Professional Documents
Culture Documents
TIỂU LUẬN
TIỂU LUẬN
2
https://nghiencuuquocte.org/2016/01/09/ngoai-giao-kinh-te-economic-diplomacy/
3
https://nghiencuuquocte.org/2016/01/09/ngoai-giao-kinh-te-economic-diplomacy/
Thứ hai, ngoại giao kinh tế nhằm đảm bảo lợi ích an ninh cơ bản của
quốc gia là kinh tế, và đây cũng là giới hạn cơ bản nhất của một quốc gia khi
thực hiện ngoại giao kinh tế cho đất nước.
Thứ ba, dưới tiền đề đảm bảo lợi ích an ninh cơ bản của quốc gia nói trên,
chính sách ngoại giao của đất nước phải coi việc theo đuổi lợi ích kinh tế là mục
tiêu quan trọng nhất, và căn cứ vào lợi ích kinh tế để quốc gia đưa ra lựa chọn
phù hợp trong hoạt động ngoại giao với các quốc gia. Đây chỉ là một trong
những hình thức ngoại giao của quốc gia trong từng thời kì nhất định, giải quyết
vấn đề kinh tế nhằm mục tiêu phát triển kinh tế.
1.2.1. Đặc điểm của ngoại giao kinh tế
Ngoại giao kinh tế có một số đặc điểm bao gồm: mục tiêu phát triển kinh
tế, hợp tác thương mại đầu tư giữa các quốc gia; nguyên tắc bình đẳng, có lợi,
tôn trọng chủ quyền quốc gia và lợi ích hợp pháp của nhau; hình thức đa dạng
như đàm phán song phương, đa phương, ký kết các hiệp định thương mại đầu
tư…
1.2.2. Vai trò của ngoại giao kinh tế
Ngoại giao kinh tế góp phần quan trọng vào hoạt động ngoại giao, vào
chính sách đối ngoại của quốc gia. Trong quá trình hội nhập kinh tế, ngoại giao
kinh tế đóng vai trò quan trọng, bao gồm:
Thứ nhất, ngoại giao kinh tế góp phần quan trọng trong hoạch định đường
lối, xây dựng và thực thi các chính sách phát triển kinh tế đất nước4. Đây là một
trong những cơ sở quan trọng để Đảng và Nhà nước hoạch định đường lối, xây
dựng chủ trương và chính sách phù hợp với tình hình đất nước, đặc biệt là các
chính sách liên quan đến kinh tế nhằm phát triển kinh tế đất nước.
Thứ hai, ngoại giao kinh tế góp phần mở rộng các quan hệ song phương,
thúc đẩy các quốc gia tham gia các thể chế đa phương trong khu vực và toàn
cầu5. Ngoại giao kinh tế giúp các quốc gia tăng cường hợp tác kinh tế, thương
4
5
mại và đầu tư; giúp giải quyết các tranh chấp kinh tế và thương mại một cách
hòa bình thông qua thương lượng đàm phán; góp phần tăng cường hiểu biết và
tin tưởng lẫn nhau giữa các quốc gia. Đồng thời, ngoại giao kinh tế giúp các
quốc gia tham gia tích cực vào các thể chế đa phương trong khu vực và toàn
cầu, xây dựng các quy tắc thương mại chung nhằm tạo môi trường kinh doanh
ổn định, thuận lợi cho các quốc gia; giúp giải quyết các vấn đề chung toàn cầu,
góp phần xây dựng hòa bình và phát triển bền vững.
Thứ ba, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, góp phần đẩy mạnh quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế6. Việc này giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế khi mở
rộng thị trường, thu hút đầu tư từ nước ngoài; nâng cao năng lực cạnh tranh để
tồn tại trong môi trường kinh doanh quốc tế; tạo cơ hội việc làm cho người dân;
nâng cao đời sống người dân.
1.3. Bối cảnh đất nước và thế giới giai đoạn 1995-2005
1.3.1. Bối cảnh thế giới giai đoạn 1995-2005
Đây là giai đoạn xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ,
khiến các quốc gia trên thế giới phải điều chỉnh lại chính sách đối ngoại để hội
nhập sâu rộng với các quốc gia và khu vực trên thế giới nhằm mục tiêu phát
triển, đặc biệt là phát triển kinh tế. Việc ngoại giao kinh tế trở nên quan trọng
hơn bao giờ hết để ứng phó với tình hình thế giới: đầu những năm 90 của thế kỷ
XX chứng kiến sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô và các quốc gia Đông
Âu; sự phát triển của các cuộc cách mạng khoa học công nghệ và cuộc cách
mạng 4.0 diễn ra mạnh mẽ; xu hướng toàn cầu hóa kinh tế,... Bên cạnh đó, từ
cuối những năm 80 của thế kỉ XX, khi trật tự thế giới hai cực sụp đổ, toàn cầu
hóa và hội nhập quốc tế diễn ra nhanh chóng, đã khiến kinh tế trở thành một
trong những mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia. Sức mạnh trong quan hệ
quốc tế không còn được định đoạt chỉ bằng sức mạnh quân sự mà ngày càng
được xác định bằng sức mạnh kinh tế. trong bối cảnh đó, nhiệm vụ phát triển
ngoại giao kinh tế ngày càng được nâng lên.
6
1.3.2. Bối cảnh Việt Nam giai đoạn 1995-2005
Trong những năm 1980, nền kinh tế Việt Nam bị bao vây cấm vận, đất
nước lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, lúc này hoạt động ngoại
giao tập trung vào việc tranh thủ viện trợ, khắc phục bao vây cấm vận. bước vào
thời kỳ đổi mới, ngoại giao kinh tế đã trở thành nhiệm vụ chung, từ chỗ ưu tiên
chính trị sang mô hình phù hợp với tình hình đất nước, quốc tế với tình hình
phát triển kinh tế. Từ giữa thập niên 90 đến 2006, công tác ngoại giao kinh tế
được triển khai với 3 trọng tâm: tiếp tục mở rộng quan hệ giữa Việt Nam với
các nước; thúc đẩy công cuộc hội nhập ktqt thông qua gia nhập APEC, đàm
phán gia nhập WTO, tích cực tham gia vào các diễn đàn khu vực và cơ chế hợp
tác của LHQ; từng bước mở rộng hỗ trợ các bộ, ngành, địa phương, doanh
nghiệp trong nước trong các hoạt động kinh tế, thu hút FDI, ODA, đẩy mạnh
xuất khẩu hàng hóa, xuất khẩu lao động, xúc tiến du lịch.
1.3.3. Mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc giai đoạn 1995-2005
Kể từ khi bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Trung Quốc vào năm
1991, quan hệ giữa hai nước đã chứng kiến những sự thay đổi lớn lao. Đây là cơ
sở để hai nước tăng cường hợp tác trên nhiều lĩnh vực và đã đạt được những
thành tựu nhất định. Đầu những năm 90 thế kỷ XX, chiến tranh lạnh kết thúc,
Trung Quốc thay đổi quan điểm chuyển hướng tích cực phát triển quan hệ ngoại
giao hữu nghị với các nước láng giềng, trong đó có Việt Nam để tranh thủ sự
ủng hộ quốc tế. Trong năm 1991 và 1992, Trung Quốc đã tham gia Diễn đàn
khu vực Đông Nam Á (ARF) và bày tỏ mong muốn hợp tác với các quốc gia
ASEAN. Trong thời gian này, các chính sách đối ngoại của Việt Nam đã thay
đổi và tăng cường hợp tác với các quốc gia trên thế giới. Việt Nam và Trung
Quốc cũng thống nhất quan điểm hợp tác, việc bình thường hóa quan hệ phù
hợp với lợi ích phát triển lâu dài của cả hai quốc gia và xu thế phát triển chung
của thế giới, đánh dấu sự thay đổi to lớn cả quan hệ hai nước và khu vực, hợp
tác trên nhiều lĩnh vực, coi trọng phát triển quan hệ kinh tế thương mại.
Trong tháng 11 năm 1994, Tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã có
chuyến thăm chính thức tới Việt Nam kể từ sau khi bình thường hóa quan hệ để
tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác sâu rộng đặc biệt là kinh tế. Trong đó, hai
nước thống nhất đề qua 16 chữ giải quyết quan hệ “Phương hướng rõ ràng, từng
bước tiến lên, đại cục làm trọng, hữu hảo hiệp thương”7, đồng thời ký kết hiệp
định, thành lập Ủy ban Hợp tác thương mại Việt Nam - Trung Quốc; về vận tải
ô tô; đảm bảo hàng hóa xuất nhập khẩu và công nhận lẫn nhau; ra thông cáo
chung, phát triển hợp tác thương mại dựa trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi.
