BÀI THẢO LUẬN BUỔI 4

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 32

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA QUẢN TRỊ

HỢP ĐỒNG VÀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG


Buổi thảo luận thứ tư
VẤN ĐỀ CHUNG CỦA HỢP ĐỒNG (TIẾP)
GVHD: Nguyễn Tấn Hoàng Hải
Thực hiện: Nhóm 1
1. Dương Thiên Ân 2253401020008
2. Lê Nguyễn Quỳnh Anh 2253401020014
3. Trịnh Nguyễn Lan Anh 2253401020026
4. Trần Bảo Diệp 2253401020046
5. Đặng Thị Mỹ Dung 2253401020052
6. Trần Thị Ánh Dương 2253401020054
7. Trần Thị Mỹ Duyên 2253401020057
8. Nguyễn Ngọc Thanh Hà 2253401020065
9. Phạm Văn Tín 2253801011301

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2024


MỤC LỤC
VẤN ĐỀ 1: ĐỐI TƯỢNG DÙNG ĐỂ BẢO ĐẢM VÀ TÍNH CHẤT PHỤ CỦA BIỆN
PHÁP BẢO ĐẢM………………………..……………………………………………….5
Tóm tắt Bản án số 208/2010/DS-PT ngày 09/03/2010 của Tòa án nhân dân TP. CM…....5
Tóm tắt Quyết định số 02/2014/QĐ-UBTP ngày 28/2/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền
Giang………………………………………………………………………………………5
Tóm tắt Quyết định số 27/2021/DS-GĐT ngày 02/6/2021 của Toà án nhân dân cấp cao tại
Tp. Hồ Chí Minh…………………………………………………………………………..5
1.1.Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 liên quan đến tài sản có thể
dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ…………………………………………………………….6
1.2. Đoạn nào của bản án số 208 cho thấy bên vay dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ trả tiền vay?……………………………………………………………7
1.3. Giấy chứng nhận sạp có là tài sản không? Vì sao?……………………………………7
1.4. Việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ dân sự có được Tòa án chấp
nhận không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời? ………………..……………………..8
1.5. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết và cơ sở pháp lý của Tòa án đối với việc
dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ. …………………………….……….…..8
1.6. Đoạn nào của Quyết định số 02 cho thấy các bên đã dùng quyền sử dụng đất để cầm
cố? …………………………………………………………………………………………8
1.7. Văn bản hiện hành có cho phép dùng quyền sử dụng đất để cầm cố không? Nêu cơ sở
văn bản khi trả lời? ……………………………………………………………………......9
1.8. Trong Quyết định trên, Tòa án có chấp nhận cho phép dùng quyền sử dụng đất để
cầm cố không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?..................................................9
1.9. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án trong Quyết định số
02…………………………………………………………………………………………..9
1.10. Trong Quyết định số 27, thế chấp được sử dụng để bảo đảm cho nghĩa vụ nào? Vì
sao? ………………………………………………………………………………………10
1.11. Đoạn nào trong Quyết định số 27 cho thấy Toà án xác định hợp đồng thế chấp đã
chấm dứt? ……………………………………………………………………….……….
11
1.12. Vì sao Toà án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt? ……...…………
11
1.13. Việc Toà án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt có thuyết phục
không? Vì sao?………………………………………………………………………...…11

2
1.14. Khi xác định hợp đồng thế chấp chấm dứt, Tòa án theo hướng bên nhận thế chấp
(Ngân hàng) có trách nhiệm hoàn trả Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử
dụng đất có thuyết phục không? Vì sao? ……………………..………………………….12
VẤN ĐỀ 2: ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM……………...……………………….13
Tóm tắt Bản án số 90/2019/KDTM-PT ngày 16/8/2019 của Toà án nhân dân TP. Hà
Nội………………………………………………………………………………………..13
Tóm tắt Quyết định số 41/2021/KDTM-GĐT ngày 08/7/2021 của Tòa án nhân dân cấp
cao tại TP. Hồ Chí Minh………….………………………………………………………13
2.1. Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về đăng ký giao dịch bảo đảm.…….13
2.2. Hợp đồng thế chấp số 1013.2009/ HĐTC ngày 07/9/2009 có thuộc trường hợp phải
đăng ký không? Vì sao? ………………………………………………………………….14
2.3. Hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 đã được đăng ký phù hợp với quy định không?
Đoạn nào của bản án cho câu trả lời? ……………………………………………………15
2.4. Theo Toà án, nếu không được đăng ký, hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 có vô hiệu
không? Vì sao?…………………………………………………………………………...15
2.5. Hướng của Toà án như trong câu hỏi trên có thuyết phục không? Vì sao? .…….….16
2.6. Hợp đồng thế chấp trong Quyết định số 21 có hiệu lực đối kháng với người thứ ba
không? Vì sao?…………………………………………………………………………...16
2.7. Theo quy định về đòi tài sản (Điều 166 và tiếp theo BLDS năm 2015), Ngân hàng có
quyền yêu cầu ông Tân (người thứ ba so với hợp đồng thế chấp) trả lại tài sản thế chấp
(xe ô tô) không? Vì sao?.....................................................................................................16
2.8. Việc Tòa án buộc ông Tân trả lại tài sản thế chấp (xe ô tô) cho Ngân hàng có
thuyết phục không? Vì sao?………………………………………………………………17
VẤN ĐỀ 3: ĐẶT CỌC………………………...…………………………………………17
Tóm tắt Án lệ số 25/2018/AL…………………………………………………………….17
Tóm tắt Quyết định số 49/2018/KDTM-GĐT ngày 18/10/2018 của Tòa án nhân dân cấp
cao tại TP. Hồ Chí Minh………………………………………………………………….18
Tóm tắt Bản án số 26/2019/DS-PT ngày 11/6/2019 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng
Ninh………………………………………………………………………………………18
3.1. Khác biệt cơ bản giữa đặt cọc và cầm cố, đặt cọc và thế chấp. ……………………..19
3.2. Thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 về đặt cọc………………………...…….21
3.3. Theo BLDS, khi nào bên đặt cọc mất cọc, bên nhận cọc bị phạt cọc?........................22
3.4. Nếu hợp đồng được đặt cọc không được giao kết, thực hiện vì lý do khách quan, bên
nhận cọc có nghĩa vụ trả lại tài sản đặt cọc cho bên đặt cọc không? Vì sao? …………..22
3.5. Theo Quyết định được bình luận, bên đặt cọc đã chuyển tài sản đặt cọc cho bên nhận
cọc như thế nào?………………………………………………………………………….23
3.6. Theo Toà giám đốc thẩm trong Quyết định được bình luận, tài sản đặt cọc còn thuộc
sở hữu của bên đặt cọc không? Vì sao? ………………………………………………….23
3
3.7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Toà giám đốc thẩm liên quan đến
quyền sở hữu tài sản đặt cọc. …………………………………………………………….23
3.8. Đoạn nào cho thấy Toà án đã áp dụng Án lệ số 25/2018/AL? ………………..…….24
3.9. Việc Toà án áp dụng Án lệ số 25/2018/AL vào hoàn cảnh trong vụ việc này có thuyết
phục không? Vì sao? ……………………………………………………………...……..24
3.10. Việc Toà án “không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông P, về việc yêu cầu ông I
phải trả số tiền phạt cọc là 450.000.000đ” có phù hợp với Án lệ số 25/2018/AL không? Vì
sao? ………………………………………………………………………………………24
VẤN ĐỀ 4: BẢO LÃNH………………..….…………………………………………….25
Tóm tắt Quyết định số 02/2013/KDTM-GĐT ngày 08/1/2013 của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao …………………………………………...……………………. 25
Tóm tắt Quyết định số 968/2011/DS-GĐT ngày 27/12/2011 của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao. ……………………………………………………………………………….25
4.1. Những đặc trưng của bảo lãnh ..……………………………………………………..25
4.2. Những thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 về bảo lãnh…………………...…26
4.3. Đoạn nào cho thấy Tòa án xác định quan hệ giữa ông Miễn, bà Cà với Quỹ tín dụng
là quan hệ bảo lãnh? …...………………………………………………………………...28
4.4. Suy nghĩ của anh/chị về việc xác định trên của Hội đồng thẩm phán. …..……...….29
4.5. Theo Tòa án, quyền sử dụng đất của ông Miễn, bà Cà được sử dụng để bảo đảm cho
nghĩa vụ nào? Vì sao? ………………………...……………………………………..….29
4.6 Đoạn nào cho thấy Tòa án địa phương đã theo hướng người bảo lãnh và người được
bảo lãnh liên đới thực hiện nghĩa vụ cho người có quyền? ………………………..…...29
4.7. Hướng liên đới trên có được Tòa giám đốc thẩm chấp nhận không? ……..…….....30
4.8. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm liên quan đến
vấn đề liên đới nêu trên. ……..………………………………………………………....30
4.9. Phân biệt thời điểm phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh và thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh…………………………………………………………………………………..….30
4.10. Theo BLDS, khi nào người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh? ………...30
4.11. Theo Quyết định, khi nào người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh?........31
4.12. Có bản án, quyết định nào theo hướng giải quyết trên về thời điểm thực hiện nghĩa
vụ bảo lãnh chưa? Nêu rõ bản án, quyết định mà anh/chị biết……………………….…31
4.13. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm………….31
TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………………………..….……33

VẤN ĐỀ 1: ĐỐI TƯỢNG DÙNG ĐỂ BẢO ĐẢM VÀ TÍNH CHẤT PHỤ CỦA BIỆN
PHÁP BẢO ĐẢM.

4
Tóm tắt Bản án số 208/2010/DS-PT ngày 09/03/2010 của Tòa án nhân dân TP. HCM
Ông Phạm Bá Minh là chủ doanh nghiệp cầm đồ Bá Minh.Vào ngày 14/09/2007, bà
Bùi Thị Khen và ông Nguyễn Khắc Thảo thế chấp cho ông Minh một giấy sử dụng sạp
D2-9 tại chợ Tân Hương để vay 60.000.000đ, thời hạn vay là 6 tháng, lãi suất 3%/1 tháng.
Khi hết thời hạn hợp đồng, ông Thảo bà Khen không thanh toán được nên đã kéo dài số
nợ trên. Cho đến nay thì mới thanh toán được tiền lãi của 22 tháng là 29.600.000đ, còn nợ
10.000.000đ tiền lãi nên ông Minh yêu cầu trả vốn lẫn lãi là 70.000.000đ trong vòng 1
tháng. Về phần mình, ông Thảo và bà Khen đề nghị trả số tiền trên trong thời hạn 12
tháng.
Tóm tắt Quyết định số 02/2014/QĐ-UBTP ngày 28/2/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh
Tiền Giang.
Năm 1995, ông Ôn và bà Xuân có cầm cố cho ông Rành 3.000m2 đất với giá 30
chỉ vàng 24K và thoả thuận sẽ chuộc lại trong 3 năm. Trong thời hạn 3 năm này, ông bà
có về chuộc lại đất nhưng ông Rành không đồng ý. Nay ông bà yêu cầu ông Rành phải trả
lại đất và ông bà sẽ trả lại 30 chỉ vàng như trên, tuy nhiên ông Rành không đồng ý và yêu
cầu phải chuộc với giá thị trường. Toà án sơ thẩm đã cho rằng hợp đồng cầm cố quyền sử
dụng đất này là vô hiệu vì pháp luật không cho phép cầm cố quyền sử dụng đất. Tại quyết
định kháng nghị, Viện trưởng Viện kiểm soát nhân dân tỉnh Tiền Giang đã bác bỏ nhận
định này vì giao dịch trên không trái pháp luật, trái đạo đức, tuân thủ đủ các quy định về
nội dung và hình thức nên không thể tuyên vô hiệu. Hội đồng xét xử giám đốc thẩm cũng
đã đồng ý với kháng nghị trên.
Tóm tắt Quyết định số 27/2021/DS-GĐT ngày 02/6/2021 của Toà án nhân dân cấp
cao tại Tp. Hồ Chí Minh.
Vào năm 2014 giữa Ngân hàng Liên doanh V và công ty PT đã kí kết các hợp đồng
tín dụng. Sau khi ngân hàng giải ngân các khoản vay của cồn ty PT thì phía công ty PT đã
vi phạm về thời hạn thanh toán lãi và gốc cho ngân hàng. Do đó ngân hàng mời những
người đứng ra bảo lãnh có liên quan để thanh toán khoản nợ và lấy tài sản thế chấp về.
Quyết định của tòa án là chấp nhận Kháng nghị số 10 ngày 07/12/2020 của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại TP HCM và hủy bản án kinh doanh phúc thẩm đối với
vụ án “ Tranh chấp hợp đồng tín dụng” giữa nguyên đơn Ngân hàng Liên doanh V và bị
đơn công ty PT
1.1. Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 liên quan đến tài sản có thể
dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
BLDS 2015 đã có sự thay đổi về chế định liên quan đến tài sản có thể dùng để bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự so với BLDS 2005. BLDS 2015 chỉ có 1 điều luật (Điều
295) còn BLDS 2005 có tới 3 điều luật quy định về tài sản bảo đảm (Điều 320, 321, 322).
Việc quy định của BLDS 2005 theo hướng liệt kê, sẽ dẫn đến tình trạng quy định không
đầy đủ. Do vậy, BLDS 2015 đã khắc phục được những nhược điểm này.

