Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 25

ÐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ÐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

BÀI DỰ THI
“CUỘC THI CHÍNH LUẬN VỀ BẢO VỆ NỀN TẢNG
TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG LẦN THỨ TƯ, NĂM 2024”
Tên bài dự thi: Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam trước
các quan điểm sai trái và thù địch

Họ tên: Nguyễn Mai Phương


MSSV: 2214610069
Chi đoàn: Anh 02 - Luật TMQT - K61
Số điện thoại: 0947699568
Email: maiphuongg234@gmail.com

Họ tên: Nguyễn Phúc Ánh


MSSV: 2214610016
Chi đoàn: Anh 02 - Luật TMQT - K61
Số điện thoại: 0375777569
Email: k61.2214610016@ftu.edu.vn

BÀI LÀM

PHẦN I: GIỚI THIỆU

1. Tầm quan trọng của việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt
Nam

Ngay từ những ngày đầu thành lập Đảng, nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng đã được đặt ra và trở thành nhiệm vụ trọng yếu xuyên suốt quá trình phát
triển hơn 90 năm qua. So với thời kỳ trước đây, thực tiễn trong và ngoài nước đã có
nhiều thay đổi nên đã đặt ra những yêu cầu mới cho việc bảo vệ nền tảng tư tưởng
ÐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ÐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

của Đảng.

Việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam là vô cùng quan
trọng và có ảnh hưởng sâu rộng đến sự tồn tại và phát triển của Đảng, cũng như của
quốc gia. Dưới đây là một số điểm quan trọng về tầm quan trọng của việc này:

Một là, đảm bảo tính nhất quán và ổn định của chính sách và quyết định:
Nền tảng tư tưởng của Đảng là hệ thống giá trị và nguyên tắc căn bản, định hình
hành động và quyết định của Đảng. Việc bảo vệ nền tảng này giúp đảm bảo tính
nhất quán trong chính sách và quyết định của Đảng, tạo ra sự ổn định và tin cậy
trong quản lý và lãnh đạo.

Hai là, bảo vệ lòng tin và sự ủng hộ từ phía nhân dân: Sự linh hoạt và thích
ứng của Đảng với thực tế đời sống xã hội là cần thiết, nhưng việc giữ vững nền
tảng tư tưởng giúp đảm bảo lòng tin và sự ủng hộ từ phía nhân dân. Điều này quan
trọng để duy trì sự đồng lòng và đoàn kết trong xây dựng và phát triển quốc gia.

Ba là, đối phó với thách thức từ bên ngoài: Trong bối cảnh thế giới đang thay
đổi không ngừng, việc bảo vệ nền tảng tư tưởng giúp Đảng đối phó với các thách
thức từ bên ngoài, bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia.

Bốn là, giữ vững sự đoàn kết nội bộ: Nền tảng tư tưởng là liên kết tinh thần
giữa các thành viên trong Đảng. Việc bảo vệ nền tảng này giúp giữ vững sự đoàn
kết nội bộ, tạo ra sự mạnh mẽ và thống nhất trong hành động và quyết định của
Đảng.

Năm là, đảm bảo tính liên tục và phát triển của Đảng: Bảo vệ nền tảng tư
tưởng không chỉ là việc duy trì mà còn là việc phát triển và cải tiến, đáp ứng với
yêu cầu của thời đại và sự phát triển của xã hội.

Tóm lại, việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam không
ÐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ÐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

chỉ là nhiệm vụ quan trọng mà còn là điều kiện cần để đảm bảo sự ổn định, phát
triển và thành công của Đảng và của đất nước.

2. Mục tiêu và ý nghĩa của việc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái và
thù địch

Việc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái và thù địch đóng vai trò quan
trọng trong việc xây dựng một xã hội công bằng, tự do và hòa bình.

Thứ nhất, về vấn đề bảo vệ nhân quyền: Việc phản bác các quan điểm sai trái
và thù địch giúp bảo vệ nhân quyền của mọi người, đảm bảo rằng mọi cá nhân đều
được đối xử công bằng và tôn trọng.

Thứ hai, xây dựng một xã hội dân chủ: Bằng cách phản bác các quan điểm
sai trái và thù địch, việc đấu tranh phản bác giúp tăng cường tính dân chủ trong xã
hội, khuyến khích sự tham gia công dân và quyền tự do ngôn luận.

Thứ ba, ngăn chặn sự phân biệt đối xử: Đối phó với các quan điểm sai trái
và thù địch giúp ngăn chặn sự phân biệt đối xử dựa trên chủng tộc, tôn giáo, giới
tính, hoặc bất kỳ đặc điểm cá nhân nào khác.

Thứ tư, bảo vệ sự an toàn và bình yên cho xã hội: Một xã hội mà mọi người
đều chấp nhận và tôn trọng lẫn nhau ít có khả năng gặp phải xung đột và bạo lực.
Việc phản bác các quan điểm gây gổ giúp tạo ra một môi trường an toàn và bình
yên hơn cho tất cả mọi người.

Thứ năm, khuyến khích sự tiến bộ: Thông qua việc phản bác các quan điểm
sai trái và thù địch, các quan điểm mới có thể được phát triển và tiến bộ xã hội có
thể được đạt được. Điều này khuyến khích sự sáng tạo và đổi mới.

Như vậy, việc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái và thù địch không
chỉ là một nhiệm vụ đạo đức mà còn là một phần quan trọng của việc xây dựng một
ÐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ÐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

xã hội cởi mở, công bằng và tiến bộ.

PHẦN II: NỘI DUNG

I. Nền tảng tư tưởng của Đảng

1. Những nguyên tắc hoạt động cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam

Điều lệ Đảng quy định 05 nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng như
sau: “Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất về ý chí và
hành động; lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể
lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồng thời
thực hiện các nguyên tắc: Tự phê bình và phê bình; đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh
chính trị và Điều lệ Đảng; Đảng giữ mối liên hệ mật thiết với nhân dân; Đảng hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.

Thứ nhất, đó là nguyên tắc tập trung dân chủ (có từ khi thành lập Đảng năm
1930). Nguyên tắc tổ chức của Đảng là tập trung dân chủ, là yếu tố quyết định sức
mạnh của Đảng. Đây cũng là nguyên tắc cơ bản nhất để xây dựng Đảng cộng sản
trở thành một tổ chức chiến đấu chặt chẽ, phát triển sức mạnh của mỗi cá nhân và
cả tổ chức Đảng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng vấn đề tập trung có nghĩa là tất cả các đảng
viên phải chấp hành vô điều kiện nghị quyết của Đảng, cấp dưới phải phục tùng
cấp trên và thiểu số phải phục tùng đa số. "Cá nhân phải phục tùng tổ chức; số ít
phải phục tùng số nhiều; cấp dưới phải phục tùng cấp trên; các địa phương phải
phục tùng Trung ương", Người nhấn mạnh.

