Professional Documents
Culture Documents
4. Các chất độc hữu cơ
4. Các chất độc hữu cơ
CHƯƠNG IV
CÁC CHẤT ĐỘC HỮU CƠ
Mục tiêu: Trình bày được
1. Nguyên nhân gây ngộ độc, độc tính và cơ chế gây độc của một số hợp chất hữu cơ dễ bay
hơi (cyanogen, ethanol, methanol, benzen…), dược chất và dược liệu có độc tính cao
(barbiturat, lá ngón, strychnin và mã tiền, nicotin và thuốc lá…) và một số độc tố thường gặp
trong thực phẩm (aflatoxin, cá nóc & tetrodotoxin ...).
2. Triệu chứng ngộ độc, cách xử trí ngộ độc và các biện pháp đề phòng nhiễm độc các hợp
chất hữu cơ kể trên.
3. Nguyên tắc của những phương pháp có thể phân tích các chất độc đã nêu trên.
- Khác với các chất độc vô cơ, các chất độc hữu cơ:
+ rất đa dạng về cấu trúc.
+ Tác động của chúng trên sinh vật và cơ thể người cũng rất khác nhau.
+ Nguồn gốc có thể: có sẵn trong tự nhiên, được tổng hợp hay bán tổng hợp.
- Có rất nhiều chất độc hữu cơ là các dược chất:
+ Có tác dụng dược lý.
+ Nhưng dễ gây ngộ độc nếu sử dụng không đúng.
+ Hoặc do liều tác dụng và liều độc quá gần nhau.
- Một số chất độc hữu cơ thường gặp tạm được chia thành các nhóm như sau:
+ Một số chất độc hữu cơ dễ bay hơi (hoặc dạng khí ở nhiệt độ thường).
+ Một số dược chất và dược liệu có độc tính cao phân lập bằng chiết ở môi trường acid hay ở
môi trường kiềm.
+ Một số độc tố thường gặp trong thực phẩm.
- Ma túy và HCBVTV đa số cũng là các chất độc hữu cơ được giới thiệu riêng.
+ Nung các base nitơ với carbonat kiềm cũng cho cyanid (cũng là phản ứng phát hiện nitơ
trong mẫu thử).
- Trong tự nhiên: một số cây chứa các cyanogen: Hạnh nhân đắng, nhân quả Mận đào, lá Anh
đào, Sắn củ, Măng tre nứa, Nấm, 1 số bộ phận của đậu ngự Phaseolus lunatus...
- Các dẫn xuất cyanogen này thường là glycosid được chia thành 2 nhóm chính: (có tạo ra
C6H5CHO khi thủy phân hay không).
- Nhóm hạnh nhân đắng (có).
- Nhóm đậu và sắn độc (không).
- Trong CTTG II, HCN được dùng làm vũ khí hoá học (Zyklon). Hiện nay, nhiều chất độc
chiến tranh chứa cyanid.
1.1.3. HCN và các cyanogen
- HCN và các muối không bền, dễ bị phân hủy:
HCN + 2H2O → HCOONH4 (amoni formiat)
HCN + H2S + O → HSCN + H2O
- Các muối cyanid kiềm dễ tan trong nước, khi có mặt acid (kể cả acid yếu: CO2) giải phóng ra
HCN.
- Các muối phức: ferocyanid, fericyanid thường dùng rất bền vững, đều rất ít độc.
- Hg(CN)2 rất bền, acid mạnh không giải phóng được HCN nhưng khi vào cơ thể, dưới tác
dụng của men lại bị phân huỷ tạo ra HCN cho nên rất độc với người và động vật.
- Các glycosid cũng tương tự .
- Để dễ nhận màu thêm vài giọt dung dịch BaCl2 và H2SO4 loãng. BaSO4 kết tủa sẽ hấp phụ
màu (ly tâm, quan sát màu của tủa BaSO4). Trường hợp nồng độ CN- quá thấp màu chưa xuất
hiện ngay, cần phải đợi 1- 2 giờ hoặc hơn.
1.6.3. Phản ứng Schoenbein
- Nguyên tắc: HCN phản ứng với Cu2+ tạo ra đồng cuprocyanid và giải phóng oxy:
4HCN + 3CuSO4 + H2O → (CNCu)2(CN)2Cu + 3H2SO4 + O
+ Oxy mới sinh phản ứng với các chất khử cho sản phẩm có màu.
+ Ví dụ: dùng giấy tẩm CuSO4 0,1%, sấy khô. Khi dùng cho một giọt dd nhựa gaiac mới pha
2% trong cồn, đặt băng giấy gần mẫu thử. Nếu có cyanid giấy sẽ có màu xanh.
- Phản ứng này không đặc hiệu chỉ có giá trị khẳng định âm tính do các chất oxy hoá như:
H2O2, O3, clor, các NOx… cũng cho phản ứng tương tự.
- Độ nhạy của phản ứng 0,005 mg%.
- Nếu nồng độ cyanid thấp: màu chưa xuất hiện ngay, cần đợi 15-20’.
- Để tăng độ nhạy người ta đã thay nhựa Gaiac bằng dung dịch benzidin acetat.
- Giấy đồng benzidin có thể chuẩn bị sẵn: pha dung dịch gồm 20mL dung dịch benzidin acetat
1% với 2mL dung dịch đồng acetat 3%. Ngâm giấy vào dd trên và phơi khô, khi dùng thấm
nước.
