Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 14

TÂY TIẾN

Quang Dũng

A/ ĐẶT VẤN ĐỀ
Quang Dũng là cây bút tiêu biểu cho thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong kháng
chiến chống Pháp, một nghệ sỹ đa tài hoạt động nghệ thuật trên nhiều lĩnh vực:
văn, thơ, nhạc, hoạ. Thơ Quang Dũng biểu hiện 1 hồn thơ phóng khoáng, lãng
mạn, 1 cái tôi hào hoa, thanh lịch rất tinh tế, tài hoa song cũng rất đỗi chân thực,
giản dị “ Tây Tiến” (sáng tác năm 1948) là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ
thuật và hồn thơ Quang Dũng, 1 đỉnh cao trong sự nghiệp của ông. Bao trùm
bài thơ là nỗi nhớ da diết về đồng đội cũ và mảnh đất miền Tây - nơi ghi dấu
những ngày tháng khổ mà hào hùng của một thế hệ thanh niên Việt Nam “Quyết tử
cho Tổ quốc quyết sinh”.
B/ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Tây Tiến là tên gọi của 1 đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947 nhiệm vụ
phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt - Lào và Miền Tây Bắc Việt Nam.
Thành phần xuất thân: chủ yếu là học sinh sinh viên, thanh niên Hà Thành. Họ là
những người lính trẻ trung, hào hoa lãng mạn, lạc quan yêu đời và chiến đấu rất
dũng cảm. Quang Dũng làm đại đội trưởng ở đó đến năm 1948 chuyển đi nhận
nhiệm vụ của đơn vị khác. Bài thơ được sáng tác cuối năm 1948 khi Quang Dũng
rời Tây Tiến một thời gian, 1 buổi chiều tại Phù Lưu Chanh, trong nỗi nhớ da diết
về đại đội và đơn vị cũ, ông sáng tác Nhớ Tây Tiến sau đổi thành Tây Tiến, tác
phẩm được in trong tập Mây đầu ô, xuất bản năm 1986.
Để làm nổi bật vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc và hình tượng người lính Tây Tiến,
Quang Dũng đã sử dụng bút pháp lãng mạn kết hợp với hiện thực, trong đó chủ
yếu là bút pháp lãng mạn. Thiên nhiên Tây Bắc hiện lên với những hình ảnh đối
lập tương phản, vừa hùng vĩ dữ dội, lại vừa thơ mộng trữ tình. Người lính Tây Tiến
cũng có sự hoà quyện giữa chất bi với chất tráng, giữa vẻ đẹp hào hùng với vẻ đẹp
lãng mạn hào hoa, giữa màu sắc cố điển với tinh thần thời đại. Quang Dũng là 1
nghệ sĩ đa tài. Chính vì vậy trong tác phẩm các yếu tố thi, nhạc, hoạ kết hợp với
nhau để tạo nên vẻ đẹp: “Thi trung hữu nhạc” “thi trung hữu hoạ”rất đặc biệt cho
bài thơ.
I. Đoạn 1 (14 câu đầu): Nỗi nhớ về những chặng đường hành quân:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
...
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
1. Cảm hứng chủ đạo (2 câu đầu)
Cảm hứng chủ đạo được biểu hiện ở ngay 2 câu thơ mở đầu. Đó là 1 nỗi nhớ da
diết bao trùm mọi không gian, thời gian:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Câu thơ thứ nhất vang lên như 1 tiếng gọi thiết tha “ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!”.
Hình ảnh đầu tiên hiện ra trong nỗi nhớ của nhà thơ là dòng sông Mã anh hùng - 1
biểu tượng chứa đựng linh hồn của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, đồng thời là địa
bàn hoạt động của đoàn quân. Chính vì thế sông Mã là ngọn nguồn cảm hứng và
nỗi nhớ trong nhà thơ. Ba tiếng “Tây Tiến ơi” vang lên thiết tha trìu mến như tiếng
gọi về 1 người bạn vô cùng thân thương, bởi đó không chỉ là tên gọi của 1 binh
đoàn, không chỉ gắn với một miền đất của Tổ quốc mà còn chứa đựng trong đó bao
kỷ niệm, nỗi nhớ sâu nặng trong trái tim nhà thơ - người lính Tây Tiến năm xưa.
Câu thơ thứ 2: “Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi” từ “nhớ” được lặp lại hai lần và
cùng với nghệ thuật phối âm “ơi” trong câu 1 với “chơi vơi” trong câu 2 bằng từ đã
diễn tả 1 nỗi nhớ vừa xoáy sâu, khắc khoải trong lòng người, vừa lan toả ra mênh
mang đất trời. Cụm từ “nhớ chơi vơi” diễn tả một nỗi nhớ da diết, hụt hẫng, không
nguôi trong lòng người. Nỗi nhớ ấy đưa tâm hồn nhà thơ trở về với những kỷ niệm
vẹn nguyên, tươi mới, với hình ảnh chiến trường và đồng đội năm xưa.