Thứ hai, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là nguyên tắc lãnh đạo của
Đảng. Theo Hồ Chí Minh: “Lãnh đạo không tập thể thì sẽ đi đến cái tệ bao biện,
độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc. Phụ trách không do cá nhân thì sẽ đi đến
ÐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ÐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

cái tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc. Tập thể lãnh đạo,
cá nhân phụ trách phải luôn đi đôi với nhau”. Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân
phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách có ý nghĩa to lớn. Thứ
nhất là phát huy được sức mạnh tập thể đồng thời khẳng định năng lực cá nhân.
Thứ hai là tránh được tình trạng quan liêu, chống lại bệnh độc đoán, chuyên quyền,
vi phạm dân chủ trong Đảng; đồng thời chống lại tệ dựa dẫm tập thể, không dám
chịu trách nhiệm. Đây là hiện tượng thường thấy hằng ngày, khi có thành tích thì
nhận về mình, còn khuyết điểm sai lầm thì đổ lỗi cho tập thể. Không chú ý lãnh đạo
tập thể thì sẽ bao biện, độc đoán,chủ quan; đồng thời không chú ý đến cá nhân phụ
trách thì sẽ dẫn đến bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ. Trong giai đoạn đất nước mở
cửa hội nhập với thế giới hiện nay, trách nhiệm của tập thể, của cá nhân càng phải
được phát huy để tổ chức Đảng không ngừng lớn mạnh, đủ sức dẫn dắt toàn dân tộc
đi đến thắng lợi cuối cùng - thực hiện thành công mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Thứ ba, nguyên tắc tự phê bình và phê bình (được bổ sung ở Đại hội II năm
1951, tại Kim Bình, Chiêm Hóa, Tuyên Quang). Hồ Chí Minh rất coi trọng nguyên
tắc này,nó là vũ khí để rèn luyện đảng viên, để nâng cao trình độ lãnh đạo của
Đảng, bảo đảm cho Đảng luôn trong sạch,vững mạnh.Theo Người, con người ta ai
cũng có khuyết điểm, chỉ khác nhau ở nặng hay nhẹ, ở trạng thái biểu hiện mà thôi:
“Người đời không phải thần thánh, không ai tránh khỏi khuyết điểm”. “Mỗi con
người đều có cái thiện và cái ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong
mỗi con người này nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ
của người làm cách mạng”. Người cho rằng: “Thang thuốc hay nhất là thiết thực
phê bình và tự phê bình”.Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng ta bao gồm đủ các tầng lớp
trong xã hội, có nhiều người rất kiên quyết cách mạng, rất trung thành,song cũng
không tránh khỏi những tập tục, những tính nết, khuyết điểm của xã hội bên ngoài
lây ngấm vào Đảng. Đảng ta gồm những người có tài, có đức. Phần đông những
ÐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ÐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

người hăng hái nhất, thông minh nhất, yêu nước nhất, dũng cảm nhất đều ở trong
Đảng ta. Tuy vậy, “không phải là người người đều tốt, việc việc đều hay”, do vậy
trong Đảng phải luôn luôn tự phê bình và phê bình để lam cho dần dần hết khuyết
điểm, ưu điểm ngày càng nhiều hơn.

Thứ tư, đoàn kết thống nhất trong Đảng là nguyên tắc quan trọng của Đảng.
Có thực sự đoàn kết thì mới thống nhất được ý chí và hành động của tổ chức Đảng.
Xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng để làm nòng cốt cho việc xây dựng sự
đoàn kết thống nhất trong nhân dân, xây dựng nên khối đại đoàn kết vững chắc,
đảm bảo cho việc giành được những thắng lợi ngày càng to lớn hơn. Hồ Chí Minh
coi giữ gìn đoàn kết, thống nhất trong Đảng là nhiệm vụ của toàn Đảng. Trong Di
chúc, Người viết: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của
dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí
của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Cơ sở để xây dựng sự đoàn kết
thống nhất trong Đảng chính là đường lối, quan điểm của Đảng, điều lệ Đảng nhằm
tạo nên sự thống nhất về tư tưởng, tổ chức và hành động, thông qua đó mà hiện
thực hóa đường lối, quan điểm của Đảng trong cuộc sống. Nếu xa rời cơ sở này sẽ
xuất hiện những nguy cơ phá hoại đoàn kết thống nhất từ bên trong. Hồ Chí Minh
viết: “Ngày nay, sự đoàn kết trong Đảng là quan trọng hơn bao giờ hết ,nhất là sự
đoàn kết chặt chẽ giữa các cán bộ lãnh đạo”. Ngày nay, tình hình thế giới và trong
nước phát triển phức tạp, nhiệm vụ của Đảng ngày càng nặng nề, thực tế này đòi
hỏi Đảng phải củng cố và tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng, nhất
là đối với các cán bộ lãnh đạo có ảnh hưởng đến sự thống nhất của nhiều cán bộ
đảng viên, đến toàn Đảng. Để xây dựng sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, phải
thực hiện và mở rộng dân chủ nội bộ để cán bộ, đảng viên có thể tham gia bàn bạc
đến nơi đến chốn những vấn đề hệ trọng của Đảng, phải thường xuyên thực hiện tự
phê bình và phê bình với tinh thần trung thực, thẳng thắn; thường xuyên tu dưỡng
đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân và các biểu hiện tiêu cực khác, phải
ÐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ÐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

sống với nhau có tình có nghĩa…

Thứ năm, Nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật
(bổ sung ở Đại hội X, năm 2006). Yêu cầu cao nhất của kỷ luật Đảng là chấp hành
các chủ trương, nghị quyết của Đảng và tuân thủ các nguyên tắc tổ chức, lãnh đạo
và sinh hoạt Đảng, các nguyên tắc xây dựng Đảng. Có như vậy, Đảng mới trở
thành một khối thống nhất về tư tưởng và hành động, nếu không “Đảng sẽ xệch
xoạc, ý kiến lung tung, kỷ luật lỏng lẻo, công việc bế tắc”. Mỗi đảng viên dù ở
cương vị nào, mỗi cấp ủy dù ở cấp bộ nào cũng đều phải nghiêm túc chấp hành kỷ
luật của các đoàn thể và pháp luật của Nhà nước, tuyệt đối không ai được coi
thường, thậm chí đứng trên tất cả. Ý thức kỷ luật đó là ý thức Đảng của giai cấp
công nhân. Việc đề cao ý thức kỷ luật đó đối với mọi cán bộ, đảng viên từ trên
xuống dưới làm tăng thêm uy tín của Đảng; ngược lại ý thức kỷ luật xuống thấp,
nếu cán bộ, đảng viên có nhiều vi phạm kỷ cương phép nước,tự cho mình là người
lãnh đạo, coi thường kỷ luật của các đoàn thể nhân dân, thì uy tín của Đảng giảm
thấp, càng dẫn tới nhiều nguy cơ cho Đảng. Về vấn đề này, Hồ Chí Minh đã nhấn
mạnh: “Mỗi Đảng viên cần phải làm theo kiểu mẫu phục tùng kỷ luật, chẳng những
kỷ luật của Đảng, mà cả kỷ luật của các đoàn thể nhân dân và của cơ quan chính
quyền cách mạng”. Trong điều kiện Đảng cầm quyền việc giữ nguyên kỷ luật của
Đảng có vai trò, tác động to lớn,trực tiếp tới việc tăng cường pháp luật của nhà
nước và giữ vững kỷ cương xã hội.