2. Ethanol
2.1. Nguồn gốc
- C2H5OH là một chất lỏng không màu, mùi hắc, vị cay; tan trong nước ở bất kỳ tỷ lệ nào; là
dung môi của nhiều chất hữu cơ và vô cơ, dễ cháy.
- Ethanol có mặt trong tất cả các loại rượu thường dùng ở những tỷ lệ khác nhau: 2-6% (bia),
10-20% (rượu vang), 25-30% (rượu tự cất), 50-70% (rượu mạnh như rượu rum…).
- Việc uống rượu quá liều dẫn tới say, gây ra những hậu quả tai hại (tai nạn giao thông, mất trật
tự xã hội...).
- Uống quá nhiều có thể tử vong.
- Giai đoạn đầu có trạng thái kích động, thực chất là do buông lỏng những ức chế sẵn có:
+ Nồng độ trong máu thường từ 50-150mg%.
+ Bệnh nhân trở nên nói nhiều, vui vẻ, cười to, cãi nhau, có khi bừa bãi, bẩn thỉu… nhưng cũng
có bệnh nhân khi uống rượu lại trở nên ủ rũ, ít nói…
+ Giai đoạn này nguy hiểm không phải cho người bệnh mà cho người xung quanh (như lái xe
say rượu).
- Giai đoạn nặng hơn mất phối hợp khi nồng độ 150-250mg%:
+ Phối hợp động tác kém.
+ Khó làm một số động tác đơn giản như: xâu kim, đi thẳng, đưa tay lên mũi, viết.
+ Nói nhầm lẫn câu nọ sang câu kia…
- Giai đoạn hôn mê khi nồng độ khoảng 250mg%:
+ Hôn mê yên lặng, mất các phản xạ gân xương.
+ Đồng tử giãn, mạch nhanh, huyết áp và thân nhiệt thường hạ.
- Nặng hơn khi nồng độ 400-500mg% đồng tử co, thở khò khè, huyết áp tụt rồi liệt tủy:
+ Có 2 dấu hiệu quan trọng cho điều trị là nhiễm toan chuyển hóa (a.lactic và a.acetic tăng) và
hạ glucose huyết.
+ Nếu hôn mê kéo dài quá 5 giờ rất nguy hiểm, tử vong thường đến trong 10 giờ đầu.
+ Uống nhiều rượu gây say, không chủ động được động tác, gây nôn, giảm sút sự nhạy cảm
tâm thần. Nếu uống liều lớn trí thông minh giảm dần, tuần hoàn giảm, gây trạng thái tê liệt,
giãn đồng tử, mất phản xạ, hôn mê trong vài giờ và suy nhược.
+ Ngộ độc cấp có thể gây tử vong do biến chứng ngạt, viêm màng não, xung huyết phổi.
+ Nếu người thường xuyên uống rượu kể cả khi uống ít, cũng có thể dần bị gây xơ gan, tổn
thương tim, tim to và thoái hoá mỡ.
- Nên truyền glucose ưu trương 20-30% (chống hạ glucose huyết), NaHCO3, THAM
(trihydroxymethyl amino methan) để chống toan huyết.
- Điều trị hôn mê hay co giật nếu có.
- Phản ứng này thuận nghịch. Để cho phản ứng hoàn toàn người ta đưa vào semicarbazid
(NH2NHCONH2) liên kết với acetaldehyd và giữ pH 8,6- 9,6 (bằng dung dịch đệm).
- Xác định lượng DPNH2 bằng đo quang ở 340 nm.
- Phương pháp này rất đặc hiệu, cho kết quả tốt từ 5 – 50 μg ethanol, có thể định lượng thẳng
trong huyết thanh không màu. Nếu mẫu thử là máu thì phải loại protein hoặc cất.
2.6.8. Phương pháp nitrit
- Dùng dd NaNO2 và HCl, nitroso hoá ethanol thành C2H5ONO. Chiết xuất C2H5ONO bằng
CCl4.
- Giải phóng nitrit từ dẫn xuất này và định lượng bằng cách cho HNO2 phản ứng với acid
sulfanilic tạo ra muối diazoni sau đó ngưng tụ với α-naphthylamin tạo ra phẩm màu azoic.
- Bằng phương pháp đo quang xác định lượng ethanol trong mẫu thử.
2.6.9. Kiểm tra nồng độ Ethanol trong hơi thở
- Cảnh sát có thể đo nhanh nồng độ rượu trong tài xế: lấy hơi của tài xế cho vào dụng cụ chứa
sẵn hỗn hợp K2Cr2O7 và H2SO4. Nguyên tắc của phương pháp là dựa trên sự oxy hóa ethanol
có trong hơi thở bởi K2Cr2O7 và H2SO4.
- Áp suất riêng phần của ethanol trong hơi thở được coi là tỉ lệ thuận với với hàm lượng ethanol
trong máu.
- Phương trình hóa học của phản ứng như sau:
3CH3CH2OH + 2K2Cr2O7 + 8H2SO4 → 3CH3COOH+2Cr2(SO4)3 + 2K2SO4 + 8H2O
- Xác định cường độ màu lục (của Cr2(SO4)3) sẽ suy ra được hàm lượng alcol đã bị oxy hóa.
- Người ta đã chế tạo ra nhiều thiết bị cầm tay để có thể kiểm tra lái xe ngay tại buồng lái mà
không cần phải xuống xe.
- Nồng độ cồn/hơi thở ở mức 10-100mg/100mL sẽ tương ứng với nồng độ cồn trong máu 0,1 -
1,0 g/L.