5
Thứ nhất,
+ Khoản 1 Điều 320 BLDS 2005 về Vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự: “1. Vật bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm và được phép
giao dịch”.
+ Khoản 1 Điều 295 BLDS 2015 về Tài sản bảo đảm: “1. Tài sản bảo đảm phải thuộc
quyền sở hữu của bên bảo đảm, trừ trường hợp cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu”.
🡺 Quy định tại BLDS 2015 đã bỏ đi quy định “được phép giao dịch” và chỉ quy định “trừ
trường hợp cầm giữ, bảo lưu quyền tài sản”. Bởi lẽ, việc bỏ quy định này không phải là
cho phép sử dụng tài sản không được phép giao dịch để bảo đảm mà là ở các quy định
chung đã có hướng giải quyết. Trong Báo cáo tổng hợp của Bộ Tư pháp về ý kiến nhân
dân với Dự thảo đã nêu “về nguyên tắc, tài sản được đem vào giao dịch phải phù hợp với
quy định của pháp luật. Nguyên tắc này áp dụng chung cho các loại giao dịch, trong đó có
giao dịch bảo đảm”.
Thứ hai,
+ Khoản 2 Điều 320 BLDS 2005 về Vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự: “2. Vật dùng
để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là vật hiện có hoặc được hình thành trong tương
lai. Vật hình thành trong tương lai là động sản, bất động sản thuộc sở hữu của bên bảo
đảm sau thời điểm nghĩa vụ được xác lập hoặc giao dịch bảo đảm được giao kết”.
+ Khoản 3 Điều 295 BLDS 2015 về Tài sản bảo đảm: “3. Tài sản bảo đảm có thể là tài
sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai”.
🡺 Theo đó, BLDS 2015 không làm rõ thế nào là tài sản hình thành trong tương lai như tại
Khoản 2 Điều 320 BLDS 2005. Việc thay đổi như vậy là tránh được sự khó hiểu và rườm
rà vì đã có quy định trong phần Tài sản thuộc những vấn đề chung của BLDS tại Điều 108
BLDS 2015.
- Thứ ba, BLDS 2015 cũng bổ sung thêm quy định về giá trị của tài sản bảo đảm
tại Khoản 4 Điều 295: “Giá trị của tài sản bảo đảm có thể lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn
giá trị nghĩa vụ được bảo đảm”.
🡺 Quy định này tránh được thực tế là đôi khi có người yêu cầu giá trị tài sản bảo đảm
phải lớn hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm, khắc phục được thiếu sót của BLDS 2005.
1.2. Đoạn nào của bản án số 208 cho thấy bên vay dùng giấy chứng nhận sạp để bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ trả tiền vay?
Đoạn của bản án 208 cho thấy bên vay dùng giấy chứng nhận sạp để đảm bảo thực
hiện nghĩa vụ trả tiền vay:
+ “Ông Phạm Bá Minh trình bày: Ông là chủ doanh nghiệp cầm đồ Bá Minh. Vào ngày
14-09-2007 bà Bùi Thị Khen và ông Nguyễn Khắc Thảo có thế chấp cho ông một giấy sử
dụng sạp D2-9 tại chợ Tân Hương để vay 60.000.000 đồng, thời hạn cho vay là 6 tháng,
lãi suất thỏa thuận là 3%/tháng”.

6
+ “Bị đơn bà Bùi Thị Khen và ông Nguyễn Khắc Thảo xác nhận: Có thế chấp một tờ giấy
sạp D2-9 tại chợ Tân Hương để vay 60.000.000đ cho ông Phạm Bá Minh là chủ dịch vụ
cầm đồ Bá Minh. Lãi suất 3%/tháng”.
1.3. Giấy chứng nhận sạp có là tài sản không? Vì sao?
Trong thực tiễn việc xác định các loại giấy tờ liên quan tài sản như giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, giấy đăng ký mô tô xe máy, giấy chứng nhận sạp… có là tài sản
hay không đang có rất nhiều quan điểm khác nhau.
+ Thứ nhất: xuất phát từ luận điểm về những đặc điểm của tài sản (theo Điều 105
BLDS 2015), có quan điểm cho rằng giấy chứng nhận sạp không hội đủ những đặc điểm
của tài sản nên không được xem là một loại tài sản. Bởi vì, giấy chứng nhận sạp chỉ ghi
nhận quyền được sử dụng sạp để chủ thể sử dụng, chứ không có đặc quyền nào khác đối
với cái sạp, không nằm trong danh mục các loại giấy tờ có giá quy định tại Khoản 9 Điều
3 Nghị định 163/2006/NĐ-CP: “9. Giấy tờ có giá bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, hối
phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, séc, giấy tờ có giá khác theo quy định của pháp luật,
trị giá được thành tiền và được phép giao dịch”, và cũng không phải là vật, tiền và quyền
tài sản, do vậy giấy chứng nhận sạp không phải là quyền tài sản. Quan điểm này cũng phù
hợp với cách giải quyết trên đây của tòa và hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao.
+ Thứ hai: xuất phát từ những chế định về kiện đòi tài sản và thực tiễn cho thấy, các
loại giấy tờ này có một ý nghĩa rất quan trọng. Nếu không xem đây là tài sản thì sẽ không
có chủ sở hữu tài sản và nếu một chủ thể nào đó để chủ thể khác chiếm hữu các loại giấy
tờ này sẽ không thể yêu cầu lấy lại theo chế định kiện đòi tài sản. việc này sẽ ảnh hưởng
rất lớn đến quyền lợi của các chủ thể. Đây cũng chính là điểm hạn chế cần được xem xét
và khắc phục.
Như vậy, theo quan điểm của nhóm em, giấy chứng nhận sạp không phải là tài sản
như quan điểm thứ nhất đã nêu trên. Và trong bản án số 208/2010/DS-PT, Tòa án cũng
không công nhận giấy chứng nhận sạp là tài sản. Giấy chứng nhận sạp chỉ ghi nhận quyền
được sử dụng sạp để bà Khen buôn bán tại chợ Tân Hương, không thuộc quyền sở hữu
của bà Khen, bà chỉ được sử dụng chứ không có đặc quyền nào khác đối với cái sạp, cái
sạp đó không phải tài sản của bà, nên giấy chứng nhận sử dụng sạp không nằm trong danh
mục các loại giấy tờ có giá tại Khoản 9 Điều 3 Nghị định 163 và cũng không là vật, tiền
và quyền tài sản, do vậy giấy chứng nhận sạp không là tài sản.
1.4. Việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ dân sự có được Tòa án
chấp nhận không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự không được
tòa án chấp nhận. Đoạn của bản án cho câu trả lời: “Xét sạp thịt heo do bà Khen đứng tên
và cầm cố, nhưng giấy chứng nhận sạp D2-9 tại chợ Tân Hương là giấy đăng kí sử dụng
sạp, không phải quyền sở hữu, nên giấy chứng nhận trên không đủ cơ sở pháp lý để bà
Khen thi hành án trả tiền cho ông Minh”.

7
1.5. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết và cơ sở pháp lý của Tòa án đối với
việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ.
Theo nhóm em, hướng giải quyết của Tòa án là hợp tình và đúng lý. Bởi vì, tòa án
xét thấy: sạp thịt heo do bà Khen đứng tên và cầm cố, nhưng giấy chứng nhận rạp D2-9
tại chợ Tân Hương chỉ là giấy đăng ký sử dụng sạp, không phải quyền sở hữu, nên giấy
chứng nhận trên không đủ cơ sở pháp lý mà để bà Khen thi hành án trả tiền cho ông
Minh.Theo đó, tài sản cầm cố đó nếu không thuộc quyền sở hữu của bà Khen thì bà Khen
chỉ có quyền sử dụng chứ không có quyền định đoạt trong giao dịch cầm cố sạp để trả nợ.
Căn cứ pháp lý: Khoản 1 Điều 320 BLDS 2005: “1. Vật bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ dân sự phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm và được phép giao dịch”.
1.6. Đoạn nào của Quyết định số 02 cho thấy các bên đã dùng quyền sử dụng đất để
cầm cố?
Đoạn của Quyết định số 02 cho thấy các bên đã dùng quyền sử dụng đất để cầm
cố: “Ngày 30-08-1995 vợ chồng ông Võ Văn Ổn và Lê Thị Xanh cùng ông Nguyễn Văn
Rành thỏa thuận việc thực đất. Hai bên có lập “Giấy thực đất làm ruộng” với nội dung
giống như việc cầm cố tài sản. Theo lời khai của nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận là
cầm cố đất (BL số 08, 09, 10, 19, 20)”.
1.7. Văn bản hiện hành có cho phép dùng quyền sử dụng đất để cầm cố không? Nêu
cơ sở văn bản khi trả lời?
Hiện nay, không có văn bản hiện hành quy định cụ thể về việc cầm cố quyền sử
dụng đất. Các điều luật liên quan đến vấn đề cầm cố quyền sử dụng đất chỉ có những điều
khoản như sau:
+ Khoản 1 điều 167 Luật Đất đai có quy định về các quyền của người sử dụng đất nhưng
không nhắc đến quyền cầm cố: “1. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển
đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử
dụng đất theo quy định của Luật này.”
+ Tuy nhiên nếu xét giao dịch cầm cố quyền sử dụng đất như một giao dịch cầm cố tài
sản thông thường, ta có thể áp dụng các điều sau:
Về cầm cố tài sản, điều 309 Bộ Luật Dân sự định nghĩa: “Cầm cố tài sản là việc
một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên
kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ”. Mà theo khoản 1
điều 105 Bộ Luật Dân sự: “1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”.
🡺 Có thể xác định hiện nay chưa có quy định cụ thể về cầm cố quyền sử dụng đất, chỉ có
thể áp dụng các điều luật liên quan đến cầm cố tài sản.
1.8. Trong Quyết định trên, Tòa án có chấp nhận cho phép dùng quyền sử dụng đất
để cầm cố không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?

