Professional Documents
Culture Documents
VIỆT BẮC athles
VIỆT BẮC athles
VIỆT BẮC
By: _studyw.athles_
Trong Hồi ký “Nhớ lại một thời”, năm 1938, nhà thơ lớn của dân tộc từng có cơ
hội gặp một cụ đồ nho người Quảng Bình ở Huế và đặt cho chàng thi sĩ trẻ năm
ấy bút danh “Tố Hữu” cùng lời giải thích: “Tố Hữu là sẵn có. Hai chữ ấy để chỉ khí
phách tiềm ẩn trong người cậu”. Sau cùng, thi nhân đã chọn khiêm nhường hiểu
cái tên “Tố Hữu” mình nhận được là “người bạn trong trăng” – minh chứng cho
tấm lòng chân thành, mộc mạc nhất mà ông đã luôn dành cho trường đời rộng
lớn mênh mông; trở thành một “người bạn” của nhân dân với những lời hát ru
tha thiết trữ tình qua “Việt Bắc”.
“Thơ Tố Hữu Luôn là “bó hoa lửa lộng lẫy” (chữ của Đặng Thai Mai) cộng hưởng
và cổ vũ mọi vẻ đẹp của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng,
động viên, thúc giục đồng bào, chiến sĩ cả nước vượt mọi gian khổ, hy sinh tiến
lên giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác”. (PGS TS Phùng Ngọc Kiếm)
“Hồn thơ ông như đôi cánh đại bàng hơn 60 năm sải cùng đồng bào, chiến sĩ
trên hầu khắp các miền quê, các mặt trận, các hoạt động cách mạng, các phương
diện cuộc sống...” (PGS TS Phùng Ngọc Kiếm)
“Trong số các nhà thơ tính từ phong trào thơ mới đến nay, Tố Hữu là nhà thơ
duy nhất trả lời trọn vẹn được hai câu hỏi: Anh là ai và thời đại anh sống là thời
đại nào? Ông cũng là nhà thơ duy nhất có một giọng điệu thơ nhất quán: Thơ chỉ
là chỗ cho cái chung, hay nơi gặp nhau của cái riêng và cái chung”. (Nguyên Điệp
Hoa).
“Xét về ngôn từ thơ Tố Hữu là cả một thế giới bùng cháy, tỏa sáng, nẩy nở tột
cùng, đâng hiến tột độ (...). Hệ thống hình ảnh ngôn từ ấy làm cho thơ Tố Hữu
thực sự là tiếng thơ nóng bỏng, sáng ngời, bay bổng, nhiệt huyết” (GS Trần Đình
Sử)
Lời người ở lại khơi gợi lại thời gian gắn bó trong suốt 15 năm. Câu thơ phảng
phất âm hưởng của một câu Kiều về 15 năm tình nghĩa sâu nặng, thủy chung của
Thúy Kiều và Kim Trọng:
Mười lăm năm ấy là mười lăm năm gắn bó giữa những người cách mạng miền
xuôi với nhân dân Việt Bắc trên chiến khu cách mạng. Mười lăm năm ấy được
tính từ khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940, từ khi Hồ Chí Minh về nước bắt tay vào
xây dựng khu căn cứ địa cách mạng tại chiến khu Việt Bắc để làm thủ đô kháng
chiến của dân tộc:
Câu thơ “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn” trong “Việt Bắc” đã trở thành
một lời nhác, một thông điệp ý nghĩa về lối sống ân nghĩa thủy chung của nhân
dân ta: “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Cây sống được, lớn
lên từ nguồn mạch nuôi dưỡng của núi non hùng vĩ; sông chảy xuôi ngược về
bốn bể non nước nhờ sự dào dạt, đầy ắp nơi thượng nguồn. Bởi chỉ có sự son
sắt, đồng tâm, chung dạ chung lòng mới đưa bao cơn mưa bom bão đạn khép
lại, trả về ngày tháng bình yên cho non sông:
“Áo chàm”:
Hữu Huyền cũng tham góp đưa áo chàm vào các vần thơ như sau:
Từng có những “mối thù nặng vai” hằn sâu vào tâm trí khi đất nước vẫn còn
trong những ngày tháng mịt mù bom đạn, trong những đau nhói triền miên mà
dân tộc Việt Nam phải vượt qua từng ngày. Những “mối thù” đủ để đè nén tâm
can mỗi người ở lại với bao niềm chua xót, đắng cay, để rồi dù khi bóng dáng
quân thù đã lùi vào dĩ vãng, ta vẫn bắt gặp muôn nỗi buồn xót xa, nuối tiếc.