3. Methanol
3.1. Nguồn gốc
- Methanol (CH3OH) là một chất lỏng không màu, khối lượng riêng 0,796 ở 15oC, sôi ở 66oC.
Có mùi và các tính chất lý học khác tương tự ethanol nhưng độc hơn rất nhiều.
- Methanol được chế biến bằng cách cất từ gỗ.
- Methanol ít phổ biến hơn ethanol, chỉ được dùng trong các phòng thí nghiệm, làm nguyên liệu
và dung môi trong công nghệ hoá học.
- Tuy nhiên vẫn thường gặp hiện tượng ngộ độc do nhiều nguyên nhân khác nhau.
Ngô Phước Long A2K73 MK73 HUP
+ Phương pháp này áp dụng cho các sản phẩm có hàm lượng methanol từ 0,01 % đến 0,20 %
(theo thể tích).
- Benzen làm tổn hại đến mô và tế bào máu đặc biệt là tuỷ xương. Chúng có thể phá huỷ tế bào
máu dẫn đến thiếu máu, máu không đông… Ngoài ra benzen còn ảnh hưởng đến tế bào TK.
- Benzen là một trong những chất có khả năng gây ung thư ở người rất cao.
II. MỘT SỐ DƯỢC CHẤT & DƯỢC LIỆU CÓ ĐỘC TÍNH CAO PHÂN LẬP Ở MÔI
TRƯỜNG ACID
Các chất độc hữu cơ không bay hơi chiết được bằng dung môi ở môi trường acid gồm có:
- Các dẫn xuất của acid barbituric, acid hữu cơ (acid oxalic, salicylic và các dẫn xuất của
chúng).
- Dẫn xuất nitrophenol, dẫn xuất phenylpyrazolon.
- Các glycosid...
Ngộ độc thường xảy ra với các barbiturat và các glycosid.
1. Các barbiturat
1.1. Nguồn gốc
- Acid barbituric là sản phẩm ngưng tụ của ure và acid malonic, có công thức cấu tạo như sau:
+ Barbiturat được dùng để chỉ các dẫn xuất của acid barbituric.
+ Các barbiturat có cấu trúc chung khác nhau về nhóm thế ở các vị trí 1, 3, 5 và thường được
chia thành 3 loại:
+ Barbiturat thế ở 3 vị trí 1, 5, 5.
+ Barbiturat thế ở 2 vị trí 5, 5.
+ Thiobarbiturat: O ở vị trí C2 được thay bằng S.
- Tạo muối không tan với một số ion KL nặng (Ag+, Hg22+), nhưng lại dễ tan trong dung dịch
kiềm và carbonat.
- Tính acid từ 2 nguyên tử H linh động (N1 và N3) nằm giữa 2 nhóm carbonyl, trong dd tồn tại
các dạng hỗ biến enol và imidol.
- Các barbiturat (Bac) dễ tạo phức hỗn hợp (Bac2MeXn) với một số ion kim loại (Me) như
Cu2+, Co2+, Hg2+…
+ X có thể: amoniac, amin, pyridin, diphenylcarbazon…
+ Các phức hỗn hợp này là dễ tan trong dung môi, bị phân hủy khi có nước, có màu hoặc tinh
thể đặc trưng nên được ứng dụng trong phân tích các barbiturat.
+ Ví dụ phức hỗn hợp của barbiturat với Cu2+ và pyridine (Py) được hình thành như sau:
Bac + Cu2+ + 2Py → Bac2CuPy2
- Hầu hết các barbiturat có phổ hấp thụ UV đặc trưng và phụ thuộc vào pH của dung dịch.
- Để phân biệt tự sát (hay bị đầu độc) với ngộ độc trường diễn có thể dựa vào tỉ lệ Bac trong
máu và trong gan. Trong ngộ độc trường diễn tỉ lệ này có giá trị gần 1, nhưng nếu uống một
liều cao Bac gây hôn mê rồi chết ngay thì tỉ lệ này lớn hơn rất nhiều.
- Quá trình tác dụng của các Bac được chia thành 5 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: tỉnh táo.
+ Giai đoạn 2: còn phản xạ, trả lời được nhưng không nhớ, kích thích phản ứng đúng.
+ Giai đoạn 3: hôn mê, còn phản xạ, khi kích thích phản ứng không đúng; nhịp thở và huyết áp
bình thường.
+ Giai đoạn 4: hôn mê, mất phản xạ, kích thích không phản ứng; nhịp thở và huyết áp bình
thường.
+ Giai đoạn 5: hôn mê, khó thở, huyết áp hạ.
- Các giai đoạn chỉ là tương đối, từ giai đoạn 2 được coi là bị ngộ độc. Khi ngộ độc sẽ gây rối
loạn hô hấp, tụt lưỡi, nuốt khó, ứ đọng đờm dãi, rối loạn tuần hoàn, huyết áp hạ, suy thận cấp,
hạ thân nhiệt, bội nhiễm phổi.
- Rửa dạ dày rất có hiệu quả khi mới ngộ độc, ngay cả khi ngộ độc lâu cũng nên rửa dạ dày.
Lấy dịch rửa dạ dày tìm chất độc.
- Nếu bệnh nhân hôn mê trong 6 giờ đầu thì đặt nội khí quản và rửa dạ dày bằng ống thông (đặt
sonde).
- Có thể cho uống than hoạt để hấp phụ chất độc hoặc uống sorbitol 1-2g/kg.
