũng có thể là thức quà tặng
dành cho những người mà họ yêu thương.
"Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình"

28
Khi âm thanh của tiếng ve vang lên, đó là âm thanh đặc trưng của mùa hè. Rừng phách
đột ngột đổ vàng. Đó là sự chuyển biến đột ngột làm cho người ta có cảm giác khi tiếng ve
vang lên thì những lá cây của cây phách từ lá màu xanh chuyển sang màu vàng. Cả không
gian Việt Bắc như được nhuộm sắc vàng rực rỡ. Thời gian mang đến cho ta màu sắc và ẩn
sâu trong cái sắc vàng rực rỡ ấy là hình ảnh cô em hái măng . Ở đó, toát lên được sự cần
mẫn, cần cù siêng năng , chăm chỉ . Măng là thứ rau để nuôi sống bộ đội cách mạng. Và
hình ảnh cô gái hái măng một mình cho thấy được sự yên tĩnh, thư thái. Câu thơ làm ta liên
tưởng đến câu:
"Trám bùi để rụng, măng mai để già"
Nếu như đặc trưng của mùa đông là hoa mơ, mùa xuân là hoa chuối, mùa hè là hoa phách
vàng. Vậy còn mùa thu là hoa gì? Mùa thu không có hoa mà mùa thu có người. mà con
người là loài hoa đẹp nhất. "Người ta là hoa của đất".
Khác với nền văn học trung đại, một nền văn học mà các nhà văn lấy thiên nhiên làm tiêu
chuẩn cho cái đẹp thì nền văn học hiện đại lại lấy con người làm tiêu chuẩn cho cái đẹp.
Điều này được thể hiện rất rõ ở câu thơ tả mùa thu của Tố Hữu.
"Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung"
Nếu câu thơ lục là câu thơ tả hình ảnh ánh trăng thì câu thơ bát có "tiếng hát ân tình". Cặp
đôi "trăng - nhạc" góp phần tạo nên vẻ đẹp lung linh, lãng mạn. Đất nước ta lúc ấy đang
trong thời kì kháng chiến khốc liệt nhưng ở những câu thơ của Tố Hữu ta chỉ thấy được sự
bình yên, hòa bình, êm ả và ân tình thủy chung
Đoạn thơ dạt dào tình thương, tha thiết nỗi nhớ bồi hồi thấm sâu vào cảnh và người. Kẻ ở
người về thì "ta nhớ mình" "mình nhớ ta". Tình cảm ấy vô cùng tha thiết, thiêng liêng, biết
bao ân tình thủy chung. Năm tháng đi qua nhưng ân tình thủy chung cách mạng giữa Việt
Bắc với con người về xuôi vẫn luôn thủy chung son sắc, in đậm trong lòng người.
Tóm lại, với 10 câu thơ , Tố Hữu đã hài hòa trong câu lục tả cảnh , câu bát tả người, Và
sự hài hòa ấy tạo nên một bức tranh tứ bình tuyệt đẹp , đầy màu sắc. Qua đó, Tố Hữu bộc
bạch được tình cảm của mình với thiên nhiên núi rừng Việt Bắc và sự thủy chung son sắc
với những con người chất phát, hiền hòa nơi đây. Sự yêu mến và tự hào của Tố Hữu với
Việt Bắc . Và ở mỗi bản thân chúng ta, cần phải biết đến những địa danh của Đất Nước
mình, yêu mến và luôn tự hào về vẻ đẹp diệu kỳ của nó. Điều quan trọng hơn hết, chúng ta

29
cần ghi nhớ công ơn to lớn của những chiến sĩ đã hi sinh ra sức chiến đấu dựng xây khiến
chúng ta có được một đất nước yên bình , xinh đẹp như ngày hôm nay.

2.5 Giá trị tác phẩm Việt Bắc - Tố Hữu


Tác giả Tố Hữu sáng tác thành công tác phẩm Việt Bắc, nổi bật với hai giá trị lớn là
giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật. Về giá trị nội dung, bài thơ đã tái hiện lại một giai
đoạn gian khổ mà vẻ vang, hào hùng của cách mạng ở chiến khu Việt Bắc. Từ đó, bài thơ
phản ánh những chặng đường gian lao và sự trưởng thành cuộc kháng chiến nay đã trở
thành một kỷ niệm sâu nặng trong lòng người. Bài thơ thể hiện tình cảm lưu luyến và bình
dị trong cuộc chia tay của cán bộ kháng chiến và đồng bào Việt Bắc. Đồng thời, đây là lời
nhắc nhở về truyền thống uống nước nhớ nguồn của dân tộc. Đối với giá trị nghệ thuật, tác
phẩm đã sử dụng thành thạo thể thơ lục bát và đưa nó lên đến đỉnh cao mới. Cùng với kết
cấu đối đáp giữa “ta” và “mình” là người ra đi và người ở lại, tác giả đã biến cuộc chia tay
giống như một cuộc hát giao duyên ngọt ngào, đằm thắm. Ngôn ngữ thơ trong sáng, giản dị,
giàu tính dân tộc. Ngoài ra, tác phẩm còn sử dụng thành công nhiều biện pháp tu từ truyền
thống như so sánh, nhân hóa, hoán dụ, phóng đại, ẩn dụ, liệt kê, đối,... Đặc biệt, một trong
những thành tựu nghệ thuật của Tố Hữu trong “Việt Bắc” chính là việc sử dụng nhiều địa
danh lịch sử và khắc ghi những địa danh trong lòng bạn đọc bởi lời thơ dễ thuộc, dễ nhớ. Có
thể nói, tác phẩm Việt Bắc của tác giả Tố Hữu không chỉ là một trong số những thành tựu
nổi bật trong phong cách sáng tác Tố Hữu mà còn in dấu đậm nét trong văn đàn văn học
Việt Nam.

30
3. Tác phẩm Đất Nước:

3.1 Đề bài 1:

Phân tích tư tưởng Đất Nước của nhân dân trong tác phẩm Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm

a. Đặt vấn đề

- Nguyễn Khoa Điềm được biết đến là một trong những nhà văn tiêu biểu trưởng thành
trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ. Thơ ông giàu tính suy tư,, xúc cảm lắng đọng, thể
hiện tâm tư, ý thức của một công dân yêu nước đối với vai trò, trách nhiệm của thế hệ trẻ
trong cuộc chiến đấu chung của dân tộc, thể hiện những nhận thức sâu sắc về nhân dân, đất
nước qua những trải nghiệm của chính mình.

- Đoạn trích “Đất nước” thuộc phần đầu chương V của tập “Trường ca mặt đường khát
vọng” được Nguyễn Khoa Điềm viết ở chiến khu Trị - Thiên năm 1971, in lần đầu vào năm
1974. Bản trường ca là sự tự ý thức của tuổi trẻ Việt Nam, hướng về nhân dân, đất nước, ý
thức được sứ mệnh của thế hệ mình trong cuộc chiến đấu chung của dân tộc.

b. Giải quyết vấn đề

1. Khái quát về hình tượng Đất Nước

- Về mặt định nghĩa, Đất Nước là nơi cư trú của một cộng đồng dân tộc có cương giới, lãnh
thổ riêng, có sự gắn kết sâu sắc với nhau về văn hóa, phong tục, có tiếng nói, ngôn ngữ
riêng, có truyền thống lịch sử và nền văn hiến lâu đời.

- Hình tượng Đất Nước trong Trường ca mặt đường khát vọng là sự kết hợp giữa hai nguyên
tố Đất và Nước, được soi chiếu dưới nhiều góc độ, phương diện và bình diện, được sống

31
động hóa, cụ thể hóa một cách đặc sắc. Nguyễn Khoa Điềm đã đem một hình tượng trừu
tượng đến gần hơn với tiềm thức mỗi người, bày tỏ sâu sắc quan niệm Đất Nước là của nhân
dân và người trẻ phải có trách nhiệm dựng xây, bảo vệ Đất Nước.

2. Cảm nhận Đất Nước dưới góc nhìn văn hóa, trong mối quan hệ gắn bó với cuộc
sống Nhân Dân để lý giải cho câu hỏi: Đất nước có từ đâu?

a, Câu thơ mở đầu là một cảm nhận sâu lắng về sự hiện hữu của Đất Nước đối với mỗi
con người:

“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi”

● Câu thơ đọc lên thoạt nhiên có chút mơ hồ, không phân định rõ ràng về nguồn gốc
của Đất Nước, chân lý mà tác giả gửi gắm đến chỉ có thể cảm nhận bằng nhiều chiều
liên tưởng thú vị của người đọc.
● “Ta” là đại từ bất định, một khái niệm chưa cụ thể. “Ta” ở đây có thể là chúng ta, là
con cháu ta sau này, là ông cha ta, là những con người Việt Nam từ nghìn năm trước.
Các “ta” ấy đều có một mối suy tư và nhận thức về cội nguồn của Đất Nước.
● Cách hiểu ấy đã cho thấy rằng dù “Ta” có là ai, thuộc thế hệ nào đi chăng nữa thì khi
được sinh ra, Đất Nước đã có từ trước đó để chở che, bao bọc và nâng niu. Đất Nước
luôn có trước, như từ thuở khai thiên lập địa, như đón đợi biết bao thế hệ mai sau.

b, Trong cách nhìn của Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước không phải là một khái niệm trừu
tượng, cũng không phải mang những định nghĩa đồ sộ, mà hơn bao giờ hết, Đất Nước
gắn bó sâu sắc với đời sống của mọi người dân:

* Đất nước hình thành từ những phong tục tập quán đẹp đẽ của người Việt.

“ Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể

Đất Nước bắt đầu bằng miếng trầu bây giờ bà ăn”

- Những câu văn với nhịp dài, âm điệu nhẹ nhàng, ấm áp, gợi lên được tình cảm gắn bó tha
thiết của tác giả với cội nguồn Đất Nước.

32
● Đất Nước hiện lên thật gần gũi với những câu chuyện “ngày xưa ngày xửa mẹ
thường hay kể”. Đó là lời bắt đầu của những câu chuyện nằm trong kho tàng cổ tích
rộng lớn, trừu tượng, phiếm chỉ. Đó cũng là những bài học đầu tiên mà ông cha dạy
ta cách làm người. Điều ấy đã khẳng định sâu sắc về chiều dài về mặt thời gian lẫn
văn hóa của Đất Nước. Trong những câu chuyện về cô Tấm, Thạch Sanh, Sọ Dừa
vẫn luôn mang bóng hình, vẻ đẹp của Đất Nước.
● Đất Nước được gợi lên bằng hình ảnh “miếng trầu bà ăn”. Đó là văn hóa lễ nghĩa,
giao tiếp đẹp đẽ của người Việt Nam. Đó là miếng trầu xuất hiện trong các câu ca
dao thấm đẫm vẻ đẹp ứng xử của người Việt: “Bắc thang lên hái ngọn trầu vàng/Hỏi
thăm chị Xã nộp cheo làng mấy quan?”. Đó là miếng trầu gieo duyên: “Đôi ta như
trầu với cau /Vừa vôi, môi đỏ tìm đâu cho bằng”. Miếng trầu còn gợi lên chuyện cổ
tích “Trầu cau” nói về tình anh, em thiết tha, ruột thịt.
● => Như vậy Đất Nước được hình thành từ lối sống nghĩa tình, khơi gợi lối sinh hoạt
giao tiếp của người Việt Nam.

* Đất nước có trong truyền thống yêu nước ngàn đời của nhân dân ta:

“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”

- Hình ảnh “cây tre” gợi nhắc về truyền thuyết “Thánh Gióng” nhổ tre đánh giặc, trở thành
biểu tượng cho sự kiên cường, bất khuất của người dân Việt Nam: “tre giữ làng, giữ nước,
giữ mái nhà tranh”. Câu thơ với âm hưởng tăng cao, tạo ấn tượng về quá trình lớn lên của
Đất Nước cùng với ý chí và lòng yêu nước bao la của mỗi con người Việt Nam.

* Đất nước hiện diện trong những nét sinh hoạt giản dị của người lao động:

“Tóc mẹ bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”

33
● Nét đặc sắc trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm đó là luôn mang một ý, một tứ của
văn hóa dân gian Việt Nam. Hình ảnh “Tóc mẹ bới sau đầu” gợi nhắc đến tục búi tóc
của người phụ nữ để chống lại sự đồng hóa của phương Bắc trong giai đoạn một
nghìn năm Bắc thuộc, và từ đó kiểu tóc bới đã trở thành một nét văn hóa đặc sắc của
người phụ nữ, thể hiện sự độc lập, tự chủ dân tộc. Mái tóc búi ấy còn gợi nhắc đến vẻ
đẹp của người mẹ, người phụ nữ: “Tóc ngang lưng vừa chừng em búi/ Để chi dài bối
rối lòng anh”.
● Đất nước còn có trong những nghĩa tình thủy chung son sắt của con người. “Cha mẹ
thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được
dùng với nhiều sắc thái khác nhau, vừa gợi lên sự khó khăn, bất trắc, vừa thể hiện sự
son sắt, mặn nồng. Câu thơ như gợi lên biết bao nhiêu câu ca dao ân tình: “Muối ba
năm muối đang còn mặn/Gừng chín tháng gừng hãy còn cay/ Đôi ta nghĩa nặng tình
dày/ Có xa nhau ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”.
● Đất nước còn hiện diện với sự hình thành ngôn ngữ và phẩm chất tốt đẹp của người
Việt Nam. “Cái kèo, cái cột” ấy là cách mà ông cha ta đặt tên cho con cái để dễ nuôi
bảo, mà đó cũng là những vật dụng bền chặt, cần thiết trong mỗi gia đình. Đó chính
là sản phẩm của những câu chuyện tình yêu cao đẹp của người Việt Nam.
● Hình ảnh “hạt gạo phải một nắng hai sương” kết hợp cùng các động từ “xay”, “giã”,
“giần”, “sàng” như gợi đến cả một quá trình cực nhọc của người nông dân để có thể
tạo nên những hạt gạo săn chắc, tươi ngon. Hạt gạo đã thế thì con người càng thế.
Hình ảnh còn thể hiện được sự cần cù, chăm chỉ, siêng năng của những con người lao
động đang ngày đêm làm lụng để dựng xây nên cuộc sống yên bình. Cách ngắt nhịp
đặc sắc cùng âm điệu nhẹ nhàng mà dai dẳng, câu văn như đưa người đọc đến với
một thế giới kì ảo, giản dị của ca dao và thành ngữ: “Ai ơi bưng bát cơm đầy/ Dẻo
thơm một hạt đắng cay muôn phần”.

* Qua đó có thể thấy Đất Nước là một định nghĩa vừa xa vời lại vừa gần gũi với đời sống
con người lao động.

- Nghệ thuật biểu đạt mới mẻ trong việc thể hiện cái xa “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”
cho đến khi gần gũi hơn với những hình ảnh “ngày xửa ngày xưa”, “miếng trầu bà ăn”, “tóc
mẹ bới sau đầu”, “cái kèo cái cột”, “hạt gạo một nắng hai sương”. Điều đó đã thể hiện góc

34
nhìn độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm khi đã mang hình ảnh trừu tượng đến gần hơn với
chính đời sống giản dị hằng ngày của mỗi người dân, cho chúng ta cảm nhận được rằng Đất
Nước không ở đâu xa mà trong chính những điều nhỏ bé xung quanh, tất cả đều đã làm nên
Đất Nước.

c. Kết thúc vấn đề

=> Nghệ thuật liên tưởng vận dụng sắc sảo, kết hợp nhiều chất liệu của văn học dân gian
tạo nên màu sắc gần gũi, thân thuộc mà cũng vô cùng đáng trân quý. Đoạn thơ đầu tiên đã
thể hiện sâu sắc góc nhìn độc đáo của nhà thơ về cội nguồn của Đất Nước. Đất Nước không
ở đâu xa mà có trong chính những lẽ đời thường, giản dị của mỗi con người.