8
Toà án đã chấp nhận việc dùng quyền sử dụng đất để cầm cố, thể hiện qua đoạn:
“Về nội dung thì giao dịch thục đất nêu trên phù hợp với quy định về cầm cố tài sản của
Bộ Luật Dân sự để giải quyết…”
1.9. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án trong Quyết định số
02.
Theo nhóm em, việc Toà án công nhận giao dịch cầm cố quyền sử dụng đất nêu
trên là có căn cứ pháp luật và hoàn toàn hợp lý vì:
+ Xét theo góc độ kinh tế:
* Cho phép cầm cố quyền sử dụng đất sẽ tạo cơ hội cho loại tài sản này lưu thông trong
nền kinh tế, tránh lãng phí. Khi người có quyền sử dụng đất không có nhu cầu sử dụng
hoặc sử dụng không hiệu quả, cần vốn để đầu tư thêm vào việc khác thì có thể cầm cố để
người nhận cầm cố sử dụng đất đai một cách hiệu quả hơn, phần vốn cũng được sử dụng
hiệu quả hơn.
+ Xét theo góc độ xã hội:
* Việc cầm cố đất và cầm cố quyền sử dụng đất đã được ghi nhận từ rất lâu ở Việt Nam,
đồng thời xét theo góc độ xã hội hiện tại, việc cầm cố này không ảnh hưởng đến lợi ích
của người khác, cũng như lợi ích xã hội, vì vậy không có lý do để cấm việc cầm cố đất.
+ Xét theo góc độ pháp lý:
* Trong Bộ Luật Dân sự 2015 có cho phép việc cầm cố bất động sản, vì vậy nếu Toà án
không cho phép cầm cố quyền sử dụng đất thì các quy định này sẽ trở nên vô nghĩa, vì
điều này đồng nghĩa với việc không cho phép việc cầm cố nhà ở (là một loại bất động sản
có giá trị lớn). Trên thực tế, các quy định về nhà ở cũng không nêu rõ việc chủ sở hữu có
quyền cầm cố nhà ở.
* Ngoài ra với tinh thần “được phép làm những gì pháp luật không cấm” và như Toà án
đã nêu thì nếu giao dịch được thực hiện không trái pháp luật, trái đạo đức, tuân thủ đúng
các quy định về hình thức và nội dung thì ta có thể công nhận giao dịch này là hợp pháp.
+ Xét theo góc độ về việc bảo vệ quyền và lợi ích của những người liên quan, nếu
xét xử như toà án sơ thẩm thì quyền và lợi ích của ông Rành sẽ không được đảm bảo, cụ
thể:
* Khi đó, ông Ôn và bà Xanh chỉ cần trả đúng 30 chỉ vàng 24K và sẽ được nhận lại phần
đất đã cầm cố mà không phải thực hiện bất kỳ nghĩa vụ gì khi chậm thực hiện nghĩa vụ trả
tiền.
* Đồng thời từ thời điểm phát sinh giao dịch cầm cố tức 1995 đến lúc diễn ra phiên xét xử
sơ thẩm là 24/12/2012 đã qua rất nhiều năm, giá nhà đất cũng như giá vàng đã có sự biến
động, vì vậy cần thiết phải tính lại theo giá thị trường.

9
* Nếu giao dịch cầm cố vô hiệu thì ông Rành không có quyền được khai thác công dụng
tài sản cầm cố và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản cầm cố, nên ông Rành phải hoàn trả 1
phần hoa lợi lợi tức trên cho vợ chồng ông Ôn và bà Xanh.
1.10. Trong Quyết định số 27, thế chấp được sử dụng để bảo đảm cho nghĩa vụ nào?
Vì sao?
Trong quyết định số 27, thể chấp được sử dụng để đảm bảo cho nghĩa trụ trả nợ
khoản vay của công ty PT ngân hàng theo Khoản 1, Điều 317 BLDS 2015: "1. Thế chấp
tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thể chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình
để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi là bên
nhận thể chấp)".
Trong Hợp đồng thế chấp của ngân hàng với công ty có ghi: "Hợp đồng này để
bảo đảm thực hiện toàn bộ nghĩa vụ đã, đang và sẽ hình thành trong tương lai theo toàn
bộ các Hợp đồng tín dụng đã và sẽ ký giữa Ngân hàng với Bên vay trong giới hạn số tiền
tối đa bằng giả trị tài sản thế chấp…”
Như vậy, việc sử dụng bất động sản để cầm cố theo quy định của BLDS là hoàn
toàn phù hợp vì:
+ Thứ nhất, về mặt pháp lý: Có hai loại bất động sản được coi là có giá trị nhất là nhà ở
và quyền sử dụng đất. Nếu như không cho phép cầm cố quyền sử dụng đất thì việc BLDS
cho phép cầm cố bất động sản là không còn giá trị. Hơn nữa, luật Đất đai 2013 cũng
không có quy định hay điều khoản nào cấm, hạn chế quyền của người sử dụng đất.
+ Thứ hai, về mặt xã hội: Việc cầm cố quyền sử dụng đất không vi phạm điều cấm của
luật, không trải đạo đức xã hội, không làm ảnh hưởng đến lợi ích của người khác thì
không nên hạn chế, nếu hạn chế thì không thuyết phục vì pháp luật quy định chỉ hạn chế
hay cầm một loại giao dịch dân sự khi giao dịch này xâm hại hay có nguy cơ xâm hại đến
chính mục đích của một bên tham gia giao dịch.
+ Thứ ba, về mặt kinh tế: việc cho phép cầm cố quyền sử dụng đất đồng nghĩa với việc
cho phép loại tài sản này có có cơ hội lưu thông trên nền kinh tế. Khi người có quyền sử
dụng đất không có nhu cầu hay sử dụng không hiệu quả nhưng cần vốn để đầu tư.
1.11. Đoạn nào trong Quyết định số 27 cho thấy Toà án xác định hợp đồng thế chấp
đã chấm dứt?
Đoạn trong Quyết định số 27 cho thấy Toà án xác định hợp đồng thế chấp đã chấm
dứt là:
+ "Hủy Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 20/2020/KDTM-PT ngày 26/8/2020
của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương và giữ nguyên Bản án kinh doanh thương mại sơ
thẩm số 11/2019/KDTM-ST ngày 12/9/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu
Một, tỉnh Bình Dương đối với vụ án "Tranh chấp hợp đồng tín dụng" giữa nguyên đơn
Ngân hàng Liên doanh V với bị đơn Công ty PT".

10
+ “Tòa án cấp sơ thẩm tuyên Hợp đồng thể chấp số 63/2014/HDTC ngày 06/6/2014 đã
ký giữa ông Trần T, bà Trần Thị H; Ngân hàng V và Công ty PT chấm dứt hiệu lực. Ngân
hàng phải trả lại cho ông T, bà H bản chính Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và
quyền sử dụng đất ở tại số 40, đường Đ, Phường 13, quận 1, Thành phố H số hồ sơ gốc:
3859/2002 do Ủy ban nhân dân Thành phố H cấp ngày 05/02/2002 mang tên ông Trần T,
bà Trần Thị H là có căn cử, đúng quy định của pháp luật"
🡺 Từ 2 đoạn này cho thấy tòa án xác định hợp đồng đã chấm dứt theo tòa án sơ thẩm.
1.12. Vì sao Toà án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt?
Qua quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Ngân hàng V thừa nhận Công ty PT đã
tất toán các khoản vay từ Hợp đồng tín dụng số 60/2014/HĐTD ngày 14/4/2014 lần lượt
vào các ngày 15/10/2014: ngày 25/10/2014 và ngày 12/11/2014. Vì vậy, việc thể chấp tài
sản của ông T. bà H đã chấm dứt theo quy định tại Khoản 1 Điều 357 Bộ luật dân sự năm
2005 và Khoản 1 Điều 327 Bộ luật dân sự năm 2015.
Do đó, việc Ngân hàng yêu cầu được xử lý tài sản thế chấp của ông T, bà H để thu
hồi nợ là không có cơ sở. Do hợp đồng thể chấp đã chấm dứt nên Ngân hàng có trách
nhiệm hoàn trả bản chính Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở
cho ông T, bà H. Điều 327 BLDS 2015: Chấm dứt thế chấp tài sản “ Thế chấp tài sản
chấm dứt trong trường hợp sau đây: 1. Nghĩa vụ được bảo đảm bằng thế chấp chấm
dứt…”
1.13. Việc Toà án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt có thuyết phục
không? Vì sao?
Việc toà án xác định hợp đồng thế chấp đã chấm dứt hiệu lực là hợp lý vì hợp đồng
thế chấp số 63/2014/HĐTC giữa ông T, bà H và ngân hàng V là hợp đồng bảo đảm cho
hợp đồng tín dụng số 60/2014/HĐTD. Do đó, khi ngân hàng V thừa nhận công ty PT đã
tất toán số tiền vay từ hợp đồng số 60/2014/HĐTD thì việc thế chấp đương nhiên chấm
dứt theo quy định tại khoản 1 Điều 327 BLDS 2015.
1.14. Khi xác định hợp đồng thế chấp chấm dứt, Tòa án theo hướng bên nhận thế
chấp (Ngân hàng) có trách nhiệm hoàn trả Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và
quyền sử dụng đất có thuyết phục không? Vì sao?
Hợp đồng thế chấp đã chấm dứt hiệu lực vì vậy căn cứ vào khoản 1 Điều 322
BLDS thì bên nhận thế chấp phải trả lại giấy tờ cho bên thế chấp cụ thể là ngân hàng V
phải trả lại Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất cho ông T và bà H.
Do đó, Toà án theo hướng ngân hàng có trách nhiệm phải trả lại giấy tờ nêu trên cho ông
T và bả H là hợp lý.

11
VẤN ĐỀ 2: ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM.
Tóm tắt Bản án số 90/2019/KDTM-PT ngày 16/8/2019 của Toà án nhân dân TP. Hà
Nội.
- Nguyên đơn: Ngân hàng N (kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của Công ty TNHH
MTV Q gọi tắt là VAMC).
- Bị đơn: Công ty TNHH Xây dựng và Thương mại V.
- Nội dung vụ án: tranh chấp hợp đồng tín dụng.
- Lý do tranh chấp: Ngân hàng N và Công ty V có ký kết hợp đồng tín dụng để vay tiền.
Ông Q, bà V có hợp đồng thế chấp với nội dung ông bà tự nguyện dùng tài sản của mình
để đảm bảo cho các khoản vay của Công ty V tại Ngân hàng. Tuy nhiên trong quá trình
thực hiện hợp đồng Công ty V không thanh toán được khoản tiền gốc và lãi vay theo thỏa
thuận. Trong quá trình giải quyết vụ án Ngân hàng và VAMC ký hợp đồng mua bán nợ.
Theo đó Ngân hàng bán khoản nợ của Công ty V cho VAMC, sau đó VAMC khởi kiện
đòi Công ty V và ủy quyền cho Ngân hàng tham gia tố tụng. Trong quá trình khởi kiện và
Tòa án giải quyết thì Ngân hàng mua lại khoản nợ của Công ty V từ VAMC.
- Quyết định của Tòa án: chấp nhận yêu khởi kiện của Ngân hàng, buộc Công ty V phải
thành toán cho Ngân hàng số tiền nợ gốc và lãi. Trong trường hợp Công ty V không thực
hiện được nghĩa vụ trả các khoản tiền trên, Ngân hàng có quyền yêu cầu Cơ quan thi hành
án dân sự có thẩm quyền xử lý tài sản đảm bảo.
Tóm tắt Quyết định số 41/2021/KDTM-GĐT ngày 08/7/2021 của Tòa án nhân dân
cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh.
- Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng.
- Bị đơn: ông Lê Vĩnh Thọ và bà Nguyễn Thị Ngọc Loan.
- Nội dung vụ án: Tranh chấp về hợp đồng tín dụng.
- Lý do tranh chấp: Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng và ông Thọ, bà Loan ký
kết hợp đồng vay tiền với nội dung: 822.000.000 đồng, lãi suất 8,99%/năm cố định trong
24 tháng đầu tiên, có điều chỉnh lãi suất định kỳ 3 tháng/lần, thời hạn vay là 72 tháng.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, ông Thọ, bà Loan nhiều lần vi phạm nghĩa vụ trả nợ,
dư nợ thực tế là 592.618.832 đồng (nợ gốc 502.324.000 đồng, nợ lãi: 90.294.832 đồng) và
đem tài sản thế chấp là 01 chiếc ô-tô tải giao dịch trái pháp luật với bà Giao, rồi bà Giao
chuyển nhượng cho ông Tân.
- Quyết định của Tòa án: giữ nguyên bản án về phần buộc ông Lê Vĩnh Thọ và bà
Nguyễn Thị Ngọc Loan trả nợ cho ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng. Hủy bản án
về phần buộc ông Phan Thái Tân trả lại xe ô-tô cho ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh
Vượng và về phần xử lý xe ô-tô này để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ của ông Thọ và bà Loan.
Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh xét xử lại vụ
án theo thủ tục sơ thẩm về phần bản án bị hủy nói trên.
2.1. Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về đăng ký giao dịch bảo đảm.
12
Điều 323 BLDS 2005 Điều 298 BLDS 2015
Đăng ký giao dịch bảo đảm Đăng ký biện pháp bảo đảm
“1. Giao dịch bảo đảm là giao dịch dân “1. Biện pháp bảo đảm được đăng ký theo
sự do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật thỏa thuận hoặc theo quy định của luật.
quy định về việc thực hiện biện pháp bảo Việc đăng ký là điều kiện để giao dịch bảo
đảm được quy định tại khoản 1 Điều 318 đảm có hiệu lực chỉ trong trường hợp luật
của Bộ luật này. có quy định.
2. Việc đăng ký giao dịch bảo đảm được 2. Trường hợp được đăng ký thì biện pháp
thực hiện theo quy định của pháp luật về bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với
đăng ký giao dịch bảo đảm. Việc đăng ký người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký.
là điều kiện để giao dịch bảo đảm có hiệu 3. Việc đăng ký biện pháp bảo đảm được
lực chỉ trong trường hợp pháp luật có quy thực hiện theo quy định của pháp luật về
định. đăng ký biện pháp bảo đảm.”
3. Trường hợp giao dịch bảo đảm được
đăng ký theo quy định của pháp luật thì
giao dịch bảo đảm đó có giá trị pháp lý
đối với người thứ ba, kể từ thời điểm đăng
ký.”

