Trường Đại Học Kinh Tế Đại Học Đà Nẵng: Giáo viên hướng dẫn: Nhóm: Sinh viên thực hiện

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 22

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG


------

ĐỀ TÀI

BA CHÍNH SÁCH CAN THIỆP KINH TẾ DẪN ĐẾN SỰ


THÀNH CÔNG CỦA CÁC QUỐC GIA ĐÔNG BẮC Á
VÀ LÝ GIẢI CHO SỰ THẤT BẠI CỦA CÁC QUỐC GIA
ĐÔNG NAM Á TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ SAU
CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI – TRƯỜNG HỢP
CỦA HÀN QUỐC VÀ THÁI LAN

Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Anh Tuấn


Nhóm: 2
Sinh viên thực hiện: Ôn Nguyễn Kiều Oanh - 47K01.4
Nguyễn Thị Ly Na - 47K01.4
Trần Thị Kim Chi - 47K01.4
Ngô Thị Mỹ Hòa - 47K01.4
Nguyễn Thị Minh Tâm- 47K01.4
Lê Thị Ngọc Thơ – 47K01.5
Lê Thị Thảo Vân – 47K01.5

Đà Nẵng, ngày 10 tháng 04 năm 2024

1
MỤC LỤC

A. PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

B. NỘI DUNG ................................................................................................................... 1

I. Chính sách nông nghiệp: ........................................................................................... 1

1. Chính sách tái phân phối đất nông nghiệp ở Đông Bắc Á và trường hợp của Hàn
Quốc: ............................................................................................................................. 1

2. Chính sách tái phân phối đất nông nghiệp ở Đông Nam Á và trường hợp của
Thái Lan: ....................................................................................................................... 3

II. Chính sách kỷ luật xuất khẩu: .................................................................................... 5

1. Thuật ngữ “ Kỷ luật xuất khẩu” tại Đông Bắc Á và trường hợp của Hàn Quốc: .. 5

2. Chính sách xuất khẩu tại Đông Nam Á và trường hợp của Thái Lan: ................... 9

III. Chính sách tài chính hỗ trợ: ..................................................................................... 11

1. Chính sách tài chính hỗ trợ ở Đông Bắc Á và trường hợp Hàn Quốc: ................ 11

2. Chính sách tài chính hỗ trợ ở Đông Nam Á và trường hợp Thái Lan: ................ 16

C. PHẦN KẾT BÀI ......................................................................................................... 19

D. DANH MỤC THAM KHẢO ...................................................................................... 20

2
Nhóm 2 – Kinh doanh khu vực Châu Á – Thái Bình Dương

A. PHẦN MỞ ĐẦU
Sau chiến tranh thế giới thứ 2, các quốc gia thuộc khu vực Đông Á có thể được
chia thành hai nhóm: nhóm những quốc gia đã phát triển vượt bậc và lập nên các kỳ tích
kinh tế (gồm các quốc gia Đông Bắc Á) và nhóm những quốc gia đã thất bại trong việc
nắm bắt thời điểm chuyển mình này (gồm các quốc gia Đông Nam Á). Không những
không thể lập nên kỳ tích kinh tế trong cùng một giai đoạn với các nước Đông Bắc Á,
các nước trong khu vực Đông Nam Á cũng không thành công khi áp dụng các chính
sách công nghiệp hóa tương tự các nước Đông Bắc Á để phát triển kinh tế. Lý do đằng
sau sự thất bại này của các quốc gia Đông Nam Á, bất chấp các điều kiện tự nhiên- xã
hội thuận lợi hơn so với Đông Bắc Á, là một chủ đề gây tranh cãi. Và tất nhiên, những
yếu tố đã thúc đẩy kinh tế các nước Đông Bắc Á, giúp họ gia nhập vào hàng ngũ “thế
giới thứ nhất” chỉ sau một khoảng thời gian ngắn cũng là một chủ đề hấp dẫn không
kém.
Để trả lời cả hai câu hỏi này, nhà nghiên cứu Joe Studwell, trong cuốn sách “Châu
Á vận hành như thế nào: Thành công và thất bại của khu vực năng động nhất thế giới”,
xuất bản năm 2013, đã đưa ra các kết luận được đánh giá là vô cùng khác biệt với số
đông. Ông đã so sánh và chứng minh rằng sự chênh lệch về phát triển kinh tế của hai
nhóm nước trong khu vực Đông Á xuất phát từ sự khác biệt trong: 1. chính sách tái phân
phối đất nông nghiệp; 2. chính sách kỷ luật xuất khẩu; và 3. chính sách tài chính hỗ trợ.

B. NỘI DUNG:
I. Chính sách nông nghiệp:
Trong giai đoạn đầu của sự phát triển kinh tế, dù là quốc gia nào cũng đều phải
dựa nào nền tảng nông nghiệp. Các quốc gia Đông Nam Á có nhiều lợi thế về điều kiện
tự nhiên để phát triển nông nghiệp hơn hẳn các quốc gia Đông Bắc Á nhưng lại không
thể tái thiết ngành nông nghiệp hiệu quả. Nhân tố quyết định dẫn tới sự khác biệt này
chính là chính sách nông nghiệp. Trong đó, chính sách tái phân phối đất nông nghiệp
đóng vai trò lớn nhất.
1. Chính sách tái phân phối đất nông nghiệp ở Đông Bắc Á và trường hợp
của Hàn Quốc:
Các quốc gia Đông Bắc Á chú trọng vào phát triển kinh tế bằng cách tập trung vào
nông nghiệp như một bước khởi đầu quan trọng. Tuy nhiên, yếu tố quyết định sự phát

1
Nhóm 2 – Kinh doanh khu vực Châu Á – Thái Bình Dương

triển này vẫn là cách thức tối ưu hóa sản lượng nông nghiệp. Bằng cách phân phối đất
nông nghiệp cho các gia đình nông thôn một cách công bằng, chính phủ tạo ra một môi
trường cạnh tranh lý tưởng, giống như một phòng thí nghiệm. Loại cạnh tranh này có
quy mô lớn, không có rào cản và dễ tiếp cận thông tin. Cụ thể, với sự trợ giúp của người
Mỹ sau Thế chiến II, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan đã có các chính sách tái phân
phối đất nông nghiệp cấp tiến. Mỗi gia đình sở hữu một phần đất và có khả năng tiếp
cận hỗ trợ kỹ thuật, tín dụng và thị trường. Sáng kiến này nhằm mục đích tạo ra cơ hội
công bằng cho mọi người cạnh tranh, thoát khỏi quan niệm truyền thống rằng địa chủ
giàu có và người nông dân không có đất và vốn. Sau khi tái phân phối đất nông nghiệp,
các quốc gia này chứng kiến năng suất cây trồng tăng lên.
Ví dụ như việc tái phân phối ruộng đất tại Hàn Quốc. Trước cải cách ruộng đất,
nhất là trong giai đoạn Hàn Quốc chịu sự kiểm soát của chính quyền quân sự Mỹ, sở
hữu đất nông nghiệp ở Hàn Quốc bị bất bình đẳng nghiêm trọng. Một báo cáo của Mỹ
vào năm 1928 chỉ ra rằng chỉ có 4% hộ gia đình sở hữu 55% diện tích đất nông nghiệp
và 250.000 gia đình nông dân không có đất phải đi làm thuê. So với Đài Loan, Hàn Quốc
ít được đầu tư công vào nông nghiệp. Phải đến năm 1948, Hàn Quốc trở thành quốc gia
độc lập, nghị viện của Hàn Quốc mới có thể thông qua một dự luật cải cách đất đai quan
trọng: Đạo luật Cải cách Ruộng đất. Cụ thể, mức giữ đất tối đa được đạo luật quy định
là 3 héc-ta. Các điền chủ được bồi thường cho số đất đai bị thu hồi, tuy nhiên với mức
giá thấp hơn nhiều so với giá trị thực của đất đai. Do đó, đạo luật đã làm cho các điền
chủ mất gần 90% giá trị tài sản của mình. Nhờ có đạo luật tái phân bổ ruộng đất, số
lượng hộ gia đình sở hữu đất đã tăng lên từ 1/10 lên hơn 1/7 sau cải cách, mặc dù vẫn
còn sự không đồng đều trong việc phân chia đất đai. Sản lượng nông nghiệp của Hàn
Quốc có tăng nhưng không tăng nhanh như Nhật Bản, do chính phủ cưỡng ép thu mua
gạo với giá thấp hơn chi phí sản xuất, khiến các hộ gia đình trồng gạo thích tự sử dụng
sản phẩm hơn là bán lỗ. Sau đảo chính quân sự năm 1961, chính phủ tăng giá thu mua
và đầu tư vào cơ sở hạ tầng nông thôn và nhà máy phân bón, giúp tăng năng suất lúa cụ
thể là từ 3 tấn/ha lên 5,3 tấn/ha vào giữa những năm 1970. Năng suất này tuy thấp hơn
Nhật Bản và Đài Loan, nhưng cao hơn 1,5-2 lần so với các nước Đông Nam Á và Trung
Quốc thời kỳ cơ chế nông nghiệp tập thể. Mặc dù nông nghiệp Hàn Quốc không đóng
góp nhiều cho công nghiệp hóa đất nước khi so sánh với Nhật Bản hay Đài Loan, nhưng
vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc sử dụng lượng lớn lao động cho đến khi ngành
2
Nhóm 2 – Kinh doanh khu vực Châu Á – Thái Bình Dương