3.2 Đề bài 2:
Phân tích tưởng Đất Nước của nhân dân qua những cảm nhận mới mẻ, phát hiện độc
đáo về không gian địa lí của Đất Nước trong mối quan hệ với Nhân dân
a. Đặt vấn đề
1. Tác giả

- Nguyễn Khoa Điềm được biết đến là một trong những nhà văn tiêu biểu trưởng thành
trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ. Thơ ông giàu tính suy tư,, xúc cảm lắng đọng, thể
hiện tâm tư, ý thức của một công dân yêu nước đối với vai trò, trách nhiệm của thế hệ trẻ
trong cuộc chiến đấu chung của dân tộc, thể hiện những nhận thức sâu sắc về nhân dân, đất
nước qua những trải nghiệm của chính mình.

2. Tác phẩm

- Đoạn trích “Đất nước” thuộc phần đầu chương V của tập “Trường ca mặt đường khát
vọng” được Nguyễn Khoa Điềm viết ở chiến khu Trị - Thiên năm 1971, in lần đầu vào năm
1974. Bản trường ca là sự tự ý thức của tuổi trẻ Việt Nam, hướng về nhân dân, đất nước, ý
thức được sứ mệnh của thế hệ mình trong cuộc chiến đấu chung của dân tộc.

b.Giải quyết vấn đề

1.Khái quát Tư tưởng Đất Nước Nhân Dân

35
- Thông qua những góc nhìn độc đáo của nhà thơ về Đất Nước, tác giả đã thể hiện sâu sắc tư
tưởng Đất Nước là của Nhân Dân. Chính Nhân Dân - những người đông đảo, thầm lặng, vô
danh đã làm nên những truyền thống văn hóa, bề dày lịch sử và danh lam thắng cảnh cho
Đất Nước. Khẳng định sâu sắc vai trò của dân tộc trong quá trình dựng nước và giữ nước.

2. Phân tích

2.1. Về mặt địa lý

- Tác giả đã liệt kê ra những địa danh trải dài từ Bắc - Trung - Nam như muốn phác thảo lại
tấm bản đồ văn hóa Đất Nước. Qua đó thể hiện góc nhìn độc đáo của nhà văn về danh lam
thắng cảnh Việt Nam

Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương

Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.

Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm

● Những câu văn dài ra như chứa đựng những câu chuyện về lối sống của dân tộc. Các
địa danh nổi tiếng là sản phẩm của thiên nhiên nhưng ông cha ta đã trao cho nó một
tâm hồn, tính cách, lẽ sống dân tộc.
● Điệp từ “góp” nhằm nhấn mạnh vào sự cống hiến, đó cũng là cách mà nhà văn gửi
lên tri ân đến ông cha ta, những người đã góp mình vào một phần non sông Đất Nước.
● Truyền thống thủy chung, tình nghĩa của người Việt Nam đã làm nên những “núi
Vọng Phu”, “hòn Trống Mái”. Đó là cách lý giải cho nguồn gốc hình thành nên các
địa danh, qua đó đã biến chúng trở thành biểu tượng của văn hóa dân tộc.

36
● Những ao đầm, con sông gắn liền với những truyền thuyết lẫy lừng “Gót ngựa Thánh
Gióng”, “Chín mươi chín con voi”, “Những con rồng nằm im”. Chính góc nhìn ấy đã
tạc vào núi sông một phẩm chất dân tộc, vừa hào hùng, vừa lớn lao lại vừa linh
thiêng.
● Hình ảnh “người học trò nghèo” thể hiện sâu sắc truyền thống hiếu học của dân tộc.
Chính tinh thần ấy đã được lưu giữ, vĩnh hằng trong các di tích “Núi Bút, non
Nghiêng”.
● Những hình ảnh giản dị “con cóc, con gà” cho đến những con người bình tâm “Ông
Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm” đã góp một phần vào việc dựng xây Đất Nước
tươi đẹp.
● Điệp từ “góp” vừa nhấn mạnh vào sự cống hiến thầm lặng, cũng vừa thể hiện sâu sắc
sự tri ân của tác giả dành cho ông cha ta - những người đã hóa thân vào dáng hình xứ
xở của Đất Nước

=> Đó là sự khẳng định cho chân lý: Nhân dân là người làm nên Đất Nước, đặt tên, ghi
dấu trên những con sông, ngọn núi, di tích, tạc vào núi sông những phẩm chất, lẽ sống
dân tộc cao đẹp. Trí tuệ dân gian đã dùng hình thức hư cấu, huyền ảo để lý giải cho
nguồn gốc của hình hài sông núi bằng những danh xưng, tên gọi bình dị, nôm na và gắn
liền với những tích xưa.

- Từ những chân lý ấy, tác giả đã đưa ra một suy ngẫm mang tính khái quát:

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hoá núi sông ta..

● Dưới góc độ lý giải của dân gian và bằng góc nhìn độc đáo của nhà thơ, những con
sông, ruộng đồng, ngọn núi đều không còn vô tri, đều có một linh hồn mang tâm
trạng, “mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”, đều trở thành một kí
ức đẹp đẽ, vĩnh hằng về tâm hồn, tính cách Nhân Dân.

37
● Thán từ “Ôi” thể hiện sâu sắc cảm xúc vỡ òa, ngưỡng mộ của tác giả khi đứng trước
chiều kích không gian mênh mông của Đất Nước và chiều dài đằng đẵng của “bốn
nghìn năm” dựng nước và giữ nước. Biết bao nhiêu con người đã thầm lặng bước qua
cuộc đời, đã hòa mình vào lịch sử, vóc dáng Đất Nước. Để rồi in sâu vào trong từng
mảnh đất, từng con sông, từng ao hồ đều mang dáng hình dân tộc. Động từ “hóa” gợi
sắc thái thiêng liêng, thành kính, kì diệu của những con người vô danh, thầm lặng
trong thời bình, kiên cường trong thời chiến, hồn hậu, nghĩa tình trong ứng xử đời
thường

=> Tư tưởng Đất Nước là của nhân dân được thể hiện khi chính Nhân Dân sống thầm lặng
và lớn lao, bằng tình yêu và nỗi đau, bằng sự dũng cảm và cần cù nhẫn nại, bằng lối sống ân
tình thủy chung trong đối nhân xử thế, những khát khao bình dị, đáng quý đều làm nên hình
hài, dáng vóc Đất Nước kì diệu, đẹp đẽ

2.2 Nhìn về bốn ngàn năm Đất Nước (Lịch sử)

- Khi nhìn về bốn nghìn năm lịch sử Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm không điểm lại những
triều đại quan trọng, những người anh hùng với công danh hiển hách mà nhấn mạnh vào
những con người vô danh, bình dị:

Em ơi em

Hãy nhìn rất xa

Vào bốn ngàn năm Đất Nước

● Nhà thơ đã sử dụng lại nghệ thuật tưởng thoại để làm cho mạch cảm xúc thêm phần
da diết. Tác giả đã kêu gọi chúng ta hãy nhìn về “rất xa”, nhìn về nguồn cội và quá
trình lớn lên của lịch sử dân tộc, để thấy được bên trong đó biết bao nhiêu đắng cay,
bao nhiêu nghĩa khí, bao nhiêu niềm vui và nỗi đau.

Năm tháng nào cũng người người lớp lớp

Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta

Cần cù làm lụng

38
Khi có giặc người con trai ra trận

Người con gái trở về nuôi cái cùng con

Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh

● Đoạn thơ đã thể hiện sâu sắc nét đẹp trong tâm hồn của dân tộc Việt Nam qua những
biến động của lịch sử. Cụm từ “năm tháng nào” đi cùng với những từ láy “người
người lớp lớp” đã thể hiện sâu sắc tính đa diện của dân tộc, không phải chỉ một hai
người mà cả ngàn lớp người, cả một cộng đồng, cả một tập thể có chung dòng màu,
chung mục tiêu phấn đấu.
● Nét sống cao đẹp của dân tộc thể hiện qua câu thơ “Cần cù làm lụng”. Đó là truyền
thống “Có chí thì nên”, siêng năng, nỗ lực lao động góp phần phát triển Đất Nước
trong thời bình. Bởi lẽ chỉ có lao động mới tạo ra cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
● Khi có chiến tranh nổ ra thì toàn dân ta cùng đồng lòng chống giặc, “Người con trai
ra trận”, người con gái “nuôi cái cùng con” làm hậu phương vững chắc. Đến khi
“giặc đến nhà” thì ngay cả “đàn bà cũng đánh”. Đó chính là nét đẹp trong tinh thần
kiên cường, bất khuất, anh dũng của con người Việt Nam. Đất Nước đã theo chân vẻ
đẹp ấy mà lớn lên, mà vững mạnh như bây giờ.

=> Đó là góc nhìn đặc sắc về vốn sống dân tộc qua sự đằng đẵng của bốn nghìn năm Đất
Nước in bóng sâu vào vẻ đẹp Đất Nước một lẽ sống cao đẹp, hào hùng.

- Xuyên suốt những tháng năm dữ dội dựng nước và giữ nước, đã có biết bao nhiêu anh
hùng được sinh ra. Họ là những người có công danh vang dội, được sử sách lưu giữ và ca
ngợi, “có những người cả anh và em đều biết”. Nhưng nhà thơ đã dành một phần thành kính
để đi đến tri ân những người anh hùng vô danh, thầm lặng góp mình vào lịch sử Đất Nước:

Những em biết không

Có biết bao người con gái, con trai

Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi

Họ đã sống và chết

39
Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước

● Chảy trôi trong sự miên viễn của thời gian lịch sử, biết bao nhiêu cuộc đời đã tạc vào
hình hài núi sông, vào vốn văn hóa cao đẹp của dân tộc. Câu văn “Nhưng em biết
không” như một cách chiêm nghiệm của nhà thơ và độc giả, gợi nhắc chúng ta phải
nhớ về những con người nhỏ bé mà lớn lao trong “bốn ngàn lớp người giống ta lứa
tuổi”,
● Đó là những con người vô danh, thầm lặng, đã “sống và chết”. Cách nói thuận
ngược như khái quát lại về cuộc đời đầy gian truân, biến động của những người tồn
tại trong thời kì đất nước loạn lạc. Đó là những con người sống “giản dị” và ra đi
trong “bình tâm”, không ai “nhớ mặt đặt tên”, họ không có tên trong bảng vàng, sử
sách vinh danh của dân tộc, họ không được ai biết đến với chiến công của mình.
Nhưng chính những con người ấy đã làm ra Đất Nước.

=> Lịch sử bốn ngàn năm dân tộc được viết bằng mồ hôi, nước mắt, máu xương của những
con người sống giản dị, chết bình tâm nhưng lịch sử không biết họ là ai bởi họ thầm lặng, vô
danh mà lớn lao, đông đảo.

2.3 Từ góc độ dựng xây văn hóa dân tộc.

- Nhân Dân là những người đã kiến tạo và lưu truyền văn hóa dân tộc:

Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi

Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói

Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân

Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái

Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm

40
Có nội thù thì vùng lên đánh bại

● Đại từ “Họ” kết hợp với các hành động “giữ”, “truyền”, “gánh” được điệp lại nhiều
lần đã nhấn mạnh sâu sắc công lao của Nhân Dân trong việc giữ gìn và phát huy
những giá trị văn hóa của dân tộc.
● Chính Nhân Dân đã giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp gắn liền với
nền văn minh nông nghiệp lúa nước.
● Chính Nhân Dân đã giữ gìn và chuyền lại những ngọn lửa ấm áp của tình làng nghĩa
xóm, của lòng yêu nước mãnh liệt, nồng nàn.
● Nhân Dân đã giữ gìn lấy “giọng điệu” của dân tộc. Bởi lẽ đó chính là nét đẹp của
ngôn ngữ Việt Nam, của con người Việt Nam. Qua sự đằng đẵng của một ngàn năm
Bắc thuộc, của các triều đại phong kiến, của bao nhiêu lần bị đô hộ, nhân dân vẫn giữ
được giọng nói của ông cha mình và không ngừng cải tiến thêm phong phú, đa dạng
mà vẫn mang đậm bản sắc dân tộc.
● Nhân Dân đã “gánh” theo những “tên xã, tên làng” trong mỗi chuyến di dân, khắc
sâu nguồn cội vào tâm khảm. Để rồi có đi đâu về đâu vẫn mang một nét đẹp vững
chãi của Đất Nước, của dân tộc.
● Họ đã khổ công xây dựng những thành tựu và để lại cho con cháu mai sau. Đó là
truyền thống yêu Nước, là những đạo lý làm người, là những nét đẹp trong văn hóa
dân gian.
● Họ đã anh dũng đấu tranh chống giặc ngoại xâm để gìn giữ sự độc lập, hòa bình cho
Đất Nước. Cặp từ chỉ mối quan hệ “Có…thì” được lặp lại hai lần nhằm nhấn mạnh
vào một sự thật hiển nhiên, nhấn mạnh vào tinh thần kiên cường, bất khuất của dân
tộc. Đó không phải chỉ là những lời lẽ viển vông mà đã được lịch sử chứng minh xác
đáng.

=> Những con người thầm lặng, vô danh đã lưu giữ biết bao nhiêu những truyền thống
tốt đẹp của ông cha qua ngàn đời. Đó là những nét văn hóa đặc sắc của đời sống, của tình
thương, của ý chí và của lòng tự tôn dân tộc. Câu thơ mang âm điệu du dương như những
câu hát xuôi dòng lịch sử, khi thì sục sôi qua những chiến trận đầy gian truân. Sự lớn mạnh
của dân tộc được khắc họa cụ thể qua biết bao nhiêu công lao giản dị và lớn lao của những
con người đã sống giản dị, chết bình tâm.

41
- Bởi vì lẽ thế, Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định sâu sắc một chân lý: Đất Nước chính là
của Nhân Dân.

Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân

Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại

● Đó cũng là tư tưởng xuyên suốt tác phẩm, ẩn sâu trong những địa hạt của mạch cảm
xúc đang muốn ứa trào. Đất Nước là do Nhân Dân kiến tạo, lưu truyền và phát triển,
đó là hai khái niệm khắng khít, bổ trợ và gắn bó cùng nhau.
● Hình ảnh “Đất Nước của ca dao thần thoại” mang đậm màu sắc của văn hóa dân gian
Việt Nam. Đó là những câu ca dao, những câu chuyện thần thoại mà trí khôn dân
gian của ông cha đã tạo ra nhằm dạy dỗ các thế hệ về bài học làm người. Cũng là một
lời khẳng định sâu sắc: Văn hóa dân gian, truyền thống dân tộc chính là gốc rễ làm
nên vẻ đẹp của Đất Nước.

- Không chỉ là người lưu giữ và truyền lại những giá trị văn hóa, Nhân Dân còn là người dạy
cho chúng ta những đạo lý sống ở đời.

Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”

Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội

Biết trồng tre đợi ngày thành gậy

Đi trả thù mà không sợ dài lâu

● Ông cha ta truyền dạy những bài học đẹp đẽ về sự chung thủy trong tình yêu. Câu
thơ gợi nhắc đến câu ca dao quen thuộc: “Yêu em từ thuở trong nôi/ Em nằm em
khóc, anh ngồi anh ru”. Vượt xa khỏi tình yêu đôi lứa là những lời dạy về việc phải
biết yêu thương, san sẻ lẫn nhau.
● Dạy con người ta phải biết đặt giá trị tinh thần cao hơn vật chất. Từ đó người đọc có
thể liên tưởng đến câu ca dao: “Cầm vàng mà lội qua sông/ Vàng rơi không tiếc tiếc
công cầm vàng”.