1.6.2. Tăng đào thải chất độc
- Gây lợi tiểu cưỡng bức bằng truyền dd NaCl 0,9% hoặc glucose 5%.
- Lợi tiểu thẩm thấu bằng truyền tĩnh mạch chậm dung dịch manitol (100g/L) để tăng thải
barbiturat.
- Kiềm hóa huyết tương bằng truyền dd NaHCO3 1,4%.
- Bệnh nhân suy thận thì phải lọc ngoài thận. Ngộ độc nặng nên chạy thận nhân tạo.
1.6.3. Chống rối loạn hô hấp
- Hút đờm dãi.
- Thở oxy, hô hấp nhân tạo ở giai đoạn nặng.
- Mở khí quản nếu cần.
1.6.4. Chống suy tuần hoàn
- Điều chỉnh trao đổi nước, điện giải.
- Nếu trụy tim mạch chống sốc, truyền noradrenalin, huyết tương, máu.
1.6.5. Nâng sức đề kháng
- Nâng sức đề kháng và dùng kháng sinh để chống bội nhiễm trong trường hợp bị hôn mê.
1.6.6. Xử trí khi bị ngộ độc thiobarbiturat
- Chống rối loạn hô hấp bằng hô hấp nhân tạo.
- Đặt nội khí quản, cho thở máy.
- Dùng thuốc trợ tim như noradrenalin, coramin.
- Acid hoá mẫu thử đến pH = 2 và lắc mạnh với đồng Vdung môi (ether hoặc cloroform). Sau khi
tách lớp dung môi và rửa với dung dịch NaHCO3 5%. Sau đó chiết barbiturat bằng dung dịch
NaOH 1N. Cuối cùng chiết lại lần nữa với một lượng nhỏ dung môi.
- Lắp 3 bình chiết nối tiếp nhau qua 2 phễu lọc có bông.
- Cho 2mL huyết thanh hay huyết tương vào bình đầu tiên kiềm hoá bằng 1mL dd NaOH
0,25N; lắc đều với 16mL cloroform (để loại chất màu từ mẫu thử).
- Acid hoá phần nước bằng 1,5mL dd HCl 0,5N rồi chiết với 20mL cloroform. Cho phần
cloroform chuyển sang bình chiết 2. Phần nước được chiết lần nữa với 10mL cloroform và gộp
dịch chiết vào bình 2.
- Thêm 7mL dd H2SO4 0,1N vào bình 2 và lắc đều. Sau khi phân lớp chuyển phần cloroform
vào bình 3.
- Thêm 10mL dd NH4OH 0,5N và lắc đều. Lấy phần dd nước đem ly tâm vài phút (2000
vòng/phút).
- Đo phổ tử ngoại của dung dịch ở 225-290 nm với mẫu trắng là 2mL nước cất làm qua 3 giai
đoạn như trên.
- Các dẫn xuất thế 1, 5, 5 trong dung dịch NaOH 0,1N có một cực đại ở khoảng 243nm, nhưng
ở pH 10-10,5 cực đại không còn nữa.
- Thiobarbiturat trong NaOH 0,1N có cực đại ở 305nm nhưng khi đưa pH về 10-10,5 có 2 cực
đại ở 285 và 235nm.
- Trong thực tế hầu hết các tác giả dùng kỹ thuật đo vi sai theo pH với 3 loại dung dịch khác
nhau là: dung dịch kiềm có pH = 13-13,5; đệm borat pH = 10 hoặc đệm amoni hydroxyd pH =
11,3 và dung dịch HCl pH = 2.
- Trong một nhóm người ta có thể đo vi sai theo các điều kiện khác nhau: một số đo ở 260 nm
trong dung dịch pH1 = 13 và pH2 = 10, một số khác dùng pH1 = 10 và pH2 = 2 đo tại 240nm
như với các barbiturat thế 5,5.
- Độ nhậy với từng barbiturat có khác nhau và có thể định lượng được 6-10μg trong mẫu thử.
2. Glycosid
- Glycosid có nhiều trong thực vật, có cấu trúc đặc trưng bởi dây nối ether kiểu acetal giữa
phần đường và phần không đường.
- Phần đường có thể là đường đơn (như D-glucose, D và L-arabinose, D-ribose...) hoặc nhiều
đường liên kết thành chuỗi. Đa số các chất có phần đường là glucose nên trước đây còn được
gọi là glucosid.
- Phần không đường gọi là aglycol thuộc nhiều loại hợp chất khác nhau (vòng thơm hay không
thơm, dị vòng...).
- Dựa theo tính chất, tác dụng đặc trưng hoặc cấu trúc của khung aglycol mà người ta thường
xếp thành các nhóm:
+ Glycosid tim.
+ Saponin.
+ Anthranoid (anthraglycosid).
+ Flavonoid...
2.1. Digitoxin và glycosid của Digitalis
- Digitoxin (còn gọi là digitalin) có trong lá Digitalis purpurea.
- Digitalis và các glycosid của nó được dùng làm thuốc trợ tim giúp kéo dài thời gian tâm
trương, rút ngắn thời gian tâm thu.
- Với digitoxin, digoxin liều điều trị và liều gây ngộ độc rất gần nhau. Ngộ độc vẫn có thể xảy
ra với nồng độ trong máu của chúng vẫn trong giới hạn điều trị nếu kali máu của bệnh nhân
thấp.
- Do đó cần phải theo dõi rất cẩn thận dấu hiệu và triệu chứng ngộ độc khi dùng chất này.