công nghiệp sẵn sàng tiếp nhận họ, cung cấp thực phẩm giá rẻ, tạo cầu tiêu dùng nội địa
và ngăn ngừa tình trạng phụ thuộc vào nhập khẩu thực phẩm.
Bằng việc tái phân phối lại đất nông nghiệp, tức chia lại đất nông nghiệp cho các
hộ gia đình, đi kèm với các biện pháp nhằm tổ chức nông dân và hỗ trợ họ trong sản
xuất, các quốc gia Đông Bắc Á (tiêu biểu như Hàn Quốc) đã thúc đẩy được kinh tế nông
thôn, lấy kinh tế nông thôn làm “chất xúc tác cho việc khởi động cả một nền kinh tế”.
2. Chính sách tái phân phối đất nông nghiệp ở Đông Nam Á và trường
hợp của Thái Lan:
Ở chiều ngược lại, trong thời hậu thuộc địa, các quốc gia Đông Nam Á đạt được
rất ít thành công trong tái phân phối ruộng đất. Tại khu vực Đông Nam Á, các chính
quyền hậu thuộc địa chơi đùa với cải cách ruộng đất, nhưng không bao giờ theo đuổi nó
tới cùng để tái cấu trúc một cách căn bản nền kinh tế nông thôn của mình. Việc thiếu
một lý luận chính trị quốc gia và quốc tế về tầm quan trọng của nông nghiệp hộ gia đình
trong phát triển là bước đầu tiên dẫn đến hiệu quả kinh tế thấp ở khu vực Đông Nam Á.
Sự thiếu nghiêm túc trong tái phân phối ruộng đất ở các nước Đông Nam Á một
mặt làm các điền chủ lớn có ít động lực để đầu tư và làm gia tăng năng suất nông nghiệp
(chẳng hạn như đầu tư vào cải thiện hệ thống tưới tiêu hay mua phân bón để tăng năng
suất), do họ có thể dễ dàng thu lợi bằng việc thâu tóm thêm đất và tăng tiền thuê đất.
Trong bối cảnh dân số tăng, thay vì đầu tư để tăng năng suất thì điền chủ lại nâng cao
chi phí thuê và cho vay nặng lãi để dễ dàng thu được nhiều tiền. Điều này dẫn đến các
nguồn lực thị trường bị bỏ mặc, dẫn đến sự trì trệ hoặc giảm năng suất trong ngành nông
nghiệp.
Mặt khác, trong số ít đất được tái phân phối, người nông dân Đông Nam Á cũng
không thể tăng năng suất do nhận được quá ít sự hỗ trợ từ chính quyền. Những người sở
hữu đất mới quá nghèo để có thể trồng trọt độc lập. Hầu như ngay lập tức cho thuê lại
đất của mình chỉ với giá thấp và lại một lần nữa trở thành những người làm công ăn
lương. Những đồn điền ở Đông Nam Á có năng suất thua kém hẳn so với các trang trại
gia đình ở Đông Bắc Á. Các quốc gia đã không tự chủ được lương thực thực phẩm và
lãng phí nhiều tiền đáng ra dùng để nhập khẩu máy móc.
Hơn nữa, nhiều quốc gia Đông Nam Á nhận được hỗ trợ tài chính từ các nước khác
nhưng họ không sử dụng nó hiệu quả cho phát triển nông thôn. Các lãnh đạo của những
quốc gia này cũng không thể hiện sự quan tâm và cam kết đối với việc cải cách ruộng
3
Nhóm 2 – Kinh doanh khu vực Châu Á – Thái Bình Dương

đất. Điều này đặt ra câu hỏi về tầm quan trọng của lãnh đạo trong việc thúc đẩy phát
triển kinh tế và xã hội.
Sự thất bại trong tái phân phối đất nông nghiệp đã làm trầm trọng thêm sự bất đình
đẳng trong xã hội tại các nước Đông Nam Á. Nhiều quốc gia tại khu vực này phải đối
mặt với các cuộc bạo loạn và sự nổi dậy của các nhóm vũ trang.
Lịch sử nông nghiệp Thái Lan phản ánh sự độc lập của quốc gia này trong thời kỳ
thuộc địa. Nó có thể chia thành hai khu vực địa lý chính: vùng tập trung trồng lúa ở các
khu vực ven biển và đồng bằng trung tâm. Các vấn đề về thuế cao, thuê ruộng, và thiếu
hỗ trợ cho nông dân đã góp phần vào sự phát triển của các cuộc nổi dậy nông thôn ở
Thái Lan trong những năm 1960 và 1970. Các chính sách cải cách ruộng đất ở Thái Lan
trong những năm tiếp theo cũng không đem lại nhiều hiệu quả, khiến nông dân vẫn phải
đối mặt với nghèo đói và bất bình đẳng giữa khu vực nông thôn và thành thị. Đặc biệt
sau khủng hoảng tài chính châu Á, các cuộc bạo động càng gia tăng và bị đàn áp tàn
bạo. Tháng 5 năm 2010, quân đội Thái Lan đã đàn áp một số người biểu tình "Áo Đỏ"
phản đối Chính phủ, đa số là từ khu vực Đông Bắc nghèo khổ của Thái Lan, trong các
cuộc đụng độ ở Bangkok.
Tóm lại, trong khi các quốc gia Đông Bắc Á thành công trong việc tái phân bổ
ruộng đất, góp phần phát triển vùng nông thôn, giảm thiểu sự chênh lệch, bất bình đẳng
trong xã hội thì ở Đông Nam Á, công bằng trong phân phối ruộng đất chưa từng được
thiết lập, dẫn đến việc các tầng lớp ưu việt tiếp tục nắm quyền và thiếu cơ hội rộng rãi
cho những người khác. Mặc dù cải cách ruộng đất đã mang lại những kết quả ấn tượng
trong nhiều nước, nhưng nó vẫn bị chống đối và bỏ qua, khiến cho bất bình đẳng và kém
hiệu quả trong nông nghiệp vẫn là vấn đề lớn trong xã hội Đông Nam Á.
Có hai lý lẽ chính được sử dụng bởi các quốc gia Đông Nam Á để biện hộ việc
thất bại trong việc triển khai cải cách ruộng đất:
Lý lẽ đầu tiên là rằng các cây hoa màu truyền thống ở khu vực này không phù hợp
với sản xuất hộ gia đình, nhưng điều này có thể là do quản lý đồn điền không có kiến
thức về thành công của việc trồng mía đường và chuối trong giai đoạn đầu phát triển ở
Đài Loan và Trung Quốc. Lịch sử sản xuất cao su trong thời thuộc địa ở Malaysia cũng
thường bị quên lãng.
Lý lẽ thứ hai là lập luận mang tính chính trị, cho rằng cải cách ruộng đất thành
công ở Đông Nam Á là kết quả của hoàn cảnh lịch sử và sự can thiệp của Hoa Kỳ, nhưng
4
Nhóm 2 – Kinh doanh khu vực Châu Á – Thái Bình Dương