BLDS 2005 sử dụng thuật ngữ “Đăng ký giao dịch bảo đảm” còn BLDS 2015 sử
dụng thuật ngữ “Đăng ký biện pháp bảo đảm”. Việc sử dụng thuật ngữ “Đăng ký biện
pháp bảo đảm” sẽ phù hợp hơn vì giao dịch bảo đảm là giao dịch dân sự do các bên thỏa
thuận hoặc pháp luật quy định về việc thực hiện biện pháp bảo đảm.
Đoạn 2 khoản 1 Điều 298 BLDS 2015 kế thừa quy định trong khoản 2 Điều 323
BLDS 2005. Việc thay thế từ “pháp luật quy định” bằng “luật quy định” đã thể hiện sự
thay đổi trong tư duy lập pháp, phù hợp với quy định của Hiến pháp và các quy định khác
có liên quan.
2.2. Hợp đồng thế chấp số 1013.2009/HĐTC ngày 07/9/2009 có thuộc trường hợp
phải đăng ký không? Vì sao?
Hợp đồng thế chấp số 1013.2009/HĐTC ngày 07/9/2009 thuộc trường hợp phải đăng ký.
Vì đây là hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và nhà do đó theo khoản 1 Điều 25 NĐ
99/2022/NĐ-CP thì đây thuộc trường hợp buộc phải đăng ký.
“Điều 25. Trường hợp đăng ký thuộc thẩm quyền của Văn phòng đăng ký đất đai
1. Các trường hợp phải đăng ký:
a) Thế chấp quyền sử dụng đất;
b) Thế chấp nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất trong trường hợp tài sản đã được chứng
nhận quyền sở hữu trên Giấy chứng nhận;
13
c) Thế chấp dự án đầu tư xây dựng nhà ở, dự án đầu tư xây dựng công trình không phải
là nhà ở, dự án đầu tư nông nghiệp, dự án phát triển rừng, dự án đầu tư khác có sử dụng
đất đồng thời với quyền sử dụng đất được Nhà nước giao có thu tiền sử dụng đất, cho
thuê theo hình thức trả tiền một lần cho cả thời gian thuê;
d) Đăng ký thay đổi, xóa đăng ký đối với trường hợp quy định tại các điểm a, b và c
khoản này.”
2.3. Hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 đã được đăng ký phù hợp với quy định không?
Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 đã được đăng ký phù hợp với quy định. Đoạn của
bản án cho câu trả lời:
“Đối với hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của bên thứ ba
ngày 07/9/2009. Sau khi các bên ký kết hợp đồng thì công chứng viên thực hiện việc công
chứng theo trình tự: lập lời chứng của công chứng viên ghi nhận rõ các bên tham gia ký
kết hợp đồng thế chấp gồm: Bên thế chấp, bên nhận thế chấp và bên vay ghi nhận rõ việc
bên thế chấp và bên vay ký tên và Hợp đồng trước mặt công chứng viên tại địa chỉ số 60
V, phường T, quận H, Hà Nội. Sau đó công chứng viên đóng dấu và trả hồ sơ chọ phía
Ngân hàng. Công chứng viên, ông Khúc Mạnh C khẳng định khi ký kết hợp đồng, ông Q
và bà V đã xuất trình đầy đủ chứng minh thư nhân dân, hộ khẩu và Giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất. Bên ngân hàng đã có Giấy đề nghị Công
chứng và Biên bản định giá tài sản, hợp đồng thế chấp đều ghi ngày 07/9/2009 được ký
và đóng dấu bởi người có thẩm quyền của Ngân hàng. Ngoài ra Biên bản định giá có đầy
đủ chữ ký của bên thế chấp là vợ chồng ông Q và bà V; bên khách hàng vay là Công ty V
do ông Nguyễn Từ D làm đại diện ký tên và đóng dấu Văn phòng công chức đã thực hiện
đúng pháp luật công chứng, nội dung văn bản công chứng không trái với quy định của
pháp luật, không vi phạm Điều 122 Bộ luật dân sự năm 2005 nên không thể tự vô hiệu”.
2.4. Theo Toà án, nếu không được đăng ký, hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 có vô
hiệu không? Vì sao?
Theo Tòa án, nếu không được đăng ký, hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 không vô
hiệu. Vì tại thời điểm làm thủ tục đăng ký thế chấp ngày 30/9/2009 thì Thông tư số
05/TTLB-BTP-BTNMT ngày 16/6/2005 đang có hiệu lực, tại Điều 4 về người yêu cầu
đăng ký có quy định “người yêu cầu đăng ký là một bên trong các bên hoặc các bên ký
hợp đồng thế chấp, bảo lãnh” chi đến ngày 01/3/2010 thì mới có Thông tư số
06/2010/TTLT-BTP-BTNMT và tại Điều 1 mà Thông tư số 06 mới có quy định là khi
đăng ký thế chấp mới (lần đầu) thì các bên phải ký còn đăng ký thay đổi, bổ sung thì chỉ
cần một bên. Như vậy, tại thời điểm ngày 30/9/2009 chỉ cần một bên là bên thế chấp hoặc
bên nhận thế chấp, bảo lãnh ký là được. Mà theo đơn yêu cầu đăng ký thế chấp ngày
30/9/2009 thì bên nhận thế chấp là Ngân hàng có ký đóng dấu vào đơn này nên Đơn đăng
ký vẫn đúng quy định và phát sinh hiệu lực.
2.5. Hướng của Toà án như trong câu hỏi trên có thuyết phục không? Vì sao?

14
Hướng của Tòa án như trong câu hỏi ở trên là thuyết phục. Vì nếu không được
đăng ký thì hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 không vô hiệu. Bởi vì tại thời điểm làm thủ
tục đăng ký thế chấp ngày 30/9/2009 thì Thông tư số 05/TTLB-BTP- BTNMT ngày
16/6/2005 đang có hiệu lực, tại Điều 4 về người yêu cầu đăng ký có quy định “người yêu
cầu đăng ký là một bên trong các bên hoặc các bên ký hợp đồng thế chấp, bảo lãnh”.
Như vậy chỉ cần một bên là bên thế chấp hoặc bên nhận thế chấp, bảo lãnh ký là được.
Chính vì thế, tạo điều kiện thuận lợi cho bên thế chấp, chỉ cần được bên bảo lãnh đồng ý
thì bên thế chấp vẫn có thể tiếp tục thực hiện được hợp đồng thế chấp mà không cần phải
đăng ký giao dịch đảm bảo và cũng không cần phải phát sinh thêm các tài sản thế chấp
khi phát sinh thêm các hợp đồng thế chấp ký sau đó. Hướng của tòa án là vô cùng hợp lý,
để tuyển được hợp đồng vô hiệu giữa bên nhận thế chấp là Ngân hàng và bên vay là Công
ty cổ phần xây dựng Thương Mại V là chưa phát sinh hiệu lực, cũng như yêu cầu Ngân
hàng phải trả lại bản gốc Giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà và quyền sử dụng đất cho
ông Đỗ Văn Q và bà Phạm Thị V.
2.6. Hợp đồng thế chấp trong Quyết định số 21 có hiệu lực đối kháng với người thứ
ba không? Vì sao?
Hợp đồng thế chấp trong Quyết định số 41 không có hiệu lực đối kháng với người
thứ ba. Vì căn cứ theo khoản 1 Điều 297 BLDS 2015 quy định: “Biện pháp bảo đảm phát
sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba từ khi đăng ký biện pháp bảo đảm hoặc bên
nhận bảo đảm nắm giữ hoặc chiếm giữ tài sản bảo đảm”, mà trong bản án không có nói
về việc đăng ký tài sản thế chấp giữa ông Thọ, bà Loan và ngân hàng TMCP Việt Nam
Thịnh Vượng và cũng không đề cập đến việc bên nhận bảo đảm nắm giữ hoặc chiếm giữ
tài sản bảo đảm. Bên cạnh đó, việc đăng ký biện pháp bảo đảm là theo thỏa thuận hoặc
theo quy định của pháp luật mà theo điểm a khoản 2 Điều 4 Nghị định 10/2017/NĐ-CP
quy định các giao dịch đăng ký bảo đảm thì thế chấp tài sản là động sản là biện pháp bảo
đảm được đăng ký khi có yêu cầu. Và bên ngân hàng cũng không yêu cầu ông Thọ, bà
Loan đi đăng ký biện pháp bảo đảm nên hợp đồng thế chấp trong Quyết định số 41 này
không có hiệu lực đối kháng với người thứ ba.
2.7. Theo quy định về đòi tài sản (Điều 166 và tiếp theo BLDS năm 2015), Ngân hàng
có quyền yêu cầu ông Tân (người thứ ba so với hợp đồng thế chấp) trả lại tài sản thế
chấp (xe ô tô) không? Vì sao?
Theo quy định về đòi tài sản, Ngân hàng không có quyền yêu cầu ông Tân trả lại
tài sản thế chấp (xe ô tô) vì theo khoản 1 Điều 166 BLDS 2015: “Chủ sở hữu, chủ thể có
quyền khác đối với tài sản có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử dụng tài
sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật”.
Trong trường hợp này, Ngân hàng không phải là chủ sở hữu của xe ô tô trên vì xe
ô tô chỉ là tài sản thế chấp, ông Thọ dùng xe ô tô chỉ để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ và tài
sản này vẫn còn thuộc quyền sở hữu của ông Thọ. Ngân hàng có thể áp dụng khoản 5
Điều 323 BLDS 2015 để lấy lại tài sản đang thuộc sự chiếm hữu không có căn cứ: “Yêu
cầu bên thế chấp hoặc người thứ ba giữ tài sản thế chấp giao tài sản đó cho mình để xử
lý khi bên thế chấp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”.
15
2.8. Việc Tòa án buộc ông Tân trả lại tài sản thế chấp (xe ô tô) cho Ngân hàng có
thuyết phục không? Vì sao?
Việc Tòa án buộc ông Tân trả lại tài sản thế chấp là xe ô tô cho Ngân hàng là
thuyết phục. Vì đây là giao dịch do ông Thọ, bà Loan tự ý chuyển nhượng xe ô tô thế
chấp cho bà Giao và bà Giao chuyển nhượng cho ông Tân, ngay từ đầu đây là đã là giao
dịch dân sự vô hiệu, trái với pháp luật quy định. Đồng thời tài sản thế chấp là động sản
không thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 321 BLDS 2015 nên bên thế chấp
không có quyền được bán, thay thế, trao đổi.