42
● Dạy con người phải có ý chí bền bỉ, phải có sự kiên trì, nhẫn nại trên hành trình dựng
nước và giữ nước. Hai câu thơ cuối đoạn như gợi nhắc về câu ca dao: “Thù này ắt
hẳn còn lâu / Trồng tre thành gậy, gặp đâu đánh què”.

=> Tình yêu, cần cù và nhẫn nại là ba phương diện cơ bản để đánh giá phẩm chất, giá trị
của một con người. Qua biết bao năm tháng biến động của lịch sử, Nhân Dân vẫn không
quên truyền nhau những bài học về lễ nghĩa, về lẽ sống ở đời.

- Chính vì những lẽ đó, nhà thơ đã cất lên những câu hát tự hào về vẻ đẹp của quê hương
Đất Nước:

Ôi những dòng sông bắt nước từ lâu

Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát

Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác

Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi

● Đất Nước đẹp mãi với các dòng sông, với những câu hát của người chèo đò. Đó là
nhịp sống lao động hân hoan, lạc quan của những con người giản dị, thầm lặng cống
hiến trong công cuộc đổi mới Đất Nước. Tất cả đều nên vẻ đẹp cho dáng hình Đất
Nước, cho truyền thống văn hóa Đất Nước. Mà người thực hiện điều đó không ai
khác ngoài chính Nhân Dân.

=> Nhân dân làm nên văn hóa bằng tính cách và tâm hồn mình. Nhà thơ và tuổi trẻ thế
hệ nhà thơ nhận thức được Nhân Dân làm nên lịch sử, địa lý và văn hóa cũng chính là
sáng tạo Đất Nước

● c. Kết thúc vấn đề

● Tư tưởng của Nguyễn Khoa Điềm về Đất nước đó là: Đất nước của Nhân dân, của ca
dao thần thoại, của đời thường. Qua đó, tác giả thể hiện tình yêu, niềm tự hào về Đất
Nước, Nhân dân, thức tỉnh mọi người ý thức trách nhiệm xây dựng, bảo vệ Đất Nước.
Trong đoạn thơ, sự triển khai cảm hứng của tác giả tuy phóng túng, đa dạng nhưng
vẫn quy về điểm cốt lõi, đó là : Đất Nước của Nhân dân.

43
● Thành công nghệ thuật của đoạn thơ này chính là là sự vận dụng những yếu tố dân
gian kết hợp với cách diễn đạt và tư duy hiện đại, tạo ra màu sắc thẩm mỹ vừa quen
thuộc lại vừa mới mẻ. Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng tối đa đã tạo
nên không khí, giọng điệu, không gian nghệ thuật riêng : vừa có sự bình dị, gần gũi,
hiện thực, lại vừa bay bổng, mơ mộng của ca dao, truyền thuyết nhưng lại mới mẻ
qua cách cảm nhận và cách diễn đạt bằng hình thức thơ tự do. Chất dân gian đã thấm
sâu vào tư tưởng và cảm xúc của tác giả, tạo nên đặc điểm nghệ thuật độc đáo của
thơ Nguyễn Khoa Điềm

3.3 Đề bài 3:
Phân tích hình tượng đất nước trên hình tượng địa lí và lịch sử
a. Đặt vấn đề (xem phần trên đã có)
b. Giải quyết vấn đề

1. Khái quát về hình tượng Đất Nước

- Về mặt định nghĩa, Đất Nước là nơi cư trú của một cộng đồng dân tộc có cương giới, lãnh
thổ riêng, có sự gắn kết sâu sắc với nhau về văn hóa, phong tục, có tiếng nói, ngôn ngữ
riêng, có truyền thống lịch sử và nền văn hiến lâu đời.

- Hình tượng Đất Nước trong Trường ca mặt đường khát vọng là sự kết hợp giữa hai nguyên
tố Đất và Nước, được soi chiếu dưới nhiều góc độ, phương diện và bình diện, được sống
động hóa, cụ thể hóa một cách đặc sắc. Nguyễn Khoa Điềm đã đem một hình tượng trừu
tượng đến gần hơn với tiềm thức mỗi người, bày tỏ sâu sắc quan niệm Đất Nước là của nhân
dân và người trẻ phải có trách nhiệm dựng xây, bảo vệ Đất Nước.

2. Cảm nhận Đất Nước ở góc nhìn địa lý và lịch sử, nhằm lý giải cho câu hỏi: Đất Nước
là gì?

a, Trong việc lý giải, tác giả đã thực hiện chiết tự Đất Nước thành hai nguyên tố “Đất”
và “Nước”.

44
● Cách chiết tự đã khiến cho khái niệm Đất Nước được cụ thể, sống động dựa trên góc
nhìn của nghệ thuật. Mượn cuộc đối thoại giả tưởng để khiến cho màu sắc câu văn
trở nên thân thuộc, gần gũi.
● Khi tác giả tách hai tiền tố ấy ra khỏi nhau -> Cảm nhận những phương diện cụ thể
● Khi tác giả hợp nhất hai tiền tố lại thành Đất Nước chỉnh thể -> Cảm nhận những
phương diện lớn lao.
● Cấu trúc được sử dụng đều đặn, xuyên suốt, nhấn mạnh vào sự cảm nhận độc đáo
của tác giả: “Đất là….”, “Nước là….”, “Đất Nước là….”

b, Đất Nước nhìn từ góc nhìn địa lý

- Đất Nước được bắt đầu từ không gian gần gũi, thân thuộc của mỗi cá nhân:

“Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm”

● Câu văn gợi lên được cảm giác thân thuộc, gần gũi. “Đất” là nơi anh đến trường, là
con đường làng đi học của anh, là con đường mang lại tri thức, là con đường có biết
bao kỉ niệm buồn vui.
● Nước là “nơi em tắm”, là những con sông trong lành tắm mát tâm hồn em dịu dàng,
là những con sông phù sa vun đắp cho đất đai thêm màu mỡ.

- Đất nước phát triển thành không gian riêng tư của tình yêu đôi lứa

“Đất là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”

● Đất Nước là nơi tình yêu đôi lứa bắt đầu, là nơi ta hò hẹn, là nơi trao nhau nghĩa tình.
Đất Nước được cảm nhận qua nỗi nhớ của “em” trong “chiếc khăn tay”. Lời thơ du
dương như dội về những câu ca dao da diết về nỗi nhớ: “Khăn thương nhớ ai/Khăn
rơi xuống đất/ Khăn thương nhớ ai/ Khăn vắt lên vai/Khăn thương nhớ ai/ Khăn chùi
nước mắt”. Đất Nước, anh và em cùng trong một hành trình đi tìm kiếm tình yêu.

- Đất Nước là sự mở ra của không gian hùng vĩ, tráng lệ:

45
“Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”

Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”

● Đất Nước bình dị là thế, giản dị là thế nhưng vẫn mang những nét hùng vỹ và nguy
nga. Ý thơ mang sắc màu kì ảo, lấy cảm hứng từ những câu hát dân ca ở miền Trung.
Câu thơ đã thể hiện sâu sắc quá trình di cư và mở rộng địa bàn của người Việt Nam.
Cách dùng từ “núi bạc”, “biển khơi” cũng tạo ấn tượng về sự thuận lợi và tráng lệ
của đất trời, thể hiện sâu sắc niềm tự hào của tác giả với đất nước.

- Đất Nước là nơi nhân dân cùng đoàn tụ:

“Thời gian đằng đẵng

Không gian mênh mông

Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ

Đất là nơi Chim về

Nước là nơi Rồng ở”

● Những từ láy “đằng đẵng”, “mênh mông” đã gợi nên được chiều dài của thời gian và
độ rộng của không gian. Thể hiện sâu sắc niềm tự hào của nhà thơ với Đất Nước.

+ Tác giả đã khẳng định sâu sắc “Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ”, là nơi các dân tộc
cùng nhau chung sống yên bình, đằm thắm. Bởi vì đây là vùng đất lành nên “Chim về”,
là vùng đất thiêng nên “Rồng ở”. Hình ảnh được sử dụng mang tính kì ảo, tạo ấn tượng
về không gian, thời gian to lớn và quá trình hình thành đất nước gian lao mà thiêng liêng.

=> Đất Nước được cảm nhận nghiêng nhiều về không gian riêng tư, không gian đời
thường. Góc nhìn từ cự ly gần đã phát hiện ra một Đất Nước vô cùng thân thuộc, giản
dị, một Đất Nước dễ thương với mỗi người.

c, Đất Nước nhìn từ góc nhìn lịch sử

46
- Đất Nước gắn liền với quá khứ hào hùng của dân tộc:

“Lạc Long Quân và Âu Cơ

Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng

Những ai đã khuất

Những ai bây giờ

Yêu nhau và sinh con đẻ cái

Gánh vác phần người đi trước để lại

Dặn dò con cháu chuyện mai sau

Hằng năm ăn đâu làm đâu

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”

● Những câu thơ dòng ngắn, ý cô đọng, âm hưởng mang sắc thái trang trọng đã thể
hiện niềm tự hào sâu sắc của nhà văn đối với chiều dài lịch sử hào hùng của dân tộc.
● Đất Nước gắn liền với niềm tự hào nguồn cội người Việt Nam với cha là Lạc Long
Quân, mẹ là Âu Cơ. Cách lý giải ấy đã cho thấy rằng dân tộc ta muôn đời tự hào với
nguồn gốc của mình, là anh em cùng chung một dòng máu Lạc Hồng.
● Đất Nước được đặt trong mối quan hệ sống động giữa quá khứ - hiện tại - tương lai.
‘Những ai đã khuất” là những cố nhân ở quá khứ, những người đã từng “sống và chết,
giản dị và bình tâm” vì sự phát triển của Đất Nước. “Những ai bây giờ” là những
người đang ở thực tại, đang sống và mang trong mình trách nhiệm gìn giữ Đất Nước,
“Gánh vác phần người đi trước để lại”. Để rồi sau đó “dặn dò con cháu chuyện mai
sau”, tiếp nối thế hệ mai sau truyền thống dựng nước và giữ nước đầy hào hùng của
ông cha. Đất Nước có thể tồn tại là bởi có sự tiếp nối ấy, cùng với ý thức, trách
nhiệm của các thế hệ con người Việt Nam.
● Đất Nước được thể hiện qua truyền thống “uống nước nhớ nguồn” tốt đẹp được gìn
giữ qua ngàn thế hệ. Nguyễn Khoa Điềm đã gợi lại tích “Con rồng cháu Tiên”, về
ngày “Quốc tổ Hùng Vương” như muốn nhắc nhở chúng ta về nguồn cội của mình.

47
Lời thơ ấm áp như dội lại những câu ca dao về truyền thống đạo lí tốt đẹp của ông
cha:

“Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba”

(Ca dao)

c. Kết thúc vấn đề

=>Tính liên tưởng được vận dụng đặc sắc, dùng nhiều chất liệu từ văn học dân gian, ngôn
ngữ giản dị, thân thuộc. Đất Nước được tạo nên từ những nền tảng truyền thống văn hóa
đẹp đẽ của dân tộc Việt Nam: Đó là tinh thần yêu nước, trách nhiệm bảo vệ Đất Nước, cần
cù, dũng cảm, kiên cường trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.

3.4 Bài viết mẫu


Phân tích tư tưởng Đất Nước của nhân dân
“Yêu nước” là một khái niệm thật bao la, vĩ đại nhưng đồng thời cũng gần gũi, mộc mạc, rất
đỗi nhỏ bé và riêng tư. Dường như tinh thần ấy luôn sẵn có trong trái tim của mỗi chúng ta,
chỉ là nhịp chảy chậm rãi của cuộc sống đời thường đã ru cho tình yêu đó say ngủ trong đáy
sâu tâm hồn, hoặc giả, ta chưa từng có dịp nhận ra tình yêu ấy dạt dào ra sao. Đọc và tìm
hiểu các tác phẩm văn học ra đời giữa chiến trường khói lửa, ta có cơ hội thấy được tình yêu
đất nước mạnh mẽ, sôi nổi trong mỗi người, ngay cả ở thời hiện tại. Với tôi, đoạn trích “Đất
nước” thuộc trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm là một tác phẩm có
sức lay động lớn lao như thế. Qua tác phẩm, tác giả đã gửi gắm tư tưởng Đất Nước Nhân
Dân vô cùng tinh tế, khéo léo. Chính tư tưởng giản dị nhưng mang ý nghĩa to lớn ấy đã dễ
dàng chạm đến trái tim người đọc qua bao thế hệ.
Tác giả Nguyễn Khoa Điềm sinh ra trong một gia đình tri thức có truyền thống yêu
nước và cách mạng sâu sắc. Vì thế, từ khi còn trẻ, ông đã sớm ý thức mạnh mẽ về tình yêu
quê hương đất nước và luôn hết mình gánh vác sự nghiệp Tổ quốc. Những sáng tác của ông
đem đến cho thơ ca thời chống Mỹ tiếng nói trữ tình thiết tha của tuổi trẻ. Bài thơ “Đất

48
nước” được trích từ Chương V thuộc trường ca “Mặt đường khát vọng”. Tác phẩm được ra
đời năm 1971, viết về sự thức tỉnh của thế hệ thanh niên về non sông gấm vóc và sứ mệnh
cao cả của họ. Với ngòi bút giàu cảm xúc cùng suy tư triết luận, tác giả đã đem đến thi phẩm
“Đất Nước”một màu sắc rất riêng biệt. Đó là những tình cảm rung động, sâu lắng thiết tha
của người chiến sĩ tham gia chiến trường; là những quan điểm triết luận vô cùng sâu sắc,
tinh tế mà không kém phần giản dị, gần gũi của một người trí thức, một người nghệ sĩ. Ông
luôn hướng về nhân dân với tinh thần yêu nước là cảm hứng chủ đạo. Dường như nhà thơ
thấu hiểu rằng: nhân dân ta từ lâu đời luôn chịu nhiều vất vả gian lao, để rồi làm nên những
chiến công vĩ đại một cách thầm lặng. Chính họ đã làm nên Đất Nước. Vì vậy, trong tư
tưởng Đất Nước Nhân Dân của Nguyễn Khoa Điềm, đất nước đã lớn lên và gắn bó mật thiết
với đời sống hằng ngày của Nhân Dân. Đất nước đã hòa quyện vào từng dòng chảy trôi của
cuộc sống, để rồi dù ở bất cứ đâu, bất cứ thời điểm nào, ta cũng nhìn thấy bóng hình Đất
Nước. Và góc nhìn độc đáo ấy của người nghệ sĩ đã được thể hiện rõ qua đoạn trích “Trong
anh và em hôm nay…Đất Nước muôn đời.”
Với bốn câu thơ đầu tiên, ta khó lòng quên được vẻ đẹp của những áng thơ như đang
hát lên cùng lòng người năm tháng ấy. Tình yêu Đất Nước trong tác giả được nuôi dưỡng
lớn mạnh dần từ tình yêu đôi lứa đến tình yêu gia đình, tình yêu quê hương xứ sở. Tình cảm
ấy đã được nhà thơ khéo léo ký thác vào những câu thơ đậm chất trữ tình triết luận.
“Trong anh và em hôm nay
…Đất Nước trong ta hài hòa nồng thắm.”
Trải qua biết bao thăng trầm lịch sử, dân tộc ta mới có thể dựng xây Đất Nước dưới bầu trời
hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc. Trong “hôm nay” của Nguyễn Khoa Điềm chính là
đang nói tới hiện tại của chúng ta, của thế hệ trẻ nối tiếp những trang lịch sử vàng son của
cha ông bao đời. Thế hệ trẻ ấy chính là “anh và em” . Chỉ hai vần thơ ngắn gọn nhưng đủ để
ta nhìn thấy cả bóng dáng mình trong đó. Chúng ta là đồng bào một nước, là những người
anh em máu mủ ruột thịt, luôn che chở, đùm bọc lẫn nhau. Vì vậy hôm nay, ta đều chung
một sứ mệnh tiếp nối cha ông- xây dựng Đất Nước ngày một vững mạnh. Thế nhưng, Đất
Nước của ta hiện tại đâu chỉ có ngày hôm nay, hôm nay không đủ để làm nên Đất Nước. Đất
Nước trong ta còn là ngày hôm qua, là những năm tháng mưa bom bão đạn mà cha ông ta
biết bao người đã “gục súng bỏ quên đời” mà gây dựng, giữ gìn. Bởi vậy mà trong chúng ta
“Đều có một phần Đất Nước”. Chỉ “một phần” thật nhỏ bé nhưng lại đỗi thiêng liêng, gần