thực tế không đơn giản như vậy. Trong khi đó, việc cải cách ruộng đất đã thành công ở
các quốc gia khác như Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan mà không cần sự can thiệp lớn
từ bên ngoài.
II. Chính sách kỷ luật xuất khẩu:
Xuất nhập khẩu là một hoạt động kinh tế mang tính quyết định đối với sự phát triển
và thịnh vượng của một quốc gia. Không chỉ giúp mở rộng thị trường tiêu thụ cho các
sản phẩm nội địa mà còn tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thúc đẩy sự đổi
mới công nghệ và nâng cao năng suất lao động.
Mặc dù cùng thuộc về khu vực Đông Á, các quốc gia ở Đông Bắc Á và Đông Nam
Á lại có xuất phát điểm khác nhau, chính điều đó đã tạo nên những điểm khác biệt đáng
kể trong việc thiết lập những chính sách, cũng như những hoạt động hỗ trợ của nhà
nước trong hoạt động xuất nhập khẩu.
1. Thuật ngữ “ Kỷ luật xuất khẩu” tại Đông Bắc Á và trường hợp của Hàn
Quốc:
Kỷ luật xuất khẩu được cho là một trong những yếu tố chính góp phần vào thành
công kinh tế của các nước Đông Bắc Á. Các quốc gia Đông Bắc Á sử dụng thuật ngữ
"Kỷ luật xuất khẩu" - nhằm mục đích chỉ ra một chính sách liên tục thử nghiệm và chuẩn
hóa các doanh nghiệp sản xuất nội địa thông qua trợ cấp và bảo hộ thị trường, bằng cách
yêu cầu họ xuất khẩu hàng hóa và phải đối mặt với sự cạnh tranh toàn cầu.
a. Đặt mục tiêu dựa trên khối lượng xuất khẩu:
Việc xuất khẩu của các doanh nghiệp này sẽ xác định xem liệu họ có đủ xứng đáng
để nhận được sự hỗ trợ từ chính phủ hay không. Mức độ xuất khẩu sẽ quyết định xem
công ty có được hỗ trợ từ chính phủ không, và mức độ hỗ trợ đó sẽ được xác định dựa
trên khối lượng xuất khẩu. Chính phủ đặt sẽ đặt ra các mục tiêu xuất khẩu cụ thể cho
các doanh nghiệp, bắt buộc các doanh nghiệp phải đáp ứng các mục tiêu này để tiếp tục
nhận được hỗ trợ từ chính phủ. Trong trường hợp không đạt được những yêu cầu do
chính phủ để ra sẽ bị áp dụng các biện pháp trừng phạt đối với các doanh nghiệp không
đạt được mục tiêu. Trong quá trình hoạt động xuất khẩu, các doanh nghiệp phải cung
cấp thông tin quan trọng cho các chính phủ về việc liệu các doanh nghiệp này có tuân
thủ các tiêu chuẩn toàn cầu và có đầu tư hiệu quả hàng tỷ đô la vào các lĩnh vực sản xuất
như thép hoặc xe ô tô hay không.

5
Nhóm 2 – Kinh doanh khu vực Châu Á – Thái Bình Dương

Đối với các quốc gia trong khu vực Đông Bắc Á thì kỷ luật xuất khẩu là một yếu
tố đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp, là yếu tố đảm bảo sự phát triển của một quốc gia. Nếu không có kỷ luật xuất
khẩu, các chính sách phát triển có thể trở thành một cuộc chơi "đố chữ" và các doanh
nghiệp nội địa có thể giả vờ rằng họ đang đạt được các tiêu chuẩn hàng đầu thế giới mà
không cần chứng minh điều đó trên thị trường quốc tế.
Các nước như Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan đã sử dụng chính sách "Kỷ luật
xuất khẩu" này để phát triển các ngành công nghiệp xuất khẩu mạnh mẽ. Đặt trong bối
cảnh cụ thể tại Hàn Quốc, các doanh nghiệp của quốc gia này dưới thời Park Chung Hee
phải báo cáo kết quả xuất khẩu cho chính phủ theo từng tháng và những con số quyết
định việc tiếp cận tín dụng ở ngân hàng. Chính phủ đã áp dụng một mức độ quản lý xuất
khẩu tối thiểu nhất cần thiết. Chẳng hạn, chính phủ Hàn Quốc đã đặt mục tiêu xuất khẩu
5.000 xe ô tô trong năm đầu tiên sản xuất với năng suất tối đa. Để đạt được mục tiêu
này, chính phủ đã áp dụng các biện pháp khuyến khích mạnh mẽ như hỗ trợ tài chính và
bảo vệ thị trường nội địa để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu. Trong khoảng 20 năm từ năm
1965, Hàn Quốc đã leo lên từ vị trí thứ 33 trong danh sách các quốc gia xuất khẩu hàng
đầu thế giới lên vị trí thứ 13.
b. Tiến hành chọn lọc những doanh nghiệp không đạt tiêu chuẩn:
Hàn Quốc nổi tiếng với một chiến lược phát triển kinh tế mang tính “táo bạo” thuộc
chính sách kỷ luật xuất khẩu. Đó là "Tiến hành chọn lọc những doanh nghiệp không đạt
tiêu chuẩn". Chiến lược này thể hiện qua việc chính phủ mạnh tay can thiệp và tái cấu
trúc các doanh nghiệp kém hiệu quả, tạo điều kiện cho những doanh nghiệp có tiềm
năng ngày một phát triển với mục đích thúc đẩy tăng trưởng kinh tế chung. Chính phủ
đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp dựa trên nhiều tiêu chí như lợi nhuận, thị
phần, năng lực quản lý, khả năng đổi mới sáng tạo, … Sau đó, các doanh nghiệp không
đạt tiêu chuẩn sẽ bị chính phủ can thiệp và tái cấu trúc. Các hình thức tái cấu trúc bao
gồm: sáp nhập cưỡng ép với các doanh nghiệp khác, bán lại cho các nhà đầu tư tư nhân,
giải thể.
Lịch sử Hàn Quốc đã cho thấy nhiều ví dụ về việc áp dụng chiến lược này. Trong
thập niên 1960 và 1970, 10 tập đoàn lớn nhất Hàn Quốc (chaebol) thời kỳ này đã biến
mất do sáp nhập cưỡng ép hoặc sụp đổ vì quản lý yếu kém. Một số chaebol mới nổi lên
trong thập niên 1970 và 1980 cũng chịu chung số phận do hoạt động kém hiệu quả. Vào
6
Nhóm 2 – Kinh doanh khu vực Châu Á – Thái Bình Dương

đợt khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, chính phủ Hàn Quốc chọn lọc hỗ trợ các
tập đoàn lớn như Daewoo, Hanbo, Halla và Sammi thông qua thương lượng và chỉ thị,
giúp họ vượt qua khủng hoảng và tiếp tục phát triển. Chiến lược này không chỉ giúp các
tập đoàn lớn vượt qua khủng hoảng mà còn tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững của
ngành công nghiệp. Ngành công nghiệp ô tô là minh chứng rõ ràng nhất cho hiệu quả
của chính sách này. Hơn một nửa doanh nghiệp nhận trợ cấp trực tiếp hoặc gián tiếp từ
chính phủ đã phá sản trong 3 thập kỷ, chỉ còn lại Hyundai - một trong những nhà sản
xuất xe thành công nhất thế giới. Việc chính phủ loại bỏ các doanh nghiệp yếu kém đã
thúc đẩy sự cạnh tranh và khích lệ sự đổi mới trong ngành và tạo ra tạo đà tăng trưởng
mạnh mẽ cho ngành công nghiệp ô tô Hàn Quốc.
Chiến lược này đã mang lại nhiều lợi ích cho sự phát triển của Hàn Quốc. Bằng
cách loại bỏ các doanh nghiệp yếu kém, chính phủ tập trung nguồn lực cho những doanh
nghiệp hiệu quả, giúp họ tăng trưởng mạnh mẽ và đóng góp vào sự phát triển chung của
nền kinh tế. Các tập đoàn Hàn Quốc như Samsung, Hyundai, LG, v.v. đã trở thành những
thương hiệu toàn cầu. Từ đó cũng tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh và cạnh
tranh, thúc đẩy đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm. Bên cạnh đó, chiến lược này
cũng đã thể hiện sự quyết tâm của chính phủ trong việc xây dựng nền kinh tế hiệu quả
và minh bạch, giúp tạo dựng niềm tin cho nhà đầu tư và thu hút đầu tư nước ngoài. Tuy
nhiên, chính sách này cũng tiềm ẩn một số hạn chế như gây áp lực cho một số doanh
nghiệp khi luôn phải chịu áp lực cạnh tranh cao và có thể gặp khó khăn trong việc đổi
mới sáng tạo. Ngoài ra, chiến lược này cũng tạo ra sự bất bình đẳng khi các tập đoàn lớn
được hưởng lợi nhiều hơn từ chính sách của chính phủ, dẫn đến sự bất bình đẳng trong
nền kinh tế. Hơn nữa, chiến lược có thể dẫn đến sự cạnh tranh không lành mạnh giữa
các doanh nghiệp. Doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể gặp khó khăn trong việc cạnh tranh
với doanh nghiệp lớn, không có cơ hội để phát tri Năm 1960, các chaebol (tập đoàn lớn)
nằm trong top 10 ở Hàn Quốc đã biến mất thông qua các vụ sáp nhập cưỡng ép và phá
sản vào những năm 1970. Một số ví dụ trong số này có thể là các tập đoàn như Taejung,
Hanbo, và Ilsung.
c. Hỗ trợ cho các cho doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất và xuất
khẩu:
Hoạt động hỗ trợ cho các doanh nghiệp là hoạt động mà chính phủ các nước Đông
Bắc Á thực hiện cung cấp, hỗ trợ chính cho các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất
7
Nhóm 2 – Kinh doanh khu vực Châu Á – Thái Bình Dương