Giai đoạn 1995-1999 đánh dấu nhiều sự thay đổi trong quan hệ hợp tác
giữa Việt Nam với Trung Quốc. Sự kiện Việt Nam trở thành thành viên của
ASEAN (1995) đã góp phần xóa bỏ khoảng cách và nâng cao vai trò của Việt
Nam trên trường quốc tế. Tiếp đó là việc Việt Nam bình thường hóa quan hệ với
Mỹ (1995) đã giúp Việt Nam có bước hội nhập sâu rộng hơn. Việt Nam chủ
động tham gia vào các tổ chức khu vực và thế giới (APEC, ASEM, AFTA…),
tăng cường quan hệ song phương với các quốc gia. Các chính sách ngoại giao
giúp Việt Nam đảm bảo an ninh quốc gia, tránh phụ thuộc an ninh, kinh tế,
chính trị các nước lớn, chấm dứt cô lập về ngoại giao vào năm 1995. Trong giai
đoạn này, Việt Nam và Trung Quốc vẫn có những chuyến thăm và hợp tác qua
các hiệp định thương mại kinh tế, giải quyết tranh chấp về lãnh thổ và khôi phục
lòng tin lẫn nhau. Đặc biệt, chuyến thăm của Ủy viên Thường trực Bộ Chính trị
Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Thủ tướng Quốc vụ
Trung Quốc, Lý Bằng đã dẫn đoàn đại biểu Đảng Cộng Sản Trung Quốc sang
dự và đọc lời chúc mừng tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng
Cộng sản Việt Nam vào ngày 28/06/1996 là chuyến tham dự đầu tiên của đại
diện Đảng Cộng sản Trung Quốc tại một đại hội Đảng của Việt Nam sau khi
bình thường hóa quan hệ đánh dấu mối quan hệ gần gũi giữa hai quốc gia8.
7
8
Năm 1999, Tổng bí thư Lê Khả Phiêu đã có chuyến thăm hữu nghị chính
thức tới Trung Quốc nhằm xác định khuôn khổ hợp tác chung và cùng nhau xây
dựng và phát triển quan hệ hai nước. Ngày 27/02/1999, hai quốc gia đã đưa ra
Tuyên bố chung với phương châm “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn
định lâu dài, hướng tới tương lai”9. Từ đó, quan hệ hợp tác giữa hai quốc gia đã
được nâng lên một tầm cao mới, là cơ sở để hai Đảng tiến tới hợp tác sâu rộng
hơn. Hai bên cũng thống nhất nguyên tắc chung là láng giềng thân thiện, tồn tại
hòa bình, giải quyết các tranh chấp bằng thương lượng hòa bình, phát triển dựa
trên nhu cầu lợi ích. Các chính sách cũng được triển khai phù hợp với quan hệ
song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc. Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung
Quốc Giang Trạch Dân đã phát biểu: “Điều đặc biệt quan trọng là, hai bên nhất
định phải tăng cường tin cậy lẫn nhau. Đó chính là cơ sở phát triển ổn định lâu
dài của quan hệ hai Đảng, hai nước”10. Đồng thời đưa ra năm kiến nghị liên
quan đến hợp tác hai bên: “Một là, cần tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp
qua lại thăm viếng lẫn nhau của lãnh đạo cấp cao hai đảng, hai nước; Hai là,
cần không ngừng mở rộng và đi sâu hơn nữa hợp tác kinh tế-thương mại; Ba là,
cần lấy tinh thần hữu nghị lâu dài để giáo dục nhân dân hai nước, đặc biệt là
thanh thiếu niên; Bốn là, cần tăng cường hợp tác giữa hai nước trên vấn đề biên
giới, đẩy nhanh tiến trình công tác tiếp theo về biên giới trên đất liền và phân
định Vịnh Bắc bộ; Năm là, cần tăng cường giao lưu kinh nghiệm về xây dựng
Đảng, quản lý Nhà nước giữa hai Đảng, hai nước, tăng cường sự bàn bạc, hợp
tác và phối hợp về các vấn đề quốc tế giữa hai nước, để tạo thuận lợi cho việc
xây dựng và phát triển của mỗi nước”11.
Có thể nói rằng, mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc ngày càng
gần gũi và chặt chẽ, từ việc bình thường hóa quan hệ đến việc khôi phục, tạo
niềm tin hợp tác trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt hai quốc gia đều quan tâm tới sự
9
10
11
phát triển kinh tế nhằm phát triển, duy trì mối quan hệ láng giềng tốt đẹp và duy
trì ổn định phát triển đất nước, khu vực và thế giới
Chương II: Chính sách (Hiền Anh + Liên + Hương (Kết luận))
2.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến chính sách đó (về nhận thức, cơ sở hình thành
chính sách ngoại giao kinh tế...), (Hiền Anh)
2.1.1. Những nét tương đồng về văn hoá, tư tưởng tôn giáo
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng, có mối quan hệ nhiều
mặt về lịch sử, văn hóa. Nhân dân hai nước có truyền thống hữu nghị lâu đời,
trước đây đều từng bị áp bức bóc lột, sau này lại cùng ủng hộ giúp đỡ lẫn nhau
trong công cuộc giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Những điều kiện địa
lý, lịch sử, văn hóa đã gắn kết một cách tự nhiên nhân dân hai nước, đồng thời
tạo nên mối quan hệ biện chứng, nương tựa lẫn nhau, không thể tách rời giữa
cuộc cách mạng của hai nước Việt Nam-Trung Quốc.
a. Những nét tương đồng về tư tưởng tôn giáo
Trung Quốc có rất nhiều những giáo lý và tư tưởng nổi tiếng, nhiều trong
số đó đã ảnh hưởng sâu sắc đến Việt Nam như Phật giáo (Bắc Tông), các hệ tư
tưởng như Nho giáo, Đạo giáo các tư tưởng về quản lý, … ảnh hưởng sâu sắc
tới nước ta, cho đến ngày nay nó vẫn còn ý nghĩa quan trọng trong các hoạt
động học tập nghiên cứu, quản lý nhà nước,.. Nho giáo: ra đời ở Trung Quốc, do
Khổng Tử sáng lập. Du nhập vào nước ta từ thời Bắc thuộc và được nhà Lý
chính thức thừa nhận khi cho xây dựng Văn Miếu thờ Khổng Tử. Từ thời Lê trở
thành tư tưởng chính thống của giai cấp thống trị.Nho giáo đã trở thành một nhu
cầu tư tưởng thiết yếu cho việc xây dựng một thiết chế quân chủ tập quyền theo
mô hình Đông Á Trung Hoa, cũng như những nguyên lý cơ bản của phép trị
nước, trong đó một biện pháp chiến lược là chế độ khoa cử. Về chế độ khoa cử
được tổ chức một cách quy củ ví dụ thời Trần có tất cả 14 khoa thi (10 khoa
chính thức và 4 khoa phụ), lấy đỗ 282 người đại khoa, có học vị Thái học sinh.
Năm 1374, có tổ chức thi Đình cho các tiến sĩ. Ba người đỗ đầu được gọi là
Tam khôi: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. (Sau đặt thêm một học vị cấp
cao nữa là Hoàng giáp). Bên cạnh việc học chữ Quốc ngữ thì học tiếng Trung
trở thành ngôn ngữ chính trong trường học thời bấy giờ.
b. Nét tương đồng về chữ viết và văn hóa nghệ thuật
Chữ Hán đã từng một thời bị thực dân Phương Bắc áp đặt đồng hóa
nhưng bất thành, chữ viết trở nên quan trọng đối với dân tộc tuy nhiên chúng ta
đã sáng tạo thêm khi không hoàn toàn dùng chữ Hán mà đó là cơ sở cho chữ
Nôm ra đời dựa trên cơ sở chữ Hán nhưng có sự thay đổi đi. Chữ Hán là chữ
viết chi phối rất lớn đến hệ thống văn học nghệ thuật và đời sống văn hoá của
nhân dân. Văn học nghệ thuật Trung Hoa cũng sớm du nhập vào Việt Nam với
sự ảnh hưởng của các thể thơ Đường Cổ. Văn học- nghệ thuật: Cơ sở tư tưởng
của văn học nghệ thuật dựa trên Phật giáo và Nho giáo. Trong đó, tư tưởng nho
giáo ảnh hưởng đến dòng văn học yêu nước dân tộc. Một thành tựu quan trọng
của văn học Đại Việt là việc phổ biến chữ Nôm, vừa mang tính dân tộc (Nam
Nôm), vừa mang tính dân gian (nôm na), cải biến và Việt hóa chữ Hán. Chữ
Nôm lúc bấy giờ được gọi là “Quốc ngữ”, “ Quốc âm”.