49
gũi biết bao nhiêu. Chúng ta đâu cần đi thật xa để kiếm tìm lấy một định nghĩa vẹn toàn về
Đất Nước mà nó ở ngay đây, ngay trong lồng ngực trái của mình. Từ bao thời nay, nó vẫn
luôn khắc in bóng hình Đất nước cờ đỏ sao vàng. Đất Nước đã thực sự hóa thân vào mỗi
người- những ai được sinh ra và lớn lên nơi mảnh đất này. Mỗi người Việt Nam đều đã và
đang thừa hưởng những giá trị vật chất, tinh thần của Đất Nước thành máu thịt, tâm hồn,
nếp cẩm và cách sống của mình. Quả thực, hai từ “hôm nay” thật sâu sắc biết bao!. Qua đó,
trách nhiệm và ý thức của thế hệ trẻ được chú trọng và nâng cao hơn bao giờ hết.
Đến với ý thơ tiếp theo, ‘người kỹ sư tâm hồn’ Nguyễn Khoa Điềm đã tiếp tục mở
rộng ý thơ trên từ “anh và em” đến “hai đứa”. Từ tình yêu lứa đôi nay đã hóa thành tình yêu
gia đình, quê hương xứ sở. Nếu ở hai câu thơ trước, tác giả đã tách riêng hai cá thể “anh” và
“em” thì đến với câu thơ thứ ba, hai cá thể đã được hòa chung thành một. “Cầm tay” là một
hành động hết sức giản dị, gần gũi nhưng sâu trong ấy ẩn chứa những ý nghĩa vô cùng nhân
văn, sâu sắc. Phải chăng đấy là cái cầm tay thể hiện sự nồng nàn của tình yêu? Nhưng
không, đấy là cái cầm tay thể hiện sự đồng lòng quyết tâm kiên cường, không chỉ “anh và
em” mà là của tất cả chúng ta- đồng bào nước Việt Nam đầy mến thương. Cái cầm tay nó
sâu sắc đến nhường nào vậy? Ta cũng đã từng bắt gặp hình ảnh ấy qua câu thơ: “Cầm tay
nhau biết nói gì hôm nay” (Tố Hữu). Trong một hoàn cảnh, đôi khi một hành động nhỏ bé
ấy cũng đủ để thay ta nói lên tất cả. Cái cầm tay là sự chia tay bịn rịn, xao xuyến không sao
thốt nên lời. Đấy đều là những cái “cầm tay” đượm tình nặng nghĩa anh em ruột thịt như
muốn thể hiện một điều rằng “ta luôn có chung một lý tưởng, chung một cội nguồn để trở
về”. Và khi ta cầm tay nhau, một tổ ấm, một gia đình đã được xây dựng. Gia đình là một
phần của Đất Nước. Chỉ có tình yêu và hạnh phúc gia đình mới tạo nên sự “hài hòa, nồng
thắm” của Đất Nước. Ý tưởng cũng đã được tác giả Nguyễn Đình Thi thể hiện trong một tứ
thơ sâu sắc về nỗi nhớ:
“Anh yêu em như yêu Đất Nước
Vất vả đau thương, tươi thắm vô ngần.”
Từ tình yêu, hạnh phúc của lứa đôi mà ta biết đến tình yêu quê hương xứ sở. Từ những tình
cảm riêng tư cá nhân mà ta biết đến tình yêu đối với cộng đồng. Từ đó, trong ta mới có thể
định nghĩa về Đất Nước “hài hòa nồng thắm” là như thế nào. Là khi Đất Nước được tìm
thấy trong niềm vui và nỗi đau của đồng bào, của những người anh em, của bao lứa đôi khác.

50
Có dịp dừng lâu hơn với hai câu thơ tiếp theo, say mê với những vần thơ, chúng ta sẽ nhận
ra “Đất Nước” được vẽ nên bởi một vòng tròn to lớn, tròn trịa với sự đoàn kết chung tay,
đồng lòng của tất cả mọi người:
“Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn.”
“Mọi người” ở đây là những ai, những cái tên nào để ta cùng ở đây cầm tay kết nối nên một
vòng tròn vậy? Như tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã chia sẻ rằng “Tôi luôn cố gắng thể hiện
Đất Nước một cách gần gũi nhất”. Thế nên đối với ông, không cần lấy một cái tên cụ thể,
không cần phải là ai thật vĩ đại, lớn lao. Mọi người chính là nhân dân, là đồng bào của ta, là
những người “không ai nhớ mặt đặt tên nhưng chính họ làm nên Đất Nước.” Bình dị, giản
đơn vậy thôi nhưng sâu sắc, ngọt ngào vô cùng. Nhờ có họ, Đất Nước ta mới có thể “to lớn,
vẹn tròn” đến như thế. Không có họ, có lẽ đã không có Đất Nước của ngày hôm nay. Không
có họ, có lẽ đã không có một điều gì có thể định nghĩa được hai từ “Đất Nước”. Không chỉ
Nguyễn Khoa Điềm mà nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng đã từng dùng lời ca để nói lên điều đó
“Bàn tay ta nắm, nối tròn một vòng Việt Nam.” Đất nước bao la rộng lớn như vậy đấy
nhưng chỉ cần ta “nắm tay”, “cầm tay” nhau như trao thêm sức mạnh dựng xây Đất Nước
“hài hòa vẹn tròn” thì Đất Nước sẽ mãi luôn trong tim ta. Chỉ cần ta mãi bên nhau, kề vai sát
cánh thì “vòng tròn” ấy sẽ không bao giờ bị những thế lực bên ngoài phá vỡ đi hình hài vốn
có của nó. Điều đó cho thấy rằng sự đồng lòng của nhân dân có sức mạnh vĩ đại như thế nào.
Tác giả đã sử dụng hàng loạt các động từ, tính từ “hài hòa, nồng thắm”, “hóa thân” để nhấn
mạnh sức mạnh ấy- sức mạnh được xây dựng bởi tinh thần yêu nước của mỗi người. Với
kiểu cấu tạo câu theo hai cặp đối xứng về ngôn từ “khi-khi”, “Đất Nước- Đất Nước”, kết
hợp với những cảm nhận tinh tế, mới mẻ về sự hòa quyện giữa cái riêng và cái chung. Tác
giả Nguyễn Khoa Điềm đã một lần nữa khẳng định được rằng khái niệm “Đất Nước” không
ở đâu xa vời mà nó hiện diện ngay trong đời sống của ta, trong từng cái cây trước nhà, cây
đa đầu làng, con đường ta đi. Nó còn xuất phát từ tình yêu cá nhân đến tình yêu cộng đồng,
quê hương xứ sở. Ông đã thực sự rất thành công khi thể hiện được tư tưởng, quan điểm mới
mẻ đó của mình.
Với ba câu thơ tiếp theo, chúng đã tạo ra một sức hấp dẫn riêng đối với bạn đọc trên
con đường đi tìm vẻ đẹp văn chương của tác giả Nguyễn Khoa Điềm. Nhà thơ đã gửi gắm
niềm tin mãnh liệt của mình vào tương lai tươi sáng về trước:

51
“Mai này con ta lớn lên
…Đến những tháng ngày mơ mộng.”
“Con ta” chính là những thế hệ sau này, những người con được sinh ra không chỉ bởi tình
yêu đôi lứa mà còn bởi tình yêu nước và tinh thần đoàn kết dân tộc. Như một dòng chảy thời
gian bất tận, nhà thơ đã gợi nhắc về những năm tháng quá khứ của cha công, của những
ngày đầu “Dân ta biết trồng tre mà đánh giặc” cho tới “trong anh và em hôm nay” và bây
giờ là thế hệ con em chúng ta của mai sau này Đấy là một quy luật tạo hóa không thể đổi
dời, thế hệ sau sẽ viết tiếp những giấc mơ dở dang của người đi trước. Như Bác Hồ đã từng
căn dặn rằng “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy
nước.” Hôm nay, ta còn phải mang một sứ mệnh cao cả trọng đại, đấy chính là truyền tải
những trách nhiệm bài học cho “con ta” sau này. Để có thể dựng xây Đất Nước, để có thể
mang Đất Nước đi xa - đi tới một nơi nào đó mà ngay chính nhà thơ cũng không thể biết
một cách cụ thể, chỉ biết rằng đấy chính là “những tháng ngày mơ mộng” . Người ta sẽ chỉ
mơ về những điều tươi đẹp, một tương lai sáng ngời mà thôi. Và nếu không có niềm tin, có
lẽ đã không tồn tại một giấc mơ nào cả. Chính quan điểm này, nó đã bộc lộ được chất thơ
trữ tình sâu sắc của thi nhân. Ông luôn ấp ủ hy vọng : con cháu ta mai sau sẽ tiếp bước cha
ông “gánh vác phần người đi trước để lại” , xây dựng Đất Nước ta “đàng hoàng hơn, to lớn
hơn” . Hai chữ “lớn lên” biểu lộ một niềm tin về trí tuệ và bản lĩnh của nhân dân trên hành
trình lịch sử đi tới ngày mai tươi sáng.
Để mang Đất Nước đi xa, dường như nhà thơ đã đúc kết những lời khuyên tâm tình
vào những vần thơ để thức tỉnh trách nhiệm của thế hệ trẻ hôm nay về tương lai Đất Nước
sau này :
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
…Làm nên Đất Nước muôn đời.”
“Em ơi em” vang lên nghe sao êm đềm như một câu hò vậy. Đấy như là một lời thủ thỉ
trong dân ca đồng bào miền Trung chất phác, thật thà đến lạ. Tác giả muốn nói với “em”
rằng “Đất Nước là máu xương của mình” , là một phần không thể tách rời. Nếu thiếu đi Đất
Nước, ta cũng sẽ không thể tiếp tục cuộc sống của ngày hôm nay. Như chính ông hoàng thơ
tình Xuân Diệu đã từng viết :
“Nghìn năm tổ quốc quê hương
Là hòn đất trộn với máu xương của mình.”

52
Đất Nước trong ta gắn bó mật thiết vậy đấy ! Thiếu đi nó, dòng máu trong ta cũng dường
như ngừng chảy. Dù mai đây Đất Nước đã mang một màu xanh hòa bình, không còn chiến
tranh, không còn mưa bom bão đạn thì ta vẫn phải luôn vẹn tròn với đất nước, “quyết tử
nhất sinh” với Tổ Quốc mình. “Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình” - một tứ thơ
tuyệt đẹp ! Lúc hòa bình, ta biết đem trí lực để dựng xây đất nước. Lúc có chiến tranh, ta
biết đem xương máu để bảo toàn non sông gấm vóc. Điệp từ “phải biết” , “gắn bó, san sẻ”,
nhấn mạnh đây là một nghĩa vụ thiêng liêng. Ta phải “hóa thân” cho dáng hình xứ sở, đưa
Đất Nước ngày càng tươi đẹp, giàu mạnh như cha ông bao đời đã gây dựng. Ở câu thơ cuối,
“muôn đời” ấy chính là hành trình Đất Nước còn dài mãi mãi như đường chân trời không
bao giờ có điểm kết thúc. Để Đất Nước có thể tồn tại đến mãi sau này, thế hệ ngày này phải
nhận thức được những trách nhiệm lớn lao mà nỗ lực nhiều hơn nữa. Niềm mong mỏi ấy
dường như đã được tác giả “cất giấu” sau dấu chấm lửng ở cuối đoạn trích. Dấu ba chấm ấy
như một khoảng lặng mênh mông của những suy tư. Bởi người nghệ sĩ không biết làm cách
nào để nói ra hết tâm tư của mình. Rất nhẹ nhàng, sâu lắng - ông mong ngóng một lời hồi
đáp của những người lắng nghe- mà không ai khác, đấy chính là chúng ta của ngày hôm nay.
Qua thực đôi khi tĩnh lặng như vậy thôi, đó cũng là cách để tác giả Nguyễn Khoa Điềm đi
vào lòng người, chạm vào trái tim của thế hệ độc giả từ xưa đến nay.
Khép lại những trang thơ của người nghệ sĩ nặng lòng với tổ quốc, trong tôi vẫn trào
dâng biết bao cảm xúc. Chúng ta đã từng bắt gặp những định nghĩa Đất Nước thật hiển hách,
hào hùng qua ngòi bút của các người nghệ sĩ. Đấy chính là “từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao
đời gây nên nền độc lập. Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một
vương” trong tác phẩm “Bình ngô Đại Cáo” của tác giả Nguyễn Trãi. Hay Đất nước được
định nghĩa bởi đấng tối cao nắm quyền lực trong tay của mình như “Nam Quốc Sơn Hà” -
“Sông núi nước Nam vua Nam ở” Thế nhưng, có lẽ chưa có một định nghĩa về Đất Nước
nào khiến trái tim tôi rung động đến thế từ khi những vần thơ của tác giả Nguyễn Khoa
Điềm vang lên. Đất Nước trong thơ ca của ông đâu phải điều gì thật lớn lao, phức tạp, khó
hiểu. Nó giản đơn, mộc mạc đến lạ thường ! Chính những điều ấy khiến Đất Nước thật gần
gũi với nhân dân biết bao. Bởi Đất Nước không tự dưng mà có, nó được dựng xây từ bao
đời bởi những con người dù không ai nhớ mặt đặt tên, nhưng chính họ làm nên Đất Nước.
Và đấy cũng chính là Tư tưởng Đất Nước nhân dân mà tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã mang

53
lại. Ông không chỉ gửi gắm một ý niệm thật sâu sắc, xúc động mà còn đem lại những bài
học, những chiêm nghiệm cho thế hệ mai sau này.
Có mặt trên văn đàn như một nhà thơ sắc sảo, tư tưởng nghệ thuật và tài năng sử
dụng ngôn từ, chi tiết, hình ảnh, nhịp điệu,… của tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã trở thành
khuôn mẫu cho việc sáng tác cụ thể và cả quá trình rèn luyện suốt đời của nhiều thế hệ tác
giả văn học Việt Nam hiện đại. Điều đó thể hiện rõ qua “đứa con tinh thần” mà ông đã đem
lại cho độc giả. Ông đã kỳ công khéo léo, lồng ghép những biện pháp nghệ thuật vào bài thơ
để làm nổi bật trọn đầy ý niệm Đất Nước. Cách tư duy chiết tự đầy mới mẻ với danh từ
chung Đất Nước được nhà thơ viết hoa một cách trịnh trọng và thiêng liêng vô cùng. Thêm
vào đó, những hình tượng thơ mộc mạc mà gần gũi đến lạ. Giọng thơ vừa tự sự, vừa trữ tình
như một lời nhắn nhủ nhẹ nhàng nhưng vô cùng sâu sắc. Tác giả Nguyễn Khoa Điềm là một
minh chứng cho sự thật rằng ta không cần “đao to búa lớn”, không cần phải khoác lên mình
những triết lý giáo huấn có phần khô khan và cứng nhắc ; ông cứ thế đi theo cách của riêng
mình mà vẫn có thể mang lại cho nhân dân một khái niệm Đất Nước thật vẹn tròn biết bao.
Nguyễn Khoa Điềm đã nhẹ nhàng chạm vào trái tim người đọc theo cách như vậy
đấy. Ông thực sự đã làm trọn đầy cả trách nhiệm của một thế hệ đi trước, truyền đạt lại
những bài học quý giá cho thế hệ chúng ta hôm nay. “Đất Nước” của người nghệ sĩ vĩ đại
ấy đã làm sáng tỏ sự trường tồn của một tư tưởng sâu sắc, độc đáo mặc cho dòng chảy thời
gian cuối phăng đi tất cả. Chúng ta- thế hệ mai sau này phải biết giữ gìn, phát huy mãi
những lý tưởng cao đẹp ấy để Đất Nước Việt Nam này mãi là của chúng ta. Vì nó được đúc
kết quá nhiều công sức, lý tưởng và kết bằng máu, xương thịt cùng với trái tim nóng bỏng
của biết bao người đã ngã xuống. Vì vậy, ta hãy luôn tự tin rằng :
“Nếu được làm hạt giống mai sau
Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa
Vui gì hơn là người lính đi đầu
Trong đêm tối tim ta ngọn lửa.”
(Tố Hữu)
Và như lời hứa hẹn “mang Đất Nước đi xa” với cha ông ta, câu trả lời đích thực là
hành động của chính ta trong tương lai.