và xuất khẩu thông qua các biện pháp hỗ trợ tài chính và các chính sách khác nhằm thúc
đẩy năng suất và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường quốc tế: tín
dụng ưu đãi, bảo hộ thị trường, …
Trong số các quốc gia Đông Bắc Á, Hàn Quốc cũng là một quốc gia luôn tập trung
vào việc hỗ trợ mạnh mẽ cho các doanh nghiệp sản xuất trong xuất khẩu. Chính sách
này được xem như "chìa khóa vàng" giúp Hàn Quốc vươn lên thành một trong những
quốc gia phát triển hàng đầu. Điểm đặc biệt của chính sách này thể hiện qua việc hỗ trợ
doanh nghiệp từ nhiều khía cạnh như tài chính, công nghệ, xúc tiến thương mại, đào tạo
nhân lực và bảo hộ thị trường. Chính phủ Hàn Quốc cam kết hỗ trợ doanh nghiệp xuất
khẩu bằng các biện pháp cụ thể và mạnh mẽ, tạo nên sự quyết liệt trong việc thực thi
chính sách. Nhờ tính linh hoạt, chính sách được điều chỉnh thường xuyên để phù hợp
với điều kiện kinh tế và thị trường quốc tế, đảm bảo hiệu quả trong từng giai đoạn phát
triển. Chính sách này bao gồm nhiều biện pháp hỗ trợ toàn diện. Đầu tiên, chính phủ
Hàn Quốc thực hiện thương lượng tập thể để mua lại công nghệ, buộc doanh nghiệp
nước ngoài phải trao lại công nghệ hoặc giảm giá bán để đổi lấy quyền tiếp cận thị
trường nội địa. Tiếp theo, chính phủ thực hiện bảo hộ thị trường nội địa, cung cấp tín
dụng ưu đãi và hỗ trợ doanh nghiệp trong các hoạt động nghiên cứu và phát triển. Ngoài
ra, chính phủ còn tập trung đến các quyết sách, Hội đồng kế toán kinh tế Hàn Quốc
(EFP) chịu trách nhiệm thống nhất và điều phối các chính sách liên quan đến xuất khẩu.
Chính phủ cung cấp các khoản tín dụng được trợ cấp cho bất cứ doanh nghiệp nào. Lãi
suất cho các doanh nghiệp xuất khẩu dao động từ 1/4 đến 1/2 lãi suất chung của thị
trường. Ví dụ, các doanh nghiệp như Hyundai, Daewoo và Samsung đã sử dụng 1/10
tổng số tín dụng từ ngân hàng trong những năm đỉnh điểm. Hơn nữa, chính phủ cung
cấp giấy phép sản xuất và hạn mức tín dụng cho các doanh nghiệp có con số xuất khẩu
ấn tượng. Điều này mang lại cho các doanh nghiệp cơ hội theo đuổi các dự án phát triển
cơ sở hạ tầng và công nghệ quy mô lớn.
Chính sách này đã giúp nền kinh tế Hàn Quốc tăng trưởng mạnh mẽ với kim ngạch
xuất khẩu tăng trưởng liên tục trong nhiều thập kỷ. Các doanh nghiệp Hàn Quốc ngày
càng nâng cao năng lực cạnh tranh và khẳng định vị thế trên thị trường quốc tế. Ngành
xuất khẩu đóng góp lớn vào việc giải quyết việc làm cho người lao động, thúc đẩy sự
phát triển chung của nền kinh tế và xã hội Hàn Quốc. Đây là một ví dụ điển hình về hiệu
quả của việc hỗ trợ và thúc đẩy phát triển kinh tế.
8
Nhóm 2 – Kinh doanh khu vực Châu Á – Thái Bình Dương

Tóm lại, bài học kinh nghiệm từ Hàn Quốc cho thấy tầm quan trọng của việc xây
dựng một chính sách toàn diện, quyết liệt và linh hoạt để hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu,
góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và vị thế quốc tế của quốc gia.
2. Chính sách xuất khẩu tại Đông Nam Á và trường hợp của Thái Lan:
a. Không đặt mục tiêu về khối lượng xuất khẩu:
Khác với các quốc gia ở Đông Bắc Á, các quốc gia Đông Nam Á rất ít hoặc hầu
như không áp đặt những kỷ luật xuất khẩu lên doanh nghiệp. Các nước Đông Nam Á
còn là đối tượng được nhắc đến khi nói đến "chủ nghĩa tư bản thân hữu", trong đó doanh
nhân được hưởng các ưu đãi mà không có các ràng buộc cụ thể về phát triển.
Mặc dù việc không sử dụng kỷ luật xuất khẩu có thể giúp doanh nghiệp tự do hơn,
thoải mái hơn trong hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, không phải bất cứ doanh nghiệp
nào, hay quốc gia nào cũng có thể áp dụng, phải phù hợp với từng hoàn cảnh, hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, chính sách này cũng tạo ra những vấn đề:
• Doanh nghiệp nội địa không chịu áp lực phải cạnh tranh trên thị trường quốc tế,
dẫn đến việc thiếu động lực để cải thiện chất lượng sản phẩm và giảm chi phí sản
xuất.
• Điều này khiến cho các doanh nghiệp Đông Nam Á khó có thể cạnh tranh với
các doanh nghiệp từ các nước khác.
• Doanh nghiệp cũng thực hiện những hành động qua mặt chính phủ để khai báo
gian tinh trạng hoạt động kinh doanh của mình
• Khi doanh nghiệp không có hoạt động xuất khẩu mạnh mẽ, đất nước có thể mất
đi khả năng hấp dẫn đầu tư từ các nhà đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp đối tác
quốc tế và các tổ chức tài chính quốc tế.
Ví dụ điển hình là Chính phủ Thái Lan chưa bao giờ áp đặt các quy định kỷ luật
xuất khẩu, vì các lãnh đạo và chính trị gia Thái Lan chưa bao giờ ưu tiên cho hoạt động
này. Thay vào đó, Chính phủ Thái Lan đã triển khai Chính sách ISI bằng cách xây dựng
một hàng rào thuế nhập khẩu thấp đối với các linh kiện và thuế cao đối với các sản phẩm
nhập khẩu đã hoàn thành; điều này dẫn đến sự hình thành các liên doanh lắp ráp, chủ
yếu là với các công ty Nhật Bản và Mỹ, trong đó người Thái có ít cơ hội học hỏi và tiếp
cận công nghệ mới.