VẤN ĐỀ 3: ĐẶT CỌC


Tóm tắt Án lệ số 25/2018/AL.
- Nguyên đơn: Phan Thanh L
- Bị đơn: Trương Hồng Ngọc H
- Nội dung : Ông Phan Thanh L đặt cọc 2.000.000,000 đồng cho bà Trương Hồng Ngọc
H để mua nhà do bà H đứng tên. Hết thời hạn hoàn tất các thủ tục để được cấp giấy chứng
nhận quyền sở hữu đối với căn nhà nêu trên là 30 ngày theo như được nêu trong Hợp
đồng đặt cọc, bà H không thực hiện đúng cam kết nên ông L khởi kiện yêu cầu bà H trả
lại tiền cọc 2.000.000.000 đồng và phạt cọc 2.000.000.000 đồng. Bà H không đồng ý phạt
cọc, chỉ đồng ý trả tiền cọc cùng với lãi suất theo mức lãi suất của ngân hàng, vì cho rằng
nguyên nhân dẫn đến việc bà không thực hiện được đúng cam kết là do cơ quan thi hành
án dân sự chậm sang tên cho bà. Toà án cần xác minh là do lỗi chủ quan của bà H không

16
liên hệ với cơ quan thi hành án dân sự để làm thủ tục sang tên, hay do lỗi khách quan của
cơ quan thi hành án dân sự chậm sang tên cho bà H. Sau đó tòa án nhân dân tối cao đã xét
xử lại vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm và đã ra quyết định hủy bản án sơ thẩm và phúc
thẩm.
Tóm tắt Quyết định số 49/2018/KDTM-GĐT ngày 18/10/2018 của Tòa án nhân dân
cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh.
- Nguyên đơn: Công ty cổ phần TV-TM-DV Địa ốc Hoàng Quân.
- Bị đơn: Công ty TNHH Thương mại và Xây dựng Sơn Long Thuận
- Nội dung: Công ty Ninh Thuận đã ký kết biên bản thỏa thuận với Công ty Hoàng Quân
về việc bán cho Công ty Hoàng Quân cổ phần thuộc sở hữu của SCIC. Công ty Hoàng
Quân đã chuyển số tiền đặt cọc 1.000.000 vào tài khoản của Công ty Ninh Thuận. Ngân
hàng đã trích số tiền đặt cọc của Công ty Hoàng Quân để thu nợ vay của Công ty Ninh
Thuận là không có căn cứ pháp luật vì số tiền đặt cọc chưa thuộc quyền sở hữu của Công
ty Ninh Thuận theo quy định tại khoản 1 Điều 328 Bộ luật Dân sự 2015. Do đó, Tòa án
nhân dân cấp cao quyết định không chấp nhận kháng nghị giám đốc thẩm và giữ nguyên
bản án của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận.
Tóm tắt Bản án số 26/2019/DS-PT ngày 11/6/2019 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng
Ninh.
- Nguyên đơn: Ông Vũ Đình P
- Bị đơn: Ông Trần Xuân I
- Nội dung: Ngày 26/8/2016, ông Vũ Đình P và ông Trần Xuân I thống nhất thỏa thuận
ký hợp đồng đặt cọc, với nội dung: Ông P đặt cọc trước cho ông I 450.000.000 đồng để
mua và ông I đồng ý bán loại xe ô tô Hyundai Santafe 07 chỗ nhập khẩu từ Mỹ, sản xuất
năm 2016 và thời gian giao xe trước Tết Dương lịch năm 2017, nhưng không ghi giá xe.
Do có mối quan hệ làm ăn quen biết từ năm 2008, ông P biết ông I có người thân định cư
ở Mỹ có thể mua được xe ô tô sản xuất tại Mỹ nhập khẩu về Việt Nam, nên ông P đã nhờ
ông Ích mua hộ, ông I đồng ý và nói giá xe khoảng hơn 800.000.000 đồng. Tuy nhiên,
theo quy định của pháp luật việc kinh doanh mua bán xe ô tô nhập khẩu là loại hàng hóa
kinh doanh có điều kiện, thương nhân phải đăng ký và được cơ quan có thẩm quyền cấp
giấy phép kinh doanh. Ông P và ông I ký hợp đồng đặt cọc với tư cách là cá nhân với
nhau, bản thân ông I không được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép kinh doanh nhập
khẩu xe ô tô và ngay cả doanh nghiệp do ông I làm chủ là Công ty Cổ phần P L cũng
không đăng ký kinh doanh nhập khẩu xe ô tô. Việc ký hợp đồng đặt cọc giữa ông P và
ông I đã vi phạm các quy định của pháp luật về mua bán nhập khẩu xe o tô, vi phạm Điều
117, Điều 122, Điều 123 Bộ luật Dân sự năm 2015, nên hợp đồng này vô hiệu và không
làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên. Cả ông P và ông I
khi ký hợp đồng đặt cọc đã không xem xét các quy định của pháp luật về điều kiện mua

17
bán xe ô tô nhập khẩu, nên cả hai bên đều có lỗi làm cho giao dịch vô hiệu, nên thiệt hại
các bên phải tự chịu và yêu cầu phạt đặt cọc của ông P không có căn cứ.
3.1. Khác biệt cơ bản giữa đặt cọc và cầm cố, đặt cọc và thế chấp.

Đặt cọc Cầm cố Thế Chấp

Cơ sở Điều 328 BLDS 2015 Điều 309 đến Điều Điều 317 đến Điều 327
pháp lý 316 BLDS 2015 BLDS 2015

Đặt cọc là việc một bên Cầm cố là việc một Thế chấp là việc một bên
(sau đây gọi là bên đặt bên (sau đây gọi là (sau đây gọi là bên thế
cọc) giao cho bên kia bên cầm cố) giao tài chấp) dùng tài sản thuộc
(sau đây gọi là bên nhận sản thuộc quyền sở sở hữu của mình để bảo
đặt cọc) một khoản tiền hữu của mình cho đảm thực hiện nghĩa vụ
Khái hoặc kim khí quý, đá quý bên kia (sau đây gọi và không giao tài sản cho
niệm hoặc vật có giá trị khác là bên nhận cầm cố) bên kia (sau đây gọi là
(sau đây gọi chung là tài để bảo đảm thực hiện bên nhận thế chấp).
sản đặt cọc) trong một nghĩa vụ.
thời hạn để bảo đảm giao
kết hoặc thực hiện hợp
đồng.

Bên đặt cọc và bên nhận Bên cầm cố và bên Bên thế chấp và bên nhận
đặt cọc nhận cầm cố thế chấp. Có thể có bên
Chủ thể
thứ ba giữ tài sản thế
chấp

Tiền vật có giá trị hoặc Tài sản thuộc bên sở Vật, quyền tài sản, giấy
các vật thông thường hữu được cầm cố bao tờ có giá, có thể là tài sản
khác mà bên đặt cọc giao gồm: Động sản, các hiện có hoặc tài sản hình
cho bên nhận đặt cọc. giấy tờ có giá ( trái thành trong tương lai, tài
Giá trị tài sản đặt cọc có phiếu, cổ phiếu,.. ) sản đang cho thuê, cho
thể thấp hơn giá trị hợp Đặt biệt thì trường mượn. Có thể thỏa thuận
Đối
đồng cần bảo đảm. hợp này không bao dùng toàn bộ hoặc một
tượng
gồm bất động. phần tài sản để thế chấp
tùy theo thỏa thuận của
các bên.Tài sản thế chấp
được bảo hiểm thì khoan
tien bảo hiểm cũng có thể
được thế chấp.

Bản Là biện pháp bảo đảm Là biện pháp bảo Là biện pháp bảo đảm
18
thực hiện nghĩa vụ dân sự đảm thực hiện nghĩa thực hiện nghĩa vụ dân sự
thuộc vật quyền, nhằm vụ dân sự thuộc vật thuộc vật quyền, trong đó
bảo đảm cho giao kết quyền, trong dó bắt buộc có sự chuyển
hoặc thực hiện hợp không có sự chuyển giao tài sản (chuyển giao
đồng. Đặc biệt, đặt cọc giao tài sản cho bên dưới dạng vật chất).
có thể được thực hiện nhận thế chấp mà chỉ
chất trước khi hai bên xác lập giao các giấy tờ
hợp đồng có nghĩa vụ chứng minh tình
được bảo đảm. trạng pháp lý của tài
sản thế chấp (chuyển
giao dưới dạng giấy
tờ ).

Không có quy định về - Nghĩa vụ được bảo - Nghĩa vụ được bảo đảm
trường hợp chấm dứt đặt đảm bằng cầm cố bằng thế chấp chấm dứt.
cọc. chấm dứt.
- Việc thế chấp tài sản
- Việc cầm cố tài sản được huỷ bỏ hoặc được
Các được huỷ bỏ hoặc thay thế bằng biện pháp
trường được thay thế bằng bảo đảm khác.
hợp biện pháp bảo đảm
chấm - Tài sản thế chấp đã
khác.
dứt được xử lý.
- Tài sản cầm cố đã
- Theo thoả thuận của các
được xử lý.
bên.
- Theo thoả thuận của
các bên.

3.2. Thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 về đặt cọc.

Bộ luật Dân sự 2005 (Điều 358) Bộ luật Dân sự 2015 ( Điều 328)

1. Đặt cọc là việc một bên giao cho bên 1. Đặt cọc là việc một bên (sau đây gọi là
kia một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây gọi
quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi là bên nhận đặt cọc) một khoản tiền hoặc
là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác
bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp (sau đây gọi chung là tài sản đặt cọc) trong
đồng dân sự. Việc đặt cọc phải được lập một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực
thành văn hiện hợp đồng

19
2. Trong trường hợp hợp đồng dân sự được
giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được
2. Trường hợp hợp đồng được giao kết,
trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để
thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại
thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc
cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực
từ chối việc giao kết, thuc hien hợp đồng
hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ
dân sự thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận
chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì
đặt cọc; nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc
tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc;
giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự thì
nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao
phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và
kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho
một khoản tiền tương đương giá trị tài sản
bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản
đặt cọc, try truong hop có thỏa thuận khác.
tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc,trừ
Đặt cọc để đảm bảo giao kết hoặc thực hiện
trường hợp có thỏa thuận khác. Đặt cọc
hợp đồng và cũng không nêu ra là việc đặt
để đảm bảo giao kết, thực hiện hợp đồng
cọc phải lập văn bản.
và cũng không nêu ra là việc đặt cọc phải
thành lập văn bản hiện hợp đồng dân sự.
Việc đặt cọc phải được thành lập văn.