2. Hình ảnh núi rừng Tây Bắc
Khung cảnh thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ dữ dội, vừa huyền ảo, nên thơ được
khắc hoạ qua những câu thơ vừa giàu tính nhạc, vừa giàu giá trị tạo hình với sự kết
hợp hoà quyện giữa bút pháp lãng mạn và hiện thực...
a. 2 câu đầu:
Vẻ đẹp hư thực của thiên nhiên Tây Bắc được khắc hoạ qua 2 câu thơ rất gợi cảm:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Hai câu thơ tạo được 1 không khí huyền bí, hư ảo, vừa hiện thực lại vừa thơ mộng,
lãng mạn. Trước hết nhà thơ tả thực về những con đường hành quân gian khổ đi
qua những miền đất lạ mà ngay tên gọi: Sài Khao, Mường Lát đã gợi vẻ kì bí,
hoang sơ. Núi rừng ngập chìm trong sương mù, mây mờ dày đặc, âm u. Sương
khói là nét đặc trưng của thiên nhiên miền Tây được nhắc đến trong nhiều tác
phẩm:
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ”
(Tiếng hát con tàu - CHế Lan Viên)
“Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù”
(Việt Bắc - Tố Hữu)
Hình ảnh “sương lấp đoàn quân mỏi” làm hiện lên hình ảnh những người lính dãi
dầu mỏi mệt trên con đường trường chinh dằng dặc. Nhưng bút pháp lãng mạn đã
làm giảm nhẹ thực tế chiến đấu gian khổ: sau màn khói sương huyền ảo, hình ảnh
đoàn quân ẩn hiện mơ hồ, hư ảo. Câu thơ “Mường Lát hoa về trong đêm hơi” được
viết bằng cảm nhận tinh tế, lãng mạn. Bút pháp nhân hoá “Hoa về” và nghệ thuật
phối thanh với 6/7 thanh bằng, hầu hết không dấu đã gợi nên cái nhẹ nhàng, chơi
vơi của sương khói, hương hoa và hồn người. Câu thơ khơi gợi được nét đẹp huyền
ảo, sống động, có hồn của thiên nhiên Tây Bắc. Theo dòng hồi ức, những kỷ niệm
hiện về đẹp lung linh, huyền ảo qua những nét vẽ lãng mạn và gợi cảm.
b. 4 câu tiếp: Địa thế hiểm trở dữ dội
4 câu thơ tiếp theo khắc hoạ địa thế hiểm trở dữ dội của thiên nhiên núi rừng miền
Tây:
“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Đoạn thơ có sự khai thác triệt để nghệ thuật đối lập, tương phản về âm thanh và
hình ảnh giữa 3 câu đầu và 1 câu cuối. Nếu 3 câu đầu sử dụng nhiều thanh trắc rất
gắt thì đối lập lại, câu cuối hoàn toàn là thanh bằng; Nếu 3 câu đầu được vẽ bằng
đường nét rắn rỏi, gân guốc khắc hoạ địa thế gồ ghề, hiểm trở, thì câu cuối lại là
một nét bút mềm mại, uyển chuyển vẽ nên hình ảnh bằng phẳng, thơ mộng, yên
bình. Nghệ thuật đối lập còn tạo nên những câu thơ giàu chất nhạc, hoạ. Trong 3
câu đầu, sự hiểm trở, dữ dội được biểu hiện qua những biện pháp nghệ thuật và
cách dùng từ hết sức độc đáo. Trước hết, nghệ thuật phối âm tài hoa, tinh tế đã góp
phần tạo những câu thơ giàu tính nhạc, nhịp điệu. Đan xen giữa những thanh trắc
rất gắt (dốc, khúc, hút,...) là những thanh bằng rất trầm, đối lập hoàn toàn về âm
vực (cồn, trời, ngàn). Nghệ thuật sử dụng từ láy tượng hình đặc sắc: “khúc khuỷu,
thăm thẳm, heo hút” cùng với nghệ thuật điệp từ, điệp ngữ, lặp cấu trúc liên tiếp:
“dốc...dốc” “ngàn thước... ngàn thước” đã khắc hoạ 1 địa thế hiểm trở, gập ghềnh,
dữ dội: cả sâu, cao, xa đều ở mức tận cùng. Những câu thơ giúp ta hình dung về
những con đường hành quân gian khổ của người lính qua những núi cao, cồn mây,
vực sâu, hết dốc vực nàyđến đỉnh đèo khác, điệp điệp, trùng trùng tưởng không bao
giờ hết.