Nguyễn Khoa Điềm từng viết:

54
“Bởi vì Người là người đầu tiên
Yêu miền Nam trong trái tim mình
Yêu tuổi trẻ miền Nam 25 năm
Chưa có được ngày hạnh phúc
mà Người dạy chúng tôi
Hãy bền gan mà đánh giặc
Dẫu phải chết cũng không khuất phục
Không có gì quý hơn Độc lập, Tự do”
Nhắc đến tên tuổi của Nguyễn Khoa Điềm là nhắc đến nhà thơ của quê hương, đất nước và
tự do độc lập. Mặc dù trên bản đồ văn học Việt nam, đất nước đã trở thành thi liệu cho rất
nhiều nhà thơ, nhà văn nhưng “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm mang một màu rất khác.
Đất Nước đã lớn lên dịu dàng như lời ca của Hoàng Cầm trên sông Đuống, như vần thơ kiêu
hãnh của Nguyễn Đình Thi. Nhưng với Nguyễn Khoa Điềm,ông viết về đất nước mà không
triển khai vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ hay chiến trường ác liệt mà gần gũi, bình dị, đậm đà
văn hóa dân gian. “Đất Nước” của ông không chỉ là cá ngoài ta mà còn ở chính bên trong
mỗi con người. Vẻ đẹp đất nước ấy đặc biệt thể hiện qua:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
….
Làm nên Đất Nước muôn đời”
Qua những dòng thơ thấm đượm tình cảm, tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân được Nguyễn
Khoa Điềm bộc bạch một cách rõ nét.

Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là người con đất Huế. Sinh ra trong thời thế chiến tranh loạn
lạc nên từ nhỏ ông đã có tinh thần nồng nàn yêu nước. Nguyễn Khoa Điềm là một trong
những nhà thơ thời kháng chiến chống Mỹ. Ông trực tiếp là người tham gia chiến trận, vậy
nên thơ ca cách mạng của nhà thơ xứ Huế rất chân thực, mang đậm màu sắc trữ tình hòa
quyện với tư duy một người tri thức. Trong kháng chiến chống Mỹ, thơ ông thể hiện rõ
những nét đẹp của người Việt và bản chất anh hung fbaats khuất của chiến sĩ Việt Nam. các
tác phẩm tiêu biểu của ông có thể kể đến như “Đất ngoại ô”, “Ngôi nhà có ngọn lửa ấm” và
trường ca “Mặt đường khát vọng”.

55
Đoạn trích ”Đất Nước” thuộc phần đầu chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng”
được sáng tác ở chiến khu Trị - Thiên năm 1971. Đó là thời kì máy bay Mỹ đánh phá dữ dội.
B52 dội bom liên tục khiến mọi thứ tối tăm, mù mịt. Tác phẩm viết về sự thức tỉnh của tuổi
trẻ các vùng bị tạm chiếm miền nam, hướng về nhân dân, đất nước. Nhà thơ từng tâm sự về
đất nước: “Đất nước là một giá trị lâu bền, vĩnh hằng, đất nước được tạo dựng, bồi đắp qua
nhiều thế hệ. Cho nên “khi ra lớn lên đất nước đã có rồi”.

Từ sự gắn bó sâu sắc của nhân dân với đất nước trong tư tưởng Nguyễn Khoa Điềm, ông đã
phát hiện một chân lý giản dị mà sâu sắc: đất nước là sự thống nhất của nhiều yếu tố, cái
riêng và cái chung, cái hằng ngày và cái vĩnh hằng. Đất nước luôn có trong mỗi con người:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước”
Qua những dòng thơ trăn trở của Nguyễn Khoa Điềm, ta thấy ở đó không đơn thuần là thơ
mà con là tư tưởng, tình cảm của tác giả. Tác giả đã gửi gắm tâm tư của mình vào đất nước,
“đất nước trong anh và em hôm nay”. Đặc biệt hơn đó là cách xưng jpp “anh-em” ngọt ngào
thủ thỉ tâm tình. “Bên kia sông Đuống” của Hoàng cầm cũng đã sáng tạo ra một đối tượng
như vậy để hĩa bày khi nghe tin quê hương Kinh Bắc bị tàn phá:
“Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống”
Nhà thơ nhấn mạnh hai chữ “hôm nay” như để lan tỏa lời nhắn gửi ra xa mãi, vượt qua sức
tàn phá của thời gian, chạm tới trái tim bạn đọc dù bất cứ thời điểm nào. Vì sao trong anh và
em hôm nay lại có một phần đất nước? Bơi đất nước là nơi ra sinh ra, là nơi ra lớn lên với
biết bao kỉ niệm thơ ấu. Mỗi con người đều mang trong mình dòng máu Lạc Hồng, được
thừa hưởng di sản văn hóa vật chất, tinh thần, từ phong tục tập quán đến từng ngọn lửa, hạt
gạo. Vì vậy đất nước hiện hữu trong mỗi cá nhân. Ta từng bắt gặp tư tưởng ất trong tác
phẩm “Quê hương” của Giang Nam:
“Nay yêu quê hương từ trong từng nắm đất
Có một phần máu thịt của em tôi”

56
Đất Nước kết tinh và hóa thân trong con người.Nhưng đất nước chỉ thwucj sự hình thành
khi con người biết kết nối, iết cầm tay nhau:
“Khi hai đứa cầm tay
Đất nước trong chính mình hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn to lớn”.
Tác giả sử dụng thành công nghệ thuật điệp cấu trúc “Khi…Đất nước”. Từ đó giúp tác giả
bộc lộ được cảm nhận về đất nước trong các mối quan hệ. Tình yêu đôi lứa riêng tư đã mang
trong nó vẻ đẹp hài hòa, nồng thắm khi anh à em cầm tay nhau, Cái riêng tư của tình yêu đôi
lứa gắn bó với cái chung của tình yêu đất nước, đất nước lúc này trở nên “hài hòa nồng
thắm”. Khi chúng ta cầm tay mọi người, liên kết gắn bó với cộng đồng tạo nên khối đại
đoàn kết dân tộc, đất nước vẹn tròn to lớn,tầm vóc, trường tồn và phát triển. Đất nước chính
là sự thống nhất giữa tình yêu lứa đôi và tình yêu tổ quốc, giữa cá nhân và cộng đồng. Nói
như một nhà thơ người Pháp: “Từ chân trời một người đến chân trời của nhiều người”.

Đất nước “nguồn thiêng ông cha”, đất nước “trong anh và em hôm nay”, đất nước trong mai
sau như một nhắn nhủ, như một kỳ vọng sáng ngời niềm tin:
“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”
“Mai này” là thời gian tương lai, “con ta” là thế hệ trẻ, là mầm non tương lai của đất nước.
“con ta” cũng là cách nói ẩn dụ cho niềm tin, khát vọng, cho những ước mơ ngày một lớn
hơn và cũng là đứa con tinh thần sinh ra từ người yêu đất nước. Nhà thơ đã thể hiện niềm tin
mãnh liệt vào thế hệ mai sau, vào những ước mơ tốt đẹp của tương lai. Rõ ràng, ý thơ nói
đến chuyện mai sau - chuyện chưa tới, nhưng lời thơ mạch lạc, dứt khoát như thể đó là viễn
cảnh chắc chắn xảy ra, rằng đất nước sẽ có ngày thật rực rỡ. Sự rực rỡ đó là nhờ vào những
đứa cpn mai này, con sẽ mang đất nước đi xa. Động từ “mang” kết hợp với “đất nước
“ khiến cho người đọc hình dung, “Đất Nước” không chỉ là khái niệm trừu tượng mơ hồ, mà
đất nước trở nên hữu hình gắn với bổn phận, trách nhiệm của mỗi cá nhân. Có lẽ cụm từ
“những ngày tháng mơ mộng” ở cuối câu thể hiện những ngày tháng hòa bình và kết cục

57
viên mãn cho Tổ quốc sau này. Đó là cách nói tượng trưng cho kỷ nguyên độc lập, tự do,
cho nguyện ước ông cha đã chờ đợi bấy lâu.

Để có được ngày tháng mơ mộng ấy, để đất nước ngày càng đi tới những vì sao ngoài vũ trụ
rộng lớn kia thì mỗi chúng ta cần có trách nhiệm gánh vác trên vai Đất Nước mình:
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất nước muôn đời”.
Đoạn thơ mở đầu với tiếng gọi thân tình mà tha thiết “Em ơi em” như lời thủ thỉ dặn dò của
người yêu dành cho người yêu, của người anh dành cho người em, tâm tình về giá trị của
Đất Nước trong mỗi trái tim. tác giả sử dụng hình ảnh so sánh “Đất nước là máu xương của
mình”. Không phải “như” mà là “là”. Từ “là” ấy nghe bình thản mà sao thật mạnh mẽ, nó
khẳng định giá trị bền vững, vĩnh hằng của đất nước trong mỗi người. Ta quý trọng cơ thể
bao nhiêu, ta cần đấu tranh để bảo vệ đất nước như thế. Không có xương máu, ta sẽ trở về
với cát bụi. Không có Đất Nước, cuộc đời ta cũng hóa vô nghĩa mà thôi. Như vậy đất nước
gắn bó máu thịt, có vai trò quan trọng với mỗi người. Bởi Chế Lan Viên từng chia sẻ:
“Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như cha mẹ ta như vợ như chồng”
Bằng giọng thơ trữ tình chính luận và sử dụng điệp ngữ “phải biết”, tác ỉa như khắc sâu ý
thức, trọng trách của con người. Tác giả đã liệt kê một loạt động từ mạnh theo chiều tăng
tiến: gắn bó - san sẻ - hóa thân. Gắn bó là phải dành cho đất nước tình yêu tha thiết, chung
thủy, Còn san sẻ tức mỗi người phải biết chia sẻ, gánh vác trách nhiệm với đất nước. Cuối
cùng - hóa thân là sẵn sàng hy sinh, dâng hiến tuổi xuân để làm nên mùa xuân đất nước.
Đúng như lời ca:
“Là người, tôi sẽ chết cho quê hương”
Lời thơ như từng đợt sóng xô vào lòng người đọc, từng đợt từng đợt, để khắc sâu trách
nhiệm của con người. Cụm từ “dáng hình xứ sở” giàu sức gợi tả về mọi miền đất nước ra.
Trên tấm bản đồ đất nước ta thấy hình chữ S, bắt đầu cho sức sống, san sẻ và sinh sôi. Câu
thơ cuối đặc biệt khi kết thúc bằng dấu ba chấm như chưa thể nói hết tình yêu dành cho Tổ
quốc. Câu thơ tạo nên dư âm trong lòng người đọc. Khi mà đôi mắt ta còn nhìn đất nước của

58
hiện tại thì trái tim đã đập những nhịp hi vọng về một đất nước ở tương lai, đất nước của
“muôn đời”
“Ôi kháng chiến mười năm qua như ngọn lửa
Ngàn năm sau vẫn đủ sức soi đường”
(Chế Lan Viên)

Chiến tranh qua đi, cuộc kháng chiến chống Mỹ dần lùi vào lịch sử. Những ký ức về những
năm tháng hào hùng đó không thể nào quên được. Những năm tháng khói lửa bom đạn mịt
mù, cả nước gồng mình lên đánh giặc để giành lại độc lập ấy đã lay động trái tim yêu nước
tha thiết của Nguyễn Khoa Điềm. Ông đã thấu hiểu sự hy sinh to lớn và trách nhiệm bảo vệ
đất nước của dân tộc, từ già trẻ, gái trai, lớn bé đều góp phần vào công cuộc xây dựng đất
nước. Chứng kiến cảnh tượng trong những năm tháng ấy, Nguyễn Khoa Điềm đã thấm
nhuần tư tưởng đất nước là của nhân dân. Sẽ là một “cú tát” vào lòng tự trọng của mỗi thi
nhân nếu dễ dãi buộc mình phải như người khác, lấy đôi gàu người thử đôi chân mình. Nghề
viết này là cái nghề nhưng cũng là cái nghiệp rất lớn. Cái lớn ở đây là anh phải làm sao để
mình không bị mờ nhạt giữa vô vàn kẻ viết khác, để mình không tàn đi lặng lẽ như một đốm
tro giữa bếp đời biến thiên. Nhà thơ với tư tưởng và ngòi bút mới lạ - Đất Nước Nhân Dân
đã thành công dệt nên một trang màu mới cho thi đàn văn học Việt Nam, khơi gợi lên lòng
yêu nước từ những điều bình phàm, nhỏ bé mà gần gũi. Những điều ấy đã tạo nên hai tiếng
Đất Nước thiêng liêng trong thơ Nguyễn Khoa Điềm. Nói như I.Ê-ren-bua: “Lòng yêu nhà,
yêu làng xóm, yêu miền quê đã trở nên lòng yêu Tổ quốc”.

Đoạn trích trong chương V “Mặt đường khát vọng” giàu chất trữ tình chính luận, vừa được
viết bằng chiều sâu trí tuệ, vừa được viết bằng những rung động mãnh liệt của cảm xúc nên
rất dễ đi vào lòng người. Các chất liệu văn hóa dân gian được nhà thơ sử dụng nhuần
nhuyễn, sáng tạo, đem lại sức sống hấp dẫn và thể hiện rõ tư tưởng Đất Nước của Nhân dân.
giọng điệu xuyên suốt đoạn trích là giọng thơ tâm tình, tha thiết, sâu lắng như đôi lứa yêu
nhau làm nội dung nghị luận vốn khô khan trở nên thấm đẫm ngọt ngào.