- Độc tính:
+ Trong điều trị thường xảy ra rối loạn thị giác. Ngoài ra còn gây ù tai, chóng mặt, nhức đầu.
+ Khi bị ngộ độc thì buồn nôn và nôn. Nôn kéo dài vài ngày gây mất nước, có lúc còn kèm tiêu
chảy.
+ Sau 3-4 giờ bị ngộ độc các triệu chứng trên xuất hiện. Bệnh nhân có thể chết sau vài ngày.
- Xử trí:
Ngô Phước Long A2K73 MK73 HUP
+ Loại trừ chất độc bằng rửa dạ dày và dùng thuốc tẩy.
+ Truyền dung dịch NaCl đẳng trương để bù nước.
+ Tiêm liều nhỏ các thuốc kích thích tim: long não, cafein.
2.2. Trúc đào và neriolin
- Trúc đào có chứa đến 17 glycosid, đáng chú ý là neriolin (oleandrin) làm thuốc trợ tim,
deacetyloleandrin, neriantin…
- Nhựa trúc đào có thể gây tấy rát da, sưng, tấy rát mắt nghiêm trọng. Ăn phải có thể gây ra các
triệu chứng buồn nôn và nôn mửa, tiết nhiều nước bọt, loạn nhịp tim dẫn đến tử vong.
- Cây trúc đào rất độc nhưng lại được trồng rất nhiều trên các con phố. Sấy khô, đun sôi không
làm mất độc tính của trúc đào.
- Khi bị ngộ độc rất mệt mỏi, đau dạ dày; rối loạn tim và hô hấp, co giật như uốn ván, mạch
nhỏ và thất thường.
- Khi có triệu chứng ngộ độc trúc đào, cần lập tức tìm đến cơ sở y tế gần nhất để được rửa ruột.
III. MỘT SỐ DƯỢC CHẤT & DƯỢC LIỆU CÓ ĐỘC TÍNH CAO PHÂN LẬP Ở MÔI
TRƯỜNG KIỀM
- Các chất độc mang tính base và trung tính được phân lập bằng cách chiết với dung môi hữu
cơ ở trong môi trường kiềm như: các alcaloid, các dẫn xuất phenothiazin, một số dẫn xuất của
benzodiazepin…
- Alcaloid là những base nitơ có độc tính cao, không tan trong nước, tan trong dung dịch acid.
Có thể dùng một số phản ứng với thuốc thử chung của alcaloid và dựa vào màu sắc, hình dáng
tinh thể tạo thành để có thể sàng lọc, định hướng tìm chất độc.
- Phản ứng kết tủa: Dịch chiết cloroform, loại dung môi, thêm acid acetic 2%. Sau đó làm phản
ứng với:
+ Thuốc thử Mayer (HgCl2 và KI trong nước, cho kết tủa trắng).
+ Dung dịch acid picric bão hoà trong nước (cho tủa vàng),
+ Acid phosphotungstic, thuốc thử Dragendorff...
- Phản ứng màu:
+ Nhiều alc cho phản ứng màu đặc trưng với một số thuốc thử: H2SO4 đặc, HNO3 đặc, thuốc
thử Frohde (acid sulfomolypdic), thuốc thử Mandelin (acid sulfovanadic), thuốc thử Marquis
(formalin trong H2SO4 đặc)... rồi quan sát màu và sự chuyển màu.
- Nhiều alcaloid cho phổ hấp thụ UV đặc trưng: so phổ.
- Lá ngón còn có các tên khác như: cây rút ruột, hổ mạn trường, hổ mạn đằng, đoạn trường
thảo, câu vẫn... Tên khoa học: Gelsemium elegans Benth. Trước đây được phân vào họ Mã tiền
(Loganiaceae) nhưng từ năm 1994 đến nay được phân vào họ mới là họ Hoàng đằng
(Gelcemiaceae).
- Cây ưa sáng nên hay mọc chỗ quang đãng như ven đường và bìa rừng núi ở khu vực Đông
Nam Á và Trung Quốc.
- Trước đây lá ngón được sử dụng để điều trị eczema, bệnh trĩ, nhiễm trùng răng, phong, nhọt
ngoài da, chống tổn thương và co thắt nhưng do độc tính cao nên chỉ hạn chế trong các ứng
dụng ngoài da.
3. Nicotin và thuốc lá
3.1. Nguồn gốc
- Nicotin là alcaloid có trong các cây họ Cà (Solanaceae) và trong một số loài cây khác.
- Nicotin chiếm 0,6-3% trọng lượng cây thuốc lá khô.
- Nicotin là một chất độc thần kinh rất mạnh với ảnh hưởng rõ rệt đến các loài côn trùng do vậy
trước đây được dùng rộng rãi như là một loại thuốc trừ sâu. Hiện nay các dẫn xuất (như
imidacloprid) được sử dụng thay thế.
- Một điếu thuốc có thể chứa 1 mg nicotin, hút một điếu thuốc có thể hấp thu 0,1-0,4mg
nicotin.
- Nicotin hoạt động như một chất kích thích đối với động vật có vú và là một trong những nhân
tố gây nghiện và là thói nghiện ngập khó bỏ.
- Liều 30 - 60mg có thể gây tử vong cho người lớn nặng 50kg.
- Nicotin được hấp thu nhanh vào máu và có thể vượt qua hàng rào máu não. Chỉ sau 10-20
giây đã có thể tới được não.
- Hầu hết chất này bị cháy hết khi đốt thuốc nên chỉ một phần nhỏ chất theo khói thuốc phụ
thuộc : loại thuốc lá, việc có hít khói vào phổi hay không, có đầu lọc hay không...