3.3. Theo BLDS, khi nào bên đặt cọc mất cọc, bên nhận cọc bị phạt cọc?
Để có hành vi phạt vi phạm hợp đồng thì điều kiện tiên quyết đó là hợp đồng phải
có hiệu lực. Nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc
thuộc về bên đặt cọc. Nếu bên nhận cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải
trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị đặt cọc, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác. CSPL: Khoản 2 Điều 328 BLDS 2015.
3.4. Nếu hợp đồng được đặt cọc không được giao kết, thực hiện vì lý do khách quan,
bên nhận cọc có nghĩa vụ trả lại tài sản đặt cọc cho bên đặt cọc không? Vì sao?
Nếu hợp đồng được đặt cọc không được giao kết, thực hiện vì lý do khách quan,
bên nhận cọc có nghĩa vụ phải trả lại tài sản cho bên đặt cọc. Do các điều kiện khách quan
nên bên đặt cọc không thể thực hiện được dân đến việc hợp đồng được đặt cọc không thể
giao kết là lý do mà không bên nào có thể lường trước được. Theo khoản 2 Điều 328 Bộ
luật Dân sự 2015 thì pháp luật không quy định việc bên nhận cọc có nghĩa vụ trả lại tài
sản đặt cọc cho bên đặt cọc vì lý do khách quan
"2. Trường hợp hợp đồng được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên
đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ chối việc giao
kết, thực hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên nhận đặt
cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc

20
và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác"
Bên cạnh đó, tại khoản 2 Điều 351 Bộ luật Dân sự 2015 quy định như sau:
"2. Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng
thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp
luật có quy định khác.”
Tuy nhiên pháp luật chỉ quy định về sự kiện bất khả kháng mà không quy định về
lý do khách quan nên áp dụng thực tiễn xét xử theo Án lệ 25/2018/AL do bên đặt cọc từ
chối thì khi có lý do khách quan Tòa án thường xét theo hướng chi trả lai tien coc theo
quy định pháp luật mà không cần trả lại tiền phạt cọc vì lý do khách quan. Để bảo vệ
quyền và lợi ích của bên đặt cọc khi hợp đồng không thể giao kết vì lý do khách quan là
việc không ai mong muốn và đặt cọc là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, khi
nghĩa vụ vì một lý do bên ngoài tác động vào mà không the thuc hien cũng đã ít hay nhiều
gây ra tổn thất cho hai bên, để nhằm giam thieu tổn thất đến mức thấp nhất thì phải hoàn
trả lại bên đặt cọc.

❑ Đối với Quyết định số 49

3.5. Theo Quyết định được bình luận, bên đặt cọc đã chuyển tài sản đặt cọc cho bên
nhận cọc như thế nào?
Theo Quyết định được bình luận, sau khi Công ty Hoàng Quân ký kết Biên bản
thỏa thuận về việc Công ty Ninh thuận bán cho Công ty Hoàng Quân cổ phần thuộc sở
hữu của SCIC (Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước) thì bên đặt cọc (Công
ty Hoàng Quân) đã chuyển tài sản đặt cọc cho bên nhận đặt cọc (Công ty Ninh Thuận)
thông qua việc chuyển số tiền đặt cọc vào tài khoản của Công ty Ninh Thuận mở tại Ngân
hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
3.6. Theo Toà giám đốc thẩm trong Quyết định được bình luận, tài sản đặt cọc còn
thuộc sở hữu của bên đặt cọc không? Vì sao?
Theo Tòa giám đốc thẩm trong Quyết định được bình luận, tài sản đặt cọc còn
thuộc sở hữu của bên đặt cọc. Vì số tiền 1.000.000.000 đồng đặt cọc chưa thuộc quyền sở
hữu của Công ty Ninh Thuận, theo quy định tại khoản I Điều 328 Bộ luật Dân sự 2015:
"Đặt cọc là việc một bên giao cho bên kia một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc
các vật có giá trị khác (gọi là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết
hoặc thực hiện hợp đồng.”
3.7 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Toà giám đốc thẩm liên quan
đến quyền sở hữu tài sản đặt cọc.
Tòa giám đốc đã giải quyết theo hướng giữ nguyên quyết định của Tòa sơ thẩm và
phúc thẩm là buộc Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam có
nghĩa vụ hoàn trả cho Công ty Cổ phần TV - TM - DV Địa Ốc Hoàng Quân

21
1.000.000.000 đồng. Tòa xác định số tiền đặt cọc vẫn thuộc quyền sở hữu của Công ty
Hoàng Quân.
Toà xử lý như vậy theo em là hợp lý và thuyết phục, tuy nhiên phần căn cứ vào
pháp luật còn thiếu sót. Dưới góc độ pháp luật, tại khoản 2 Điều 328 của BLDS 2015 quy
định rõ việc tài sản chỉ thuộc về bên nhận đặt cọc khi bên đặt cọc từ chối việc giao kết,
thực hiện hợp đồng. Trong khi đó Tòa chỉ áp dụng khoản 1 Điều 328 BLDS 2015 để
khẳng định tài sản đặt cọc chưa thuộc quyền sở hữu của Công ty Ninh Thuận thì chưa đủ.
Theo em, Tòa cần nói rõ hơn về việc tài sản thuộc quyền sở hữu của bên nhận đặt
cọc khi nào. Theo đó, mục đích của biện pháp bảo đảm đặt cọc là giao tài sản để bảo đảm
giao kết, thực hiện hợp đồng, không liên quan đến việc chuyển quyền sở hữu. Từ đó, bên
nhận cọc chưa có quyền hay nghĩa vụ đối với phần tài sản đặt cọc đó.

❑ Đối với Bản án số 26

3.8. Đoạn nào cho thấy Toà án đã áp dụng Án lệ số 25/2018/AL?


Đoạn cho thấy Tòa án đã áp dụng Án lệ số 25/2018/AL "Căn cứ theo Án lệ số
25/2018/AL được hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17 tháng
10 năm 2018..."
3.9. Việc Toà án áp dụng Án lệ số 25/2018/AL vào hoàn cảnh trong vụ việc này có
thuyết phục không? Vì sao?
Việc Tòa án áp dụng Án lệ số 25/2018/AL là thuyết phục. Vụ việc trong Bản án số
26 thì phía bị đơn là bên nhận đặt cọc đã không thực hiện được nghĩa vụ là do lý do khách
quan (pháp luật thay đổi) nên bên nhận cọc không thể nhập khẩu xe về Việt Nam do chưa
có giấy phép kinh doanh nhập khẩu ô tô. Tương tự như Bản án trên thì Án lệ số 25, một
bên không thể giao kết hợp đồng vì lý do khách quan là nhà nước chưa thể cấp giấy
chứng nhận sở hữu nhà, nên có thể áp dụng Án Lệ số 25 cho Bản án trên.
3.10. Việc Toà án “không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông P, về việc yêu cầu
ông I phải trả số tiền phạt cọc là 450.000.000đ” có phù hợp với Án lệ số 25/2018/AL
không? Vì sao?
Việc Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện đòi phạt cọc là phù hợp với Án lệ
số 25/2018/AL. Vì theo Án lệ thì bên nhận cọc không thể thực hiện đúng cam kết là do lý
do khách quan thì bên nhận cọc không phải chịu phạt cọc. Trong Bản án, ông I không
thực hiện được là do lý do khách quan nên việc Tòa án không chấp nhận yêu cầu phạt cọc
là hoàn toàn hợp lý.

22
VẤN ĐỀ 4: BẢO LÃNH.
Tóm tắt Quyết định số 02/2013/KDTM-GĐT ngày 08/1/2013 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao
- Nguyên đơn: Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương Chi nhánh Đồng Nai.
- Bị đơn: bà Đỗ Thị Tỉnh.
- Những người có quyền lợi liên quan: Ông Trần Văn Miễu và bà Nguyễn Thị Cà.
- Nội dung vụ án: Ông Miễn và bà Cà vì muốn vay số tiền 70 triệu đồng, nên đã ký giấy
ủy quyền và hợp đồng thế chấp nhà đất để bà Tỉnh vay tiền Quỹ tín dụng theo yêu cầu của
bà Trang (người quen của ông Miễn và bà Cà). Sau đó bà Tỉnh vay được số tiền 900 triệu,
ông Miễn và bà Cà nhận được 70 triệu và bà Trang được 30 triệu. Ngày 26/9/2007, bà
Tỉnh trả 200 triệu và ông Miễu và bà Cà cũng trả 70 triệu. Nay, Quỹ tín dụng khởi kiện
đòi 630 triệu còn thiếu và lãi suất.
- Nhận định của Tòa án: Tòa giám đốc thẩm nhận định cần làm rõ liệu hợp đồng thế
chấp có đủ điều kiện để có hiệu lực hay không. Trong trường hợp xác định Hợp đồng thế
chấp quyền sử dụng đất giữa các bên có hiệu lực thì phải tuyên theo đúng quy định tại
điều khoản của hợp đồng; Điều 361 BLDS 2005 là khi bà Tỉnh không trả nợ hoặc trả
không đủ thì ông Miễn, bà Cà phải trả thay; nếu ông Miễn, bà Cà không trả nợ hoặc trả
không đủ thì mới xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ.
Tóm tắt Quyết định số 968/2011/DS-GĐT ngày 27/12/2011 của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao.
- Nguyên đơn: Bà Vũ Thị Hồng Nhung (1950)
- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Thắng (1964).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Thị Mát (1952), Nguyễn Văn Tam
(1950).
- Nội dung: Bà Nhung cho bà Mát vay 500.000.000 đồng (lãi suất 1,2%/ tháng). Bà Mát
được bà Thắng bảo lãnh. Tuy nhiên bà Mát chỉ trả được 8 tháng tiền lãi và không trả số
tiền còn lại nên bà Nhung đã khởi kiện. Tại Toà sơ thẩm quyết định bà Mát và bà Thắng
cùng liên đới chịu trách nhiệm trả tiền cho bà Nhung nhưng bà Thắng kháng cáo không
đồng ý với bản án sơ thẩm. Tại bản án dân sự phúc thẩm thì huỷ bản án sơ thẩm và nhận
xét rằng quan hệ vay tiền và quan hệ bảo lãnh là hai quan hệ độc lập nên bà Nhung có
quyền khởi kiện bà Mát trả tiền hoặc bà Thắng thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho bà Mát.
Sau đó bà Nhung khởi kiện lại yêu cầu bà Thắng phải trả tiền thay cho bà Mát.
- Quyết định của Tòa án: Tại quyết định giám đốc thẩm quyết định huỷ cả bản án sơ
thẩm và phúc thẩm, cho rằng trước hết cần xác định bà Mát là người thực hiện nghĩa vụ
dân sự của mình với bà Nhung, nếu bà Mát không có khả năng thực hiện nghĩa vụ dân sự
hoặc chỉ thực hiện được một phần thì phần không thực hiện được bà Thắng và ông Tam
mới có trách nhiệm thực hiện thay.
4.1. Những đặc trưng của bảo lãnh.
23
Thứ nhất, bảo lãnh là việc người thứ ba cam kết sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho người
được bảo lãnh nếu như người được bảo lãnh sau này không thực hiện, thực hiện không
đúng hoặc không đầy đủ (Người thứ ba ở đây có thể là cá nhân hoặc pháp nhân).
Thứ hai, chủ thể của quan hệ bảo lãnh gồm hai bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh.
Thứ ba, bảo lãnh là một biện pháp đối nhân. Có thể hiểu bảo đảm đối nhân là việc
bên bảo đảm được quyền yêu cầu đối với chính bên cam kết bảo đảm. Đối với biện pháp
bảo lãnh, bên có quyền chỉ trao quyền yêu cầu đối với bên bảo lãnh về việc thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh và không được trao quyền đối với một tài sản cu thể nào của bên bảo
lãnh. Bản chất của bảo lãnh không phải là việc người bảo lãnh bằng danh dự, uy tín cảu
mình mà thực chất bằng toàn bộ khối tài sản của mình để cam kết sẽ thực hiện nghĩa vụ
thay cho người được bảo lãnh nếu người này không thực hiện hoặc thức hiên không đầy
đủ.Trong bảo lãnh – bảo đảm đối nhân, cái mà người nhận bảo lãnh quan tâm là người
đứng ra bảo lãnh và khả năng tài chính của anh ta ( toàn bộ khối tài sản mà người nhận
bảo lãnh có) mà không hướng vào một tài sản cụ thể nào.
Thứ tư, về thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, bên bảo lãnh chỉ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
khi bên có ngĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ hoặc chỉ khi bên
được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình. Người có quyền (bên
nhận bảo lãnh) chỉ có quyền yêu cầu người thứ ba (bên bảo lãnh) phải thực hiện nghĩa vụ
bảo lãnh khi đến thời hạn phải thực hiện nghĩa vụ mà người có nghĩa vụ (bên được bảo
lãnh) không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Đồng thời, bên bảo lãnh chỉ
phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong phạm vi đã cam kết.
Thứ năm, về tính phụ thuộc của nghĩa vụ bảo lãnh và nghĩa vụ được bảo lãnh. Nghĩa
vụ bảo lãnh là một nghĩa vụ phụ nó có thể được thể hiện là hợp đồng phụ bảo đảm cho
hợp đồng chính và cũng có thể là các điều kiện để thực hiện hợp đồng chính. Nghĩa vụ
bảo lãnh luôn tồn tại và phụ thuộc vào nghĩa vụ của bên được bảo lãnh, việc giao kết
nghĩa vụ bảo lãnh chỉ được đưa ra bàn bạc khi có một nghĩa vụ tài sản mà một chủ thể
khác phải thực hiện và việc thực hiện nghĩa vụ này cần được bảo đảm, người bảo lãnh
cam kết không phải với nghĩa vụ tài sản đó mà như là người có trách nhiệm thực hiện
nghĩa vụ trong trường hợp chính người có nghĩa vụ không thực hiện. Chính vì vậy, các
nghĩa vụ bảo lãnh không thể xuất hiện trước nghĩa vụ được bảo lãnh (nghĩa vụ chính). Từ
đó có thể thấy rằng giá trị của nghĩa vụ bảo lãnh lệ thuộc vào giá trị của nghĩa vụ được
bảo lãnh và vi phạm nghĩa vụ bảo lãnh không thể rộng hơn phạm vi nghĩa vụ được bảo
lãnh. Sự phụ thuộc được thể hiện: xác lập biện pháp bảo lãnh nhằm bảo đảm cho nghĩa vụ
khác thực hiện; nghĩa vụ được bảo lãnh là cơ sở để quy định nghĩa vụ bảo lãnh như thời
hạn, nội dung, hiệu lực của nghĩa vụ bảo lãnh phải phù hợp và phụ thuộc vào nghĩa vụ
được.
4.2. Những thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 về bảo lãnh.