9
Nhóm 2 – Kinh doanh khu vực Châu Á – Thái Bình Dương

b. Không sử dụng chiến lược “Tiến hành chọn lọc những doanh nghiệp
không đạt tiêu chuẩn”:
Các nước Đông Nam Á ít áp dụng chiến lược "Tiến hành chọn lọc những doanh
nghiệp không đạt tiêu chuẩn" so với các nước Đông Bắc Á như Hàn Quốc. Thay vào đó,
một số quốc gia trong Đông Nam Á có các chính sách tái cơ cấu doanh nghiệp và cải
cách kinh doanh để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh và thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế. Đối với các quốc gia Đông Nam Á, mỗi doanh nghiệp hoạt động dựa trên khả
năng cạnh tranh riêng, chính phủ cho các doanh nghiệp tự do kinh doanh, nhưng doanh
nghiệp lớn đủ khả năng cạnh tranh lớn hay sẽ được nhà nước thực hiện hỗ trợ về cơ sở
hạ tầng, và những doanh nghiệp nhỏ vẫn sẽ được tiến hành hoạt động kinh doanh tự do.
Trong những năm 1980, chính phủ Thái Lan mở cửa đầu tư nước ngoài, đi kèm
với đó là hỗ trợ ít hơn cho các công ty nội địa,. Chính sách này tập trung vào việc hỗ trợ
các doanh nghiệp lớn có tiềm năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, thu hút vốn đầu
tư từ nước ngoài. Nhờ thu hút đầu tư nước ngoài và sự phát triển của khu vực tư nhân,
kinh tế Thái Lan tăng trưởng mạnh mẽ trong những năm 1980, với tốc độ tăng trưởng
GDP trung bình trên 7%/năm. Nền kinh tế Thái Lan chuyển đổi từ nền kinh tế nông
nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp và dịch vụ.
c. Thiếu sự hỗ trợ cho các cho doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất
và xuất khẩu:
Khi so sánh với các quốc gia Đông Bắc Á, các quốc gia Đông Nam Á như Thái
Lan đã không thể đạt được cùng mức độ thành công trong việc hỗ trợ doanh nghiệp sản
xuất xuất khẩu. Chính sách hỗ trợ từ phía chính phủ của Thái Lan không đạt được mức
độ hiệu quả cần thiết để nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị
trường quốc tế. Một điểm mạnh của Hàn Quốc là việc áp dụng biện pháp bảo hộ thị
trường nội địa để bảo vệ doanh nghiệp khỏi sự cạnh tranh từ nước ngoài. Trong khi đó,
Thái Lan có thể đã thiếu sự hiệu quả trong việc này, dẫn đến việc doanh nghiệp bị cạnh
tranh không công bằng từ các thị trường nước ngoài mà không có sự bảo vệ đủ mạnh từ
phía chính phủ. So với Thái Lan, Hàn Quốc tập trung phát triển công nghệ nội địa và hỗ
trợ doanh nghiệp xuất khẩu mạnh mẽ hơn. Trong khi đó, chính sách của Thái Lan thiên
về thu hút đầu tư nước ngoài. Thái Lan chưa thực sự có sự nỗ lực lớn trong việc hỗ trợ
tài chính cần thiết từ phía chính phủ, khiến cho các doanh nghiệp gặp khó khăn trong

10
Nhóm 2 – Kinh doanh khu vực Châu Á – Thái Bình Dương

việc tiếp cận nguồn vốn đầu tư và hoạt động kinh doanh, đặc biệt là trên thị trường quốc
tế.
Thông qua việc so sánh kỷ luật xuất khẩu của Hàn Quốc và Thái Lan, chúng ta có
thể nhận thấy rằng "kỷ luật xuất khẩu" - các biện pháp mạnh mẽ hỗ trợ từ phía chính
phủ đóng vai trò quyết định trong thành công hoặc thất bại của một quốc gia trong lĩnh
vực kinh tế và xuất khẩu. Hàn Quốc đã thành công trong việc thúc đẩy sự phát triển của
các doanh nghiệp xuất khẩu thông qua việc áp dụng các biện pháp như thương lượng
tập thể để mua lại công nghệ và hỗ trợ tài chính mạnh mẽ. Trái lại, Thái Lan đã gặp khó
khăn do thiếu sự hiệu quả trong các chính sách hỗ trợ từ phía chính phủ và thiếu đi sự
nhất quán trong chính sách, ưu đãi cho nhiều ngành và quá tập trung vào nông nghiệp,
du lịch,... Điều này cho thấy rằng vai trò của nhà nước trong việc xây dựng một môi
trường kinh doanh thuận lợi và hỗ trợ cho doanh nghiệp là rất quan trọng. Việc nắm bắt
và áp dụng các biện pháp kỷ luật xuất khẩu hiệu quả sẽ là yếu tố quyết định trong việc
thúc đẩy sự phát triển kinh tế của một quốc gia trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
ngày nay.
III. Chính sách tài chính hỗ trợ:
Muốn nông nghiệp, sản xuất và xuất khẩu phát triển, không thể không có sự hỗ
trợ tài chính từ chính phủ. Tuy nhiên, hỗ trợ như thế nào và ưu tiên cho những vấn đề gì
mới là yếu tố quyết định cho sự thành bại của chính sách tài chính hỗ trợ.
1. Chính sách tài chính hỗ trợ ở Đông Bắc Á và trường hợp Hàn Quốc:
a. Chính sách tài chính hỗ trợ ở Đông Bắc Á:
Ở khu vực Đông Bắc Á, việc chuyển hướng vốn hỗ trợ đầu tiên là vào nông nghiệp,
sau đó là công nghiệp với hệ thống tài chính được hình thành bởi chính sách phát triển
do chính phủ dẫn dắt. Hướng tài chính đi đôi với các mục tiêu chính sách nông nghiệp
và công nghiệp đã tạo ra điều kiện cho sự phát triển kinh tế vượt bậc ở Đông Bắc Á.
Chính sách tài chính ở khu vực này đã nhận thức được sự cần thiết và tầm quan trọng
của việc hỗ trợ nông trường nhỏ có hiệu suất cao để tăng cường và tối ưu hoá sản lượng
nông nghiệp tổng thể, thay vì tập trung vào việc tối ưu hóa lợi nhuận từ các nông trường
"tư bản" lớn.
Thay vì tập trung vào việc cung cấp vay tiêu dùng cá nhân để đạt lợi ích ngắn hạn,
các tổ chức tài chính ưu tiên đầu tư vào các hoạt động sản xuất. Các chính phủ thiết lập
các chính sách và biện pháp để khuyến khích các ngân hàng và nhà đầu tư chấp nhận lợi
11
Nhóm 2 – Kinh doanh khu vực Châu Á – Thái Bình Dương

ích ngắn hạn thấp hơn, nhằm thúc đẩy vốn đầu tư vào lĩnh vực sản xuất. Các nước Đông
Bắc Á cũng nhận ra nhu cầu hoàn thiện quá trình học tập trong các ngành công nghiệp
trước mong đợi thu nhập lợi nhuận. Nói cách khác, chính sách tài chính chấp nhận lợi
nhuận trên vốn đầu tư công nghiệp thấp trong ngắn hạn để xây dựng những ngành công
nghiệp có khả năng mang lại lợi nhuận cao hơn trong tương lai. Tuy nhiên, tài chính
hiện đại cũng mang lại nhiều rủi ro hơn cho các nước đang phát triển do việc các dòng
vốn đầu tư nội địa và đặc biệt là các dòng vốn đầu cơ quốc tế không được quản lý một
cách đúng đắn.
Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan đã từng chứng kiến các ngân hàng tìm cách lũng
đoạn kinh tế và không quan tâm đến phát triển. Các chính phủ hậu chiến tranh của những
quốc gia Đông Bắc Á đã xử lý các vấn đề sau chiến tranh trong hệ thống tài chính bằng
cách quản lý chặt hệ thống tài chính trong một giai đoạn dài để điều hướng dòng vốn hỗ
trợ cho chính sách phát triển và bắt nó phải phục vụ cho những mục đích phát triển hay
nói cách khác rằng tiền bạc kiếm được sẽ dùng để phục vụ cho các chính sách phát triển
quốc gia. Cụ thể:
• Ưu tiên nguồn tiền cho những dự án công nghiệp không sinh lợi tức thời chứ
không phải những khoản đầu tư vào sản xuất tiềm năng khác hay cho vay tiêu
dùng cá nhân đã dẫn đến việc ngân hàng bị kiểm soát chặt chẽ.
• Dòng vốn vào và ra quốc tế cũng bị giới hạn chặt chẽ.
• Vốn nội địa nằm dưới sự kiểm soát của chính phủ
• Những dòng vốn không kiểm soát được từ các quỹ nước ngoài không làm gián
đoạn kế hoạch phát triển.
• Khoản lợi nhuận mà người dân có thể thu về từ tiền gửi ngân hàng hay những
khoản đầu tư thụ động khác cũng thường xuyên được huy động, gia tăng khoản
thặng dư khả dụng còn lại của hệ thống tài chính dùng để chi trả cho chính sách
phát triển và cơ sở hạ tầng.
Các quốc gia Đông Bắc Á ngang ngạnh chống lại các lời khuyên tự do hóa thị
trường tài chính, tư nhân hóa các ngân hàng, phản kháng lại áp lực từ Đồng thuận
Washington theo khuyến nghị của IMF, WB, chính phủ Mỹ đến tận những năm 1980 -
1990 và chỉ tiến hành tự do hoá khi đã đạt được những tiến bộ phát triển quan trọng.