2.1.2. Định hướng đường lối xây dựng đất nước tương đồng
Hai nước Việt Nam-Trung Quốc hiện có nhiều điểm tương đồng về chính
trị, kinh tế, xã hội: đều là nước xã hội chủ nghĩa, đang trong quá trình chuyển
đổi nền kinh tế bao cấp sang xây dựng một nền kinh tế thị trường phù hợp với
điều kiện của mỗi nước. Việt Nam và Trung Quốc đều kiên trì dưới sự lãnh đạo
của Đảng, đều đang tiến hành cải cách và mở cửa, thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Cải cách và mở cửa là một sự nghiệp mới, vì vậy nhiều
vấn đề lý luận và thực tiễn đã, đang và sẽ nảy sinh rất cần được các nhà nghiên
cứu lý luận và khoa học hai nước tăng cường hợp tác và trao đổi để cùng tham
khảo, rút kinh nghiệm. Ba mô hình phát triển kinh tế thị trường trong lịch sử:
Mô hình kinh tế thị trường tự do, mô hình kinh tế thị trường - xã hội, mô hình
kinh tế thị trường định hướng XHCN (ở Việt Nam) hay kinh tế thị trường
XHCN (ở Trung Quốc). Có thể nói ba mô hình kinh tế thị trường nói trên đang
bao trùm tất cả các nền kinh tế trên thế giới, trừ một vài ngoại lệ như Bắc Triều
Tiên. Điều này xác nhận kết luận của Mác: kinh tế thị trường là giai đoạn phát
triển tất yếu; là hình thức phổ biến của mọi nền kinh tế ở một trình độ xác định.
Trong khuôn khổ CNTB, kinh tế thị trường phát triển trong 2 mô hình là kinh tế
thị trường tự do và kinh tế thị trường xã hội. Loại mô hình kinh tế thị trường
định hướng XHCN hiện đang được thực thi chỉ ở hai nước (Việt Nam - kinh tế
thị trường định hướng XHCN; và Trung Quốc - kinh tế thị trường XHCN).
2.1.3. Vì lợi ích thiết thực của cả hai nước
Ngày nay, an ninh của mỗi quốc gia đều được hiểu là nền an ninh toàn
diện, trong đó yếu tố kinh tế được đặt lên vị trí hàng đầu. Việt Nam và Trung
Quốc đang tập trung vào phát triển kinh tế để nâng cao sức mạnh tổng hợp của
quốc gia. Việt Nam và Trung Quốc đều cần một môi trường xung quanh hòa
bình ổn định để tập trung phát triển. Quan hệ hữu nghị Việt - Trung là mục tiêu
quan trọng trong nhận thức chung của hai nước.
Hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc đã đạt nhiều kết quả đáng
ghi nhận kể từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ năm 1991 đến nay và
trong tiến trình đó, việc nâng cấp quan hệ chính trị luôn tạo nền tảng và động
lực quan trọng cho hợp tác kinh tế song phương. Chuyến thăm Việt Nam của
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tháng 12/2023 đã xác lập dấu mốc lịch sử
trong quan hệ hai nước, mở ra cơ hội và triển vọng hợp tác trong lĩnh vực kinh
tế, đầu tư và thương mại.
2.1.4. Hợp tác về đầu tư
Bất chấp bối cảnh kinh tế thế giới khó khăn, lượng vốn thu hút đầu tư
nước ngoài (FDI) Trung Quốc đổ vào Việt Nam vẫn tăng trưởng mạnh mẽ. Tính
đến ngày 20/11/2023, tổng số dự án FDI của Trung Quốc đầu tư vào Việt Nam
đạt 4.161 dự án (đứng thứ 3/143 quốc gia và vùng lãnh thổ), với tổng số vốn
hơn 27 tỷ USD (đứng thứ 6/143 quốc gia và vùng lãnh thổ), bình quân mỗi dự
án khoảng 6,50 triệu USD/dự án, thấp hơn bình quân của toàn quốc (8,56 triệu
USD/dự án). Riêng năm 2023, các nhà đầu tư Trung Quốc đã đầu tư khoảng 4 tỷ
USD vào Việt Nam, đứng thứ 4 trong 143 quốc gia và vùng lãnh thổ có FDI tại
nước ta. Về lĩnh vực đầu tư, nhà đầu tư Trung Quốc đã đầu tư vào 19/21 ngành,
lĩnh vực, nhưng tập trung nhiều nhất ở lĩnh vực chế biến, chế tạo với 2.202 dự
án, tổng vốn đăng ký 19,8 tỷ USD, chiếm 78,7%. Về địa bàn, doanh nghiệp
Trung Quốc có mặt tại 56/63 tỉnh, thành phố của Việt Nam; dẫn đầu là Tây
Ninh với 89 dự án, vốn đăng ký 5 tỷ USD, chiếm 19,7%; Bắc Giang 151 dự án,
vốn đăng ký 2,18 tỷ USD; Bình Thuận 10 dự án, vốn đăng ký 2 tỷ USD.
Một số dự án lớn, điển hình của Trung Quốc đầu tư tại Việt Nam như: Công ty
TNHH Công nghiệp Jinko Solar Việt Nam (1,5 tỷ USD) - ngành nghề về Công
nghệ tế bào quang điện; Tập đoàn Deli (Trung Quốc) đầu tư 400 triệu USD, tại
tỉnh Hải Dương - Khu công nghiệp (KCN) Đại An mở rộng; Công ty BoViet -
công ty con thuộc Tập đoàn BoWay (Trung Quốc) - vốn đầu tư khoảng 120 triệu
USD dự kiến sẽ thu hút khoảng 4.000 lao động, ngành nghề: sản xuất tấm tế bào
quang điện năng lượng mặt trời; Công ty Innovation Precision Việt Nam (thuộc
Tập đoàn Shandong Innovation Metal Technology Trung Quốc) - xây nhà máy
hợp kim nhôm tổng vốn 165 triệu USD tại KCN VSIP Nghệ An; Runergy xây
nhà máy vật liệu bán dẫn 293 triệu USD ở Nghệ An. Ngoài ra, Việt Nam có 7
KCN, KCX do các nhà đầu tư Trung Quốc làm chủ đầu tư, hiện các KCN này
đều đang hoạt động ổn định và tuân thủ đúng các quy định của pháp luật. Về
chất lượng vốn đầu tư từ Trung Quốc, trước đây, đa số các dự án có quy mô
nhỏ, công nghệ trung bình và thấp, thâm dụng lao động và năng lượng, một số
dự án gây ô nhiễm môi trường. Chính vì lẽ đó, một số địa phương có phần e
ngại khi tiếp xúc với các dự án FDI đến từ Trung Quốc. Tuy nhiên, trong vài
thập kỷ qua, nắm bắt cơ hội cuộc cách mạng công nghệ và chuyển đổi số, Trung
Quốc nổi lên trở thành quốc gia cạnh tranh mạnh mẽ với Mỹ và các nước phát
triển trong nhiều lĩnh vực then chốt của kinh tế và công nghệ tương lai như
đường sắt, tàu cao tốc không người lái, phát triển năng lượng xanh, điện tử,
công nghệ 5G phổ cập toàn quốc, trí tuệ nhân tạo AI, công nghệ vũ trụ. Trung
Quốc tham vọng đến năm 2049, kỷ niệm 100 năm thành lập nước, trở thành
quốc gia dẫn đầu thế giới về kinh tế và khoa học công nghệ.
