Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 72

Phân tích nhân vật Thị trong truyện ngắn Vợ nhặt

Bài làm 1

Nhân vật "Thị" là một thành công đặc sắc của Kim Lân trong nghệ thuật
phân tích tâm trạng người phụ nữ cùng khổ trong nạn đói năm Ất Dậu, 1945.

Nhân vật vợ Tràng được miêu tả bằng những nét ám ảnh, xót thương, có
vai trò tô đậm tư tưởng nhân đạo của tác phẩm.

Trận đói đang diễn ra vô cùng khủng khiếp. Người chết đói như ngả rạ.
Quạ bay vù lên như những đám mây đen trên nền trời. Đoàn người chạy đói từ
những vùng Nam Định, Thái Bình đội chiếu lũ lượt như những bóng ma xanh
xám, nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Mùi gây của xác người. Thị cũng chạy đói
"ngồi vêu ra" cùng mấy chị con gái nơi cửa nhà kho. Không họ tên, không rõ
quê quán, tuổi tác. Chắc cha mẹ, anh chị em đã chết đói cả rồi? Cái đói đã cướp
đi của tất cả. Lần đầu nghe Tràng hò "muốn ăn cơm trắng mấy giò...", Thị bị
mấy cô bạn "đẩy vai". Thị "cười như nắc nẻ" cong cớn nói với Tràng: "Này nhà
tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy?". Thị "liếc mắt cười tít" làm cho anh cu
Tràng "thích lắm". Lần sau, Thị gặp lại Tràng thì đã thay đổi hẳn. Áo quần rách
tả tơi như tổ đỉa. Thị gầy sọp đi. Khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai
con mắt. Dưới chân Thị là vực thẳm, là chết đói! Thị "sưng sỉa" trách Tràng là
"điêu", "leo lẻo cái mồm hẹn xuống thế mà mất mặt!". Thấy Tràng vỗ vào cái
túi khoe "rích bố cu", hai con mắt "trũng hoáy" của Thị tức thì sáng lên. Thị
"đon đả" với anh cu Tràng: "Ăn thật nhá!". Thị đã ăn liền một chặp bốn bát
bánh đúc rồi thở, khen: "Hà, ngon!". Cũng biết đùa, biết trêu giai như phần
đông các cô gái khác, nói với Tràng rất lẳng lơ: "Về chị ấy thấy hụt thì bỏ bố!".
Chỉ một câu nói tầm phào của Tràng "làm đếch gì có vợ...", thế là Thị theo về
ngay, "Thị về thật". Khi đứng trong cái nhà "vắng teo... rúm ró" của mẹ con
Tràng, Thị đảo mắt nhìn xung quanh, thất vọng "cái ngực gầy lép nhô hẳn lên,
nén một tiếng thở dài".

Từ dáng điệu, cử chỉ đến cách ăn nói đối đáp, Thị vừa cong cớn, vừa thô
lỗ, sỗ sàng. Thị đã nhịn đói nhiều ngày. Cái đói hành hạ. Chết đói là điều cầm
chắc. cần được ăn để sống. Thị cần có nơi nương tựa để khỏi chết đói. Bản chất
tốt đẹp của người con gái đã bị nạn đói, cái đói khủng khiếp cướp mất đi, che
lấp đi. thật đáng thương! Thị có khác gì người ăn mày nọ:

"Ăn mày là ai? Ăn mày là ta!

Đói cơm rách áo hóa ra ăn mày!"

(Ca dao)

Bản chất của người con gái đói khổ không rõ họ tên này không phải là
xấu. Cách kể, cách tả của Kim Lân rất đôn hậu, nhiều bao dung, thương cảm,
đem đến cho ta nhiều xúc động.

Chỉ qua một ngày một đêm, sau khi đã thành vợ của Tràng, thành "nàng
dâu mới" của bà cụ Tứ, ta thấy nhân vật này có những biểu hiện, những tình
cảm tốt đẹp như bao người phụ nữ khác. Dù kề bên cái chết, cô gái này vẫn
khao khát hạnh phúc, muốn được sống trong mái ấm gia đình, một mái ấm tình
thương, có chồng con như những người đàn bà may mắn khác. Trước cái nhìn
tò mò của bà con xóm chợ, Thị "ngượng nghịu, chân nọ bước dịu cả vào chân
kia". Nghe bọn trẻ con gào lên: "Anh Tràng ơi! Chông vợ hài", Thị "nhíu đôi
mày lại", rồi đưa tay lên "xóc xóc lại tà áo". Chưa gặp bà cụ Tứ, Thị rất băn
khoăn lo lắng "mặt bần thần". Đứng trước mặt mẹ chồng, trông Thị rất đáng
thương: "cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt".