2. Lịch sử phát triển tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam

Lịch sử phát triển tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam bắt đầu từ những
năm đầu của thế kỷ 20, khi chính trị xã hội ở Việt Nam bắt đầu trải qua những biến
động lớn do sự ảnh hưởng của các cuộc chiến tranh và sự chi phối của các cường
quốc. Dưới đây là một số giai đoạn quan trọng trong lịch sử phát triển tư tưởng của
Đảng Cộng sản Việt Nam:
ÐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ÐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

Thời kỳ thành lập (1925-1930): Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập
vào năm 1930, là kết quả của sự hợp nhất giữa các nhóm cách mạng cộng sản và
những người lãnh đạo cách mạng như Hồ Chí Minh, Trần Phú và Nguyễn Ái Quốc
(tức Hồ Chí Minh). Tại giai đoạn này, Đảng chủ yếu tập trung vào việc tổ chức và
tuyên truyền trong quần chúng nông dân và công nhân.

Kháng chiến chống Pháp (1930-1954): Trong suốt giai đoạn này, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo và tham gia vào cuộc kháng chiến chống Pháp,
nhằm giành độc lập cho Việt Nam. Lúc này, tư tưởng của Đảng xoay quanh lý
tưởng cách mạng Mác-Lênin, với mục tiêu chủ yếu là giải phóng giai cấp nông dân
và công nhân khỏi ách thống trị tư bản và thực dân Pháp.

Chiến tranh chống Mỹ (1954-1975): Sau khi Pháp rút khỏi Việt Nam, Đảng
Cộng sản Việt Nam tiếp tục đối mặt với cuộc chiến tranh chống Mỹ. Trong giai
đoạn này, Đảng chủ trương chủ nghĩa Mác-Lênin được kết hợp với lý tưởng quốc
gia dân tộc, hướng tới mục tiêu giành độc lập, tự do và thống nhất cho cả miền Bắc
và miền Nam Việt Nam.

Thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế (từ 1986): Sau khi chiến tranh kết thúc,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã áp dụng chính sách đổi mới kinh tế và mở cửa với thế
giới. Trong giai đoạn này, Đảng tập trung vào việc phát triển kinh tế, nâng cao đời
sống nhân dân, và hội nhập quốc tế, trong khi vẫn duy trì sự lãnh đạo của Đảng và
chủ nghĩa cộng sản.

Giai đoạn hiện nay (từ năm 2000 đến nay): Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp
tục duy trì vai trò lãnh đạo trong xã hội và chính trị Việt Nam. Trong giai đoạn này,
Đảng đang đối mặt với nhiều thách thức mới, bao gồm việc duy trì sự ổn định
chính trị, phát triển kinh tế bền vững, và đáp ứng các yêu cầu của cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0.
ÐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ÐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

II. Các nguy cơ và mối đe dọa đối với nền tảng tư tưởng của Đảng từ các
quan điểm sai trái và thù địch.

1. Xác định những quan điểm sai trái và thù địch đang tồn tại và phát triển
trong xã hội

Một là, chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng. Nền tảng tư tưởng của Đảng
ta là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Nền tảng tư tưởng đúng đắn
đó là kim chỉ nam dẫn dắt dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Thế nhưng, cố tình phủ nhận tính cách mạng, khoa học của chủ
nghĩa Mác-Lênin, các thế lực thù địch rêu rao quan điểm cho rằng: “Chủ nghĩa
Mác-Lênin đã lỗi thời, chủ nghĩa xã hội khoa học không có sức sống”, là “bóng ma
ám ảnh châu u”, những thất bại của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là do
“những chính sách Mác-Lênin bắt nguồn từ một nhận thức sai về lịch sử và về bản
chất con người” Đối với tư tưởng Hồ Chí Minh, các thế lực thù địch, phản động đã
nêu các quan điểm có tính chất xuyên tạc, bóp méo, thậm chí vu cáo, dựng chuyện,
nhằm bôi nhọ đời tư, hạ thấp uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chúng thường
xuyên bịa đặt những luận điệu như: “Nhật ký trong tù không phải của Hồ Chí
Minh”, “Hồ Chí Minh bắt đầu nảy ra tư tưởng cứu nước kể từ khi Pháp bác đơn
cho theo học trường thuộc địa”, rằng Đảng Cộng sản Việt Nam “sáng tác ra tư
tưởng Hồ Chí Minh để giúp Đảng chỉnh hướng trong cơn bối rối”,…

Hai là, chống phá Cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng. Các thế lực thù
địch, phản động cố tình phủ nhận tính đúng đắn của Cương lĩnh, đường lối chính trị
của Đảng ta, phủ nhận những thành quả cách mạng của nhân dân ta, đồng thời cổ
xúy, tán dương chủ nghĩa tư bản, dân chủ tư sản, yêu cầu phải thực hiện tư nhân
hóa hoàn toàn theo kiểu tư bản, thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập… và
cho rằng nếu không thực hiện như thế, có nghĩa là Đảng Cộng sản Việt Nam đang
“bảo thủ, giáo điều, cứng nhắc, lỗi thời”. Thực chất, việc chống phá Cương lĩnh,
ÐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ÐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

đường lối chính trị của Đảng là nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo và cầm quyền của
Đảng Cộng sản Việt Nam, tiến tới thiết lập chế độ đa đảng.