12
Nhóm 2 – Kinh doanh khu vực Châu Á – Thái Bình Dương

b. Trường hợp của Hàn Quốc:


Xét đến trường hợp của Hàn Quốc. Quốc gia này đã trải qua những thách thức lớn
trong việc quản lý tài chính, đặc biệt là với việc sử dụng nguồn vốn nước ngoài và chính
sách tiền tệ lỏng lẻo. Dẫn đến việc lạm phát cao và các cuộc khủng hoảng tài chính lặp
lại, nhưng điều đáng chú ý là nền kinh tế vẫn duy trì sự phát triển tốt. Chính phủ nước
này theo đuổi một cách tiếp cận được điều chỉnh và chứng minh được rằng miễn sao các
nguồn tiền còn được đầu tư vào việc gia tăng năng lực công nghệ với kỷ luật xuất khẩu
làm tham chiếu về chất lượng, một quốc gia có thể chấp nhận một tỷ lệ rủi ro đáng kể
với những quyết sách đúng đắn về tài chính. Bên cạnh đó, phong cách “Dirigiste” trong
quản lý khu vực tài chính của Hàn Quốc ở giai đoạn phát triển nhanh được Park Chung
Hee thiết lập khi tái quốc hữu hoá các ngân hàng vốn đã được tư nhân hoá năm 1957.
Năm 1962, Đạo luật ngân hàng Hàn Quốc biến ngân hàng trung ương thành một cánh
tay của bộ tài chính. Ngân hàng trung ương Hàn Quốc thông qua công cụ tái chiết khấu
được nới rộng bởi những ngân hàng quốc hữu hoá để thực thi quyền kiểm soát một cách
rất quyết liệt. Ngoài ra, đẩy mạnh đầu tư vào xuất khẩu là một biện pháp mà Hàn Quốc
đã áp dụng một cách mạnh mẽ. Cụ thể:
• Thay vì để các doanh nghiệp lớn hoạt động tự do, chính phủ đã áp đặt các biện
pháp kỷ luật, buộc họ phải tập trung vào sản xuất hàng hóa và dịch vụ phục vụ
cho thị trường xuất khẩu. Đồng thời, hỗ trợ được đưa ra cho các doanh nghiệp
nhỏ để mở rộng hoạt động của họ.
• Thực hiện việc tái chiết khấu các khoản vay xuất khẩu không có điểm giới hạn.
Bất kỳ ngân hàng nào cung cấp vay xuất khẩu được chứng minh bằng tín dụng
thư từ khách hàng nước ngoài đều có thể nhận lại toàn bộ số tiền vay ban đầu để
mở rộng hoạt động tín dụng của họ.
• Với cam kết tiếp tục phát triển và tiếp tục bán sản phẩm ra thị trường nước ngoài,
các doanh nghiệp Hàn Quốc sẽ nhận được sự hỗ trợ từ các ngân hàng để mở rộng
sản xuất và xuất khẩu. Điều này đã dẫn đến tăng trưởng ấn tượng trong xuất khẩu,
với mức trung bình tăng 40% mỗi năm trong những năm 1960 và trên 25% mỗi
năm trong những năm 1970. Sự gia tăng này đã góp phần vào tăng trưởng GDP
từ 3,4% năm 1960 lên 35% vào những năm 1980.
• Nguồn vốn cho các khoản vay ưu đãi không chỉ phong phú mà còn có mức lãi
suất thấp hoặc thậm chí không lãi suất. Người xuất khẩu có thể vay vốn với mức
13
Nhóm 2 – Kinh doanh khu vực Châu Á – Thái Bình Dương

lãi suất thấp nhất, thậm chí có thể âm (-10% đến -20%). Các khoản vay của hệ
thống ngân hàng Hàn Quốc được để dành cho những doanh nghiệp xuất khẩu và
những doanh nghiệp lớn hơn, dẫn đầu trong quá trình học tập công nghệ. Đến
cuối giai đoạn công nghiệp hoá, công nghiệp nặng, Hàn Quốc có 221 loại vay ưu
đãi khác nhau.
• Nếu những doanh nghiệp xuất khẩu cam kết có thể tăng giá hàng hóa của mình
để phản ánh lạm phát trong nước thì họ sẽ được hỗ trợ về vấn đề vay mượn
• Các dự án công nghiệp ưu đãi khác chưa sẵn sàng xuất khẩu cũng được hỗ trợ
với các nguồn vốn với mức chi phí thấp.
Tất cả điều này là nhờ vào lãi suất tiền gửi cá nhân ở mức rất thấp hoặc thậm chí
là không tồn tại. Người dân Hàn Quốc đã chấp nhận lãi suất tiền gửi âm vì họ đã nhận
ra sức mạnh kinh tế của đất nước vượt trội so với nhiều quốc gia khác trong khu vực
như Triều Tiên, các quốc gia Đông Nam Á và Đài Loan chỉ trong vòng 3 thập kỷ qua.
Một phần của tiền tiết kiệm từ các hộ gia đình và doanh nghiệp nhỏ đã được đặt vào hệ
thống ngân hàng với những điều khoản không thuận lợi. Còn lại, số tiền này đã được
chuyển đến các tổ chức không phải là ngân hàng, không chính thức nhưng vẫn được
chấp nhận, được biết đến là "thị trường chợ đen".
Vào cuối những năm 1960, Ngân hàng Phát triển Hàn Quốc (KDB) - một trong
những cơ quan tài chính then chốt trong quá trình công nghiệp hóa - đã mạnh mẽ tăng
cường việc vay vốn từ các nguồn quỹ nước ngoài với điều kiện rất hấp dẫn. Họ đã gia
tăng đảm bảo cho các tập đoàn lớn khi đi vay mượn quốc tế mà không mấy quan tâm
đến nguy cơ về tỷ giá hối đoái. Vì thế, hành động này đã dẫn đến một cuộc khủng hoảng
nghiêm trọng, khiến chính phủ phải áp đặt một biện pháp khẩn cấp, là lệnh tạm ngừng
trả lãi suất trong 2 năm đối với những người hoạt động trong thị trường chợ đen cho
vay. Do việc áp đặt lệnh tạm ngừng trả lãi suất trong thị trường chợ đen này, các ngân
hàng nhà nước buộc phải đổi các khoản vay để đổi lấy cổ phần của các tập đoàn lớn và
từ bỏ chính sách lãi suất cao trong thị trường nội địa. Hàn Quốc đã phải đối mặt với các
đợt khủng hoảng sử dụng nguồn tiền rẻ hơn. Tuy nhiên, chính phủ vẫn tiếp tục chiến
lược của mình bằng cách sử dụng sự suy giảm tạm thời của đồng tiền để kích thích xuất
khẩu trong những thời kỳ khó khăn. Các công ty con của các tập đoàn lớn yếu kém đã
bị tuyển chọn và sáp nhập. Sự mở rộng quy mô của các tập đoàn lớn và mạnh mẽ đã dẫn
đến sự tập trung doanh nghiệp ở Hàn Quốc tăng cao hơn. Hệ thống ngân hàng đã không
14
Nhóm 2 – Kinh doanh khu vực Châu Á – Thái Bình Dương