Mạch nước âm ỉ chảy dưới vách núi đã thay đổi qua những ngày xuân xanh đến những
chiều thu buồn. Những đền đài rồi sụp đổ dưới ánh chiêu sthowif gian, những tranh tường

59
rồi tiêu tan thành bụi vàng quá khứ. Thế nhưng giá trị của Đất nước vẫn ở đó, tư tưởng Đất
nước của Nhân dân vẫn vững bền theo thời gian, phủ kín khoảng không vô tận của vũ trụ.
Đất nước luôn còn đó nhân dân luôn còn đó. Nhân dân làm nên đất nước còn đất nước bao
bọc nhân dân. Nguyễn Khoa Điềm đã để lại cho chúng ta một “Đất Nước” gần gũi, dịu dàng
mà thiêng liêng lắm!

4. Tác phẩm Sóng

4.1 Đề bài 1:
Phân tích 2 khổ thơ đầu trong thi phẩm “Sóng” của Xuân Quỳnh.

a.Đặt vấn đề

1. Tác giả

Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ tiêu biểu nhất của các thế hệ nhà thơ trẻ thời kì
chống Mĩ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn
nhiên, tươi tắn, vừa chân thành, đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng về hạnh phúc đời
thường.

2. Tác phẩm

Bài thơ được sáng tác vào 29-12-1967 tại biển Diêm Điền. “Sóng” là một bài thơ tình đặc
sắc. Tác phẩm là sự khám phá những khát vọng tình yêu của một trái tim phụ nữ mãnh liệt
mà chân thành, giàu khát khao nhưng cũng rất tự nhiên. “Sóng” tiêu biểu nhất cho phong
cách thơ tình yêu của Xuân Quỳnh.

b. Giải quyết vấn đề

TỔNG

– Sóng là một hình tượng động, bất biến. Vì vậy, sóng được nhiều nhà thơ chọn làm thi liệu
để biểu tượng cho tình yêu. Nếu “Biển” của Xuân Diệu là tình yêu thiết tha, nồng cháy thì
“Sóng” của Xuân Quỳnh lại là những cung bậc tình cảm của người phụ nữ trong tình yêu.

60
“Sóng” là tiếng nói của một tâm hồn thiếu nữ, tiếng nói của một trái tim chân thành, khao
khát được sống hết mình và yêu hết mình.

– Sóng là hình tượng trung tâm xuyên suốt bài thơ. Nghĩa tả thực, đó là những con sóng
biển được diễn tả chân thực, sinh động với nhiều trạng thái mâu thuẫn, trái ngược nhau.
Nghĩa biểu tượng, sóng gợi đến sự phong phú, phức tạp trong tâm hồn người con gái đang
yêu. Mỗi khổ thơ là một khám phá về sóng – tâm hồn người phụ nữ khi yêu.

PHÂN

1. Sóng là đối tượng để em cảm nhận, giãi bày những trạng thái tâm lí phong phú của
tình yêu (khổ 1, 2)

1.1 Khổ 1: Sóng và tâm hồn người con gái khi yêu.

Từ sóng, em khám phá đặc điểm của tình yêu và cảm nhận những những trạng thái mâu
thuẫn trong tâm hồn người phụ nữ khi yêu.

Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ

Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể

– Nghĩa thực của hình tượng sóng: trạng thái biến động và hành trình tự khám phá của sóng.
Bài thơ mở đầu với 4 tính từ, tạo thành 2 cặp đối nhau “dữ dội” >< “dịu êm”, “ồn ào” ><
“lặng lẽ”. Đó là những đối cực của sóng biển. Vừa mạnh mẽ, gào thét, thoắt cái sóng lại trở
nên hiền hòa, êm đềm. Các trạng thái của sóng luôn chuyển hóa lẫn nhau, đắp đổi cân bằng,
tạo nên sự biến đổi không ngừng. Trước những trạng thái đầy mâu thuẫn của bản thân, sóng
khát khao tự nhận thức, tự khám phá. Xây dựng cặp hình ảnh đối “sông” – “biển”, Xuân
Quỳnh gợi lên không gian sông hồ chật hẹp và không gian biển khơi mênh mông. Như vậy,
với sức sống mãnh liệt, sóng không chấp nhận cuộc sống chật hẹp của sông hồ nên tìm ra
tận bể khơi, đến không gian khoáng đạt để hiểu thêm về chính mình, nhận thức được sức
mạnh và những khát khao của bản thân.

61
– Nghĩa ẩn dụ của hình tượng sóng: những trạng thái đầy mâu thuẫn trong tâm hồn người
con gái khi yêu và khát vọng tình yêu cao cả của người con gái. Xuân Quỳnh đã phả vào
hình tượng sóng hơi thở yêu đương nồng nàn của mình, mượn nhịp sóng để thể hiện nhịp
lòng. Cũng như sóng, tâm hồn người con gái khi yêu mang những biến động đầy mâu thuẫn,
thất thường, “dữ dội” >< “dịu êm”, “ồn ào” >< “lặng lẽ”. Cảm xúc vừa mạnh mẽ, sôi nổi đã
trở nên êm đềm, sâu lắng; mới hạnh phúc dâng trào đã chợt thành tận cùng đau khổ. Tâm
trạng người con gái khi yêu không bình lặng, bất biến mà luôn vận động từ đối cực này sang
đối cực khác. Vì thế, người con gái khao khát tìm được sự đồng điệu, đồng cảm trong tình
yêu và muốn bắt đầu cuộc hành trình để nhân thức tình yêu, nhận thức về bản thân mình.
Cặp hình ảnh đối “sông” – “biển” không chỉ gợi lên sự đối lập về không gian mà còn gợi lên
sự tương phản trong tình yêu. “Sông” là tình cảm nhỏ bé, ích kỉ còn “biển” là tình yêu rộng
lớn, bao dung. Trái tim người con gái không chấp nhận tình cảm tầm thường, nhỏ hẹp mà
chủ động, khao khát tìm đến với tình yêu rộng lớn, vững bền để được hiểu mình, đánh giá
đúng mình. Đoạn thơ thể hiện quan niệm tình yêu tiến bộ và mạnh mẽ của người phụ
nữ thời đại. Đây là nét mới trong “Sóng” của Xuân Quỳnh.

1.2 Khổ 2: Sóng và khát vọng tình yêu của tuổi trẻ.

– 2 câu đầu: Sự trường tồn của sóng biển.

Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày sau vẫn thế

Biện pháp đối “ngày xưa” – “ngày sau” và cụm từ “vẫn thế” khẳng định sự tồn tại bất biến
của sóng từ quá khứ đến tương lai.

– 2 câu sau: Sự vĩnh hằng của tình yêu. Cũng như sóng, tình yêu của nhân loại tồn tại
mãi với thời gian.

Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ

62
Từ quy luật tự nhiên, Xuân Quỳnh khám phá quy luật của cuộc sống. Từ láy “bồi hồi” diễn
tả tâm trạng xao xuyến, bâng khuâng, thổn thức, không yên. “Khát vọng” là sự đam mê
cháy bỏng, mãnh liệt, không có giới hạn cuối cùng. Như vậy, khát vọng tình yêu là khát
vọng muôn đời của nhân loại, mà mãnh liệt nhất là của tuổi trẻ. Tình yêu luôn song hành với
tuổi trẻ.

=> Xuân Quỳnh đã mượn nhịp sóng để thể hiện nhịp lòng của chính mình. Đoạn thơ là tiếng
nói của trái tim chân thành và đam mê, luôn rực cháy mãnh liệt, khao khát được sống hết
mình và yêu hết mình.

HỢP

– Âm điệu của bài thơ “Sóng” là âm điệu của những con sóng thực trên biển và cũng là nhịp
điệu của những con sóng lòng của nữ sĩ. Thể thơ 5 chữ giàu nhịp điệu, nhiều khổ, cắt khổ
không đều nhau tạo âm hưởng dào dạt, nhịp nhàng, khi trào lên, khi dội vang, khi lan xa.

– Bài thơ được kết cấu trên cơ sở nhận thức sự tương đồng, hòa hợp giữa hai hình tượng trữ
tình: sóng và em. Có lúc”sóng” và “em” phân đôi để soi chiếu, tìm sự tương đồng nhưng
cũng có lúc “sóng” hòa nhập cùng “em”, tạo sự âm vang, cộng hưởng. Cấu trúc song hành
này góp phần tạo nên chiều sâu nhận thức và nét độc đáo cho bài thơ.

c. Kết thúc vấn đề

“Sóng” là một hình tượng sáng tạo độc đáo của Xuân Quỳnh. Qua hình tượng “sóng”, trên
cơ sở khám phá sự tương đồng, hòa hợp giữa “sóng” và “em”, bài thơ diễn tả tình yêu của
người phụ nữ thiết tha, nồng nàn, chung thủy, muốn vượt lên thử thách của thời gian và sự
hữu hạn của đời người. Qua bài thơ, ta nhận ra vẻ đẹp tâm hồn của thi nhân trong tình yêu.

4.2 Đề bài 2:
Viết đoạn văn bày tỏ suy nghĩ của mình về hai câu thơ:
“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
Có dị bản viết: “Sóng không hiểu nổi mình – Sóng tìm ra tận bể”. Anh/chị
nghĩ gì về ý thơ này?

63
*Bài viết 1:
Nếu hai câu thơ trước Xuân Quỳnh đã mượn trạng thái vận động đối lập của con sóng
ngoài khơi xa để phản chiếu tâm hồn của người phụ nữ khi yêu với đủ mọi cung bậc cảm
xúc , khi dữ dội, ồn ào lúc lại thật dịu êm, mạnh mẽ thì đến với hai câu thơ sau người đọc lại
được chứng kiến nguyên nhân của quá trình sóng ra đi tìm đến nơi mình có thể hiểu và được
hiểu chính mình “ Sông không hiểu nổi mình/ sóng tìm ra tận bể”. “Sông” là không gian nhỏ
đôi khi không đủ rộng lượng để thấu hiểu hết những tâm tư thầm kín của em khiến em lạc
lõng và cô đơn trong mối quan hệ của chính mình. Bởi điều em cần là sự lắng nghe và chia
sẻ vì vậy cô gái ấy đã bước ra đi tìm đến một không gian rộng lớn, một chân trời mới mẻ và
ẩn chứa bao điều chưa được khám phá, một nơi em có thể bộc bạch hết tâm tư, nỗi lòng
mình ở đó. Ẩn giấu trong vần thơ ấy cũng chính là cuộc hành trình con người đi tìm tình yêu
đích thực cho đời mình. Người phụ nữ thường khao khát sự bình yên, êm đềm trong tình
yêu nhưng không vì thế mà họ cam chịu chấp nhận mối quan hệ không tồn tại sự đồng điệu
và thấu hiểu lẫn nhau bởi tình yêu chỉ thực sự thăng hoa khi đôi bên là tri âm tri kỷ. Hơn
nữa đó là chuyến đi bước ra ngoài vùng an toàn để thử thách khả năng của bản thân và hiểu
hơn về con người mình. Ở một số dị bản của bài thơ thì “sông” được thay bằng “sóng” đã
đem đến cách hiểu vô cùng đặc biệt. Phải chăng mỗi con sóng tìm về với biển cũng chính là
cuộc hành trình tôi đi tìm tôi của mỗi người? Đó là lúc ta va vấp với cuộc đời, là khi ta đào
sâu vào trong bản ngã của chính mình để ta biết mình là ai biết mình muốn gì và làm được
gì. Bởi nếu chọn cách an phận ở mãi trong vòng tròn của sợ hãi, chấp nhận những giới hạn
của mình thì chẳng bao giờ ta biết mình có thể vươn xa đến đâu. Vì điều quan trọng nhất
không phải tìm cho ra người luôn hiểu mình mà chính mình phải là người đầu tiên làm được
điều đó. Nhưng dù là “ sông không hiểu… “ hay “ sóng không hiểu….”. Ý thơ cũng đều
đem đến cho người đọc những trải nghiệm đầy thú vị và góc nhìn thật sâu sắc trong tình yêu
và đời sống. Đồng thời những vần thơ cũng giúp ta hiểu được một trong những nguồn động
lực lớn lao để sóng bắt đầu cuộc hành trình này chính là được định nghĩa chính mình. Vốn
dĩ “sóng” về với biển là một quy luật của tạo hóa nhưng nhà thơ đã sử dụng cụm từ tìm ra
nhấn mạnh sự chủ động của “sóng”. Phải chăng Xuân Quỳnh muốn khẳng định một điều
rằng mỗi người phụ nữ đều có đủ khả năng để tự quyết định và viết nên cuộc sống của mình?
Nó cũng là một tư tưởng vô cùng hiện đại của nữ thi sĩ khi vào thời điểm ấy bà đã phá vỡ
những định kiến của xã hội cũ rằng người con gái phải yên phận chờ đợi mà không được

64
phép lên tiếng trước. Nhà thơ cho rằng ai cũng có thể đi tìm tình yêu mang tên mình có một
bến đỗ bình yên, một hạnh phúc đích thực chứ không phải buộc mình theo khuôn khổ của
thời đại mà đánh mất quyền được hạnh phúc vốn có.
*Bài viết 2:
“ Sóng không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
Ta có thể hiểu hai câu thơ gợi những nét nghĩa khác nhau căn cứ vào chức năng của
“sóng”. Ta có thể coi “Sóng” là một chủ thể cảm nhận hai câu thơ sẽ là một câu ghép chính
phụ. Ý thơ sẽ là một lời tuyên bố và khẳng định: Sóng không hiểu nổi những khát vọng của
mình, sóng quyết định, dứt khoát ra đi từ bỏ nơi chật hẹp, từ bỏ một không gian an toàn
nhưng nay đã không còn phù hợp để tìm ra tận “bể” - nơi có sự đồng cảm lớn lao, nơi có thể
tìm thấy tình yêu đích thực. Nếu như thời xưa người phụ nữ thường trong thế bị động
“Thuyền về thuyền có nhớ bến chăng/ Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”, họ phụ
thuộc dựa dẫm vào người con trai thì trong thơ Xuân Quỳnh người phụ nữ lại khát khao tình
yêu, bến bờ bình yên, xong không vì thế mà cam chịu nhẫn nhịn mà họ đầy bản lĩnh, kiêu
hãnh. Và cũng thể hiểu “sóng” là một trạng ngữ chỉ không gian, hoàn cảnh bối cảnh sống
chi phối mạnh mẽ tới tâm hồn, tính cách con người. Ý thơ thể hiện sự kiên quyết, chủ động
của “sóng” khi tiến hành hành trình tìm về với “bản ngã” của mình. Giới hạn hai bờ sông
làm “sóng” khó chịu, bức bối nên sóng kiên quyết tìm ra biển lớn mênh mông, phóng
khoáng để thỏa sức vẫy vùng, để đồng điệu, hòa nhịp cùng lòng biển bao la. Sóng khao khát
được giải phóng khỏi mọi giới hạn để thực sự là mình, tìm đến tình yêu đích thực. Ở một số
dị bản của bài thơ sóng người ta viết rằng “sóng không hiểu nổi mình”. Câu thơ đã thể hiện
trực tiếp nhận thức của sóng về chính mình, sóng cảm thấy mình như đang bị trói buộc cản
trở bởi “ chưa hiểu mình”, trong sâu thẳm trái tim dịu dàng chân thành của người phụ nữ
dường như là một chân trời mới bí ẩn chưa được khám phá chính khát vọng sống đang cháy
bỏng đến mãnh liệt trong lồng ngực đã thôi thúc họ tiến ra bể lớn để tìm về với chốn bình
yên để sống đúng với bản ngã với khát khao được yêu và dâng hiến cũng cho tình yêu. Dù
hiểu theo cách nào câu thơ cũng gợi ra một ý nghĩa sâu sắc trong tình yêu và đời sống của
mỗi chúng ta giữa nhân gian vô tận và giúp ta hiểu rằng hành trình sóng tìm về với bà cũng
là hành trình “ tôi đi tìm tôi” tìm về với chốn bình an nơi tôi được sống với chính mình với
cuộc đời tôi hằng mong ước.