Ba là, chống phá tổ chức của Đảng. Các thế lực thù địch, phản động tập
trung chống phá các nguyên tắc xây dựng Đảng, đặc biệt là nguyên tắc “tập trung
dân chủ”. Chúng thường rêu rao luận điệu: “Thực hiện tập trung dân chủ sẽ dẫn đến
mất dân chủ trong Đảng, làm cho Đảng rơi vào độc đoán, chuyên quyền” và tích
cực tuyên truyền, khuyến khích thực hiện “dân chủ tuyệt đối”, “dân chủ phi chính
trị”. Họ còn ra sức cổ vũ cho cái gọi là “bất đồng chính kiến” hòng tạo những mâu
thuẫn, chia rẽ trong nội bộ Đảng. Họ tích cực o bế những phần tử bất mãn, cơ hội
chính trị, nhằm dựng nên “những ngọn cờ” chống phá Đảng, Nhà nước ta. “Họ đối
lập những người lãnh đạo Đảng với đông đảo đảng viên, chia rẽ lớp đảng viên này
với lớp đảng viên khác, mưu toan gây ra mâu thuẫn nội bộ”

Bốn là, chống phá mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân. Các thế lực thù địch,
phản động luôn tìm mọi cách để chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân.
Chúng tuyên truyền, kích động, chuyển hóa những xung đột xã hội thành mâu
thuẫn giữa chính quyền, lực lượng vũ trang với nhân dân. Chúng cố tình khoét sâu
những khuyết điểm, sai phạm của một số cán bộ, đảng viên; thổi phồng, quy chụp,
làm phức tạp hóa, chính trị hóa những khuyết điểm, sai phạm; lợi dụng các phần tử
bất mãn, phản động đội lốt tôn giáo, dân tộc để kích động đồng bào tư tưởng kỳ thị,
hiềm khích, ích kỷ, hẹp hòi, cái gọi là “hận thù dân tộc”, nhằm gây bất ổn trong
nhân dân, âm mưu bạo động lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa của chúng ta từ bên
trong.

Năm là, chống phá những thành tựu xây dựng, phát triển đất nước ta dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Việt Nam đang vững bước tiến lên trên con đường xây dựng xã
hội “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” với nhiều thành tựu đạt
được trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Do quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ÐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ÐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

chưa có tiền lệ trong lịch sử, nên không tránh khỏi những sai lầm, khuyết điểm.
Đảng ta nghiêm túc, thẳng thắn nhìn nhận, đúc rút kinh nghiệm, bài học để lãnh
đạo công cuộc đổi mới ngày càng phù hợp với các quy luật phát triển khách quan
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thế nhưng, các thế lực thù địch, phản
động cố tình khoét sâu, thổi phồng những sai lầm, phủ định những thành tựu chúng
ta đạt được hòng phủ nhận vai trò lãnh đạo, đường lối chính trị của Đảng ta.

2. Những thách thức của Đảng trước những quan điểm sai trái và thù địch

Xuyên suốt những năm vừa qua, việc đấu tranh chống lại những tàn dư của
các quan điểm sai trái, thù địch, nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đã đạt
nhiều thành tựu nổi bật, góp phần giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng, vừa ngăn
chặn và đẩy lùi các âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, giữ vững an ninh
chính trị, trật tự, an toàn xã hội, củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối
với Đảng, Nhà nước. Đặc biệt, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Bộ
Chính trị và Ban Bí thư, sự hướng dẫn tận tình của các cơ quan chức năng, sự quản
lý, điều hành của các cấp ủy đảng, những vị lãnh đạo các cơ quan, địa phương, đơn
vị..., hầu hết cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang, các tầng lớp nhân dân đều đã có
nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, luôn kiên
định một lòng với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đặt niềm tin tưởng
vào vào Cương lĩnh, đường lối, các chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật
của Nhà nước. Trận địa tư tưởng chính trị nhờ đó mà được giữ vững, khẳng định
địa vị chủ đạo của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong đời sống
chính trị - tinh thần ở Việt Nam.

Quan trọng hơn hết, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam cũng đang ngày một được hoàn thiện
và từng bước được hiện thực hóa. Song, cần nhận thức sâu sắc rằng,mục tiêu chúng
ta đang kiên định đang và sẽ tiếp tục trải qua vô vàn chông gai, thử thách. Tại Đại
ÐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ÐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

hội XIII, Đảng ta đã thẳng thắn chỉ ra một trong những thách thức mà chúng ta phải
đối mặt và giải quyết, đó là: “Tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ
cũng như những mâu thuẫn xã hội còn diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch
tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và đất nước ta”(1). Không những
thế, nạn lợi dụng sự tiến bộ của công nghệ thông tin, truyền thông trong bối cảnh
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và nhiều biến động phức tạp của tình hình
thế giới, các thế lực thù địch đang ngày càng ráo riết đẩy mạnh chống phá trên mọi
mặt trận, trọng tâm là chĩa mũi nhọn tấn công chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng bằng hàng loạt âm mưu, thủ đoạn hết sức
tinh vi, thâm độc như sau:

Về đối tượng, các đối tượng chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta có đặc
điểm vô cùng đa dạng, phức tạp. Ta có thể phân chia thành ba nhóm chính: (i) Một
bộ phận những người có năng khiếu ở lĩnh vực nghiên cứu lý luận, bài xích tư
tưởng xã hội chủ nghĩa trong cuộc đấu tranh ý thức hệ giữa chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa tư bản; (ii) Lực lượng phản động, tàn dư của chế độ ngụy quyền trước đây
đang sinh sống, lưu vong ở nước ngoài hiện nay kết hợp với một số đối tượng
chống đối, bất mãn ở trong nước. Nhóm này có số lượng đông đảo, manh động và
chống phá trực tiếp, quyết liệt với mục đích cuối cùng là phá hoại công cuộc đổi
mới và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta; (iii) Một bộ phận cán bộ,
đảng viên bất mãn, cơ hội, suy thoái về tư tưởng, suy đồi về đạo đức, lối sống, “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Về phương thức, thủ đoạn, trong bối cảnh mới hiện nay, các thế lực thù địch,
phản động, cơ hội chính trị thường tập trung hành động: phủ nhận, xuyên tạc vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như giá trị khoa học, thời đại, cách
mạng, nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; chống phá,
xuyên tạc quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
ÐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ÐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

Nhà nước trên bất kỳ lĩnh vực nào, đặc biệt nhấn mạnh vào những vấn đề nhạy
cảm, như dân tộc, tôn giáo, nhân quyền, biển, đảo; lợi dụng lỗ hổng về sự hạn chế,
yếu kém trong quản lý xã hội, sơ hở, thiếu sót trong quản lý, điều hành đất nước
hoặc những vấn đề bức xúc, khiếu kiện kéo dài chưa được giải quyết để lôi kéo,
kích động người dân tham gia các hoạt động biểu tình, gây mất an ninh, trật tự, an
toàn xã hội;...