Chính bởi lẽ đó, việc thu hút các dự án công nghệ cao từ Trung Quốc
đang thực sự là cơ hội để Việt Nam cải thiện chất lượng hiệu quả thu hút FDI,
đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư từ các quốc gia vùng lãnh thổ, thực hiện hóa
lợi ích và kết quả hội nhập kinh tế quốc tế, phát huy giá trị của đường lối ngoại
giao liên kết đầy năng động và thân thiện. Để thu hút hiệu quả các dự án FDI
công nghệ cao từ Trung Quốc, từ đó tạo hiệu ứng lan tỏa phát triển các DN,
Việt Nam cần tạo lập hệ sinh thái cho thu hút và phát triển công nghệ. Cải thiện
hiệu quả môi trường đầu tư kinh doanh, tạo thuận lợi tối đa cho DN gồm hệ
thống chính sách văn bản pháp luật, thủ tục hành chính thông thoáng, minh
bạch, hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội phát triển.
2.1.5. Hợp tác về thương mại
Với nhiều lợi thế trong hợp tác kinh tế thương mại, nhiều năm qua, trao
đổi thương mại giữa Việt Nam - Trung Quốc vẫn duy trì đà tăng trưởng ổn định
và bền vững.
Trung Quốc và Việt Nam có chung đường biên giới trên bộ, trên biển và
đường thủy. Chiều dài biên giới đường bộ gần 400km, đi qua địa phận 7 tỉnh
phía Bắc của Việt Nam. Đặc điểm này mang lại cho hai nước lợi thế để phát
triển kinh tế, nhất là kinh tế thương mại khu vực biên giới, cửa khẩu. Cùng với
đó, trong quan hệ thương mại, tính bổ sung lẫn nhau trong cơ cấu xuất nhập
khẩu hàng hóa giữa hai nước vẫn rất lớn.
Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc các mặt hàng như điện thoại di
động, linh kiện, thiết bị điện tử, cao su, nông sản, thủy hải sản... và nhập khẩu từ
thị trường Trung Quốc các sản phẩm như máy móc, thiết bị, nguyên liệu sản
xuất trong ngành may mặc, giày da, sắt thép, vật tư xây dựng…
Nhiều năm qua, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt
Nam. Tổng kim ngạch thương mại hai chiều của Việt Nam và Trung Quốc
chiếm 1/4 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với thế giới. Ở chiều
ngược lại, Việt Nam là một trong các đối tác thương mại lớn nhất của Trung
Quốc với thế giới, đối tác lớn nhất của Trung Quốc trong ASEAN. Theo số liệu
của Cục hải quan, năm 2018, tổng kim ngạch thương mại song phương Việt
Nam - Trung Quốc lần đầu tiên vượt mốc 100 tỷ USD. Kể từ đó, kim ngạch
thương mại giữa hai nước không ngừng tăng, cụ thể: năm 2019 đạt 111,86 tỷ
USD, năm 2020 đạt 133,l tỷ USD và những năm đại dịch covid-19 cũng đạt
mức cao, với 165,88 tỷ USD năm 2021, và 175,56 tỷ USD năm 2022; năm
2023, tổng kim ngạch thương mại song phương đạt gần 171,2 tỷ USD, chiếm
hơn 25% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước. Trung Quốc nhiều năm gần
đây là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt nam, sau Mỹ. Năm 2023, xuất
khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc đạt 61,2 tỷ USD, tăng 6,4% so với năm
2022 (tương ứng tăng thêm 3,5 tỷ USD), trong đó, có 12 nhóm hàng xuất khẩu
sang thị trường này đạt kim ngạch từ 1 tỷ USD trở lên. Đáng chú ý, hoạt động
xuất khẩu của nước ta sang Trung Quốc vẫn duy trì được tăng trưởng dương
trong khi kim ngạch nhập khẩu giảm. Với mặt hàng rau quả, xuất khẩu sang
Trung Quốc chiếm tỷ trọng 53,7% lượng hàng xuất ra nước ngoài; xuất khẩu vải
thiều chiếm 90%; thanh long chiếm hơn 80%; cao su là 71% và Trung Quốc
hiện là thị trường thứ 3 của xuất khẩu thủy sản Việt Nam. Một số mặt hàng
nông sản của Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc đã tăng trưởng đột biến
trong năm 2023, nổi bật là sầu riêng đạt hơn 2,2 tỷ USD, tăng khoảng 5 lần so
với năm 2022. Bên cạnh những kết quả đạt được, hợp tác kinh tế giữa Việt Nam
và Trung Quốc những năm qua luôn tồn tại một vấn đề lớn là tính hiệu quả chưa
cao. Về thương mại, mặc dù kim ngạch thương mại song phương tăng trưởng
mạnh, nhưng thâm hụt thương mại của Việt Nam với Trung Quốc tăng nhanh và
lên mức kỷ lục hơn 60 tỷ USD vào năm 2022, khoảng 50 tỷ USD năm 2023;
mức độ phụ thuộc của Việt Nam vào thị trường Trung Quốc ngày càng lớn.
Tình trạng thiếu trao đổi thông tin, thiếu ổn định chính sách thương mại dẫn đến
ùn ứ cục bộ trong xuất khẩu hàng hóa, nông sản của Việt Nam sang thị trường
Trung Quốc diễn ra thường xuyên.
2.1.6. Nhận thức xu thế phát triển của thời đại
Nhận thức rõ đặc điểm và xu hướng phát triển của thời đại cũng như cục
diện và tình hình thế giới là một công việc rất cần thiết. Mỗi quốc gia, dân tộc
cần biết mình đang sống trong thời đại gì và bối cảnh thế giới nào, với những
tính chất, đặc điểm, nội dung và xu thế phát triển ra sao. Toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế tiếp tục phát triển cả về trình độ và tính chất. Toàn cầu hóa, xét về
bản chất, là quá trình gia tăng và lan tỏa những mối liên hệ ảnh hưởng, tác động
lẫn nhau, phụ thuộc vào nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc
trên toàn thế giới. Đây là xu thế và kết quả tất yếu của quá trình phát triển nền
kinh tế thị trường hiện đại, thúc đẩy quá trình mở rộng quan hệ nhiều mặt ra
khỏi phạm vi quốc gia, tăng cường mối liên hệ, hợp tác cùng có lợi. Các nước
vừa có cơ hội, vừa không thể cưỡng lại sức lôi cuốn của quá trình toàn cầu hóa.
Nó trở thành quá trình tất yếu không ngừng phát triển, kéo theo cả thế giới vào
cuộc chơi hội nhập cùng phát triển, hợp tác và đấu tranh vì lợi ích quốc gia, dân
tộc; hiện nay, trở thành một lẽ đương nhiên mà không nước nào có thể bỏ qua
được. Hội nhập quốc tế là tiến trình mỗi quốc gia theo đuổi lợi ích, mục tiêu của
mình thông qua việc tự giác hợp tác liên kết với các quốc gia khác và các tổ
chức quốc tế trên nhiều lĩnh vực (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh,
quốc phòng,…) dựa trên sự chia sẻ về nhận thức, lợi ích, giá trị, nguồn lực,
quyền lực và chủ động chấp nhận, tiếp thu tham gia xây dựng các luật chơi
chung, chuẩn mực chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế.
Quá trình hội nhập quốc tế bắt đầu từ thập niên 50 của thế kỷ trước và bùng nổ
từ thập niên 1990 đến nay. Hàng loạt các tổ chức khu vực đã ra đời, như việc
hội nhập toàn diện của Liên minh châu Âu (EU) đã đạt đến mức độ cao, biến tổ
chức này trở thành một thực thể mạnh siêu quốc gia. Các nước trong Cộng đồng
các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) cũng đang mở rộng và làm sâu sắc tiến
trình hội nhập khu vực một cách toàn diện hơn dựa trên ba trụ cột: Cộng đồng
chính trị - an ninh, Cộng đồng kinh tế và Cộng đồng văn hóa xã hội. Ở cấp độ
toàn cầu, Liên hợp quốc và các tổ chức chuyên môn của Liên hợp quốc đã ra
đời, ngày càng phát triển với số lượng thành viên bao quát hầu hết các nước trên
thế giới.