- Khi nhai thuốc lá, lượng thuốc ngấm qua môi và lợi vào cơ thể có xu hướng cao hơn nhiều so
với việc hút thuốc.
- Nicotin bị chuyển hóa ở gan, phổi và thận. Một trong các chất chuyển hóa chính từ nicotin là
cotinin.
- Đào thải chủ yếu qua nước tiểu, nước bọt, mồ hôi, sữa mẹ cũng có đào thải nicotin. Thời gian
bán thải khoảng 2 giờ.
- Tinh dầu bạc hà (menthol) được cho thêm vào thuốc lá để làm tăng thời gian bán thải của
nicotin.
- Nicotin làm tăng huyết áp và nhịp tim ở người, có thể gây ra khả năng xơ vữa tế bào nội mô
động mạch vành, tổn thương vi mạch có thể xảy ra do tác động của nó lên các thụ thể nicotinic
acetylcholin (nAChRs).
- Nicotin tác dụng lên các hạch của hệ thần kinh giao cảm, dẫn đến liệt. Trên hệ TKTW, nicotin
kích thích, có thể lên cơn co giật kiểu strychnin.
- Tác dụng độc cho người nghiện thuốc lá do 3 yếu tố: nicotin, carbon oxid và các hydrocarbon
đa vòng.
3.3. Xử lý mẫu
- Chiết với CHCl3 ở môi trường kiềm nhẹ. Sau đó loại dung môi, hoà tan cặn trong HCl 10% và
làm các phản ứng tiếp theo.
Ngô Phước Long A2K73 MK73 HUP
- Nếu mẫu thử là nước tiểu thì tiến hành kiềm hoá rồi cất kéo hơi nước, hứng vào bình có HCl
10%.
- Nếu mẫu thử là thuốc lá: lấy 10g mẫu, ngâm với 100mL HCl 5%. Đun cách thủy khoảng 20
phút, chiết lấy nước (chiết 4 lần). Gộp dịch chiết lại, kết tủa bằng acid silicotungstic 10%. Ly
tâm lấy cặn hoà tan vào HCl 10%. Ly tâm thêm MgO vào và cất kéo hơi nước. Bình nhận có
H2SO4 chuẩn và định lượng nicotin theo phương pháp acid base chỉ thị sulfoalizarin.
4. Aconitin và Ô đầu-Phụ tử
4.1. Nguồn gốc
- Trong YHCT, ô đầu được coi là một trong số 4 vị thuốc quý: Sâm, Nhung, Quế, Phụ (tức phụ
tử là dạng chế biến của Ô đầu). Dạng sống (Ô đầu) và dạng chín (Phụ tử) đều được sử dụng
phổ biến.
- Ô đầu là một vị thuốc rất độc. Để giảm bớt độc tính, người ta đã chế biến ô đầu (dạng sống)
thành phụ tử (thuốc chín) ít độc hơn. Phụ tử lại được chế giảm độc thêm nữa dưới dạng diêm
phụ tử, hắc phụ tử và bạch phụ tử.
- Phụ tử có thể dùng uống để “hồi dương” trong những trường hợp cấp cứu như mạch gần như
không có, mồ hôi ra nhiều, chân tay quờ quạng, phong hàn thấp tý, thận dương hư bất túc, cước
khí, thủy thũng.
- Tuy độ độc có giảm nhưng những người giàu kinh nghiệm chữa bệnh vẫn phải phối hợp với
các vị thuốc khác, đặc biệt là cam thảo và gừng sống, sắc kỹ, gạn lấy nước rồi uống. Có người
còn nấu lại phụ tử nhiều lần với đậu đen hoặc ngâm nước vôi hoặc nước gạo đặc thật lâu rồi
mới dùng.
- Xưa nay, người dân ở vùng núi cao coi ô đầu là một vị thuốc quý. Họ cho rằng người già
dùng ô đầu thì nâng cao được thể lực, bớt đau mỏi, ăn ngủ tốt; giới trung niên thì tăng cường
khả năng sinh lý, gân xương chắc khỏe.
- Dạng dùng thông thường là rượu ngâm uống hằng ngày. Phụ nữ sau khi đẻ dùng ô đầu nấu
cháo sẽ chóng lại sức, lao động được ngay. Dạng cồn xoa bóp cũng được sử dụng.
- Đáng chú ý hơn cả là rối loạn nhịp tim, chủ yếu là ngoại tâm thu. Những trường hợp nặng
ngoại tâm thu nhiều, đa dạng đi thành từng loạt liền nhau như những cơn kịch phát thất ngắn,
đe dọa chuyển sang rung thất chết người.
4.3. Xử trí
- Không cần rửa dạ dày vì bệnh nhân đã nôn rất nhiều.
- Trường hợp nhẹ chỉ cần cho atropin 1-2mg tiêm dưới da, nếu cần 4-6 giờ sau tiêm lại.
- Phải theo dõi kỹ tim mạch. Khi huyết áp tâm thu hạ dưới 70mmHg, truyền ngay noradrenalin
4-5mg /500mL glucose 5%. Nếu cơn nhanh thất kéo dài hoặc rung thất thì sốc điện.
- Những trường hợp nặng tiến hành xoa bóp tim ngoài lồng ngực và thổi ngạt trực tiếp.
- Xử trí nhanh chóng và kiên nhẫn sẽ cứu sống được nạn nhân.