Về phương tiện, với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư, các thế lực thù địch triệt để tận dụng các công cụ truyền thông, báo chí,
không gian mạng để đẩy mạnh hoạt động chống phá về tư tưởng. Chúng tăng
cường thực hiện nhiều chiêu thức khác nhau, như xuất bản tài liệu, ấn phẩm sách
báo, tạp chí, tập san, tờ rơi...; thành lập trang web, blog, các kênh phát thanh truyền
hình có chương trình tiếng Việt; tổ chức hội thảo, tọa đàm, hội thi... thậm chí núp
bóng danh nghĩa yêu nước, bảo vệ dân chủ, nhân quyền, vì dân tộc, vì đất nước,
thúc đẩy hình thành các hội, nhóm, tổ chức chống phá Đảng, Nhà nước. Đặc biệt,
lợi dụng quá trình “chuyển đổi số”, các thế lực thù địch đã số hóa các dữ liệu không
có thật, xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ Đảng, lãnh đạo Đảng và Nhà nước...; thiết lập cơ
sở dữ liệu, sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI), internet kết nối vạn vật, dữ liệu
lớn (Big Data)... để tạo ra các dữ liệu, tài liệu giả nhằm chống phá Đảng và Nhà
nước ta.

III. Đề xuất giải pháp đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch

1. Ý nghĩa của việc bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng và đấu tranh phản bác các
quan điểm sai trái, thù địch

Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời mùa Xuân năm 1930 được xem là
một dấu mốc lịch sử trọng đại, một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình lịch sử
cách mạng Việt Nam, đánh dấu mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân
tộc. Đến nay, suốt 94 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, 38 năm tiến hành công
ÐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ÐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

cuộc đổi mới, 33 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã luôn phải đối mặt với nhiều âm mưu, thủ đoạn
chống phá, công kích của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị.
Không từ một thủ đoạn nào, bọn chúng ra sức gây nhiễu, tạo khoảng trống ý thức
hệ trong cán bộ, đảng viên, kích động, thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” hòng làm lung lạc niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Năm 1927, từ khi Đảng chưa ra đời, trong tác phẩm Đường Cách mệnh, lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã khẳng định phải “giữ chủ nghĩa cho
vững”(2), “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt”(3) và chủ nghĩa chân
chính, cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Tháng 10-1930, trong Nghị
quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, Đảng ta chỉ rõ: “Giải thích cho công
nhân mục đích và đường lối của Đảng Cộng sản trong các vấn đề liên quan đến
cuộc sống của công nhân và thái độ đối với các sự kiện lớn diễn ra trong nước.
Giải thích cho họ rằng, Đảng Cộng sản là Đảng của họ, vì vậy họ cần phải bảo vệ
Đảng”(4). Đến năm 1960, tại Đại hội III, trong Báo cáo về việc sửa đổi Điều lệ
Đảng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam nhấn mạnh: “Bất cứ
trong tình hình nào, nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi đảng viên là phải bảo vệ Đảng,
bảo vệ vai trò lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện của Đảng, tỉnh táo đề phòng và kiên
quyết đấu tranh chống mọi mưu đồ đả kích hoặc làm suy yếu sự lãnh đạo của
Đảng bất kỳ trên lĩnh vực nào, và núp dưới hình thức nào”(5). Như vậy, từ khi
thành lập đến nay, Đảng ta luôn nhất quán: “Bảo vệ Đảng là công tác thường
xuyên, luôn luôn gắn chặt với các mặt công tác xây dựng đảng trong mọi giai đoạn
cách mạng, để bảo đảm cho tổ chức của Đảng được trong sạch và vững mạnh”(6).

Thời gian gần đây, sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW,
ngày 22-10-2018, về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh
phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”, công tác này được
ÐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ÐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

triển khai ngày càng bài bản, thống nhất, đồng bộ, toàn diện, quyết liệt , đi vào
chiều sâu. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nêu rõ:
“Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu
tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị; đấu tranh, ngăn
chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”(7). Đáng chú ý, năm 2022, cuốn
sách Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhận được sự
đánh giá cao, hưởng ứng tích cực của các nhà nghiên cứu, nhà khoa học, các tầng
lớp nhân dân trong nước cũng như bạn bè, các chính đảng, chính trị gia và dư luận
quốc tế. Cuốn sách trở thành tài liệu hết sức giá trị, phục vụ việc học tập, giáo dục
lý luận chính trị, nâng cao nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân.

2. Các giải pháp đấu tranh trước những quan điểm sai trái, thù địch

Việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và chống lại các quan điểm sai lệch,
thù địch là một nhiệm vụ quan trọng và bền bỉ của cả hệ thống chính trị và toàn bộ
cộng đồng. Trong thời gian sắp tới, để đảm bảo hiệu quả tối đa, chúng ta cần phải
mạnh dạn hoàn thiện, bổ sung và đổi mới các phương thức bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng và đấu tranh chống lại các quan điểm sai lầm, thù địch bằng một số
giải pháp sau đây:

Một là, biện pháp là tăng cường sự lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng và chính
quyền từ Trung ương đến cơ sở. Chúng ta cần huy động sức mạnh tổng hợp của cả
hệ thống chính trị để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và đấu tranh chống lại các
quan điểm sai lệch, thù địch. Cấp ủy, chính quyền ở mọi cấp bậc và đội ngũ cán bộ
chủ chốt phải nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như
chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Họ cần
ÐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ÐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

nhận biết rõ các quan điểm sai lầm, thù địch để có chủ trương và biện pháp lãnh
đạo, chỉ đạo phù hợp với tình hình thực tế. Cần phát huy vai trò quan trọng của cấp
ủy, chính quyền ở mọi cấp bậc và sự phối hợp của các đơn vị, địa phương. Đồng
thời, cần xác định rõ ràng rằng việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và phản bác
các quan điểm sai lầm, thù địch không chỉ là trách nhiệm của bộ phận chuyên môn
mà còn là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn dân. Ban Chỉ đạo 35 cần phát
triển và ban hành "Chiến lược quốc gia về công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng và đấu tranh chống lại các quan điểm sai lầm, thù địch".

Hai là, xây dựng một Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, và không khoan
nhượng trong cuộc đấu tranh với mọi biểu hiện của sự suy thoái, "tự diễn biến", "tự
chuyển hóa", tham nhũng và tiêu cực. Đảng phải tự cường, thực sự trong sạch và
vững mạnh trên tất cả các mặt, bao gồm cả chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và
cán bộ, để có khả năng tự bảo vệ mình. Vì vậy, cần phải kết hợp mật thiết giữa
"xây và chống" trong quá trình xây dựng và thực hiện đạo đức cách mạng. Chúng
ta cần thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc xây dựng và cải thiện Đảng, tránh xa việc triển
khai theo kiểu hình thức mà không có nội dung thực sự.