Đặc biệt trong câu 3: “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” nhịp 4/3 ngắt câu
thơ thành 2 vế đối lập, thanh trắc gắt đứng giữa mỗi vế xen giữa những thanh bằng
rất trầm đã vẽ ra một đường gấp khúc tương phản hoàn toàn, khắc hoạ sự hiểm trở,
chênh vênh, cheo leo của dãy núi: đang lên cao vô cùng lại đột ngột xuống thấp vô
tận. Câu cuối: “ Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” hoàn toàn đối lập với 3 câu đầu
về hình ảnh và thanh điệu. Câu thơ là một sáng tạo tài hoa của Quang Dũng, đem
lại vẻ đẹp đầy chất thơ, chất nhạc, chất hoạ cho bài thơ. Câu thơ toàn vần bằng,
trong đó 6/7 là thanh phù bình, vừa gợi hình ảnh bằng phẳng, mênh mông của địa
hình, vừa tạo giai điệu du dương, êm ái, ngân nga, đồng thời đem đến 1 cảm giác
lâng lâng, thư thái trong hồn người. Giữa những con đường hành quân nhọc nhằn,
vất vả, người lính dừng chân nơi lưng chừng núi, phóng tầm mắt ra xa, bắt gặp một
bình nguyên bao la với vài nếp nhà sàn đơn sơ ẩn chìm sau màn mưa xa hút.
Khung cảnh cuộc sống thanh bình, yên ả miền sơn cước khiến người lính vơi đi
bao gian khổ nhọc nhằn.
c. Núi rừng kì bí, hoang sơ
Thiên nhiên Tây Bắc còn được đặc tả với vẻ kì bí hoang sơ của khung cảnh núi
rừng:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Ở đây, cách lựa chọn thời điểm càng làm tăng sự kì bí, thâm u của núi rừng, đó là
lúc hoàng hôn và khi đêm xuống. Cách diễn đạt khái quát thời gian bằng những
điệo từ “chiều chiều” và “đêm đêm” vừa có tác dụng gợi tả những khoảng thời
gian bí ẩn, lại vừa mở ra không gian mênh mông, dày đặc của núi rừng. Bên cạnh
đó, cách khắc hoạ âm thanh: càng làm tăng sự dữ dằn, huyền bí của rừng đêm. Nhà
thơ chọn 2 âm thanh đặc biệt: tiếng “thác gầm thét”vang dội khắp không gian như
chất chứa trong mạch ngầm cái oai linh, hồn thiêng núi rừng, tiếng cọp gầm như
“trêu người” gợi cảm giác rùng rợn về 1 vùng đất hoang sơ không 1 dấu chân
người - 1 vùng rừng thiêng nước độc, nơi chỉ thú dữ và thiên nhiên hoang dã làm
chủ.Thiên nhiên Tây Bắc qua ngòi bút tài hoa của Quang Dũng hiện lên vừa hoang
sơ, dữ dội vừa huyền ảo, trữ tình. Trên cái nền kì vĩ của núi rừng miền Tây, hình
ảnh người lính được khắc hoạ nổi bật với 1 vẻ đẹp ngang tàng, 1 cốt cách hùng
tráng, 1 tinh thần lạc quan yêu đời và 1 tâm hồn lãng mạn, hào hoa.
3. Hình ảnh người lính Tây Tiến
Người lính Tây Tiến, đối mặt với khó khăn gian khổ không hề thấy dấu hiệu của sự
chán nản, nhụt chí, ngược lại ở họ toát lên 1 tinh thần lạc quan yêu đời. Chi tiết “
súng ngửi trời” là 1 liên tưởng độc đáo, thú vị, chứa đựng những nét tinh nghịch,
hóm hỉnh của những người lính trẻ, đồng thời thấy được cả tư thế lẫn tâm thế của
họ trước những khó khăn hiểm nguy. Ở độ cao chóng mặt, đi giữa những cồn mây,
người lính vượt qua nỗi nhọc nhằn bằng tiếng cười lạc quan. Hình ảnh mũi súng
hướng lên cao, chạm đến mây trời gợi liên tưởng súng đang “ngửi trời” .Câu thơ
khắc hoạ hình tượng người lính đẹp sừng sững, hiên ngang giữa mây trời Tây Bắc.