- Để bảo đảm an toàn tốt nhất là không nên tự ý dùng Ô đầu, Phụ tử nấu cháo ăn, ngâm rượu để
xoa bóp.
- Phải quản lý không để bán tự do ở các chợ.
- Aflatoxin
- Ochratoxin, trichothecen, zearalenon, fumonisin, patulin, citrinin.
(1) Cóc
Đã có nhiều trường hợp ngộ độc do ăn thịt cóc, xuất phát từ quan điểm coi thịt cóc như một
nguồn dinh dưỡng rất giàu đạm, bổ dưỡng hơn thịt gà, bò, rất có lợi cho những người suy dinh
dưỡng, còi cọc hoặc suy kiệt.
Các tuyến trên da cóc bài tiết ra chất nhầy màu trắng, dính keo, dân gian gọi là "nhựa cóc". Đây
là hỗn hợp độc tố có khả năng gây ảo giác, nghẽn mạch và tăng áp suất máu.
Ngoài ra, một số loài cóc còn chứa cả độc tố tetrodotoxin thông qua cơ chế cộng sinh với một
số vi khuẩn.
(2) Cá nóc
Có nơi gọi là cá cóc, cá bống biển, cá đùi gà) với hàng trăm loài trên thế giới, ở Việt Nam có
gần 70 loài như: cá nóc đốm đen, cá nóc nhím gai dài, cá nóc chuột vân bụng…
- Trong thủy sản, cá nóc chứa nhiều độc tố nhất.
- Có chứa nhiều chất độc ở các bộ phận khác nhau của cá:
+ Trong buồng trứng có tetrodonin, acid tetrodonin, tetrodotoxin; trong gan có hepatoxin.
+ Ở da và trong máu cá cũng tìm thấy các loại chất độc trên.
+ Thịt cá thường không độc, nhưng khi cá chết, cá bị ươn thối, chất độc từ buồng trứng, gan sẽ
ngấm vào thịt cá. Khi đó thịt cá trở nên độc.
- Chất độc tập trung ở da, ruột, gan, cơ bụng, tinh hoàn và nhiều nhất ở trứng cá.
- Vì vậy con cái độc hơn con đực và đặc biệt mùa cá đẻ trứng.
(3) Mực đốm xanh
- Thường sống ở các dải san hô, khe đá, có thể còn ẩn mình trong vỏ trai biển, chai lọ hoặc ống
bơ vứt xuống dưới biển.
- Maculotoxin và tetrodotoxin ở mực rất độc và rất bền vững, có thể tồn tại với nồng độ cao
ngay cả khi mực đã chết và dù đã chế biến ở nhiệt độ cao.
- Ăn mực đốm xanh rất dễ bị ngộ độc nặng và có thể dẫn tới tử vong.
(4) Cua mặt quỷ
- Có ở các tỉnh ven biển miền Trung từ Đà Nẵng đến Vũng Tàu, thường gặp ở các vùng triều
thấp.
- Độc tố trong cua có dạng "Saxitonin" nằm trong thịt và trứng, nhiều nhất là trong thịt càng và
chân cua.
- Một người ăn chỉ 0,5g thịt càng cua loại này là có thể ngộ độc dẫn đến tử vong.
Ngô Phước Long A2K73 MK73 HUP
1. Tetrodotoxin
1.1. Nguồn gốc
- Trên thế giới hiện nay, vấn đề ngộ độc các thực phẩm chứa tetrodotoxin mà đặc biệt là ngộ
độc cá nóc đã và đang là thực trạng nổi cộm, gây hậu quả nghiêm trọng về sức khoẻ và tính
mạng của người tiêu dùng.
- Độc tố trong cá nóc có thành phần chủ yếu là tetrodotoxin, thuộc nhóm độc tố thần kinh cực
kỳ nguy hiểm, tỉ lệ gây tử vong khá cao.
- Tetrodotoxin cũng được phân lập từ một số loại vi khuẩn (Epiphytic bacterium, Pseudomonas
species...), ở da và nội tạng kỳ nhông, bạch tuộc vòng xanh, cóc, cá nóc…
1.2. Tính chất
- Tetrodotoxin (C11H17O8N3) tan trong nước.
- Rất bền vững, không bị nhiệt phá huỷ, nấu chín hay phơi khô, sấy, độc chất vẫn tồn tại.
- Chỉ bị phân hủy trong dung dịch HCl 0,2-0,3% sau 8 giờ, đun sôi (100°C) thì sau 6 giờ mới
giảm được một nửa, muốn phá hủy hoàn toàn phải đun ở 200°C trong 10 phút.
1.3. Tác dụng dược lý
- Tetrodotoxin được coi là một trong những chất có độc tính mạnh nhất đối với hệ thần kinh và
tim mạch.
- Có thể sử dụng chất độc này để điều chế thuốc tê, hạ huyết áp, điều trị các bệnh viêm phế
quản, kích thích hoạt động của hệ thần kinh, hệ tuần hoàn và hỗ trợ điều trị nghiện ma túy,
rượu, thuốc lá.
- Chế phẩm Tectin có thể giúp bệnh nhân ung thư vượt qua được những cơn đau hoặc giúp con
nghiện heroin cắt cơn.
- Khác với các loại thuốc giảm đau khác, Tectin không gây ra tác dụng phụ như morphin,
không xung đột với các loại thuốc khác và cũng không gây nghiện.