Ba là, thực hiện công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và đấu tranh
chống lại các quan điểm sai lầm, thù địch thông qua nhiều hình thức đa dạng, thiết
thực và hiệu quả. Công việc này không thể được thực hiện bằng cách áp đặt từ trên
xuống bằng mệnh lệnh hành chính, mà phải dựa trên sự tự giác và trách nhiệm của
mỗi cán bộ, đảng viên và người dân. Thông tin phản bác phải được phân tích và
luận giải một cách có lý lẽ, dựa trên cơ sở thực tế khách quan và tăng cường sức
thuyết phục. Đồng thời, chúng ta cần nắm vững trình độ, nhu cầu, nguyện vọng và
tâm lý của từng nhóm đối tượng để áp dụng phương thức phù hợp. Cụ thể: (i) Sử
dụng “người thật, việc thật” đấu tranh với các quan điểm phản động, sai trái, thù
địch; cùng với lấy phẩm chất, đạo đức, hành động đúng đắn, gương mẫu của đội
ngũ cán bộ, đảng viên phản bác lại luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ, vu khống...; (ii)
ÐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ÐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

Phân biệt “phản động” với “yêu nước” thông qua nhận thức, tư duy, hành động của
từng cán bộ, đảng viên và nhân dân trên cơ sở xây dựng “tư duy mở” về “phản
biện”, “trái chiều”, nhưng mang tính tích cực, theo đó chấp nhận tư duy phản biện,
đối lập tích cực, không được nâng quan điểm hoặc chụp mũ, đồng thời cần nhận
thức và xác định lại chính xác “nội dung tích cực, thể hiện lòng yêu nước”, tránh
thực hiện phương thức đấu tranh không phù hợp, dễ bị thế lực thù địch lợi dụng,
xuyên tạc trở thành tiêu cực, “tự diễn biến, tự suy thoái”, có thể biến chuyển thành
phản động; (iii) Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng bằng việc nhận thức và áp
dụng đúng đắn “nguyên tắc tập trung dân chủ” trong thực tiễn, tránh việc lợi dụng
nguyên tắc này để áp dụng theo kiểu độc quyền, tập trung, nhưng không dân chủ.

Bốn là, chú trọng và nâng cao hiệu quả xây dựng "thế trận lòng dân" để bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và đấu tranh chống lại các quan điểm sai lầm, thù đị
ch trong bối cảnh mới. Để thực hiện phương thức này hiệu quả, chúng ta cần tiến
hành đồng thời các nhiệm vụ sau: Quán triệt và rõ ràng về vai trò chủ thể của nhân
dân, định vị họ ở vị trí trung tâm trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đảng
cần tiếp tục chăm sóc, cải thiện không ngừng đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân. Chúng ta cũng cần tăng cường công tác dân vận, phổ biến thông tin và
tuyên truyền để nhân dân tin tưởng, hiểu biết và tự hào với lối sống và chủ trương
của Đảng, cũng như chính sách và pháp luật của Nhà nước.

Năm là, xây dựng phương thức "giá trị pháp lý - chuẩn mực cao nhất" làm cơ
sở cho việc đấu tranh và phản bác các quan điểm sai lầm, thù địch, xuyên tạc và bôi
nhọ. Để đạt được hiệu quả cao nhất, chúng ta cần thực hiện các biện pháp sau: Đảm
bảo rằng các văn bản của Đảng phải tuân thủ tinh thần của Hiến pháp và pháp luật,
không được vượt ra ngoài phạm vi của pháp luật. Đảng và các đảng viên cần hoạt
động trong khung pháp luật và Hiến pháp. Chúng ta cần thiết lập một hệ thống thể
chế mạnh mẽ, đồng nhất và tuân thủ đúng tinh thần, nội dung và cách thức từ các
văn bản của Đảng để chuyển đổi chúng thành văn bản của Nhà nước. Dựa trên nền
ÐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ÐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

tảng này, chúng ta có thể tiến hành công việc tuyên truyền và giáo dục, cũng như
áp dụng và xử lý theo quy định của Đảng và Nhà nước.

3. Những thành tựu của Đảng đã đạt được trước công cuộc đấu tranh phản
bác các quan điểm sai trái, thù địch

Trong thời gian gần đây, nhờ sự lãnh đạo sáng suốt và đúng đắn của Đảng,
cùng với sự chỉ đạo quyết liệt và kịp thời của Chính phủ, chúng ta đã vượt qua
được những khó khăn lớn do dịch bệnh, thiên tai, bão lụt, và hạn hán gây ra. Điều
này là minh chứng sống động cho tính ưu việt của chế độ, cũng như truyền thống
đoàn kết, yêu nước, lòng nhân ái và ý chí kiên cường của nhân dân ta. Trước những
thách thức, truyền thống và ý chí này càng được nâng cao và lan tỏa rộng rãi, tạo ra
một nguồn lực và động lực to lớn, không thể chống đỡ được bởi bất kỳ thế lực nào.
Điều này giúp xây dựng một Đảng ngày càng mạnh mẽ, đưa đất nước tiến lên, và
phát triển dân tộc mạnh mẽ và bền vững. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng
định: “Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử là kết tinh sức sáng tạo của
Đảng và nhân dân ta, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là
phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; khẳng định sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách
mạng Việt Nam”(7). Trong đó, phải kể đến công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch được Đảng ta đặc biệt
quan tâm, đạt nhiều kết quả tích cực. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, chất lượng lãnh đạo của cấp ủy và tổ chức Đảng trong việc đấu
tranh phản bác các quan điểm sai lầm và thù địch đã được nâng cao đáng kể. Nhờ
đó, cán bộ, đảng viên và nhân dân đã nhận thức chính xác hơn về sách lược của
Đảng và pháp luật của Nhà nước. Chúng ta đã quán triệt rõ ràng rằng công tác bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị từ Trung
ương đến địa phương, và đồng thời là trách nhiệm của toàn bộ nhân dân nhằm đảm
ÐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ÐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

bảo sự hiệu quả trong việc đấu tranh với các quan điểm sai lầm và thù địch, góp
phần tạo nên sức mạnh tổng thể của hệ thống chính trị, kết hợp với sức mạnh của
nhân dân.Chúng ta đã nắm vững và hiểu rõ hơn về tính nguy hiểm và tác động tiêu
cực của những quan điểm sai lầm và thù địch đối với an ninh, trật tự và an toàn xã
hội. Bằng cách nhận diện rõ các quan điểm sai lầm và thù địch này, chúng ta đã có
chủ trương và biện pháp chỉ đạo phù hợp để đối phó. Điều này bao gồm khả năng
phân biệt sự khác biệt giữa quan điểm sai lầm và thù địch với những ý kiến phê
bình có tính xây dựng, thiếu hoặc không đúng, nhưng không phải là mối đe dọa đối
với nền tảng tư tưởng của Đảng.