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội tuy không còn sự giúp đỡ của Liên
Xô và các nước xã hội chủ nghĩa như trước, nhưng trong giai đoạn mới của thời
đại, khi cách mạng khoa học - công nghệ và toàn cầu hóa đời sống thế giới, tất
cả các nước đều ở trong mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau, không một nước nào
sống biệt lập mà có thể phát triển được. Sự hợp tác kinh tế với các nước bằng
nhiều hình thức sinh động trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, tôn trọng độc
lập chủ quyền của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau dưới
bất kỳ hình thức nào, sẽ tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ hiện đại, kinh
nghiệm quản lý, phục vụ cho việc phát triển kinh tế đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Đó cũng là khả năng thực tế mà chúng ta đã và đang cố gắng tận dụng, đưa
nước ta hòa nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Mặt khác, không chỉ có
thời cơ mà còn có cả những thách thức, những nguy cơ. Trong hợp tác kinh tế
với các nước, nhất là với các nước tư bản phát triển, là những trung tâm kinh tế
kỹ thuật hùng mạnh, họ có thể lợi dụng ưu thế về vốn, kỹ thuật và công nghệ
hiện đại để gây sức ép đối với chúng ta, nhất là trong những lúc chúng ta gặp
khó khăn, buộc chúng ta phải chấp nhận những điều kiện có lợi cho họ, hòng lái
chúng ta đi chệch khỏi định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặc dù “hòa bình, hợp
tác”, phát triển là xu hướng của thời đại nhưng còn một xu hướng khác đối lập
là xu hướng cường quyền, áp đặt. Mưu toan của các thế lực cường quyền, hiếu
chiến đang thể hiện trong các điểm nóng trên nhiều khu vực của thế giới đang là
những mưu toan độc chiếm các vùng biển, đảo, xâm phạm độc lập, chủ quyền
của nước khác. Đó là những thách thức, những nguy cơ mà chúng ta cần có sự
nhận thức sâu sắc và tỉnh táo, không một chút mơ hồ, mất cảnh giác, để có
những chủ trương, biện pháp ngăn ngừa, đối phó hữu hiệu. Chúng ta thực hiện
phương châm vừa hợp tác, vừa đấu tranh trên cơ sở giữ vững những vấn đề có
tính nguyên tắc về mục tiêu chiến lược và mềm dẻo linh hoạt về sách lược. Đấu
tranh không phải để phá vỡ hợp tác mà để phát triển sự hợp tác. Phải biết khéo
lợi dụng những mâu thuẫn trong hệ thống tư bản chủ nghĩa, nhất là mâu thuẫn
giữa các nước lớn trong xu hướng đa cực hóa để mở rộng sự hợp tác vừa có lợi,
vừa bảo vệ được mình và chuẩn bị sẵn sàng đối phó với những tình huống xấu
nhất, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện
thắng lợi hai nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa.
Một vấn đề nữa cũng không kém phần quan trọng là khi nước ta hội nhập
vào kinh tế khu vực và kinh tế thế giới, chúng ta cũng chịu sự tác động hai chiều
tích cực và tiêu cực đến kinh tế của nước ta. Tác động tích cực khi kinh tế khu
vực và kinh tế thế giới ổn định phát triển, tác động tiêu cực khi kinh tế thế giới
và kinh tế khu vực rơi vào trì trệ, khủng hoảng. Chúng ta cần có chính sách sử
dụng tốt mặt tích cực và ngăn ngừa, hạn chế mặt tiêu cực, giữ cho nền kinh tế
nước ta ổn định và phát triển. Đây là bài học thực tế đã xử lý trước những tác
động tiêu cực của cơn khủng hoảng tài chính - tiền tệ và khủng hoảng kinh tế
trong khu vực và thế giới trong thời gian qua.
Như vậy, từ một nước kinh tế kém phát triển, nếu chúng ta biết tranh thủ
những thời cơ, những thuận lợi và biết vượt qua những thách thức, những nguy
cơ, chúng ta có thể “phát triển rút ngắn” lên xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa theo quan điểm của V.I. Lênin, Người đã có đóng góp to lớn vào
lý luận về sự “phát triển rút ngắn” và chính sách kinh tế mới (NEP). Nó đã được
thực tiễn khảo nghiệm mà ngày nay Đảng ta đang vận dụng một cách sáng tạo,
phù hợp với thực tiễn cách mạng nước ta. Xuất phát từ tình hình như thế, chúng
ta có thể tin tưởng vững chắc rằng, Việt Nam đang trong tư thế vươn tầm, kiên
định con đường đã lựa chọn, có đủ sức lực và trí tuệ để tiến bước cùng thế giới,
cùng thời đại, nhất định thực hiện được mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh.
Reference:
2.2. Những chính sách (Nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi tiếp nối các chính
sách trong giai đoạn này).
+ 1995-2000 Chính sách đối ngoại - Liên
Trung Quốc là láng giềng lớn, có nhiều điểm tương đồng về truyền thông
và văn hóa với Việt Nam. Chính sách đối ngoại của Việt Nam đã cho thấy quốc
gia này là một trong những ưu tiên quan trọng hàng đầu lúc bấy giờ. Trung
Quốc được đánh giá là đất nước phát triển, có tiềm lực kinh tế lớn đứng thứ 2
thế giới sau Mỹ. Sau quyết định bình thường hóa quan hệ hai nước vào năm
1991, Việt Nam và Trung Quốc đã tạo nền tảng vững chắc cho hợp tác kinh tế
phát triển. Cả hai quốc gia cùng lúc thực hiện chính sách Đổi Mới mở cửa, tạo
cơ hội cho sự giao lưu kinh tế. Cả hai quốc gia đã nỗ lực bổ sung cho nhau về
kinh tế. Trong khi Việt Nam có nguồn nhân lực giá rẻ và tài nguyên phong phú,
thì Trung Quốc có nguồn vốn đầu tư, công nghệ và thị trường rộng lớn. Điều
này đã thôi thúc hai quốc gia cùng nhau cải thiện mối quan hệ và không ngừng
cố gắng thiết lập mối quan hệ hữu nghị.
Trong giai đoạn này, mối quan hệ ngoại giao nói chung và ngoại giao
kinh tế của Việt Nam - Trung Quốc nói riêng đã chịu ảnh hưởng bởi hai sự kiện
chính là Việt Nam gia nhập vào tổ chức ASEAN và Việt Nam - Mỹ bình thường
hóa quan hệ sau lệnh cấm vận năm 1975. Đây là hai sự kiện lớn tác động sâu
sắc đến các hoạt động ngoại giao của Việt Nam lúc bấy giờ. Sau những sự kiện
này, Việt Nam ngày càng sẵn sàng để hòa nhập vào sự chuyển mình của thế
giới. Các mối quan hệ song phương và đa phương cũng được thúc đẩy. Nước ta
luôn nỗ lực hết mình để thiết lập mối quan hệ tốt đẹp với các quốc gia đặc biệt
là Trung Quốc.
Vào tháng 7/1995 Việt Nam chính thức gia nhập và trở thành thành viên
thứ 7 của tổ chức khu vực ASEAN. Sự kiện này đã giúp Việt Nam nâng cao vị
thế đất nước hơn trên trường quốc tế, nó thúc đẩy cho bầu không khí khu vực
trở nên ổn định hơn.
Ngày 11 tháng 7 năm 1995, Việt Nam và Mỹ đã chính thức thiết lập quan hệ
ngoại giao và trao đổi đại sứ.Việc cải thiện quan hệ song phương này đã mang
lại nhiều lợi ích cho Việt Nam. Nó giúp Việt Nam tiếp cận được thị trường, thu
hút được đầu tư, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến từ các doanh nghiệp. Điều này
cũng thuận lợi cho Việt Nam trong việc tham gia các tổ chức quốc tế như
APEC, WTO, và nhận được các khoản vay từ các tổ chức tài chính quốc tế như
IMF, Ngân hàng Thế giới, ADB. Tất cả những yếu tố này đã tác động tích cực
đến chính sách cải cách kinh tế và mở cửa của Việt Nam. Có thể nói, việc bình
thường hóa quan hệ với Mỹ là một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy sự
phát triển kinh tế của Việt Nam, nâng cao khả năng cạnh tranh và vị thế của Việt
Nam trong khu vực.
Tháng 11/1995 Tổng bí thư Đỗ Mười đã có chuyến ghé thăm Trung Quốc
nhằm khôi phục lại lòng tin lẫn nhau trên cơ sở và hình thức mới xây dựng lại
mối quan hệ hữu hảo láng giềng. Trong chuyến thăm này, Tổng bí thư Đỗ Mười
đã quan tâm tìm hiểu kinh nghiệm phát triển của Trung Quốc, đặc biệt là mô
hình phát triển "khu vực trọng điểm".