Không chỉ riêng cuộc chiến tranh chống Pháp, chính trong chuyến đi thăm nước
Mỹ của đoàn nhà văn Việt Nam để gặp gỡ các nhà thơ cựu binh của hai nước sau
cuộc chiến tranh chống Mỹ, nhà thơ Nguyễn Đức Mậu đã không kìm được nỗi
lòng:
“Măng mai”:
"Ta – mình", "mình – ta" được lặp đi lặp lại, quấn quýt, quyện hòa làm một. Câu
thơ đầu của đoạn thơ là sự vận dụng sáng tạo câu ca dao về tình cảm lứa đôi:
"Đinh ninh" là sự khẳng định chắc chắn, mãi mãi gắn bó, thuỷ chung. Như vậy,
người ra đi ở đây đã khẳng định tình cảm của mình với Việt Bắc và người Việt
Bắc trước sau như một, lúc nào cũng mặn mà đinh nình, dù có thế nào cũng
không thay lòng đổi dạ.
Ông hoàng thơ tình Xuân Diệu cũng thể hiện một nỗi nhớ mãnh liệt:
Nỗi nhớ trong tình yêu của người phụ nữ lại được nữ thi sĩ Xuân Quỳnh miêu tả:
Hình ảnh những người mẹ tuyệt vời, kì diệu trong những cuộc kháng chiến còn
được gặp lại trong bài thơ "Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ" của
Nguyễn Khoa Điềm:
Hay
Cảnh giặc đến gây bao tang thương đã được nhà thơ Hoàng Cầm khắc họa:
Hiện thực của những ngày đầu ta yếu, địch mạnh ấy cũng giống như khi Lê Lợi
mới gây dựng khởi nghĩa Lam Sơn được Nguyễn Trãi viết trong "Bình Ngô đại
cáo" :
“Ta đây!
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình.”
“Những đường Việt Bắc của ta”:
Hoặc:
Tại kỳ họp thứ hai Quốc hội Khóa I, ngày 31/10/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
trả lời chất vấn đại biểu Quốc hội, khẳng định tầm vóc của cờ đỏ sao vàng: "Lá
cờ đỏ sao vàng đã nhuộm bao nhiêu máu chiến sĩ Việt Nam ở Nam Bộ và Nam
Trung Bộ, đã đi từ Á sang Âu, lại từ Âu sang Á, tới đâu cũng được chào kính cẩn,
bây giờ trừ khi cả 25 triệu đồng bào còn ra không ai có quyền gì mà đòi thay đổi
nó".
Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5/1941) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì đã chọn cờ đỏ
sao vàng làm cờ Tổ quốc. Báo Việt Nam Độc Lập (do Bác Hồ thành lập) số 107
ngày 01/10/1941 trong bài thơ: “Cờ đỏ sao vàng” viết:
Trong tập thơ "Nhật ký trong tù" (1941-1943) khi nằm trong nhà tù Tưởng Giới
Thạch, Bác Hồ viết: “Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh”.
Hy vọng những kiến thức mình gom nhặt, tích lũy và tìm
kiếm được sẽ góp phần làm nên chất văn chương và sự
độc đáo trong bạn. Cảm ơn vì đã theo dõi mình suốt thời
gian qua. Bạn và mình, chúng ta hãy cùng nhau đỗ
nguyện vọng 1 nhé !