Nghe bà cụ Tứ nói: "Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi
chân" Thị "vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ". Đó là tâm trạng của một người
con gái lấy chồng không một quả cau, một lá trầu, không cưới. Tủi cho cảnh
ngộ. Tủi cho duyên số. Thật đáng thương!.

Thị cũng có nhiều biểu hiện rất nữ tính "hay đáo để". Cái "liếc mắt cười
tít" lần đầu gặp Tràng. Cái phát đánh đét vào lưng Tràng với tiếng mắng yêu:
"Khỉ gió". Một lời trách nhẹ chồng: "... chuyện dai thế, đợi sốt cả ruột". Một cái
củng vào trán Tràng kèm theo câu nói yêu: "Chỉ được cái thế là nhanh. Dơ!".
Sau bao tháng ngày, chạy đói, sống vất vưởng lang thang nơi đầu đường xó chợ,
cái chết đói đến dần, Thị đã trở thành vợ của Tràng, dù còn nhiều thử thách lo
lắng, nhưng Thị đã có sự đổi đời. Niềm vui trong tối tân hôn thể hiện cảm động
niềm khát khao hạnh phúc của một người phụ nữ trong đói khát hoạn nạn. Hạnh
phúc muộn màng nhưng đáng quý giá biết bao! Ngòi bút hóm hỉnh của Kim Lân
thể hiện bao trân trọng trước niềm vui hạnh phúc và sự đổi đời của vợ chồng
Tràng.

Nhân vật vợ Tràng có nhiều thay đổi tốt đẹp. Dậy sớm cùng mẹ chồng
quét tước, thu dọn nhà cửa sạch sẽ gọn gàng, xây đắp tổ ấm hạnh phúc. Tiếng
chổi quét sân của Thị "kêu sàn sạt trên mặt đất" tưởng như niềm vui đang xôn
xao trong lòng Thị? Thị "lẳng lặng" đi vào bếp dọn bữa ăn sáng, Tràng cảm
thấy vợ mình rất đáng yêu. Bà cụ Tứ đã có "nàng dâu mới", Tràng đã có vợ.
Nhà thêm người, thêm bát đũa, thêm nhân lực. Thị đã đem sinh khí, thông tin
mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng. Nghe tiếng trống thúc thuế, Thị nói với
mẹ chồng và chồng: "Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu
đóng thuế nữa ta cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy". Qua đó, ta
cảm thấy nhân vật vợ Tràng, "nàng dâu mới" cũng là người truyền tin cách
mạng.

Vai trò nhân vật vợ Tràng trong truyện "Vợ nhặt" là một nhân chứng tố
cáo, lên án tội ác tày trời của Nhật - Pháp gây ra nạn đói năm 1945 làm hơn hai
triệu đồng bào ta bị chết đói. Nạn đói do chúng gây ra khủng khiếp đã hạ thấp
nhân phẩm con người, cướp đi mọi giá trị của con người biến người con gái như
một thứ đồ rẻ rúng có thể "nhặt" được!

Nhân vật vợ Tràng gầy đói xác xơ, về làm dâu bà cụ Tứ phải mặc áo quần
rách như tổ đỉa, bữa cơm đầu tiên ở nhà chồng là một bữa cháo cám - hình ảnh
ấy, tình tiết ấy thật đáng thương. Và đó cũng là nỗi đau, nỗi nhục của nhân dân
ta trong cảnh lầm than nô lệ.

Nhân vật vợ Tràng trong truyện "Vợ nhặt" đã nói lên một sự thật ờ đời.
Trong đói khổ hoạn nạn, kề bên cái chết, nhân dần ta vẫn khao khát được sống
ấm no hạnh phúc. Những người nghèo khổ đã biết dựa vào nhau, san sẻ vật chất
và tình thương cho nhau để vượt qua thử thách khắc nghiệt, vươn tới ấm no
hạnh phúc và sự đổi đời với niềm tin: "Ai giàu ba họ, ai khó ba đời"... Cũng như
bà cụ Tứ, anh cu Tràng, nhân vật vợ Tràng đã có vai trò thể hiện tư tưởng nhân
đạo của tác phẩm "Vợ nhặt".