24
Thứ nhất, khác với BLDS 2005, BLDS 2015 đã loại bỏ quy định về hình thức bảo
lãnh. Theo đó, việc bảo lãnh không nhất thiết phải được lập bằng văn bản như theo quy
định tại Bộ luật Dân sự 2005 mà có thể được thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào của hợp
đồng như bằng thỏa thuận miệng, văn bản và hành vi cụ thể. Thực tiễn cho thấy, trong
nhiều trường hợp, các bên xác lập biện pháp bảo lãnh dưới nhiều hình thức khác nhau.
Việc BLDS 2005 quy định biện pháp bảo lãnh bắt buộc phải bằng văn bản là không đáp
ứng được yêu cầu của thực tiễn. Như vậy, có thể thấy rằng Bộ luật Dân sự 2015 đã hoàn
toàn tôn trọng sự tự do ý chí của các bên trong việc lựa chọn hình thức của hợp đồng bảo
lãnh. Các bên có thể tự do lựa chọn hình thức là văn bản, bằng lời nói, bằng hành vi cụ
thể[1] trừ trường hợp pháp luật bắt buộc phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng,
chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó. Theo quan điểm của nhóm tác giả thì
quy định như vậy có ưu điểm nhưng cũng có những nhược điểm nhất định. Ưu điểm ở
đây là các bên có thể giao kết hợp đồng bảo lãnh dưới bất kỳ hình thức nào mà không bị
bó buộc trong một hình thức nhất định, theo đó thì không bắt buộc phải thực hiện những
thủ tục rườm rà (như trong trường hợp phải công chứng, chứng thực), tiết kiệm thời gian
và công sức. Tuy nhiên, việc Bộ luật Dân sự 2015 cho phép các bên tham gia quan hệ bảo
lãnh tự do lựa chọn hình thức bảo lãnh có thể là một hạn chế vì nếu hợp đồng bảo lãnh
không được lập thành văn bản và có công chứng, chứng thực trong một số trường hợp cụ
thể thì xác suất xảy ra tranh chấp là rất cao. Do đó, khi lựa chọn hình thức của hợp đồng
bảo lãnh, các bên cần cân nhắc về quyền lợi, nghĩa vụ của các bên để có thể lựa chọn ra
hình thức phù hợp nhất.
Thứ hai, điểm mới về phạm vi bảo lãnh. Bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một
phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh. Tuy nhiên, BLDS 2015 có mở rộng
thêm nghĩa vụ bảo lãnh gồm cả “lãi trên số tiền chậm trả” so với quy định chỉ có “tiền lãi
trên nợ gốc, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp có thoả thuận khác” ở
BLDS 2005 . Mặt khác, tại Khoản 3 Điều 336 BLDS 2015 cũng quy định thêm việc các
bên có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ bảo lãnh. Với quy định trên, việc BLDS 2015 mở rộng thêm nghĩa vụ bảo lãnh gồm cả
“lãi trên số tiền chậm trả” nhằm bảo vệ quyền, lợi ích của bên nhận bảo lãnh. Rõ ràng, khi
bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh chậm trả nợ cho bên nhận bảo lãnh, thì bên nhận bảo
lãnh không thể sử dụng khoản tiền đáng ra là của họ để thực hiện công việc khác, do đó
pháp luật đã bổ sung thêm quy định này với mục đích bảo đảm lợi ích đáng ra bên nhận
bảo lãnh sẽ được hưởng, nếu không có hành vi vi phạm nghĩa vụ của bên kia.
Ngoài ra, khoản 4 Điều 336 BLDS 2015 cũng quy định trường hợp nghĩa vụ được bảo
lãnh là nghĩa vụ phát sinh trong tương lai thì phạm vi bảo lãnh không bao gồm nghĩa vụ
phát sinh sau khi người bảo lãnh chết hoặc pháp nhân bảo lãnh chấm dứt tồn tại.
Thứ ba, về quyền yêu cầu của bên bảo lãnh. Điều 340 BLDS 2015 quy định rằng, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác, bên bảo lãnh có quyền yêu cầu bên được bảo lãnh thực
25
hiện nghĩa vụ đối với mình trong phạm vi nghĩa vụ bảo lãnh đã thực hiện. So với quy định
bên bảo lãnh chỉ được yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với mình trong
phạm vi bảo lãnh, khi bên bảo lãnh đã hoàn thành nghĩa vụ tại Điều 367 BLDS 2005.
Với quy định này, bên bảo lãnh có thể yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối
với mình ngay cả khi bên bảo lãnh chưa hoàn thành nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh
trong phạm vi nghĩa vụ mà bên bảo lãnh đã thực hiện. Hay nói cách khác, bên bảo lãnh,
họ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh đến đâu (trong phạm vi bảo lãnh) thì họ
có quyền yêu cầu bên được bảo lãnh phải hoàn trả lại cho họ đến đó. Rõ ràng, thời điểm
bên bảo lãnh có quyền yêu cầu theo quy định của BLDS 2015 là sớm hơn so với quy định
bên bảo lãnh chỉ được quyền yêu cầu bên được bảo lãnh hoàn trả lại nghĩa vụ mà họ đã
thực hiện thay khi họ đã hoàn thành nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh đối với bên
nhận bảo lãnh.
Thứ tư, về trách nhiệm dân sự của bên bảo lãnh. Tại Điều 342 BLDS 2015 có quy
định: “1. Trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ thì bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ đó. 2. Trường hợp bên bảo lãnh không
thực hiện đúng nghĩa vụ bảo lãnh thì bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh
thanh toán giá trị nghĩa vụ vi phạm và bồi thường thiệt hại”.
Đây là điểm mới đáng chú ý so với quy định trong BLDS 2005. Cụ thể, BLDS 2005,
tại Điều 369 có nói đến việc bên bảo lãnh phải đưa tài sản của thuộc sở hữu của mình để
thanh toán cho bên nhận bảo lãnh khi đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được
bảo lãnh mà bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Với điểm
mới này, pháp luật đã quy định cụ thể hơn, nhằm bảo đảm quyền, lợi ích của bên nhận
bảo lãnh khi bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ bảo lãnh,
thông qua việc trao cho họ quyền được yêu cầu bên bảo lãnh thanh toán giá trị nghĩa vụ
và buộc bên bảo lãnh phải bồi thường thiệt hại (nếu có) do hành vi vi phạm nghĩa vụ đó
gây ra. Thiệt hại là có thể là thiệt hại thực tế do hành vi vi phạm nghĩa vụ đó gây ra, hoặc
có thể là khoản lợi mà bên nhận bảo lãnh đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi
phạm đó.
Thứ năm, về việc hủy bỏ việc bảo lãnh. BLDS 2005 tại Điều 370 có quy định: Việc
bảo lãnh có thể được hủy bỏ nếu được bên nhận bảo lãnh đồng ý, trừ trường hợp pháp luật
có quy định khác. Tuy nhiên, BLDS 2015 không có điều khoản quy định việc hủy bỏ việc
bảo lãnh. Việc BLDS 2015 không quy định trường hợp, cũng như điều kiện hủy bỏ việc
bảo lãnh là để quy định ràng buộc trách nhiệm, nghĩa vụ của bên bảo lãnh đối với nghĩa
vụ bảo lãnh. Mặc dù BLDS 2015 không có quy định, tuy nhiên, việc bảo lãnh có thể được
hủy bỏ nếu bên nhận bảo lãnh đồng ý, điề này thể hiện sự tôn trọng thỏa thuận của các
bên, bởi suy cho cùng, biện pháp này phát sinh từ thỏa thuận của hai bên, thì việc hủy bỏ
cũng phải do hai bên cùng thống nhất.

26
❑ Đối với Quyết định số 02

4.3. Đoạn nào cho thấy Tòa án xác định quan hệ giữa ông Miễn, bà Cà với Quỹ tín
dụng là quan hệ bảo lãnh?
Đoạn cho thấy Tòa án xác định quan hệ giữa ông Miễn, bà Cà với Quỹ tín dụng là
quan hệ bảo lãnh: “Tài sản đảm bảo cho khoản vay là quyền sử dụng đất do vợ chồng ông
Miễn và bà Cà đem thế chấp cho Quỹ tín dụng để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ của Chủ
doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân bằng Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của
người thứ ba số 01534 ngày 22/9/2006 giữa Quỹ tín dụng (Bên nhận thế chấp) với ông
Miễn và bà Cà (Bên thế chấp) và bà Đỗ Thị Tỉnh (Bên vay vốn).”.
Và đoạn: “Khi Chủ doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân không trả nợ hoặc trả
không đủ thì ông Miễn, bà Cà phải trả thay; nếu ông Miễn, bà Cà không trả nợ hoặc trả
không đủ thì mới xử lý tài sản thế chấp để thu hồi.”.
4.4. Suy nghĩ của anh/chị về việc xác định trên của Hội đồng thẩm phán.
Việc xác định trên của Hội đồng thẩm phán là rất thuyết phục và hợp lý. Vì ông Miễn
và bà Cà đã lấy tài sản của mình để bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ của Chủ Doanh nghiệp
tư nhân Đại Lộc Tân bằng Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của người thứ ba số
01534 ngày 22/9/2006 giữa bên thế chấp là ông Miễn, bà Cà còn bên nhận thế chấp là
Quỹ tín dụng với bên vay vốn là bà Tỉnh – Chủ Doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân. Hơn
nữa, hợp đồng đăng ký đã được chứng thực và đăng ký giao dịch bảo đảm. Nên khi doanh
nghiệp không trả hoặc trả không đủ thì ông Miễn, bà Cà sẽ trả thay và nếu hai ông bà
không trả hoặc trả không đủ thì mới xử lý thế chấp để thu nợ.
4.5. Theo Tòa án, quyền sử dụng đất của ông Miễn, bà Cà được sử dụng để bảo đảm
cho nghĩa vụ nào? Vì sao?
Theo Tòa án, quyền sử dụng đất của ông Miễn, bà Cà được sử dụng để đảm bảo cho
nghĩa vụ trả nợ của Chủ Doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân – bà Đỗ Thị Tỉnh.
Vì ngày 26/9/2006, Quỹ tín dụng nhân dân Trung Ương – Chi nhánh Đồng Nai ký
Hợp đồng tín dụng số TC066/02/HĐTD cho Doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân vay
900.000.000 đồng. Tài sản bảo đảm cho khoản vay này là quyền sử dụng 20.408m2 đất
do vợ chồng ông Miễn bà Cà đem thế chấp cho Quỹ tín dụng để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ
cho bà Tỉnh. Như vậy, vợ chồng ông Miễn bà Cà đã bảo lãnh cho bà Tỉnh nên vợ chồng
ông bà phải có trách nhiệm với nghĩa vụ đó.
❑ Đối với Quyết định số 968