Thứ hai, để đảm bảo hiệu quả trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
và đấu tranh chống lại các quan điểm sai lầm và thù địch, chúng ta đã sử dụng đa
dạng các giải pháp. Chúng ta đã áp dụng giá trị thực tiễn như một phương thức chủ
yếu trong việc đấu tranh, nhưng luôn đảm bảo tính khách quan và sức thuyết phục.
Đồng thời, chúng ta cũng đã sử dụng các biện pháp đấu tranh mềm dẻo, nhưng vẫn
cương quyết và tuân thủ nguyên tắc dân chủ. Công tác đấu tranh đã được hướng
đến việc sử dụng các phương tiện khoa học và kỹ thuật để nhận diện, đấu tranh và
xử lý kịp thời thông tin giả mạo, xuyên tạc và các nội dung phá hoại, luận điểm sai
lầm. Đồng thời, việc sử dụng hiệu quả các công cụ pháp lý để đảm bảo tính tuân
thủ, công bằng và khách quan trước pháp luật đã được thực hiện, và chúng ta đã
xây dựng một hệ thống nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nhằm hỗ trợ việc
đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Thứ ba, Đảng ta đã sử dụng các phương thức, giải pháp có tính bản lề, kết
hợp “xây” và “chống”. Phương thức này bảo đảm các giá trị về tạo lập tinh thần
cách mạng, có sự kết hợp với đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.
Trong đó, “xây” là chín h và “chống” là quan trọng, cấp bách, đã được quan tâm,
thường xuyên triển khai thực hiện. Xác định rõ trọng tâm, cốt lõi về mặt bản chất,
Đảng ta đã trưởng thành từ nhân dân và “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật
ÐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ÐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách
nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”(8). Chính vì vậy, bằng
nhiều phương thức và hình thức khác nhau, Đảng ta đã xây dựng được niềm tin của
nhân dân theo tinh thần “Dân tin thì Đảng còn và ngược lại”. Quán triệt quan điểm
lấy dân làm gốc, xây dựng và củng cố vững chắc “thế trận lòng dân”, Đảng ta đã
dựa vào nhân dân, thông qua sự ủng hộ, bằng sức mạnh của nhân dân để hình thành
tổ chức và lực lượng bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các
quan điểm sai trái, thù địch. Thông qua các diễn đàn, phương tiện truyền thông,
người dân thẳng thắn bày tỏ quan điểm, tinh thần yêu nước, ủng hộ Đảng và chế
độ. Trên các phương tiện truyền thông xã hội thời gian qua, nhiều tài khoản đã
tham gia tích cực vào công tác này, như nhóm “Đấu tranh chống luận điệu xuyên
tạc” với 91.468 thành viên; trang “Chống luận điệu xuyên tạc” có 44.000 người
thích, 48.000 người theo dõi; trang “Tiếng nói thế hệ trẻ” có 14.392 người thích,
15.224 người theo dõi; trang “Thông tin chống phản động” có 149.000 người thích,
190.000 người theo dõi; trang “Chống phản động” có 189.349 người thích, 229.136
người theo dõi(9)...

Thứ tư, để đảm bảo hiệu quả tối đa trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng và đấu tranh chống lại các quan điểm sai lầm và thù địch, chúng ta đã kết
hợp đồng thời nhiều phương thức và giải pháp khác nhau. Đầu tiên, chúng ta đã áp
dụng các biện pháp đấu tranh và phản bác kết hợp với việc nêu gương. Bằng cách
này, chúng ta không chỉ chỉ ra những sai lầm và thù địch mà còn tạo ra những mô
hình tích cực, góp phần thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ của xã hội. Thứ hai, chúng
ta đã tích cực thực hiện công tác tuyên truyền và phổ biến thông tin kết hợp với
việc giáo dục ý thức cách mạng và chủ nghĩa yêu nước. Bằng cách này, chúng ta đã
giúp nâng cao nhận thức và ý thức của nhân dân về vai trò quan trọng của nền tảng
tư tưởng Đảng và đồng thời khuyến khích sự tích cực tham gia vào việc bảo vệ và
phát triển Đảng và đất nước. Thứ ba, chúng ta đã sử dụng các biện pháp đấu tranh
ÐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ÐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

và phản biện kết hợp với việc sử dụng chứng minh, đối chứng và so sánh. Bằng
cách này, chúng ta đã đưa ra những bằng chứng rõ ràng và có giá trị, từ đó giúp
người dân hiểu rõ hơn về sự đúng đắn của các quan điểm và chính sách của Đảng.
Cuối cùng, chúng ta đã áp dụng các biện pháp đấu tranh và phản biện kết hợp với
việc sử dụng các biện pháp mạnh. Bằng cách này, chúng ta đã đảm bảo rằng không
có vùng cấm trong việc xử lý các vấn đề, và không chấp nhận bất kỳ lợi ích cục bộ
nào, từ đó tạo ra sự công bằng và minh bạch trong việc giải quyết các tranh chấp và
mâu thuẫn. Đồng thời, chúng ta cũng đã chủ động phát hiện và ngăn chặn các hành
vi trục lợi chính sách, từ đó bảo vệ và tôn vinh giá trị và nguyên tắc của Đảng và
nhân dân.

PHẦN III: KẾT LUẬN

Sau khi áp dụng những biện pháp thì đạt những thành tựu đáng ghi nhận.
Tuy nhiên, Đảng ta vẫn nên thẳng thắn nhìn nhận những hạn chế, bất cập mà Đảng
vẫn đang gặp phải.

Thời gian qua, nhận thức về vai trò, tầm quan trọng, tính tiên phong, gương
mẫu của đảng viên, tổ chức đảng và một số vấn đề khác trong công tác bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng chưa sâu sắc. Công tác tuyên truyền chưa thường xuyên
nên một bộ phận cán bộ, đảng viên lơ là, thiếu trách nhiệm, chưa thật sự coi trọng
việc thực hiện nhiệm vụ được giao gắn với bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu
tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Một bộ phận cán bộ, đảng viên còn
đùn đẩy, sợ trách nhiệm, lợi dụng kẽ hở để tư lợi, vi phạm quy định của Đảng và
Nhà nước; “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” theo kiểu “tha hóa trong bí mật”, tác
động xấu bằng hành vi tham nhũng, trục lợi chính sách.

Một số phương thức, giải pháp chưa thực sự hiệu quả, còn nặng tính hàn lâm,
kinh điển, khi triển khai còn mang tính rập khuôn, máy móc, hiệu quả chưa cao,
chưa phù hợp với thực tiễn của từng ngành, lĩnh vực, địa phương. Phương thức
ÐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ÐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

tuyên truyền, đấu tranh trực diện trên các phương tiện thông tin đại chúng chưa kịp
thời, thậm chí phản ứng chậm với hành vi tiêu cực, xuyên tạc; một số giải pháp
thiếu tính cụ thể, chưa phản ánh những vấn đề thực tiễn bằng trực quan sinh động,
chưa kịp thời phản biện, đấu tranh bằng tấm gương người thật, việc thật; các minh
chứng về xây dựng và chỉnh đốn Đảng đôi khi chưa được cập nhật và phản ánh kịp
thời nên tạo ra nhiều luồng dư luận, nhiều cách hiểu trái chiều khiến các thế lực thù
địch có cơ hội xuyên tạc, bóp méo sự thật. Việc thể chế hóa đường lối, chủ trương
của Đảng thành pháp luật của Nhà nước ở một số khâu, trong một số trường hợp
còn chậm và cách thức triển khai chưa phù hợp.