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng Sản Việt Nam
diễn ra từ ngày 28/6 đến 1/7/1996, đã đề ra phương hướng nhiệm vụ cho giai
đoạn tiếp theo là thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế với các nước trong khu vực,
bao gồm cả Trung Quốc. Đại hội VIII xác định rõ mục tiêu đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong đó hợp tác kinh tế quốc tế đóng vai trò
quan trọng và Việt Nam cần mở rộng thị trường, thu hút đầu tư nước ngoài tăng
cường xuất khẩu để phát triển kinh tế. Cũng trong đại hội này, Uỷ viên Thường
vụ Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Thủ
tướng Quốc vụ viện Trung Quốc, Lý Bằng đã dẫn đầu đoàn đại biểu Đảng Cộng
sản Trung Quốc sang dự và đọc lời chúc mừng Đại hội. Đây là chuyến tham dự
lần đầu tiên của đại diện Đảng Cộng sản Trung Quốc tại một đại hội Đảng của
Việt Nam từ sau bình thường hoá quan hệ, và cũng là chuyến tham dự sau 35
năm kể từ khi Phó Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc Lý Phú Xuân dẫn đầu
đoàn đại biểu Đảng sang dự đại hội III của Đảng Lao động Việt Nam năm 1961.
Điều này cho thấy sự quan tâm của Trung Quốc đến tình hình Việt Nam, và
quan hệ giữa hai Đảng đã trở nên gần gũi nhau hơn. Chính từ đó, nước ta đã ban
hành nhiều chính sách mới nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp
nước ngoài, bao gồm cả doanh nghiệp Trung Quốc, đầu tư vào Việt Nam cũng
như triển khai nhiều chương trình hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu, giúp các
doanh nghiệp tiếp cận thị trường Trung Quốc hiệu quả hơn. Ngoài ra, Việt Nam
cũng tích cực tham gia các diễn đàn kinh tế khu vực như ASEAN, APEC để thu
hút sự quan tâm từ các nhà đầu tư trung quốc. Thông qua những nỗ lực này, chỉ
trong vòng 5 năm từ năm 1995 đến năm 2000, kim ngạch thương mại giữa Việt
Nam và Trung Quốc đã tăng từ 691 triệu USD lên 2,93 tỷ USD. Trung Quốc
cũng trở thành thị trường xuất khẩu lớn thứ hai và thị trường nhập khẩu lớn thứ
3 của Việt Nam. Việt Nam cũng đã thu hút hơn 1,5 tỷ USD vốn đầu tư FDI từ
Trung Quốc vào các lĩnh vực năng lượng, khoáng chế, chế biến, và dệt may.
Những hợp tác này đã mang lại nguồn thu nhập quan trọng cho người lao động
Việt Nam và góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế ở một số địa phương. Một
trong những dự án tiêu biểu trong sự hợp tác của hai quốc gia là dự án Thủy
Điện Sông Đà, dự án đã nhận được sự đầu tư lớn từ Trung Quốc giúp góp phần
giải quyết tình trạng thiếu hụt điện năng của Việt Nam và thúc đẩy phát triển
kinh tế xã hội khu vực Tây Bắc trong giai đoạn này.
Tiếp đến vào tháng 12 năm 1997, Hội nghị Trung ương 4 khóa VIII về
Kinh tế đối ngoại diễn ra đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong định hướng
phát triển kinh tế của Việt Nam đặc biệt là thúc đẩy quan hệ ngoại giao kinh tế
với Trung Quốc. Việt Nam đã xác định rõ nguyên tắc hội nhập trong giai đoạn
này là “tích cực, chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường”. Cũng thông qua
hội nghị Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiệm vụ chính là “ chủ động chuẩn bị
các điều kiện cần thiết về cán bộ, luật pháp và nhấT là về những sản phẩm mà
chúng ta có khả năng cạnh tranh để hội nhập thị trường trong khu vực và thị
trường quốc tế” và “ Tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán hiệp định
thương mại với Mỹ, gia nhập APEC và WTO. Có kế hoạch cụ thể để chủ động
thực hiện cam kết trong khuôn khổ AFTA”. Hội nghị đã đề ra nhiều chủ trương
và chính sách mang tính đột phá, tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam hội nhập
kinh tế quốc tế sâu rộng hơn. Về định hướng, Hội nghị xác định Trung Quốc là
thị trường xuất khẩu tiềm năng và đối tác đầu tư quan trọng của Việt Nam,
khuyến khích hợp tác kinh tế với Trung Quốc trên nhiều lĩnh vực như thương
mại, đầu tư, du lịch, lao động,...Việt Nam cũng đã đơn giản hóa thủ tục hành
chính, ưu đãi thuế, bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư khi tham gia vào thị trường Việt
Nam.
Ngoài ra, trong chuyến thăm Trung Quốc vào tháng 10 năm 1998 Thủ
tướng Phan Văn Khải đã ký kết Hiệp định Mậu dịch Biên giới giữa Việt Nam
và Trung Quốc tại Bắc Kinh. Hiệp định này là văn bản pháp lý quan trọng nhằm
thúc đẩy và điều chỉnh hoạt động mậu dịch biên giới giữa hai nước, góp phần
tăng cường hợp tác kinh tế và quan hệ hữu nghị láng giềng. Thông qua hiệp
định, cả hai quốc gia mong muốn thúc đẩy và điều chỉnh hoạt động mậu dịch
biên giới giữa hai nước trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi, phù hợp với luật pháp
và quy định của mỗi bên. Hiệp định áp dụng cho việc mua bán hàng hóa qua
biên giới giữa hai nước tại các cửa khẩu được hai bên thỏa thuận và quy định
các danh mục hàng hóa được phép mua bán qua biên giới, quy định về các thủ
tục hải quan và các phương thức thanh toán cho hoạt định mậu dịch biên giới.
Hiệp định Mậu dịch Biên giới Việt Nam - Trung Quốc năm 1998 đã mang lại
nhiều tác động tích cực cho quan hệ hợp tác kinh tế và quan hệ hữu nghị láng
giềng giữa hai nước như kim ngạch thương mại biên giới giữa hai nước tăng
trưởng mạnh mẽ giúp thúc đẩy hoạt động mậu dịch biên giới, tạo điều kiện
thuận lợi cho doanh nghiệp hai nước đầu tư, kinh doanh trong lĩnh vực thương
mại thế giới góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Ngoài ra, cũng góp phần tăng
cường quan hệ hữu nghị láng giềng giữa Việt Nam và Trung Quốc. Tuy nhiên
bên cạnh những tác động tích cực, hiệp định vẫn còn tồn tại một số hạn chế như
hiệp định chỉ mới tập trung vào một số mặt hàng nhất định, việc quản lý còn gặp
một số khó khăn. Vì thế, cả hai bên cần phải tiếp tục hoàn thiện về các quy định
pháp luật để đảm bảo hoạt động mậu dịch biên giới diễn ra hiệu quả và bền
vững.
Tổng bí thư Lê Khả Phiêu đã có chuyến thăm hữu nghị chính thức đến
Trung Quốc từ ngày 25-2 đến ngày 2-3-1999. Ông đã không đến Trung Quốc kể
từ khi nhậm chức vào tháng 12 năm 1997. Trong cuộc thảo luận với Tổng bí thư
Giang Trạch Dân, họ đã thiết lập một khuôn khổ và khuôn khổ cho mối quan hệ
giữa hai quốc gia hướng tới thế kỷ XXI và đồng ý cùng nhau nỗ lực xây dựng
và phát triển mối quan hệ Việt-Trung. Cũng trong lần ghé thăm này, Tuyên bố
chung Việt Nam-Trung Quốc được ký kết vào ngày 27 tháng 2 năm 1999.
Tuyên bố với 16 từ "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài,
hướng tới tương lai" thúc đẩy mối quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam vào
một giai đoạn mới. Sự thành công của nỗ lực này đã được thể hiện khi chính
phủ của hai quốc gia ký kết Tuyên bố chung về hợp tác toàn diện trong thế kỷ
mới và Hiệp định hợp tác nghề cá vào cuối năm 1999 và 2000.
Đặc biệt trong những năm này, các nhà lãnh đạo cấp cao từ Trung Quốc
đã ghé thăm Việt Nam, chẳng hạn như Thủ tướng Quốc vụ viện, Chủ tịch Quốc
hội và Phó Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào. Các nhà lãnh đạo cấp cao của hai quốc
gia đã có các cuộc gặp gỡ và thăm viếng nhau tuy nhiên chỉ dừng lại ở việc đạt
được những thỏa thuận kinh tế và thương mại thay vì đưa ra các thông cáo hoặc
thông cáo chung. Ngoài ra, những cuộc tranh chấp về lãnh thổ giữa hai quốc gia
cũng đã giảm dần. Trọng tâm của giai đoạn này là khôi phục lòng tin lẫn nhau
và xây dựng lại mối quan hệ láng giềng hữu hảo theo cách mới.