65
“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
Hai câu thơ được đặt trong chuyến hành trình của sóng: từ sông ra bể. Sóng đi từ không gian
chật hẹp của “sông” và hướng đến không gian bao la, rộng lớn của “bể”. Hai không gian đối
lập nhau đặt song song cùng hai câu thơ đầu với những tính từ đối lập. Không gian “sông”
gợi ra vùng giới hạn an toàn, xưa cũ mà đối với sóng đấy không còn là không gian phù hợp
nữa, con sóng tìm đến biển cả rộng lớn. Hai câu thơ thực ra là sự mâu thuẫn về quan điểm:
một người khao khát khám phá nhiều hơn nữa, một người mong muốn sự an toàn. Có lẽ,
trong tình yêu, không có ai sai trong tình yêu, đây là sự khác biệt về quan điểm tình yêu. Sự
khác biệt này vốn dĩ đã tồn tại trong nhiều tác phẩm thơ ca trung đại và hiện đại nhưng có lẽ
chỉ đến thơ Xuân Quỳnh, sự dũng cảm của người phụ nữ khi tìm kiếm tình yêu mới được
bộc lộ trực tiếp không hề che giấu. Xuân Quỳnh đã xây đắp hình tượng một người phụ nữ
dám tin và dám đối diện với tình yêu. Tác giả đã lắng nghe sự thật của trái tim người phụ nữ
- lắng nghe sự thật đáng tin nhất trong sâu thẳm tình cảm trong họ. Hành trình sóng tìm đến
biển khơi là hành trình muôn thuở - một hành trình chủ động và tự nguyện. Xuyên suốt hai
câu thơ, nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật nhân hóa. Con sóng không chịu giam mình trong
không gian chật hẹp của sông nên luôn tìm cách vươn ra biển lớn. Ở không gian ấy, sóng
được thỏa sức vẫy vùng để kiếm tìm niềm đồng cảm sẻ chia. Câu thơ mang ý nghĩa biểu
tượng và mang đậm dấu ấn cuộc đời Xuân Quỳnh. Hành trình của sóng từ sông tìm ra biển
chính là hành trình của người phụ nữ Xuân Quỳnh dám bứt phá khỏi tình yêu “vị kỉ”, không
đồng điệu với “hạnh phúc cứng nhắc” và tự mình kiếm tìm một tình yêu chân chính, đích
thực trong tương lai. Giống như nhà thơ Chế Lan Viên từng nhận xét: “Thi sĩ không phải là
người. Nó là người mơ, người say, người điên. nó là tiên, là ma, là quỷ, là tin, là yêu”. Và
chắc hẳn, đến với thơ Xuân Quỳnh, bạn đọc không khó để bắt gặp một vẻ đẹp hiện đại, chủ
động, mạnh mẽ của một người phụ nữ hiện đại đầy tự tin, bản lĩnh làm chủ cuộc đời mình.
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ”
Hai câu thơ đầu bài thơ đã mở ra trạng thái - tính chất của sóng. Tác giả sử dụng cặp tính từ
có ý nghĩa trái ngược nhau “dữ dội”, “ồn ào” đặt cạnh “dịu êm”, “lặng lẽ”. Đây là những
đặc điểm chân thực của sóng biển do Xuân Quỳnh quan sát. Con sóng được diễn tả cả hai
trạng thái: lúc “phong ba bão táp” và khi “trời yên biển lặng”. Việc đặt hai cặp tính từ trái

66
nghĩa cạnh nhau mang ý nghĩa biểu tượng về những cung bậc cảm xúc phong phú, đa dạng
trong tâm hồn người phụ nữ khi yêu. Đó là sự mâu thuẫn giữa nét dịu dàng, say đắm với sự
nồng nàn, mãnh liệt sôi nổi của họ. Từ “và” được lặp lại hai lần như khẳng định những tính
chất đối cực nhau của “sóng” luôn bao hàm trong một thể thống nhất. Điều đó cũng giống
như cung bậc cảm xúc phong phú của người phụ nữ khi yêu luôn song hành tồn tại. Đồng
thời, việc sử dụng quan hệ từ “và” mang hàm ý về những xúc cảm cùng tồn tại trong trái tim
người phụ nữ. Xuân Quỳnh đã cảm nhận và thấu hiểu những mâu thuẫn trong tâm trạng
cùng xuất hiện trong tâm hồn người con gái khi yêu và viết thành thơ trong sự chuyển động
của sóng. Hai câu thơ đem đến cái nhìn đẹp về trái tim người phụ nữ khi yêu: tuy chân
thành nhưng không dễ dàng nắm bắt, cũng bởi vì tình yêu là một hành trình khám phá, còn
bến bờ là sự thấu hiểu. Cách sắp xếp trật tự các cặp “tính từ”, từ láy rất phong phú mang
dụng ý của nhà thơ. Tác giả sắp xếp tính từ “dữ dội” và “ồn ào” đứng trước “dịu êm” và
“lặng lẽ”. Điều này chứng tỏ cách vận dụng rất linh hoạt và sự thấu hiểu tình yêu của nữ sĩ
Xuân Quỳnh. Nhà thơ muốn khái quát hình ảnh đẹp nhất của biển khơi phải là lúc trời yên
biển lặng. Đồng thời, cũng giống như biển, nhà thơ viết về bản chất của người phụ nữ trong
tình yêu với nét dịu dàng sâu lắng để có thể lắng nghe và thấu hiểu. Có thể thấy, chỉ với hai
câu thơ, bạn đọc như cảm nhận rõ nét những chuyển động phức tạp của sóng hay cũng chính
là những cung bậc cảm xúc phức tạp của người phụ nữ khi yêu. Từ đó, mỗi chúng ta thêm
cảm phục tài năng nghệ thuật của Xuân Quỳnh khi viết về đề tài người phụ nữ nói riêng và
tình yêu nói chung.
Trong tác phẩm Sóng, nhà thơ Xuân Quỳnh đã cất lên tiếng nói của một trái tim tuổi
trẻ mang khát vọng tình yêu muôn thuở:
“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”
Đoạn thơ giống như lời nói chân thành, tha thiết, nồng nàn và mãnh liệt trong tình yêu của
nữ thi sĩ Xuân Quỳnh. Đó là tình yêu dũng cảm - một tình yêu hết lòng, hết mình, không có
gì ngăn trở được mong muốn được yêu và yêu của người phụ nữ. Nữ thi sĩ khao khát khám
phá sự bí ẩn của quy luật tình yêu nhưng không tìm thấy câu trả lời:
“Em cũng không biết nữa

67
Khi nào ta yêu nhau”
Quả thực, tình yêu của người phụ nữ rất phong phú với nhiều cung bậc của tình yêu. Đó là
tình cảm sôi nổi, đắm say, nồng nàn, mãnh liệt trào dâng qua từng câu thơ. Tác giả viết về
nỗi nhớ cồn cào và da diết đã chiếm lĩnh cả thời gian và không gian:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước …
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức…”
Nhà thơ luôn hướng tới tình yêu thủy chung, son sắt. Tình cảm thủy chung từng xuất hiện
trong thơ của Hồ Xuân Hương với tấm lòng “son” của người phụ nữ chịu nhiều đau thương
do chế độ nam quyền:
“Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương”
Tâm hồn người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh mang đầy ước vọng. Một ước vọng đối với
tình yêu vĩnh hằng, bất tử để làm đẹp cho cuộc đời. Tình yêu này cháy bỏng, ngọt ngào
nhưng mãnh liệt, thúc đẩy người phụ nữ dũng cảm tìm kiếm tình yêu của chính mình. Khát
vọng của họ tuy mạnh mẽ nhưng cũng rất khiêm nhường:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
Người phụ nữ vươn tới một tình yêu rộng lớn, cao đẹp hơn. Sự dũng cảm ấy xuất hiện ngay
từ chính những ý thơ đầu tiên trong “Sóng”, cũng xuất hiện trong nhiều bài thơ khác của
Xuân Quỳnh:
“Sóng không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
Chiêm ngưỡng từng con sóng vỗ trong “Sóng” của Xuân Quỳnh, ta càng thấu hiểu một tư
duy mới và độc đáo từ phong cách thơ Xuân Quỳnh: nhà thơ chủ động tìm đến tình yêu, tìm
đến khát vọng của cuộc đời. Khát vọng tình yêu của Xuân Quỳnh thúc giục người phụ nữ
đương thời và mai sau nữa hãy dũng cảm tìm kiếm tình yêu và nắm giữ hạnh phúc cuộc đời
của chính mình. Qua hình tượng ẩn dụ sóng, bài thơ đã thể hiện vẻ đẹp tâm hồn người phụ

68
nữ trong tình yêu: một tình cảm chân thành, say đắm, nồng nàn, mãnh liệt, thủy chung,
trong sáng, cao thượng. Nó vừa mang nét đẹp tình yêu của người phụ nữ Việt Nam truyền
thống, vừa có nét táo bạo, chủ động đến với tình yêu của người phụ nữ Việt Nam hiện đại.

4.3 Đề bài 3:
Phân tích vẻ đẹp của tình yêu trong tác phẩm Sóng

Tình yêu là ánh sáng, nó soi sáng những người cho đi và nhận về. Tình yêu là trọng lực, bởi
vì nó khiến người ta xích lại gần nhau hơn. Tình yêu là sức mạnh, bởi nó tổng hợp tất cả
những thứ tốt nhất mà chúng ta có, cho phép con người không đắm chìm trong sự ích kỷ mù
quáng. Tình yêu gợi mở mọi vấn đề. Tình yêu và nỗi nhớ thương và cội nguồn cảm hứng
cho bao sáng tạo nghệ thuật ra đời. Có lẽ vì vậy, chỉ qua hai khổ thơ đầu và khổ thơ cuối bài
thơ “Sóng”, Xuân Quỳnh đã tạo nên một tác phẩm làm vang vọng suốt vài thập kỷ nay, trở
thành biểu tượng tình yêu của người phụ nữ qua nhiều cung bậc với những cảm xúc mãnh
liệt, dạt dào..
Lại Nguyễn Ân từng có nhận xét rằng: ''Từ thời Hồ Xuân Hương qua các chặng đường phát
triển, phải đến Xuân Quỳnh nền thơ ấy mới lại một thi sĩ mà sự thể hiện trong tâm hồn mới
đa dạng đến vậy’’. Thơ của người thi sĩ ấy là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc
ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành, đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng hạnh
phúc đời thường. Thời ấy đa phần thơ thiên về phản ánh sự kiện xã hội, tâm trạng của tác
giả thường là tâm trạng chung của xã hội, vui buồn của tác giả hòa chung với vui buồn của
người dân trong xã hội. Tâm trạng thơ trong Xuân Quỳnh thì lại khác, những lời thơ của tác
giả nảy sinh ra từ chính những cuộc sống đời thường của tác giả, tuy vẫn không đi xa khỏi
dòng chảy của sự kiện xã hội. Đó là lý do trong cái chung ta cảm nhận được cái riêng tư;
trong cái riêng ta lại thấy cái chung dạt dào. Những câu thơ của Xuân Quỳnh giàu tình cảm
và sự tinh tế nhưng lẩn khuất phía sau những tình cảm ấy là là những tư tưởng có tính khái
quát, triết lý. Đấy là một trong những triết lý được nảy sinh từ đời sống mà bà chiêm nghiệm
ra từ chính những trải nghiệm thiết thực của mình. Xuân Quỳnh viết nhiều, viết hay về tình

69
yêu và bài thơ “Sóng” được đánh giá là một trong những tác phẩm đặc sắc nhất trong quá
trình cầm bút của tác giả. “Sóng” là kết quả của chuyến đi thực tế năm 1967 của Xuân
Quỳnh tại bờ biển Diêm Điền ,Thái Bình; được in trong tập thơ ''Hoa dọc chiến hào''. Bài
thơ sáng tác giữa những năm kháng chiến chống Mỹ diễn ra khốc liệt, những cuộc chia ly
màu đỏ diễn ra khắp sân trường, góc phố. Xuân Quỳnh lại viết về một đề tài riêng tư và vĩnh
hằng nhất. Chính vì vậy bài thơ được coi là bông hoa lạ vẫn nở dọc chiến hào giữa những
năm tháng chống Mỹ ác liệt.
Khổ thơ đầu đưa ta đến với cuộc hành trình của sóng – cuộc hành trình tìm về với biển lớn –
đồng thời là chuyến đi khám phá cái tôi đích thực của chính mình:

“Dữ dội và dịu êm


Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”

Đoạn thơ mở đầu bằng những sắc thái đối lập, giữa ‘’dữ dội’’ và ‘’dịu êm’’, giữa ‘’ồn ào’’
và ‘’lặng lẽ’’. Những từ ngữ ấy được nối với nhau bởi từ ‘’và’’; cho thấy rằng đó là hai vẻ
đẹp đối lập nhưng lại hòa quyện của con sóng biển khơi. Và phải chăng nó cũng đồng thời
là vẻ đẹp trong tâm hồn người phụ nữ, vừa mang nét dịu dàng đằm thắm, vừa mang những
khát khao cháy bỏng mãnh liệt. Có lúc người phụ nữ trầm ngâm và tĩnh lặng; có lúc họ lại
thật sôi nổi biết mấy... Nhưng có một điều, nếu thực sự chú ý ta mới nhận ra sự tinh tế trong
cách dùng từ của Xuân Quỳnh, đó là dù ở hai thế cực đối lập nhau, nhưng khép lại ở cuối
mỗi câu thơ đều là những gì rất đỗi dịu êm, lắng sâu. Phải chăng đó cũng là mong muốn của
sóng với bến bờ của mình, luôn luôn hi vọng khao khát được nương mình vào một điểm tựa
bình yên. Ai đó đã nói rằng: “Thế giới thơ ca Xuân Quỳnh là sự tương tranh không ngừng
giữa khắc nghiệt và yên lành với những biểu hiện sống động và biến hóa khôn cùng của
chúng. Ở đó, trái tim thơ Xuân Quỳnh là cánh chuồn báo bão cứ chao đi chao về, mệt nhoài
giữa biến động và yên định, bão tố và bình yên.” Và có lẽ điều ấy được nhìn thấy rõ ràng
nhất qua hai câu thơ mở đầu của thi phẩm “Sóng”. Thơ ca muôn đời viết về tình yêu, có bao
lần đã ngân nga nhịp đập của biển khơi. Thế nhưng, những vần thơ của Xuân Quỳnh vẫn có
những âm điệu riêng biệt. Âm điệu đó đến từ chính cái đối cực của người con gái khi yêu.
Sóng biển đã gọi sóng tình hay sóng biển chính là yếu tố khơi nguồn cảm xúc trong lòng thi

70
sĩ.Giữa sóng biển và sóng tình có sự tương đồng, nếu sóng biển biển chứa đựng những trạng
thái đối lập thì tâm trạng người con gái đang yêu cũng có những lúc giận dỗi, hờn ghen, có
những lúc yêu thương dịu dàng đằm thắm:

“Em bảo anh đi đi


Sao anh không đứng lại?
Em bảo anh đừng đợi
Sao anh vội về ngay?”