Người lính Tây Tiến, đối mặt với mất mát hy sinh không hề thấy sự sợ hãi, lùi
bước, ngược lại ở họ toát lên 1 vẻ đẹp bình dị, thầm lặng mà quả cảm. Ngòi bút
Quang Dũng không né tránh những khốc liệt chiến tranh, những mất mát hy sinh:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời đời”
Khó khăn thiếu thốn, đói rét bệnh tận khiến không ít người lính phải nằm lại dọc
đường chiến tranh. Hiện thực ấy được miêu tả qua bút pháp lãng mạn, ít nhiều
giảm nhẹ đau thương. Quang Dũng dùng từ ngữ nói giảm, nói tránh “ không bước
nữa ;bỏ quên đời” khiến cái chết hiện lên không đáng sợ mà chỉ giống như 1 giấc
ngủ thanh thản. Người lính hiện lên với vẻ đẹp ngang tàng, kiêu hãnh, pha chút
phớt đời, vừa phảng phất 1 tinh thần tráng sĩ cổ điển “ coi cái chết nhẹ tựa lông
hồng” vừa thấm đẫm khí thế thời đại “ Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Nếu khi
đối mặt với chiến tranh, gian khổ, ta thấy được ở người lính 1 vẻ đẹp của tinh thần
ý chí thì khi đối diện với cuộc sống đời thường, người lính lại hiện lên với vẻ đẹp
của tâm hồn lãng mạn bay bổng, dạt dào cảm xúc. Điều ấy được biểu hiện rõ 2 câu
thơ cuối:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Nhớ về Tây Tiến người đi không thể không nhớ đến những bản làng dừng chân
giữa những chặng đường hành quân. Cụm từ: “ nhớ ôi Tây Tiến” như tiếng lòng
không thể kìm nén được, bật ra với bao tình cảm trìu mến thiết tha của người đi với
mảnh đất biên cương xa xôi. Cách nói “cơm lên khói” và “ thơm nếp xôi” khiến
bữa cơm bình dị thường ngày trở nên ấm áp lạ thường, đồng thời vẽ ra 1 khung
cảnh cuộc sống thanh bình, yên ả nơi miền sơn cước. Mùi hương nếp mới đọng lại
dư vị khó quên trong hồn người không chỉ vì đây là đặc sản riêng của Tây Bắc mà
cơ bản vì thấm đượm trong đó cả tình người, tình quân dân thắm thiết. Câu cuối là
1 sáng tạo đặc sắc của nhà thơ “ Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”. Phép đảo ngữ
“ Mai Châu mùa em” khiến ý thơ trở nên tình tứ, đáng yêu. Bên cạnh đó, nghệ
thuật phối âm với 6/7 là thanh bằng đã giúp diễn tả nỗi niềm bâng khuâng, xao
xuyến, những cảm xúc êm đềm dịu ngọt trong trái tim người lính trẻ lãng mạn, hào
hoa.
II. Đoạn 2 (8 câu tiếp theo) Nỗi nhớ về những kỷ niệm kháng chiến
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Đoạn thơ vẫn tiếp nối mạch hoài niệm, nhưng nỗi nhớ trong nhà thơ đã chuyển từ
khung cảnh núi rừng hiểm trở, hoang vu sang những không gian gần gũi, thơ
mộng: đó là khung cảnh ấm áp đêm liên hoan lửa trại, hay vẻ đẹp mĩ lệ, duyên
dáng của khung cảnh sông nước, con người miền Tây. Đến đây, thay cho những nét
vẽ gân guốc, rắn rỏi ở phần đầu bài thơ là những nét bút uyển chuyển, mềm mại,
tinh tế của người nghệ sĩ tài hoa.
1. Cảnh đêm “ hội đuốc hoa” (4 câu đầu)
4 câu thơ đầu đã vẽ lên 1 khung cảnh đêm liên hoan lửa trại - Đêm hội đuốc hoa
rực rỡ:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Đây là cảnh đêm liên hoan lửa trại có đồng bào dân tộc đến góp vui thường gặp
trong kháng chiến. Cảnh trong hoài niệm bỗng phút chốc hiện lên sống động như
trước mắt. Bút pháp lãng mạn cùng sự hoà quyện mộng - thực đã biến một đêm lửa
trại bình thường thành đêm hội hoa đăng rực rỡ. Cấu trúc đảo ngữ, đặt từ “ bừng”
lên trước “ hội đuốc hoa” khiến không gian núi rừng như được đột ngột thắp sáng
bằng ngàn ánh hoa đăng đẹp lung linh, huyền ảo. Trong ánh sáng lung linh rực rỡ
của những ngọn đuốc hoa, hình ảnh những thiếu nữ bản hiệnlên thật duyên dáng,
uyển chuyển:
“Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp”
Từ “ Kìa em” đặt ở đầu câu diễn tả cảm xúc bất ngờ của người lính khi bắt gặp
hình ảnh những thiếu nữ Tây Bắc bỗng trở nên đẹp lộng lẫy trong xiêm áo ngày
hội. Dáng vẻ tình tứ, e ấp cùng “ man điệu” nồng nàn, quyến rũ khiến tâm hồn
người lính đắm say ngây ngất. Khung cảnh đêm hội không chỉ đậm nghĩa tình quân
dân thắm thiết, mà còn đậm bản sắc văn hoá vùng cao: từ trang phục lễ hội dân tộc
đến âm nhạc xứ lạ, mà cả giai điệu lẫn vũ điệu đều quyến rũ mê hoặc hồn người.