Việt Nam đã và đang phải đối mặt với nhiều thách thức trong quan hệ
thương mại với Trung Quốc qua các giai đoạn khác nhau. Trong giai đoạn đầu
từ năm 1991 đến năm 1995, hàng hóa Trung Quốc có giá rẻ, chất lượng thấp
tràn ngập thị trường Việt Nam, gây khó khăn cho các ngành sản xuất nội địa
như dệt may, sành sứ, thủy tinh và xe đạp. Tình trạng nhập lậu hàng hóa qua
biên giới diễn ra phổ biến, gây thất thu thuế và làm suy yếu khả năng cạnh tranh
của hàng hóa sản xuất trong nước. Bước sang giai đoạn 1996 - 2000, Việt Nam
ngày càng phụ thuộc vào hàng hóa Trung Quốc. Điều này thể hiện rõ qua việc
kim ngạch nhập khẩu tăng gấp 8 lần so với giai đoạn trước và sự đa dạng hóa
các mặt hàng nhập khẩu, lên tới 200 nhóm hàng, gấp đôi so với số lượng hàng
hóa Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc. Từ năm 2001 trở đi chứng kiến sự
gia tăng đáng kể về nhập siêu từ Trung Quốc. Kim ngạch nhập khẩu tăng mạnh,
đạt mức 11,12 tỷ USD vào năm 200812, trong khi kim ngạch xuất khẩu không
theo kịp, dẫn đến sự mất cân bằng nghiêm trọng trong cán cân thương mại. Mặc
dù Trung Quốc trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, nhưng các
doanh nghiệp Việt Nam lại chưa tận dụng được cơ hội từ thị trường rộng lớn
này, trong khi các doanh nghiệp Trung Quốc lại rất thành công trong việc khai
thác thị trường Việt Nam.
Về đầu tư, nguồn vốn FDI từ Trung Quốc tuy lớn nhưng chủ yếu tập
trung vào các ngành thâm dụng lao động, công nghệ thấp và tiềm ẩn nguy cơ
gây ô nhiễm môi trường như khai thác khoáng sản, sản xuất vật liệu xây dựng,
dệt may...Trong khi đó, đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ cao, đổi mới sáng tạo
12
Doãn Công Khánh, Viện Nghiên cứu Thương mại, Phát triển quan hệ thương mại Việt Nam - Trung
Quốc thành hình mẫu của quan hệ hữu nghị và hợp tác trong thế kỷ XXI (17/07/2010),
http://vnics.org.vn/Default.aspx?ctl=Article&aID=190. Truy cập ngày: 30/05/2024.
còn rất hạn chế, khiến Việt Nam bỏ lỡ cơ hội tiếp cận công nghệ tiên tiến, nâng
cao năng lực cạnh tranh và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hóa.
Mặc dù khung khổ pháp lý thương mại Việt Nam - Trung Quốc đã được
cải thiện đáng kể, nhưng vẫn còn một số vấn đề tồn đọng như việc thực hiện
Hiệp định ACFTA hay kiểm dịch động thực vật. Tốc độ tăng trưởng kim ngạch
thương mại tuy nhanh nhưng tỷ trọng trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của
mỗi nước vẫn còn thấp, chỉ khoảng 5% đối với Việt Nam và 0,4% đối với Trung
Quốc.13
Việt Nam chưa tận dụng được cơ hội thâm nhập thị trường Trung Quốc,
đặc biệt là các mặt hàng nông sản, thủy sản có nhu cầu cao. Bên cạnh đó,
thương mại chưa gắn kết chặt chẽ với đầu tư và chuyển giao công nghệ, khiến
Việt Nam bỏ lỡ cơ hội nâng cao năng lực sản xuất và giá trị gia tăng hàng hóa.
Dù có lợi thế về vị trí địa kinh tế, Việt Nam chưa khai thác triệt để để tăng kim
ngạch xuất khẩu và thu hút đầu tư vào cơ sở hạ tầng giao thông kết nối với
Trung Quốc. Nhập siêu từ Trung Quốc tiếp tục gia tăng, gây áp lực lên cán cân
thương mại và đặt ra bài toán cấp bách về tìm kiếm giải pháp khắc phục. Mặc
dù thâm hụt thương mại có thể được bù đắp bằng thặng dư từ các thị trường
khác, nhưng nhập siêu lớn đã trở thành "căn bệnh cố hữu" của nền kinh tế.
Cơ cấu thương mại mất cân bằng, với Việt Nam chủ yếu xuất khẩu
nguyên liệu thô, giá trị gia tăng thấp và nhập khẩu sản phẩm công nghệ cao từ
Trung Quốc, đặt ra những câu hỏi về sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
Cuối cùng, việc giao dịch chủ yếu qua đường tiểu ngạch tuy mang lại lợi ích
ngắn hạn nhưng tiềm ẩn nhiều rủi ro và bất ổn, ảnh hưởng đến tính bền vững
của quan hệ thương mại.
13
Doãn Công Khánh, Viện Nghiên cứu Thương mại, Phát triển quan hệ thương mại Việt Nam - Trung
Quốc thành hình mẫu của quan hệ hữu nghị và hợp tác trong thế kỷ XXI (17/07/2010),
http://vnics.org.vn/Default.aspx?ctl=Article&aID=190. Truy cập ngày: 30/05/2024.
Rủi ro về an ninh và môi trường
Sự phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc tiềm ẩn nhiều rủi ro về an ninh kinh
tế và an ninh quốc gia. Khi thị trường Trung Quốc gặp biến động hoặc thay đổi
chính sách, nền kinh tế Việt Nam sẽ dễ bị ảnh hưởng. Thực tế đã chứng minh
điều này khi Trung Quốc áp đặt các biện pháp kiểm dịch nghiêm ngặt đối với
nông sản Việt Nam, xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này đã bị ảnh
hưởng nặng nề.
Ngoài ra, việc Trung Quốc đầu tư vào các dự án cơ sở hạ tầng quan trọng
như thủy điện, cảng biển, đường sá...cũng đặt ra những lo ngại về an ninh quốc
gia, đặc biệt trong bối cảnh tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông. Mặc dù các
dự án này mang lại lợi ích kinh tế, nhưng cũng làm dấy lên những câu hỏi về
tính độc lập, tự chủ của Việt Nam, cũng như khả năng kiểm soát và ảnh hưởng
của Trung Quốc đối với các tài sản chiến lược của Việt Nam.
Bên cạnh đó, một số dự án đầu tư của Trung Quốc còn gây ra những tác
động tiêu cực đến môi trường và xã hội. Điển hình là dự án khai thác bauxite ở
Tây Nguyên đã gây ra những tranh cãi gay gắt về vấn đề môi trường, ảnh hưởng
đến đời sống của người dân địa phương và làm gia tăng nguy cơ mất an ninh xã
hội.
Vào ngày 7 tháng 3 năm 1997, Trung Quốc đã đơn phương đưa giàn
khoan Kantan 3 cùng hai tàu kéo vào thăm dò trên thềm lục địa của Việt Nam14,
bất chấp sự phản đối mạnh mẽ từ Việt Nam và cộng đồng quốc tế. Hành động
này đã làm leo thang căng thẳng trên Biển Đông và vi phạm nghiêm trọng chủ
14
Trương Công Vĩnh Khanh, Phạm Phúc Vĩnh (05/01/2017), Tạp Chí Khoa Học Yersin, Nhìn Lại Tác
Động Của Quan Hệ Asean – Trung Quốc Đối Với Quan Hệ Việt – Trung Về Tranh Chấp Chủ Quyền
Trên Biển Giai Đoạn 1991 – 2003,
file:///C:/Users/ASUS/Downloads/33886-Article%20Text-113263-1-10-20180508.pdf. Truy cập ngày:
30/05/2024.
quyền của Việt Nam. Mặc dù Việt Nam và cộng đồng quốc tế đã lên tiếng phản
đối, Trung Quốc vẫn duy trì giàn khoan này cho đến tháng 4 năm 1997. Tiếp đó,
trong năm 1998, Trung Quốc tiếp tục có những hành động xâm phạm chủ quyền
của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, bất chấp luật pháp quốc tế
và các thỏa thuận đã ký kết giữa hai nước. Năm 1998, Trung Quốc ban hành
luật về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, và năm 1999, họ đơn phương
tuyên bố cấm đánh bắt cá ở một số khu vực trên Biển Đông, gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến ngư dân Việt Nam. Những hành động này của Trung Quốc đã
chứng minh rằng Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) không
có hiệu quả trong việc giải quyết tranh chấp chủ quyền. Trung Quốc đã công
khai khẳng định DOC không liên quan đến các tranh chấp chủ quyền và họ sẽ
tiếp tục bảo vệ các yêu sách của mình, bất chấp luật pháp quốc tế và phản đối từ
các quốc gia khác.