thể áp đặt ý của mình lên các tập đoàn lớn vay mượn nhiều tiền hơn và ngày càng phải
cho vay theo ý muốn của các tập đoàn này, vì nếu thất bại, cả hệ thống ngân hàng sẽ đối
mặt với nguy cơ sụp đổ. Trong những năm 1970, Hàn Quốc đã thực hiện việc tự do hóa
các cơ sở tài chính phi ngân hàng (NBFI) nhận tiền gửi nhỏ, không cần phải có giấy
phép đầy đủ như một giải pháp thay thế cho thị trường chợ đen. Các tập đoàn lớn
(chaebol) đã trực tiếp kiểm soát một số lượng lớn NBFI này cho thấy một nguy cơ đe
dọa đối với hệ thống tài chính của Hàn Quốc. Sau đó, công chúng đã ủng hộ việc loại
bỏ các quy định tài chính nhằm giảm bớt quyền lực của các chaebol. Vào đầu những
năm 1980, tỷ lệ lãi suất cho vay và huy động trong các ngân hàng đã được tăng lên các
mức thực dương. Các ngân hàng đã được phép tư nhân hoá, với tỷ lệ sở hữu tối đa trên
mỗi cổ đông là 8%, điều này đã hạn chế sự ảnh hưởng của các chaebol đối với hoạt động
ngân hàng. Vào năm 1993, Hàn Quốc đã chấm dứt việc kiểm soát vốn và loại bỏ các
quy định về vay nợ nước ngoài ngắn hạn. Kết quả là, từ năm 1994 đến 1997, có một
dòng vốn nước ngoài ngắn hạn chảy vào Hàn Quốc, tuy nhiên, tỷ lệ này không đặc biệt
cao trước khi khủng hoảng tài chính bùng phát. Mặc dù vậy, chỉ có một phần nhỏ của
số dư tín dụng Hàn Quốc đã được sử dụng cho các hoạt động phi sản xuất như bất động
sản, và điều này đã dẫn đến sự phục hồi mạnh mẽ bắt đầu từ năm 1999. Sau đó, Hàn
Quốc đã xây dựng hệ thống tài chính "chính thống" nhất trong khu vực Đông Á với một
ngân hàng trung ương độc lập, không phụ thuộc vào các ngân hàng thương mại, cũng
như tăng cường quyền lực cho các nhà đầu tư độc lập trên thị trường cổ phiếu và các thị
trường khác.
Mặc dù Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc dưới thời ông Park Chung Hee đã tiến
hành tái chiết khấu các khoản vay của ngân hàng thương mại và ưu ái cho Chính phủ,
đồng minh vay tiền. Tuy nhiên, việc cho phép các bên “thân hữu” vay tiền không hề dẫn
đến sự khủng hoảng của hệ thống tài chính Hàn Quốc bởi vì ngân hàng Trung ương ở
nước này luôn có các chính sách tập trung vào thúc đẩy xuất khẩu và các chiến lược phát
triển các ngành công nghiệp cụ thể để dẫn dắt xuất khẩu. Cụ thể, nhờ vào sự kiểm soát
có kỷ luật của Chính phủ Hàn Quốc đối với hầu hết các hoạt động tài chính, giành quyền
kiểm soát hệ thống ngân hàng tư nhân hóa và các doanh nghiệp thực thi các yêu cầu xuất
khẩu chặt chẽ nên thông tin phản hồi từ hoạt động xuất khẩu được nắm bắt nhanh chóng
và cung cấp kịp thời cho hệ thống tài chính.

15
Nhóm 2 – Kinh doanh khu vực Châu Á – Thái Bình Dương

Một lý do khác dẫn đến sự thành công trong chính sách tài chính ở Hàn Quốc là
chính phủ quốc gia này đã hướng nguồn vốn sử dụng cho những mục tiêu đúng đắn
thông qua đầu tư vào tiến bộ công nghệ, hỗ trợ cho các Chaebol và tập trung vào các
ngành công nghiệp trọng điểm như: đóng tàu, điện tử, dệt may, ô tô,... thay vì đi vào các
ngành bất động sản, chứng khoán… Tuy nhiên, điều đó chỉ mới là nguyên nhân bề nổi
trong khi sự kiểm soát chặt chẽ của chính phủ với hoạt động của hệ thống tài chính Hàn
Quốc một thời gian dài trước khi nó được chuyển sang tự do hóa là điều kiện căn bản
cho sự thành công về kinh tế ở Hàn Quốc.
2. Chính sách tài chính hỗ trợ ở Đông Nam Á và trường hợp Thái Lan:
a. Chính sách tài chính hỗ trợ ở Đông Nam Á:
Trong khu vực Đông Nam Á, các chính phủ đã triển khai các biện pháp tự do hoá
tài chính ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển. Đặc biệt, từ những năm 1980, các
chính phủ đã bị thu hút bởi Đồng thuận Washington - một chương trình cải cách kinh tế
theo hướng thị trường tự do, được đề xuất áp dụng ở các quốc gia đang phát triển bởi
IMF, Ngân hàng Thế giới và chính phủ Mỹ. Các chính phủ đã được khuyến khích thực
hiện việc tư nhân hóa các ngân hàng hiện có và cấp phép cho các ngân hàng mới, thực
hiện chủ trương kinh tế tự do khi xử lý dòng vốn quốc tế và mở rộng thị trường chứng
khoán.
Điều này đã dẫn đến nhiều hệ lụy tiêu cực. Tỷ lệ đầu tư cao đã bị lãng phí trong
các chương trình cải cách ruộng đất mà không đạt được hiệu quả mong muốn. Ngoài
ra, không có quốc gia nào trong khu vực, dù thực hiện chính sách tài chính cẩn thận hoặc
tích cực, đã sử dụng hệ thống ngân hàng để hỗ trợ hiệu quả cho quá trình công nghiệp
hóa bản địa, dẫn đến sự thiếu cạnh tranh trong chính sách công nghiệp. Đồng thời, các
biện pháp kỷ luật về xuất khẩu cũng như các chi tiêu ở các quốc gia trong khu vực hoàn
toàn không liên quan đến việc phát triển kinh tế như đầu tư vào bất động sản cao cấp và
hàng hoá tiêu dùng nhập khẩu.
Không những thế, việc hệ thống ngân hàng cung cấp vốn cho nền kinh tế mà trong
đó các công ty hàng đầu gặp ít áp lực để sản xuất và không phải tuân thủ các điều kiện
của kỷ luật xuất khẩu, đã dẫn đến kết quả là doanh nghiệp đầu tư ít vào việc phát triển
năng lực công nghệ trong sản xuất. Đồng thời, việc thiếu kỷ luật xuất khẩu cũng góp
phần vào việc thiếu thông tin phản hồi từ hoạt động xuất khẩu, từ đó giảm khả năng tăng
cường chất lượng của các khoản vay từ ngân hàng. Những doanh nghiệp thiếu kỷ luật
16
Nhóm 2 – Kinh doanh khu vực Châu Á – Thái Bình Dương