Nhất là những người lính trẻ với tâm hồn hào hoa, lãng mạn, vốn quen tiếp xúc với
văn hoá đô thị, thì không gian sinh hoạt văn hoá mang màu sắc dân tộc đậm nét
ấy đã để lại những ấn tượng mãnh liệt, không thể quên.
Câu cuối: “ Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ” có 6/7 thanh bằng và 5 thanh cuối
liên tiếp là thanh không giúp diễn tả trạng thái lâng lâng, ngây ngất trong hồn
người. Vẻ đẹp lạ lùng của cảnh sắc thiên nhiên và con người nơi đây, cùng không
khí nồng nàn mê hoặc của đêm hội đã quyến rũ say mê lòng người và khơi dậy
trong tâm hồn những người lính trẻ đa tình, lãng mạn bao cảm xúc thăng hoa, bao
mơ mộng thiết tha. Câu cuối như 1 điệu nhạc du dương, ngân nga mãi trong lòng
người. Có thể nói cảnh đêm lửa trại là khung cảnh ấm sáng, vui tươi nhất trong
hoài niệm chiến trường của nhà thơ. Đoạn thơ cho thấy vẻ đẹp đời sống tinh thần
phong phú, tâm hồn lãng mạn, trẻ trung yêu đời và tràn đầy chất thơ của người lính
Tây Tiến.
2. Vẻ đẹp khung cảnh sông nước miền Tây (4 câu sau)
Ở 4 câu sau, vẻ đẹp thơ mộng huyền ảo của sông nước miền Tây được khắc hoạ
trong không gian bờ bãi mênh mang và thời gian hoàng hôn mờ ảo. Nhà thơ chủ
yếu sử dụng bút pháp lãng mạn cùng những nét vẽ chấm phá, phác hoạ tinh tế, có
hồn và gợi cảm:
“ Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Đó là hình ảnh dòng sông trong một buổi chiều sương giăng mắc, chiều xuống đất
trời ngập chìm trong sương khói huyền ảo rất nên thơ nhưng cũng vô cùng quạnh
quẽ. Cách nói “ Chiều sương ”ấy đã gợi mở cả không gian lẫn thời gian, vừa gợi vẻ
đẹp thơ mộng, vừa gợi buồn gợi nhớ da diết. Sương khói là đặc trưng của thiên
nhiên Tây Bắc. Chế Lan Viên cũng từng khắc hoạ vẻ đẹp trữ tình này trong nỗi nhớ
của mình “ Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ”. Vẻ đẹp của dòng sông trong
sương, khung cảnh dòng sông, bến bờ lặng tờ, hoang dại như thời
tiền sử. Câu thơ “ Có thấy hồn lau nẻo bến bờ” rất tinh tế và giàu sức gợi. Câu thơ
mở ra hình ảnh ngàn lau trắng phất phơ dọc bến bờ hoang vắng. Cách dùng từ “
hồn lau” khiến cảnh vật thiên nhiên như cũng thấm đẫm linh hồn. Ngàn lau trắng
hoà trong sương khói trắng khiến khung cảnh trở nên hư ảo, đẹp một vẻ đẹp thanh
khiết, nguyên sơ. Vẻ đẹp của con người vùng sông nước miền Tây được khắc hoạ
nổi bật trên nền thiên nhiên kì vĩ. Câu thơ “ Có nhớ dáng người trên độc mộc” vẽ
ra những hình ảnh đối lập tương phản giữa một bên là con người nhỏ bé trên con
thuyền độc mộc mong manh, với một bên là sông nước bao la hùng vĩ. Những hình
ảnh con người không hề gợi cảm giác đơn độc, bị thiên nhiên lấn át mà ngược lại
người với cảnh hoà hợp hữu tình. Sự xuất hiện của con người khiến cảnh thêm ấm
áp, bớt hoang vu. Khung cảnh thiên nhiên làm nổi bật vẻ đẹp khoẻ khoắn của con
người vùng sông nước với dáng vẻ uyển chuyển, khéo léo điều khiển con thuyền
lao băng băng trên dòng sông mùa nước lũ cuộn xiết, dữ dằn. Vẻ đẹp sống động
của những bông hoa rừng được miêu tả đầy biểu cảm qua cụm từ “ hoa
đong đưa”.Từ láy “đong đưa” không chỉ gợi hình mà còn gợi hồn gợi cảm. Những
bông hoa mang vẻ đẹp đầy sức sống, chất chứa một nguồn sống dào dạt tự bên
trong. Hoa ấy như cũng có linh hồn, tâm trạng, dường như hoa cũng biét làm
duyên làm dáng trên dòng nước, quyến luyến, tình tứ với con người. Vẻ đẹp ấy chỉ
có thể thấy được qua quan sát, cảm nhận của những chàng lính trẻ lãng mạn, đa
tình. Bốn câu thơ sử dụng nhiều câu hỏi tu từ “ có thấy…có nhớ ...” biểu hiện nỗi
nhớ da diết trong tâm hồn nhà thơ đối với mảnh đất và con người miền Tây. Bút
pháp chấm phá tài hoa với vài nét phác hoạ đơn sơ: một chiều sương, một dòng
sông, thấp thoáng hồn lau, thấp thoáng dáng người, dáng hoa… nhưng chứa đựng
trong đó cả linh hồn của một vùng đất thân yêu.