Việt Nam đã nỗ lực thúc đẩy xây dựng một Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển
Đông (COC) có hiệu lực pháp lý và áp dụng cho cả quần đảo Trường Sa và
Hoàng Sa, nhưng Trung Quốc chỉ muốn giới hạn phạm vi áp dụng của COC đối
với quần đảo Trường Sa và khẳng định chủ quyền của mình đối với quần đảo
Hoàng Sa. Điều này cho thấy Trung Quốc không có thiện chí giải quyết tranh
chấp một cách hòa bình và công bằng, mà chỉ muốn duy trì hiện trạng và củng
cố các yêu sách phi lý của mình.
Declaration on Conduct of the Parties in the South China Sea), viết tắt là
DOC, là một văn kiện được các nước ASEAN và Trung Quốc ký kết ngày 4
tháng 11 năm 2002 tại Phnom Penh, Campuchia nhân dịp Hội nghị thượng
đỉnh ASEAN lần thứ 8
15
http://vnics.org.vn/Default.aspx?ctl=Article&aID=190
đầu liên quan đến tàu thuyền và hoạt động khai thác tài nguyên biển trong giai
đoạn này đã gây ra căng thẳng, ảnh hưởng đến môi trường hợp tác kinh tế.
Thứ hai, sự phụ thuộc kinh tế. Nhiều ngành sản xuất của Việt Nam phụ
thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu từ Trung Quốc, tạo ra sự phụ thuộc kinh tế và
rủi ro cho nền kinh tế Việt Nam nếu có bất kỳ biến động nào trong quan hệ song
phương. Sự phụ thuộc vào chuỗi cung ứng từ Trung Quốc cũng đặt ra thách
thức trong việc xây dựng nền kinh tế tự chủ và bền vững. Mặc dầu có lợi thế về
vị trí địa kinh tế, nhưng Việt Nam vẫn chưa khai thác triệt để yếu tố này để tăng
kim ngạch xuất khẩu. Lượng hàng hoá của Trung Quốc quá cảnh qua Việt Nam
vẫn còn nhỏ bé. Đầu tư cho cơ sở hạ tầng giao thông để kết nối với hệ thống
giao thông của Trung Quốc vẫn còn hạn chế.
Thứ ba, khung khổ pháp lý cho trao đổi thương mại đã được cải thiện
đáng kể nhưng vẫn còn một số vấn đề vướng mắc như trong việc thực hiện Hiệp
định ACFTA, ký kết các văn bản quy định về kiểm dịch động thực vật, quản lý
hàng hoá trao đổi qua biên giới…
Thứ tư, mất cân bằng về thương mại. Xuất khẩu của Việt Nam sang
Trung Quốc chủ yếu là nguyên liệu, hàng hóa giá trị thấp, trong khi nhập khẩu
từ Trung Quốc đa dạng với nhiều mặt hàng công nghiệp, công nghệ cao. Tuy tốc
độ tăng trưởng kim ngạch trao đổi hàng hoá giữa hai nước tương đối nhanh,
nhưng kim ngạch xuất nhập khẩu vẫn chiếm tỷ trọng thấp trong tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu của mỗi nước: khoảng 5% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của
Việt Nam và 0,4% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Trung Quốc16. Tình trạng
thâm hụt thương mại kéo dài gây áp lực lên tỷ giá hối đoái, ảnh hưởng đến nền
kinh tế Việt Nam.
Từ năm 1995 đến 2005, quan hệ ngoại giao và kinh tế giữa Việt Nam và
Trung Quốc có nhiều cơ hội và tiềm năng phát triển. Những bước tiến quan
trọng trong việc ký kết các hiệp định song phương và gia tăng hợp tác trong
nhiều lĩnh vực đã mang lại lợi ích đáng kể cho cả hai nước. Tuy nhiên, thách
16
http://vnics.org.vn/Default.aspx?ctl=Article&aID=190
thức vẫn tồn tại, đòi hỏi hai bên phải tiếp tục đối thoại và hợp tác để giải quyết
các vấn đề còn tồn đọng và duy trì quan hệ song phương ổn định và bền vững.
3.4. Bài học kinh nghiệm
Giai đoạn 1995-2005 đã đem lại nhiều bài học quan trọng cho Việt Nam
trong quan hệ ngoại giao kinh tế với Trung Quốc.
Thứ nhất, cần cân bằng lợi ích và rủi ro. Việt Nam cần phát triển thương
mại song phương, tận dụng tối đa lợi ích từ thương mại Việt - Trung nhưng
cũng cần có chiến lược để kiểm soát sự phụ thuộc vào hàng hóa và nguyên liệu
từ Trung Quốc. Kiên quyết bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia, đặc biệt trong
các vấn đề liên quan đến biên giới và Biển Đông, đồng thời thúc đẩy hợp tác
kinh tế trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau. Tăng cường giám sát và thực
thi các quy định pháp luật để đảm bảo lợi ích quốc gia không bị ảnh hưởng bởi
các hoạt động kinh tế không minh bạch hoặc bất hợp pháp.
Thứ hai, đa dạng hóa đối tác kinh tế. Việt Nam cần giảm phụ thuộc kinh
tế Trung Quốc, đa dạng hóa quan hệ kinh tế và thương mại với nhiều quốc gia
khác. Điều này giúp tạo ra một nền kinh tế cân bằng và bền vững hơn. Hơn nữa,
cần mở rộng thị trường xuất khẩu ra các khu vực khác để giảm thiểu rủi ro từ
việc phụ thuộc quá nhiều vào thị trường Trung Quốc.
Thứ ba, tăng cường quan hệ đối tác chiến lược. Xây dựng và duy trì quan
hệ đối tác chiến lược với Trung Quốc trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau và cùng có
lợi. Điều này bao gồm việc giải quyết các tranh chấp thông qua đối thoại và hợp
tác. Cần ngoại giao đa phương, tích cực tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu
vực như ASEAN để tạo sự cân bằng và hỗ trợ trong quan hệ với Trung Quốc.
Thứ tư, cần học hỏi từ kinh nghiệm của các quốc gia khác trong việc quản
lý quan hệ kinh tế với Trung Quốc, áp dụng các mô hình thành công vào thực
tiễn Việt Nam. Nghiên cứu và áp dụng các chính sách kinh tế hiệu quả từ các
quốc gia có nền kinh tế phát triển để nâng cao năng lực quản lý và phát triển
kinh tế.
Thứ năm, cần tập trung phát triển công nghệ và năng lực nội địa. Tăng
cường đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, nâng cao trình độ công nghệ trong
nước để giảm sự phụ thuộc vào công nghệ từ Trung Quốc. Nâng cao chất lượng
lao động, đào tạo và nâng cao tay nghề cho người lao động Việt Nam, đảm bảo
đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động và các dự án đầu tư chất lượng cao.
Thứ sáu, cần xây dựng cơ chế quản lý và kiểm soát. Việt Nam cần cải
thiện hệ thống kiểm soát chất lượng và an toàn hàng hóa nhập khẩu, đảm bảo
hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc đáp ứng các tiêu chuẩn về chất lượng và an
toàn. Bên cạnh đó, cần thiết lập cơ chế quản lý chặt chẽ đối với các dự án đầu tư
từ Trung Quốc, đảm bảo tuân thủ các quy định về môi trường, lao động và an
toàn.
Giai đoạn 1995-2005 đã mang lại nhiều bài học quý giá cho Việt Nam
trong quan hệ ngoại giao kinh tế với Trung Quốc. Việc cân nhắc và áp dụng
những bài học này có thể giúp Việt Nam xây dựng một chiến lược ngoại giao
kinh tế hiệu quả hơn, đảm bảo sự phát triển bền vững và bảo vệ lợi ích quốc gia
trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng.
Chính sách đối ngoại - Hà