xuất khẩu nhận được ngày càng nhiều quyền tiếp cận với những nguồn tài chính nước
ngoài đã châm ngòi cho những cuộc khủng hoảng sâu ở một số nước Đông Nam Á như
Malaysia, Thái Lan và Indonesia.
Hơn nữa, việc loại bỏ các quy định kiểm soát vốn đã làm tăng nợ nước ngoài ngắn
hạn, không kiểm soát được bởi chính phủ. Thay vào đó, vốn vay quốc tế thường được
sử dụng cho các mục đích không liên quan đến sản xuất, như đầu cơ vào bất động sản
và thị trường chứng khoán. Kết quả của điều này là nhiều tiền nước ngoài được đầu tư
vào các mục tiêu không tạo ra ngoại tệ, làm tăng nguy cơ cho các cuộc khủng hoảng
kinh tế sâu ở một số quốc gia Đông Nam Á.
Nhìn chung, chính sách tài chính theo định hướng tự do hoá quá sớm ở Đông Nam
Á đã không dẫn đến việc phân bổ nguồn vốn tốt hơn mà ngược lại, đã tạo ra một hệ
thống ngân hàng tư nhân bị kiểm soát bởi những doanh nhân có lợi ích không nhất quán
với sự phát triển quốc gia vì họ không bị buộc phải sản xuất hay chịu kỷ luật xuất khẩu
. Điều này khiến cho khu vực tài chính hỗ trợ cho nông nghiệp và công nghiệp đã yếu
lại càng yếu hơn, gây ra những rủi ro kinh tế và đặt nền kinh tế vào tình trạng không ổn
định.
b. Trường hợp của Thái Lan:
Khác với Hàn Quốc, mặc dù Ngân Hàng Trung ương Thái Lan thể hiện sự thận
trọng trong việc cung cấp các khoản vay tái chiết khấu khiêm tốn và không gây lạm
phát. Tuy nhiên, hầu hết các khoản vay này không đi vào sản xuất mà đi vào các cây
trồng nông nghiệp xuất khẩu chủ lực (lúa, cà phê,...). Tình hình càng trở nên tồi tệ vào
đầu những năm 70 khi Chính phủ Thái lan thể hiện rõ sự yếu kém của mình. Cụ thể,
Chính phủ Thái Lan đã cấp phép cho nhiều công ty chứng khoán và các định chế tài
chính phi ngân hàng (NBFI) nhằm nhận được thêm các khoản tiền gửi bổ sung ngoài
các nguồn chính thống để đương đầu với thập kỷ khó khăn của khủng hoảng dầu mỏ.
Mặc dù điều này không khác so với Hàn Quốc khi thay thế các thị trường chợ đen bằng
các định chế phi ngân hàng vào những năm 70, nhưng Thái Lan vẫn có những biểu hiện
cho thấy hệ thống tài chính bị tiêu cực tức thời nhanh hơn Hàn Quốc trước bối cảnh
khủng hoảng dầu mỏ toàn cầu. Như đã đề cập, mặc dù các NBFI ở cả 2 nước đều bị các
nhóm lợi ích khác thâu tóm, điều khác biệt duy nhất giải thích cho sự tiêu cực tức thời
trong hệ thống tài chính của Thái Lan đó chính là nền kinh tế nước này không có kỷ luật
xuất khẩu chặt chẽ như ở Hàn Quốc, hậu quả là các doanh nhân thâu tóm các NBFI và
17
Nhóm 2 – Kinh doanh khu vực Châu Á – Thái Bình Dương

trục lợi cho chính bản thân mình trong khi không tạo bất kỳ điều gì có lợi cho đất nước.
Và hậu quả là, giữa những năm 1980, trong khi Chaebol ở Hàn Quốc đã bị giảm ảnh
hưởng đến hoạt động ngân hàng, thì tình hình này hoàn toàn ngược lại ở Thái Lan khi
hàng loạt các công ty tài chính đóng cửa, ảnh hưởng tiêu cực đến tòàn bộ hệ thống tài
chính ở nước này.
Một điểm khác biệt rõ ràng có thể thấy là trong khi Hàn Quốc không tuân theo các
lời khuyên tự do hóa thị trường tài chính từ IMF thì Thái Lan lại là “một học sinh ngoan”
khi thực hiện chính sách này từ rất sớm. Bất chấp những hậu quả từ khủng hoảng NBFI
bị thâu tóm, Chính phủ nước này vẫn theo đuổi việc bãi bỏ quy định trong chính sách
tài chính do hầu hết các nhà kinh tế hoạt động trong Chính phủ và Ngân hàng Trung
ương Thái Lan là người Hoa Kỳ-những người có niềm tin tuyệt đối rằng việc bãi bỏ các
quy định sẽ mang lại sự thành công trong hệ thống tài chính. Hậu quả là, từ năm 1989
đến 1991, lãi suất tiền gửi và cho vay hoàn toàn tự do hóa khi không có mức trần. Tình
hình còn nghiêm trọng hơn khi thiếu các quy định kiểm soát nguồn vốn, sự nới lỏng các
ràng buộc đối với thị trường chứng khoán cộng với việc vai trò kiểm soát của Ngân hàng
Trung ương ngày càng trở nhạt mà thay vào đó là sự nổi lên của các NBFI đã làm bùng
lên một cuộc nợ tiêu dùng, vượt quá khả năng chi trả của người dân và hình thành bong
bóng tài chính.
Cuối những năm 1980, chính phủ Thái Lan “lầm tưởng” rằng họ vẫn đang quản
lý tốt nền kinh tế khi sản lượng hàng gia công giá trị gia tăng thấp xuất khẩu tăng lên
mà không biết rằng, chỉ vài năm nữa, Thái Lan sẽ phải chứng kiến một cuộc khủng
hoảng tiền tệ nghiêm trọng năm 1997 với sự rớt giá thảm hại của đồng Bath Thái.
Nguyên nhân cho sự khủng hoảng này bên cạnh xuất phát từ việc bãi bỏ cái quy định tài
chính quá sớm còn xuất phát từ việc quốc gia này thiếu sự kiểm soát hiệu quả cho các
ngành công nghiệp non trẻ. Điều này đã dẫn đến việc các khoản tiền tiết kiệm huy động
được từ người dân và các khoản vốn đầu cơ từ nước ngoài bị phân bổ sai hướng, chủ
yếu là chảy vào bất động sản (15% trên tổng tài sản ngân hàng vào năm 1996) mà không
hề tạo ra khoản lợi cho đất nước và chỉ khiến cho bong bóng tài chính mau phồng to.
Tóm lại, việc thiếu kỷ luật xuất khẩu, cơ chế phòng thủ dựa trên kiểm soát vốn và
thiếu chính kiến trong việc ban hành các chính sách tài chính, Thái Lan đã phải trải qua
một cuộc khủng hoảng tiền tệ tồi tệ nhất Đông Nam Á khi quyết định thả nổi đồng Baht
vào ngày 2/7/1997. Tuy nhiên, từ cuộc khủng hoảng này, Thái Lan đã nhận được một
18
Nhóm 2 – Kinh doanh khu vực Châu Á – Thái Bình Dương

bài học đắt giá khi không còn nghe theo mọi hướng dẫn từ IMF một cách mù quáng. Cụ
thể, ngay khi khủng hoảng diễn ra, Thái Lan đã nghe theo lời khuyên của IMF khi cắt
giảm chi tiêu khoảng ⅕ và tăng thuế. Tuy nhiên hành động sai lầm này đã đẩy nên nền
kinh tế Thái Lan sâu hơn vào tình trạng mất kiểm soát, hàng loạt công ty tài chính đóng
cửa dẫn đến thiếu hụt vốn lưu động cho người cần vay… Từ năm 1998, các đợt chỉ trích
IMF đã xuất hiện và tăng nhanh càng thể hiện tổ chức này dường như không quá thấu
hiểu Thái lan. Trước áp lực này, IMF đã phải thừa nhận rằng họ đã có một chút sai lầm
trong tư vấn và cho phép chính phủ Thái Lan vận hành ngân sách thâm hụt. Từ năm
2003, nền kinh tế Thái lan mới phục hồi lại mức năng bằng năm 1996.

C. PHẦN KẾT BÀI


Qua những phân tích trên, có thể thấy ba loại chính sách can thiệp vào kinh tế, gồm
tái phân phối đất nông nghiệp, kỷ luật xuất khẩu và hỗ trợ tài chính được sử dụng ở các
nước Đông Bắc Á hiệu quả như thế nào. Các chính sách can thiệp này đã giúp các quốc
gia Đông Bắc Á, mà ví dụ điển hình nhất được nhắc đến là Hàn Quốc, chuyển mình từ
nghèo sang giàu trong một thời gian nhanh nhất từng được chứng kiến. Trong khi đó,
các quốc gia Đông Nam Á, dù có lợi thế về xuất phát điểm và nguồn lực tự nhiên, hoặc
là không thể nhìn nhận và theo đuổi ba loại chính sách này, hoặc là theo đuổi nhưng
không triệt để. Điều này dẫn đến sự phát triển không bền vững tại các quốc gia Đông
Nam Á, gây ra nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội (điển hình là các ví dụ về những
cuộc khủng hoảng hay bạo động tại Thái Lan. Bằng việc so sánh các góc nhìn về ba
chính sách can thiệp vào kinh tế của chính phủ Hàn Quốc (đại diện cho khu vực Đông
Bắc Á) và chính phủ Thái Lan (đại diện cho khu vực Đông Nam Á), ta rút ra được bài
học về tầm quan trọng của chiến lược và mô hình trong phát triển kinh tế.

19
Nhóm 2 – Kinh doanh khu vực Châu Á – Thái Bình Dương

D. DANH MỤC THAM KHẢO

[1] J. Studwell, Châu Á vận hành như thế nào?.

20

You might also like