* Tiểu kết:
8 câu thơ đã đưa người đọc lạc vào một thế giới khác với vẻ đẹp mơ mộng, huyền
ảo. Chất thơ và chất nhạc hoà quyện tạo nên những giai điệu ngân nga, xao xuyến
hồn người. Ngòi bút tài hoa, tinh tế, gợi cảm của Quang Dũng không chỉ gợi lại
được cái hồn của một Tây Bắc duyên dáng, thơ mộng mà còn khắc hoạ rất đỗi chân
thực vẻ đẹp tâm hồn của những người lính trẻ lãng mạn, hào hoa.
III. Đoạn 3 (8 câu tiếp): Vẻ đẹp của hình tượng người lính Tây Tiến
Cùng viết về hình tượng người lính trong kháng chiến chống Pháp, nhưng hình
tượng người lính trong Tây Tiến của Quang Dũng khác với hình tượng người lính
trong Đồng chí của Chính Hữu hay Nhớ của Hồng Nguyên. Sự khác biệt bắt nguồn
từ nguồn gốc xuất thân. Thơ ca kháng chiến chống Pháp thường khắc hoạ hình
tượng người lính xuất thân từ nông dân với 1 vẻ đẹp mộc mạc, giản dị:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
(Đồng chí - Chính Hữu)
Nhưng chiến sĩ Tây Tiến phần lớn xuất thân trí thức, vì thế họ mang trong mình 1
vẻ đẹp riêng biệt: vừa hào hùng bi tráng, vừa lãng mạn hào hoa. Vẻ đẹp của người
lính Tây Tiến còn có sự hoà quyện giữa màu sắc cổ điển và hiện đại. Ở họ vừa
phảng phất bóng dáng cả những chinh phu, tráng sĩ thưở xưa lại vừa mang không
khí thời đại rõ nét trong hình tượng người anh hùng vệ quốc thời kì kháng chiến
chống Pháp. Khắc hoạ người lính Tây Tiến, ngòi bút Quang Dũng tràn đầy cảm
hứng lãng mạn nhưng cũng không kém phần hiện thực. Hình tượng người lính Tây
Tiến được chạm khắc sừng sững, kiêu hùng trên nền thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ,
dữ dội bằng thứ ngôn từ nghệ thuật giàu giá trị tạo hình
1. 4 câu đầu: Vẻ đẹp hào hùng - hào hoa:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
a. 3 câu đầu: Vẻ đẹp hào hùng
Trước hết, Quang Dũng sử dụng bút pháp hiện thực để khắc hoạ chân thực sự khốc
liệt của chiến tranh. Cuộc sống chiến đấu gian khổ với thiếu thốn, đói rét, ốm đau,
bệnh tật, đặc biệt là những cơn sốt rét rừng hành hạ người lính. Thơ ca kháng chiến
không ít bài nhắc đến căn bệnh hiểm nghèo này:
“Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”
(Đồng chí - Chính Hữu)
Song Quang Dũng đã miêu tả thực tế ấy qua cái nhìn đậm màu sắc lãng mạn khiến
chân dung người lính vừa chân thực lại vừa khác lạ. Ở họ toát lên 1 vẻ đẹp phi
thường đầy khí phách ngang tàng, kiêu hãnh, được tô đậm qua 2 ấn tượng. Đó là
hình ảnh cả 1 “đoàn binh không mọc tóc”. Xuất phát từ thực tế chiến đấu thiếu
thốn, đểthuận tiện khi đánh nhau người lính thường cạo trọc đầu. Nhưng chủ yếu
do cuộc sống kháng chiến gian khổ thiếu thốn nơi rừng thiêng nước độc, khiến
không ít người lính mắc phải căn bệnh sốt rét rừng quái ác, bị hành hạ đến rụng tóc
trọc đầu. Điều đặc biệt Quang Dũng không dùng từ
“ rụng tóc” mà nói “ không mọc tóc” khiến người lính mang dáng vẻ bướng bỉnh,
ngang tàng. Bên cạnh đó, từ “ đoàn binh” gợi hình ảnh một đội ngũ đông đảo, hùng
dũng, không một chút dấu hiệu của ốm đau, bệnh tật. Đó còn là hình ảnh cả 1 đoàn
"quân xanh màu lá". Cụm từ “ xanh màu lá” vừa miêu tả màu trang
phục, màu lá nguỵ trang, nhưng chủ yếu là nói đến màu da xanh xao vì đói khát,
sốt rét triền miên của người lính. Song câu thơ với 2 vế tương phản: 1 bên là “
xanh màu lá” gợi sự ốm yếu về thể chất, hoàn toàn bị lấn át bởi hình ảnh đối lập “
dữ oai hùm” ở vế sau. Cách nói “ dữ oai hùm” gợi ý chí cứng cỏi, mạnh mẽ, tư thế
oai phong lẫm liệt của những vị chúa tể rừng thiêng. Cách miêu tả độc đáo của
Quang Dũng gợi ấn tượng 1 đoàn quân “ ốm nhưng không yếu”, không mất đi khí
thế chiến đấu. Ngược lại, ở họ toát lên 1 vẻ đẹp kiêu hùng, quả cảm, nét oai phong
dữ dằn (dữ dội) của người lính dạn dày chinh chiến khiến kẻ thù phải khiếp sợ.