Việc xây dựng “thế trận lòng dân” trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch chưa đạt hiệu quả
như kỳ vọng. Vấn đề niềm tin của nhân dân đối với Đảng được xem là giá trị cốt
lõi, quan trọng bậc nhất. Tuy nhiên, trên thực tiễn, một số nội dung, phương thức,
giải pháp để “gieo niềm tin” từ nhân dân chưa đạt hiệu quả như mong muốn, như
nêu gương trong đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch chưa thật sự
nổi bật, chưa đủ sức lan tỏa để quần chúng “nghe, nói, tin và làm theo”; sự phối
hợp của một số cơ quan, đơn vị, cá nhân trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng,
đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch còn lỏng lẻo và thiếu hiệu quả.
Trên cơ sở chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương, các cơ quan, đơn vị, địa
phương đã thành lập Ban Chỉ đạo 35 và có sự phối hợp tương đối tốt; tuy nhiên, sự
phối hợp này mới chỉ trong phạm vi hẹp, chưa có cơ chế ràng buộc rõ ràng nên
hiệu quả phối hợp chưa cao.

Chưa phát huy được giá trị lịch sử của cha ông về bài học kinh nghiệm trong
công tác tổ chức cán bộ. Việc nghiên cứu, học tập kinh nghiệm nước ngoài trong
triển khai nhiệm vụ rất đáng khích lệ, song bên cạnh đó cũng cần nghiên cứu, tìm
hiểu các giá trị được đúc kết từ truyền thống lịch sử dân tộc; từ đó, vận dụng linh
hoạt, chọn lọc các phương thức, phù hợp với điều kiện và bối cảnh trong nước để
ÐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ÐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

việc triển khai đạt hiệu quả cao hơn.

Công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan
điểm sai lầm và thù địch không chỉ là trách nhiệm của một phần nhỏ trong hệ thống
chính trị, mà là nhiệm vụ quan trọng và lâu dài của cả Đảng và toàn bộ nhân dân.
Trong những thời điểm thách thức và biến động, việc giữ vững và phát triển tư
tưởng cơ bản, đồng thời chống lại những ý kiến phản đối và thù địch là yếu tố
quyết định đến sức mạnh và ổn định của xã hội. Để thực hiện nhiệm vụ này một
cách hiệu quả nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam cần phải tự tin và mạnh mẽ trong
việc hoàn thiện, bổ sung và đổi mới phương thức bảo vệ nền tảng tư tưởng của
mình. Chúng ta cần áp dụng những giải pháp sáng tạo và linh hoạt, đồng thời tích
hợp các phương tiện và công cụ hiện đại để đối phó với các thách thức ngày càng
phức tạp. Cụ thể, chúng ta có thể kết hợp nhiều phương thức như đấu tranh trực
tiếp, phản bác trực tiếp các quan điểm sai lầm và thù địch, kết hợp với việc tuyên
truyền, giáo dục ý thức cách mạng và chủ nghĩa yêu nước. Đồng thời, chúng ta
cũng cần sử dụng các biện pháp mạnh mẽ và khoa học như sử dụng chứng minh và
đối chứng để làm rõ sự đúng đắn và giá trị của tư tưởng của Đảng. Ngoài ra, việc
tạo ra một môi trường thông tin lành mạnh và minh bạch, kèm theo việc áp dụng
các biện pháp pháp lý chặt chẽ cũng là một phần quan trọng của công tác bảo vệ
nền tảng tư tưởng của Đảng. Chúng ta cần tạo điều kiện cho sự thảo luận công bằng
và tự do, đồng thời đảm bảo rằng các quy định và nguyên tắc pháp luật được thực
thi một cách công bằng và minh bạch. Cuối cùng, việc hoàn thiện và đổi mới
phương thức bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là vô cùng quan trọng để đảm bảo
sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước. Chúng ta cần tiếp tục nâng cao
nhận thức và sự sẵn sàng đối mặt với các thách thức mới, cũng như áp dụng những
biện pháp hiệu quả và phù hợp nhất để bảo vệ và phát triển lịch sử, truyền thống và
tư tưởng của Đảng.
ÐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ÐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tiến sĩ Phan Hải Hồ, 16/02/2024, Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh
phản bác quan điểm sai trái, thù địch trong bối cảnh mới, Tạp chí cộng sản,
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/dau-tranh-phan-bac-cac-luan-dieu-
sai-trai-thu-dich/chi-tiet/-/asset_publisher/YqSB2JpnYto9/content/bao-ve-nen-
tang-tu-tuong-cua-dang-dau-tranh-phan-bac-cac-quan-diem-sai-trai-thu-dich-
trong-boi-canh-moi
2. PGS, TS. Trương Thị Thông, “Tư tưởng Hồ Chí Minh - Nền tảng tư tưởng và
kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam”, truy cập ngày
16/05/2024, xem tại: https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-
lenin-ho-chi-minh/ho-chi-minh/nghien-cuu-hoc-tap-tu-tuong/tu-tuong-ho-chi-
minh-nen-tang-tu-tuong-va-kim-chi-nam-cho-moi-hanh-dong-cua-dang-cong-
san-viet-nam-2553;

3. Phan Trọng Hào, 10/04/2023, “Nhận dạng các quan điểm sai trái, thù địch
chống phá Đảng, Nhà nước ta hiện nay”, truy cập ngày: 17/05/2024, xem tại:
https://philosophy.vass.gov.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/NHAN-
DANG-CAC-QUAN-DIEM-SAI-TRAI-THU-DICH-CHONG-PHA-NEN-
TANG-TU-TUONG-QUA N-DIEM-DUONG-LOI-CUA-DANG-NHA-NUOC-
TA-HIEN-NAY-8.0

4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

5. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.

6. Chú thích:

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự
thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 183, 108
ÐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ÐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

(2), (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 2,
tr. 280, 289

(4) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, t. 2, tr.
181

(5) Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 21, tr. 710 - 711

(6) Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, 2005, t. 38, tr. 45

(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 104

(8) Khoản 2, Điều 4, Hiến pháp năm 2013

(9) Phạm Văn Giang: “Xây dựng thế trận lòng dân trong đấu tranh ngăn chặn các
quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”, Tạp chí Phát triển nhân lực, 2022
- số 1 (07), tr. 7

You might also like