Và đó, có lẽ cũng là lúc ta nhận ra nét đẹp nữ tính trong thơ Xuân Quỳnh, rằng chị hay bao
nhiêu người phụ nữ khác, dẫu vinh quang tột cùng với ánh đèn, sân khấu hay con chữ, thì
niềm khao khát mãnh liệt nhất, bình dị nhất vẫn là khao khát tìm được bến đỗ bình yên, bến
đỗ hạnh phúc ấm êm mang tên gia đình nhỏ. Đó cũng là lâu đài mà bất kể người phụ nữ nào
đều muốn vun vén, đắp xây. Với 2 câu thơ sau của khổ 1; tác giả đã sử dụng thủ pháp nhân
hóa để nhân cách hóa con sóng vốn vô tri, vô giác, chẳng biết yêu, chẳng biết hờn và mở ra
hình ảnh đối lập của “sông’’ - một khoảng không gian chật hẹp nhưng an toàn, ‘’bể’’ -
khoảng trời rộng lớn chứa đựng rất nhiều thử thách, chông gai mà con sóng sẽ gặp phải.
Chúng ta có thể mường tượng là biển và đại dương dù chảy thể nào, trôi về đâu thì đích cuối
cùng sẽ trở về sông, với quy luật muôn đời: trăm sông đổ về đến biển lớn. Với Xuân Quỳnh,
có lẽ “cứ gì phải sống chung một mái nhà, chia uống một ngụm nước, cùng ngắm một dòng
sông, người ta mới yêu được nhau; tình yêu, nếu thực là tình yêu, thì không có quê hương,
cố quận”. Trong cái lạc lõng của mối tình cũ, trong cái khát vọng tìm được một nửa của đời
mình, những vần thơ ấy ngân vang như hòa với tiếng sóng, mang mùi hương mênh mang
của biển cả, cứ réo rắt mãi trong tâm hồn của người đọc.
Con sóng ngoài đại dương bao la cồn cào, biển luôn có sóng, sóng luôn là nhịp đập trong
lồng ngực của tuổi trẻ. Sóng mãi trường tồn cùng vũ trụ như trái tim tuổi trẻ lúc nào cũng
rạo rực khao khát yêu và được yêu. Từ đối tượng để cảm nhận, sóng đã trở thành đối tượng
để suy tư:

“Ôi con sóng ngày xưa


Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ.”

71
Mở đầu khổ thơ bằng thán từ “ôi”, ngụ ý là từ để cảm thán, dường như một sự thở dài rất
khẽ của thi sĩ khi nhìn về những quy luật bất biến của dòng đời. Con sóng “ngày xưa” và
“ngày sau”, cho dù trải qua xiết bao triều đại thăng trầm lịch sử, cho dù vượt qua vô vàn sự
xô đẩy của mây trời, của bọt biển nhưng sóng vẫn còn đó, vẫn nguyên vẹn như thuở ban đầu
khi còn sơ khai. Xa xưa vẹn nguyên, bây giờ vẫn vậy và mai sau vẫn thế, vẫn một dáng một
khuôn giữ nguyên nét đẹp do mẹ thiên nhiên ban tặng, không chút đổi thay. Nếu tách ra
khỏi quy luật bất biến của đất trời, tôi cho rằng sóng vẫn thủy chung một lòng vỗ về bờ bến
cho dù nằm trong thế bị động mặc gió cuốn xa khơi hay mặc thủy triều lấn át. Dường như,
nhà thơ Xuân Quỳnh sử dụng nguyên lý đòn bẩy, khát vọng tuổi trẻ cùng tình yêu tựa hồ
những đóa hoa lê trắng điểm xuyết trên phông nền bức tranh thủy mặc mang tên sóng.
Nhắm mắt dâng lên vòng hoa của một đời, chỉ mong rằng tình cảm này muôn đời không đổi.
Mộng cảnh đẹp nhất lưu lại trong sâu thẳm con tim, tình yêu là khát vọng muôn thuở lớn lao,
vĩnh hằng của tuổi trẻ và nhân loại. Xuân Quỳnh đã liên hệ tình yêu tuổi trẻ với con sóng
đại dương. Cũng như sóng, con người đã đến và mãi mãi đến với tình yêu. Đó là quy luật
vạn kiếp muôn đời, vĩnh cửu chẳng đổi dời.
Ở hai khổ thơ đầu nhà thơ muốn diễn tả những đặc điểm tự nhiên của con sóng để bộc lộ sự
đồng điệu trong bản tính của ‘’sóng’’ và ‘’em’’. Cũng như con sóng kia, trong tim em luôn
tồn tại những xúc cảm hỗn độn, đối lập mà thống nhất khi yêu anh. Có lúc em ghen tuông,
giận hờn vô cớ làm anh khó xử, thế nhưng có khi em lại trở về với vẻ đẹp dịu dàng, e thẹn,
duyên dáng làm lòng anh thương. Và em chẳng muốn bó buộc tình yêu đôi mình trong một
khoảng “an toàn’’ mà chật hẹp. Là một người con gái khao khát tình yêu đích thực; em
muốn đi xa, kiếm tìm sâu hơn nữa trong thế giới tình yêu để cảm nhận, tận hưởng những giá
trị thực sự vốn lắm ngọt ngào, say đắm của thứ mật trần gian mang tên tình yêu lứa đôi mà
mấy kẻ hồng trần chạy thoát được. Đồng thời, qua khổ thơ thứ hai, thi nhân như muốn
khẳng định rằng những cung bậc hỗn độn của trái tim phụ nữ khi yêu và tình yêu rạo rực
trong tâm hồn tuổi trẻ là thứ tồn tại và song hành mãi với thời gian, điều đó sẽ chẳng bao
giờ thay đổi.
“Mỗi một bài thơ đều chứa đựng một tâm hồn. Tâm hồn của người đã viết nên nó, của
những người đã đọc, sống và mơ ước cùng nó. Vì thế nên chẳng phải ngẫu nhiên mà
Anatole France từng viết: “Đọc một câu thơ nghĩa là ta đã bắt gặp một tâm hồn con người.”
Phải chăng vì thế mà khi đến với khổ thơ cuối cùng của “Sóng” tôi như cảm nhận được

72
những rung động thường trực và khao khát mạnh mẽ của nữ sĩ Xuân Quỳnh. Nếu như Xuân
Diệu sinh thời đã viết về khát khao được yêu ngay cả khi về miền cực lạc: "Khi chết rồi thì
tôi sẽ yêu ma" thì Xuân Quỳnh bằng " Sóng" đã mạnh dạn nói lên ước vọng:
" Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Nơi biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ..."
Bốn câu thơ khép lại bài thơ “Sóng” là khát vọng mãnh liệt của nhà thơ Xuân Quỳnh. Đó là
khao khát muốn mình “được tan ra” thành “trăm con sóng nhỏ”. Có lẽ Xuân Quỳnh đã nhận
ra một chân lý bất biến: Sóng chỉ thực sự là sóng khi nó hòa chung vào muôn điệu của đại
dương bao la; như “em” chỉ thực sự sống cuộc đời có ý nghĩa khi hòa nhịp vào với tiếng gọi
chung của đất nước. Tình yêu của con người, nếu chỉ biết giữ cho riêng mình thì sẽ tàn phai
theo năm tháng và dần trôi vào quên lãng trong dòng chảy hư vô của thời gian; tình yêu sẽ
chỉ bất tử khi nó được hòa vào biển lớn của tình yêu nhân loại. Từ “trăm” khiến cho con
sóng của nhân vật trữ tình bỗng trở nên thật bé nhỏ. Ở những khổ thơ trước, sóng mãnh liệt
và sắc nét đến bao nhiêu, thì ở đây, sóng lại như mờ nhòa bấy nhiêu. Thế nhưng, đó không
phải là sự tan biến – mà ngược lại, đó là tinh thần cống hiến để biến tình yêu thành bất diệt;
để vĩnh cửu hóa cái hữu hạn của thời gian, của cuộc đời. Những con sóng nếu tách biệt, sẽ
dần bị quên lãng; nhưng ngược lại nếu chọn cách cống hiến, sẽ được ở lại mãi mãi với biển
khơi mà thủ thỉ câu chuyện ngàn sau. Với "sóng", với "em", đó là cách duy nhất để trường
tồn mãi mãi với thời gian, để tình yêu vẫn sẽ luôn ở lại. Nhà thơ đã thể hiện một khát vọng
mãnh liệt muốn làm trăm con sóng để hòa mình vào đại dương bao la, hòa mình vào biển
lớn tình yêu để một đời vỗ muôn điệu yêu thương “Để ngàn năm còn vỗ”. Phải chăng đó là
khát vọng muốn bất tử hóa tình yêu của nữ sĩ Xuân Quỳnh – một khát vọng mãnh liệt, tha
thiết của người phụ nữ với trái tim hồn hậu, chân thành, giàu trực cảm. Đặt trong bối cảnh
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang diễn ra vô cùng khốc liệt, ta hiểu rằng dù khao
khát cá nhân tìm kiếm tình yêu lứa đôi, Xuân Quỳnh vẫn dặn mình – dặn người về sứ mệnh
và nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi người trẻ đối với đất nước; rằng mỗi chúng ta đều phải cố
gắng cống hiến cho dáng hình xứ sở muôn đời, như cách con sóng nhỏ kia hòa cùng biển
lớn. Dường như, Xuân Quỳnh đã mượn cái riêng để nói về cái chung, đã mượn tình yêu lứa
đôi để khẳng định sức mạnh muôn đời, bất biến của tình yêu đất nước, tình yêu cộng đồng...

73
Nữ thi sĩ không phủ nhận tình yêu đôi lứa, bà thậm chí còn coi đó là điểm tựa để từ đó –
tình yêu Tổ quốc càng thêm rực rỡ sáng tỏ, mạnh mẽ trường tồn dù tháng năm có vô tình.
Napoleon đã từng nói: “Trên thế giới có hai loại sức mạnh: thanh gươm và cây bút. Thanh
gươm thì đoạt thành chiếm đất, cây bút thì chinh phục lòng người. Rốt cuộc, cây bút mạnh
hơn thanh gươm”. Và cây bút của nữ sĩ Xuân Quỳnh cũng đã thành công chinh phục lòng
người bằng những quan niệm mới mẻ, độc đáo về tình yêu của mình. Quan niệm ấy vừa
mang vẻ đẹp truyền thống, vừa mang vẻ đẹp hiện đại của người phụ nữ trong tình yêu.
Trước hết, đó là một tình yêu son sắt, thuỷ chung với những nỗi nhớ nhung da diết sâu đậm
luôn thường trực
“Nhớ ai nhớ mãi thế này?
Nhớ đêm quên ngủ, nhớ ngày quên ăn”.
Đó chính là nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Cái tài khéo léo của Xuân
Quỳnh còn được đặc biệt thể hiện trong cách tinh tế đưa thêm những nhận xét hiện đại vào
bức tranh thơ tình yêu của mình. Khác với người phụ nữ xưa, Xuân Quỳnh đã đến với tình
yêu một cách đầy tự tin và chủ động, khát khao mãnh liệt tìm đến một tâm hồn đồng điệu,
có thể sẻ chia, tìm đến một khung trời tình yêu cao cả, bao dung. Nếu đúng như cách nói của
Nguyễn Duy

"Mây trôi bằng gió của trời


Là ta, ta hát những lời của ta"

thì trên văn đàn, người đọc có thể bắt gặp vô số lời ca và tiếng hát như thế. Trong khúc ca
về tình yêu muôn đời, thấy bóng dáng ai kia như là nữ sĩ Xuân Quỳnh. Trên dàn đồng ca rạo
rực ấy, giai điệu về tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh vẫn có âm vực riêng.
Trong thế giới văn chương, sóng là một hình tượng động, bất biến, thường được các nhà thơ
chọn làm thi liệu biểu tượng cho tình yêu. XQ chọn sóng như một biểu trưng cho tâm hồn
người con gái khi yêu – với đầy những lo âu, trăn trở và những khát khao đầy mạnh mẽ, chủ
động. "Sóng" và "em" luôn đi đôi, sánh cặp với nhau. Sóng là em mà em cũng là sóng. Sóng
và em hòa quyện vào nhau, có lúc khiến ta không nhận ra đâu là em đâu là sóng; nhưng có
lúc lại tách ra, soi chiếu vào nhau, tôn lên những vẻ đẹp đa dạng, phong phú. Ở hai khổ thơ
đầu: mới chỉ thấy “sóng”, hình tượng “em” chưa xuất hiện một cách trực tiếp. Sau đó:
“sóng” và “em” song hành – sóng đôi với nhau để khẳng định những khát khao của từng đối

74
tượng, đồng thời soi chiếu vẻ đẹp của nhau. Nhân vật trữ tình đã soi vào sóng để nhận thức
về tình yêu của mình Đến cuối: “sóng” và “em” đã hòa vào làm một, những con sóng tự
nhiên cũng chính là những con sóng lòng khắc khoải yêu thương.
Trong mưa bom đạn đạo của cuộc kháng chiến chống Mỹ, bài thơ “Sóng” hiện lên như một
bông hoa rực rỡ. Giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ đang nước sôi lửa bỏng, văn học thời
đại thường mang âm vang cảm hứng anh hùng ca, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng thì “Sóng”
dường như nói về tình yêu thuần tuý, đời thường. Vẻ đẹp trong bài thơ đẹp như một “Bông
hoa nở dọc chiến hào”. Trích đoạn thơ trên là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hình tượng
“sóng” và hình tượng “em” – cái tìm tòi nghệ thuật độc đáo của Xuân Quỳnh. Thể thơ năm
chữ ngắt nhịp liên tiếp đã tạo nên nhịp điệu của những con sóng biển lúc dạt dào sôi nổi, lúc
sâu lắng chạy dài suốt bài thơ. Với kết cấu hình tượng độc đáo, giọng điệu sôi nổi, nồng nàn,
ngôn ngữ hình ảnh giản dị, tinh tế, đoạn thơ là lời tự bạch tâm hồn của người phụ nữ với
những trạng thái tâm lý phức tạp khó hiểu và nỗi nhớ người yêu da diết. Cái đáng quý nhất
là tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh luôn hướng tới hòa nhập với tình yêu trong cuộc đời và
tình yêu lớn của nhân loại. Thơ của Xuân Quỳnh khai thác hai mặt đối lập bên trong tâm
trạng của người đang yêu: vừa say đắm lại vừa suy tư, rộng hơn là mối quan hệ giữa thiên
nhiên và con người trong việc mượn hình tượng sóng để biểu hiện tình yêu.
Hôm nay Xuân Quỳnh đã đi xa. Nắng gió và nhịp đập biển khơi vẫn tuần hoàn vô sự lướt
qua trên cõi đời này, thơ Xuân Quỳnh cũng vang vọng theo năm tháng. Đến với “Sóng” là
một lần ta hiểu thêm về tính nữ làm con sóng yêu của Xuân Quỳnh thánh thiện, đến với
“Sóng” là một lần nghe người “tự hát” về cuộc đời và tình yêu tha thiết. Xin được đọc lại
một chút thơ của nữ thi sĩ trong niềm trân trọng và tưởng nhớ:
“Trời xanh trên mái nhà
Trời xanh ngoài biển gió
Anh ạ, quê chúng mình
Xuân đã về trước ngõ”.
Mỗi một bài thơ đều chứa đựng một tâm hồn. Tâm hồn của người đã viết nên nó, của những
người đã đọc, sống và mơ ước cùng nó. Cầm trên tay thi phẩm của Xuân Quỳnh, tôi như
cảm nhận được những rung động thường trực của người nữ sĩ ấy. Thấy rực cháy trong mình
khát khao về một tình yêu muôn thuở như thi nhân dạo nào.

75
76

You might also like