Câu 3 càng tô đậm nét oai hùng của người lính qua ánh mắt dữ dội “ Mắt trừng gửi
mộng qua biên giới”Tất cả vẻ đẹp khí phách, ý chí, tinh thần người lính hội tụ qua
cặp mắt. Từ “ trừng” biểu hiện nội lực mạnh mẽ, dũng khí lớn lao và ý chí sắt đá,
quyết thực hiện bằng được những mộng ước chiến chinh, những khát vọng lý
tưởng cao đẹp của đời lính.
b. Câu cuối: Vẻ đẹp lãng mạn, hào hoa
“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Đối lập vẻ ngoài dữ dằn, ẩn sâu bên trong người lính là vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn
hào hoa. Có một thời người ta phê phán phủ nhận ý thơ này và cho đó là thứ tình
cảm uỷ mị, 1 thứ “ mộng rớt” tiểu tư sản. Người lính Việt Nam hầu hết xuất thân
nông dân, nỗi nhớ của họ thường mộc mạc, giản dị, gắn với những hình ảnh quen
thuộc: cây đa, giếng nước, xóm làng hay hình ảnh những người mẹ người vợ tần
tảo sớm hôm:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra trận”
(Đồng chí - Chính Hữu)
Nhưng người lính Tây Tiến hầu hết xuất thân trí thức, ra đi từ những phố phường
Hà Nội. Từ giã Hà Nội phồn hoa lên đường chiến đấu, những người lính trẻ lãng
mạn hào hoa ấy mang trong tim hình ảnh phố phường, những tà áo dài tha thướt và
nhất là “ dáng kiều thơm” - hình bóng duyên dáng, yêu kiều và rất đỗi thanh lịch
của những thiếu nữ Hà Thành.Câu thơ mở ra một vẻ đẹp khác của người lính: ở họ
không hoàn toàn là ý chí sắt đá lạnh lùng, ẩn sâu bên trong là một nội tâm phong
phú, 1 tâm hồn lãng mạn trẻ trung đầy sức sống và 1 trái tim khao khát yêu đương.
Nỗi nhớ ấy của người lính vì thế rất đẹp, rất thật và đáng trân trọng bởi xuất phát
từ tình yêu Hà Nội, tình yêu cuộc sống và con người của chiến sĩ Tây Tiến.
2. 4 câu sau: Vẻ đẹp hào hùng - bi tráng
Tây Tiến là một trong số ít những bài thơ nhắc nhiều đến mất mát, hi sinh, điều mà
thơ ca cách mạng thường né tránh. Quang Dũng đã dùng ngòi bút hiện thực của
mình khắc hoạ chân thực những khốc liệt của chiến tranh với những tổn thất, đau
thương. Song bài thơ nói đến cái chết mà không bi luỵ, bi thương bởi những hi
sinh ấy được sự nâng đỡ của lý tưởng cao đẹp, của cảm hứng lãng mạn bay bổng. 4
câu thơ chính là khúc ca bi tráng về sự hy sinh cao đẹp của người lính:
“ Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Trước hết, Quang Dũng khắc hoạ thực tế chiến đấu: Hành quân qua những miền
biên cương xa xôi, chiến sĩ Tây Tiến không ít người phải gục ngã và nằm lại nơi
núi rừng hoang vắng, lạnh lẽo. Quang Dũng đã viết về những cái chết ấy của đồng
đội với niềm xót thương da diết: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”. Câu thơ sử
dụng từ Hán - Việt cổ kính, trang trọng, như “biên cương, viễn xứ” vừa làm giảm
nhẹ sự bi thương, vừa tôn lên sắc thái trang trọng, thiêng liêng trong sự hy sinh của
người lính.