4.6. Đoạn nào cho thấy Tòa án địa phương đã theo hướng người bảo lãnh và người
được bảo lãnh liên đới thực hiện nghĩa vụ cho người có quyền?
Đoạn trong Quyết định cho thấy Tòa án địa phương đã theo hướng người bảo lãnh và
người được bảo lãnh liên đới thực hiện nghĩa vụ cho người có quyền là:
27
“Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 376/2009/DS-ST ngày 28-9-2009, Toà án Nhân dân thành
phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai quyết định:
Chấp nhận đơn khởi kiện của bà Vũ Thị Nhung.
Bà Nguyễn Thị Thắng phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bà Nguyễn Thị Mát, ông Nguyễn
Văn Tam trả cho bà Vũ Thị Hồng Nhung số tiền 607.106.000 đồng (trong đó nợ gốc
500.000.000 đồng, lãi suất 107.106.000 đồng).
Giành quyền khởi kiện cho bà Thắng đối với bà Mát, ông Tam bằng vụ kiện khác khi bà
Thắng có yêu cầu.”
4.7. Hướng liên đới trên có được Tòa giám đốc thẩm chấp nhận không?
Hướng liên đới trên không được Toà giám đốc thẩm chấp nhận, thể hiện qua đoạn
sau:
“Như vậy, căn cứ vào các tài liệu nêu trên có cơ sở xác định bà Mát- là người vay tiền
của bà Nhung, còn bà Thắng và ông Tam chỉ là người bảo lãnh cho bà Mát nên trước hết
cần xác định bà Mát phải là người thực hiện nghĩa vụ dân sự của mình đối với bà Nhung;
nếu bà Mát không có khả năng thực hiện nghĩa vụ dân sự hoặc chỉ có thể thực hiện được
một phần, thì phần không thực hiện được bà Thắng và ông Tam mới phải có trách nhiệm
thực hiện thay theo quy định tại Điều 361, 363 và Điều 365 Bộ luật dân sự.”
4.8. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm liên quan
đến vấn đề liên đới nêu trên.
Hướng giải quyết của Toà giám đốc thẩm liên quan đến vấn đề liên đới nêu trên là
hợp lý. Theo khoản 1 Điều 342 BLDS năm 2015: “Trường hợp bên được bảo lãnh không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ
đó.”
Vậy nên trước tiên bà Mát nên thực hiện nghĩa vụ của mình đối với bà Nhung là trả
số tiền nợ đã vay, nếu trong trường hợp bà Mát không thể thực hiện thì bên thứ ba là bà
Thắng và ông Tam sẽ thực hiện thay.
4.9. Phân biệt thời điểm phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh và thời điểm thực hiện nghĩa vụ
bảo lãnh.
Thời điểm phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh: là thời điểm mà bên bảo lãnh cam kết bảo
lãnh với bên nhận bảo lãnh.
Thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh là khi bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ
được bảo đảm bằng việc bảo lãnh đến thời hạn thực hiện. Không chỉ có vậy mà pháp luật
còn có quy định về việc xác định việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo lãnh bắt đầu từ thời
điểm này trong trường hợp các bên trong quan hệ bảo lãnh không có thỏa thuận khác về
thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
Song song với đó là trường hợp khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện
nghĩa vụ của mình. Thì tại thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong trường hợp này

28
được xác định từ thời điểm có đủ căn cứ để xác định về việc bên được bảo lãnh không
còn khả năng thực hiện nghĩa vụ.
4.10. Theo BLDS, khi nào người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh?
Người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong 2 trường hợp sau:
+ Trường hợp thứ nhất, khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà người được bảo lãnh
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ (khoản 1 Điều 335 BLDS năm
2015).
+ Trường hợp thứ hai, khi người được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ,
trong trường hợp này thì các bên phải có thỏa thuận với nhau (khoản 2 Điều 335 BLDS
năm 2015).
4.11. Theo Quyết định, khi nào người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh?
Theo quyết định, khi người được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ dân
sự hoặc chỉ có thể thực hiện được một phần, thì phần không thực hiện được người bảo
lãnh mới có trách nhiệm thực hiện thay theo quy định tại Điều 361, 363 và 365 BLDS
năm 2005.
Quyết định ghi nhận cụ thể như sau: “Như vậy, căn cứ vào các tài liệu nêu trên có cơ
sở xác định bà Mát là người vay tiền của bà Nhung, còn bà Thắng và ông n (Nhơn) chỉ
là người bảo lãnh cho bà Mát nên trước hết cần xác định bà Mát phải là người thực hiện
nghĩa vụ dân sự của mình với bà Nhung; nếu bà Mát không có khả năng thực hiện nghĩa
vụ dân sự hoặc chỉ có thể thực hiện được một phần, thì phần không thực hiện được bà
Thắng và ông n mới phải có trách nhiệm thực hiện thay theo quy định tại Điều 361, 363
và Điều 365 Bộ luật dân sự.”
4.12. Có bản án, quyết định nào theo hướng giải quyết trên về thời điểm thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh chưa? Nêu rõ bản án, quyết định mà anh/chị biết.
Với Quyết định số 968/2011 DS-GĐT ngày 27/12/2011 về vụ án “Tranh chấp hợp
đồng bảo lãnh”, Tòa án giải quyết về thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo hướng
cần phải xác định người có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ của mình, nếu người có
nghĩa vụ không có khả năng thực hiện hoặc chỉ có thể thực hiện được một phần thì sau đó
mới chuyển sang trách nhiệm của người bảo lãnh.
Tại bản án số 03/2022/KDTM-PT ngày 07/09/2022 Tòa án cũng theo hướng giải
quyết trên. Cụ thể bản án có nội dung như sau: “Ngày 30/1/2019 Ngân hàng V có ký hợp
đồng cho Công ty Trần Thanh T1 do ông Trần Hữu T1 làm giám đốc đại diện vay 450
triệu đồng, thời hạn vay là 23 tháng 19 ngày, lãi suất 25,1% năm, tài sản thế chấp là toàn
bộ tài sản cá nhân của ông Trần Hữu T1, ông Trần Hữu M và bà Võ Thị T theo hợp đồng
bảo lãnh ngày 30/1/2019. Do Công ty gặp nhiều khó khăn nên đến ngày 9/4/2020 thì ông
T1 có xin Ngân hàng cơ cấu lại thời hạn trả nợ và ngân hàng đồng ý, kể từ ngày
19/6/2020 Ngân hàng tính nợ quá hạn đối với Công ty Trần Thanh T1. Sau đó Công ty
Trần Thanh T1 đã không thực hiện trả nợ theo đúng thỏa thuận. Nay Ngân hàng V yêu
29
cầu đại diện Công ty Trần Thanh T1, người bảo lãnh là ông Trần Hữu T1, ông Trần Hữu
M, bà Võ Thị T thanh toán số tiền gốc, nợ lãi, lãi quá hạn, lãi phạt chậm trả, nợ thẻ. Tại
phiên tòa phúc thẩm, đối chiếu theo quy định tại Điều 335, 339 BLDS năm 2015 trường
hợp Công ty Trần Thanh T1 không trả nợ cho Ngân hàng V thì ông Trần Hữu T1, ông
Trần Hữu M, bà Võ Thị T phải chịu trách nhiệm trả nợ cho ngân hàng V.”
4.13. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm.
Hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm là hoàn toàn hợp lý và phù hợp với
quy định của pháp luật, bởi các lẽ sau:
+ Thứ nhất, ngày 30/11/2005 bà Nhung cho bà Mát vay tiền và có lập giấy biên nhận có
sự bảo lãnh của ông n (Nhơn) và bà Thắng. Đây là căn cứ xác định về việc ông n và bà
Thắng sẽ có trách nhiệm thay bà Mát thực hiện nghĩa vụ hoàn trả tiền vay cho bà Nhung
trong trường hợp bà Mát không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không có khả năng
thực hiện nghĩa vụ của mình đối với bà Nhung.
+ Thứ hai, theo Điều 361 BLDS năm 2005 thì bảo lãnh là việc người thứ ba cam kết với
bên có quyền sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ. Tuy nhiên điều kiện ở đây
là khi đến thời hạn mà bên có nghĩa vụ không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc
không có khả năng thực hiện thì trách nhiệm mới được chuyển sang người bảo lãnh. Luật
đã quy định rõ, dẫu vậy Tòa án cấp sơ thẩm đã buộc bà Thắng liên đới thực hiện nghĩa vụ
dân sự cùng bà Mát khi chưa thu thập, xác định khả năng thực hiện nghĩa vụ dân sự của
bà Mát.
Hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm hoàn toàn thuyết phục khi mà Tòa đảm
bảo được quyền, lợi ích hợp pháp của người bảo lãnh và người được bảo lãnh. Nếu người
được bảo lãnh có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình mà lại trốn tránh, đẩy toàn bộ
trách nhiệm qua cho người bảo lãnh vậy sẽ không đảm bảo được quyền và lợi ích hợp
pháp của người bảo lãnh. Nếu người được bảo lãnh thực sự không có khả năng thực hiện
nghĩa vụ thì việc người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh là hoàn toàn đúng với quy
định của pháp luật và đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của người được bảo lãnh.

30
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật dân sự 2005
2. Bộ luật dân sự 2015
3. Bản án số 208/2010/DS-PT ngày 09/03/2010 của Tòa án nhân dân TP. HCM
4. Quyết định số 02/2014/QĐ-UBTP ngày 28/2/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền
Giang
5. Quyết định số 27/2021/DS-GĐT ngày 02/6/2021 của Toà án nhân dân cấp cao tại
Tp. Hồ Chí Minh
6. Bản án số 90/2019/KDTM-PT ngày 16/8/2019 của Toà án nhân dân TP. Hà Nội
7. Quyết định số 41/2021/KDTM-GĐT ngày 08/7/2021 của Tòa án nhân dân cấp cao
tại TP. Hồ Chí Minh
8. Án lệ số 25/2018/AL
9. Quyết định số 49/2018/KDTM-GĐT ngày 18/10/2018 của Tòa án nhân dân cấp
cao tại TP. Hồ Chí Minh
10. Bản án số 26/2019/DS-PT ngày 11/6/2019 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh
11. Quyết định số 02/2013/KDTM-GĐT ngày 08/1/2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao
12. Quyết định số 968/2011/DS-GĐT ngày 27/12/2011 của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao
13. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, Tập 1 – 2, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2015.
14. Nghị định số 11/2012/NĐ – CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ – CP ngày 29/12/2006 về Giao
dịch bảo đảm.
15. Nghị định số 21/2021/NĐ-CP,
16. Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP
17. Nghị định số 99/2022/NĐ-CP (về đăng ký bảo đảm)

31
32

You might also like