1.4. Nguyên nhân ngộ độc
- Do quan niệm sai lầm thịt cá nóc trắng, dai và có vị thơm như thịt gà, bổ và giàu dinh dưỡng
như thịt cóc, cá nóc chỉ độc nếu như không biết làm sạch (bỏ ruột, gan...) hoặc nếu chế biến tốt
(nấu thật kỹ trong vài giờ) sẽ không còn độc tính nữa, ăn sẽ không sao…
- Cá nóc có nhiều loài khác nhau, độc và không độc. Độc tố biến động khá phức tạp theo mùa
vụ và theo cá thể, cao nhất ở gan và trứng, nhưng toàn bộ cơ thể đều có chứa độc tố, do đó chỉ
ăn thịt cá nóc vẫn có khả năng bị ngộ độc.
1.5. Xử trí ngộ độc
- Biểu hiện ngộ độc thường là chóng mặt, buồn nôn, nôn, mất tiếng, mệt lả, khó thở, liệt tăng
dần, dẫn tới trụy tim mạch. Không ít trường hợp ngộ độc dẫn tới tử vong.
- Độc tố này là hợp chất bền nhiệt, không bị phân hủy trong quá trình nấu chín.
- Người bị ngộ độc cá nóc bị ảnh hưởng lớn đến sức khỏe và tính mạng.
Ngô Phước Long A2K73 MK73 HUP
- Đặc biệt là chưa có thuốc giải đặc hiệu cho các trường hợp ngộ độc cá nóc.
- Biện pháp chữa trị chỉ là rửa dạ dày hoặc dùng than hoạt tính để thải loại bớt chất độc, hô hấp
nhân tạo, truyền dịch nhằm tăng cường sức đề kháng của cơ thể...
- Ngay khi có dấu hiệu đầu tiên như tê môi, tê tay (người bệnh vẫn còn tỉnh).
- Gây nôn ngay nhưng phải đề phòng bệnh nhân bị sặc (để nằm tư thế nghiêng, đầu thấp).
- Cho nạn nhân uống than hoạt tính với liều 30g cho người lớn trộn đều với 250mL nước sạch,
25g cho trẻ 1-12 tuổi với 100-200mL nước, 1g/kg cân nặng cho trẻ dưới 1 tuổi với 50mL nước.
Sau đó chuyển ngay đến bệnh viện.
- Uống than hoạt sớm trong vòng 1giờ sau khi ăn cá sẽ có hiệu quả cao, loại bỏ chất độc nhanh,
không nên cho uống khi người bệnh đã hôn mê hay rối loạn ý thức.
- Nếu người bệnh có biểu hiện rối loạn ý thức, hôn mê, thở yếu hoặc ngừng thở... thì tiến hành
hà hơi thổi ngạt và chuyển gấp đến bệnh viện để được cấp cứu kịp thời.
- Đối với người dân, để phòng tránh ngộ độc cá nóc, biện pháp tốt nhất là không ăn cá nóc.
Không được làm khô, chả hay bột cá nóc thay các loại cá khác để bán.
- Trước mắt phải có những cảnh báo, khuyến cáo rộng rãi:
+ Về mức độ nguy hiểm của ngộ độc từ cá nóc.
+ Về nhận dạng các loài cá nóc độc nhằm giúp người dân tránh mua hoặc sử dụng nhầm cá
nóc.
2. Aflatoxin
2.1. Nguồn gốc
- Aflatoxin là độc tố sinh ra bởi một số chủng nấm Aspergillus flavus và Aspergillus
parasiticus.
- Trong tự nhiên có 6 loại aflatoxin chính:
+ Aflatoxin B1, B2, G1 và G2 thường bị nhiễm trong lạc, ngô, lúa mỳ, hạt bông, cùi dừa, các
loại hạt có dầu…
+ Aflatoxin M1 và M2 chủ yếu chỉ bị nhiễm trong sữa và sản phẩm của sữa do các động vật
cho sữa được nuôi bằng thức ăn bị nhiễm aflatoxin.
2.2. Độc tính và nguyên nhân nhiễm độc
- Aflatoxin phơi nhiễm vào cơ thể người thông qua tiêu thụ thực phẩm bị nhiễm.
- Thử nghiệm trên động vật cho thấy aflatoxin có khả năng gây nhiễm độc cho gan, tăng sản
ống mật, chảy máy đường tiêu hóa và xuất huyết trên thận.
- Aflatoxin B1 và G1 đã được xác định là có khả năng gây ung thư trên người.
- Aflatoxin B1 có khả năng gây ung thư gan mạnh nhất, tác động lên cá thể mang HBsAg+ cao
hơn cá thể HBsAg-.
Ngô Phước Long A2K73 MK73 HUP
- Viện Nghiên cứu ung thư quốc tế (IARC) đã xếp Aflatoxin B1 vào nhóm 1 - nhóm gây ung
thư trên người.
- Nó có thể gây ra loét, phù nề và xuất huyết tiêu hoá, có khả năng gây độc cho bào thai (trên
chuột), có khả năng gây độc gen trên tế bào của động vật có vú trong khi đó không gây độc đối
với tế bào của vi khuẩn.
6. Citrinin
- CTN là độc tố có màu vàng do một số chủng nấm Penicillium, Aspergillus và Byssochlamys
nivea., Penicillium expansum sinh ra trong các loại ngũ cốc (lúa mỳ, gạo, ngô, lúa mạch).
- Giống như Ochratoxin A, CTN gây độc cho thận, thử nghiệm trên động vật cho thấy OCT
gây bệnh thận trên ngỗng và lợn. tuy nhiên độc tính của CTN thấp hơn.