Câu thơ thứ 2 nêu lên lý tưởng sống cao đẹp. Người lính ra chiến trường với 1 lý
tưởng sống quên mình, 1 lẽ sống cao đẹp: “ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
Người lính đi chiến đấu “ coi cái chết nhẹ tựa lông hồng”, với 1 tinh thần cao cả “
Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Họ tự nguyện hiến dâng cuộc đời, tuổi thanh
xuân tươi đẹp, sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc. Đó cũng chính là lý tưởng sống, lẽ
sống cao đẹp của thời đại, của bao thế hệ thanh niên Việt Nam trong chiến tranh,
tinh thần của những anh hùng vệ quốc thời đại chống Pháp “ ra đi thà chết không
lui”. Hai câu cuối ngợi ca vẻ đẹp hào hùng, mang tầm vóc sử thi trong sự hi sinh
cao đẹp của người lính Tây Tiến:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Câu thơ nói đến sự thật đau thương: người lính ngã xuống không một manh chiếu,
không có nghi thức trọng thể tiễn đưa, chỉ có manh áo lĩnh dãi dầu sương gió bọc
lấy thi thể. Song sự hy sinh bình dị và thầm lặng ấy càng tôn thêm sự cao đẹp trong
lý tưởng xả thân của người lính: họ đã hiến dâng trọn vẹn cuộc đời mình cho đất
nước. Qua cảm hứng lãng mạn của Quang Dũng, người lính đẹp hào hùng sang
trọng ngay cả trong cái chết. Chiếc áo lính bạc màu đã hoá tấm “ áo bào” sang
trọng. Hình ảnh áo bào xuất hiện khiến hình tượng người lính mang một vẻ đẹp cổ
điển, phảng phất bóng dáng của những anh hùng, tráng sĩ xưa:
“Áo chàng đỏ tựa ráng pha
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in”
Chi tiết “ áo bào thay chiếu” gợi liên tưởng hình ảnh “ da ngựa bọc thây” những
tráng sĩ hy sinh chốn xa trường vì chí lớn trong văn học truyền thống. Nói đến sự
hy sinh của người lính, Quang Dũng khong dùng từ "chết" mà dùng từ
“ về đất” vừa giảm nhẹ sự đau thương, lại vừa tôn vinh ngợi ca theo hướng vĩnh
viễn hoá, bất tử hoá. Họ dường như không chết mà thanh thản trở về với đất mẹ,
hoá thân vào sông núi, làm thành hồn thiêng đất Việt. Sự hy sinh của người lính
khiến cả non sông ngậm ngùi xúc động. Tiếng gầm dữ dội của dòng sông Mã chính
là khúc tráng ca thiêng liêng đưa tiễn những người con anh hùng: “Sông Mã gầm
lên khúc độc hành”. Âm hưởng hào hùng, vang dội của thiên nhiên ấy khiến sự hy
sinh của người lính không bi luỵ, bi thương mà thấm đẫm màu sắc bi tráng và
mang tầm vóc sử thi hùng tráng. Với cảm hứng lãng mạn, ngôn ngữ đậm sắc thái
cổ kính, giọng thơ trang trọng, thiêng liêng, đoạn thơ biểu hiện nỗi đau thương vô
hạn, sự trân trọng kính cẩn và lời tôn vinh ngợi ca của nhà thơ trước sự hy sinh cao
đẹp của đồng đội.
IV. KHỔ KẾT: Có 2 cách hiểu:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
Cách1: nhắc lại và xoáy sâu hơn tình cảm thương nhớ. Đoàn quân vẫn tiếp tục
hành quân, khoảng cách giữa binh đoàn với nhà thơ ngày càng xa vời vợi “thăm
thẳm một chia phôi” . Thời gian gắn bó tuy không dài nhưng kỷ niệm vô cùng sâu
đậm. Không gian xa cách không ngăn được tình cảm con người: nỗi nhớ mãi theo
đi “ Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”.Tâm hồn nhà thơ đã gửi trọn theo đoàn quân.
Cách 2: Khổ cuối như 1 lời ước hẹn, 1 lời thề thiêng liêng của đoàn quân: quyết
tâm chiến đấu đến cùng, không hẹn ngày về khi chưa giành chiến thắng. Âm
hưởng thơ trầm lắng, xúc động như lời tự hứa, tự nhủ với lòng mình về ý chí quyết
tâm vượt gian khó, chiến đấu không chùn
bước.
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Với cảm hứng lãng mạn và ngòi bút tài hoa, Quang Dũng đã chạm khắc thành công
1 tượng đài bất tử về người lính Tây Tiến trên nền khung cảnh thiên nhiên núi rừng
miền Tây hùng vĩ, dữ dội và mĩ lệ. Hình tượng người lính Tây Tiến với vẻ đẹp lãng
mạn đậm chất bi tráng là 1 đóng góp quan trọng của nhà thơ Quang Dũng vào việc
khắc hoạ chân dung người lính chống Pháp.

You might also like