Phân tích nhân vật Thị trong truyện ngắn Vợ nhặt

Bài làm 2

Tác phẩm “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân đã phản ánh rất chân thực
cuộc sống khốn khó của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng
Tám. Cuộc sống của họ bị đàn áp và dồn đến tận cùng khi mà sinh mạng của
con người rẻ rúm. Hình tượng người vợ nhặt không tên trong truyện ngắn chính
là nhân chứng hùng hồn cho giai đoạn khốn khó của nhân dân ta.

Truyện ngắn “Vợ Nhặt” chỉ xoay quanh 3 nhân vật chính của một gia
đình thuộc xóm ngụ cư đó là: anh cu Tràng, bà cụ Tứ và nhân vật thị - vợ nhặt
của Tràng. Người phụ nữ này tuy không có tên nhưng dưới ngòi bút tài hoa của
Kim Lân đã được hiện ra rõ nét với số phận và tính cách riêng. Vợ của Tràng
cũng như hàng ngàn, hàng vạn người phụ nữ cùng thời. Họ bị xã hội phong kiến
đàn áp đến mức vì sự sống mà phải tự “bán rẻ” mình đi làm vợ nhặt của người
mới quen.

Nhân vật vợ nhặt xuất hiện ngay từ đầu chuyện với một dáng vẻ rất đáng
thương, Thị trông gầy yếu xanh xao ngồi vêu trước cửa kho thóc, quần áo thì
rách tả tơi, mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt. Khi mới gặp Tràng thì là
người đanh đá, táo bạo đến mức trở nên trơ trẽn. Thị nghe thấy anh chàng phu
xe bò hát một câu bâng quơ: “Muốn ăn cơm trắng với giò này. Lại đây mà đẩy
xe bò với anh nì”. Thị đã chạy ra cong cớn, lon ton đẩy xe cho Tràng. Và lần
thứ hai khi gặp lại Tràng, thị đã sưng sỉa cái mặt lên mắng anh: “Điêu. Người
thế mà điêu”. Lúc thấy Tràng có vẻ dễ bắt nạt thị liền cong cớn hơn. Rồi Tràng
cũng phải chiều lòng cho thị ăn bánh đúc. Thấy ăn hai con mắt trũng hoáy của
thị sáng bừng lên. Thị không còn biết ngại là gì cắm đầu ăn một mạch bốn bát
bánh đúc. Ăn xong thị dùng đôi đũa quệt ngang miệng mà thở. Thực ra đây
không phải là tính cách vốn có của Thị. Cũng chỉ vì miếng ăn mà thị đã phải
làm tất cả hy sinh cả tự trọng để được ăn và giữ lại sự sống cho mình.

Khi được Tràng đề nghị là về làm vợ mình, thị đã không ngần ngại mà
theo anh về nhà luôn. Trên con đường trở về nhà ta thấy tâm lý của thị thay đổi
hẳn. Trong khi Tràng hớn hở tủm tỉm cười thì thị lại ngại ngùng cắp cái thúng
con và cái nón rách nghiêng nghiêng để che khuất đi nửa mặt. Lúc này ta thấy
thị lại trở về đúng nghĩa là một người phụ nữ khi có sự e thẹn đúng như gái mới
về nhà chồng. Thị không còn cái vẻ cong cớn, đanh đá lúc trưa nữa mà thay vào
đó là nét hiền dịu hơn. Lúc này, thị cũng đã bắt đầu nhận thức được thân phận
mình là người vợ theo không nên đành chấp nhận số phận.

Về đến nhà của Tràng thì tâm trạng của nhân vật thị lại càng khác hơn.
Khi mà người đàn bà đấy lại có sự tò mò và bỡ ngỡ của nàng dâu mới về nhà
chồng. Thị đảo mắt một vòng xung quanh nhà đúng thật nhà Tràng rất nghèo.
Thị cố nén tiếng thở dài và nghĩ đến những ngày sau này. Mặc dù đã được
Tràng cố gắng tạo sự tự nhiên bằng cách giục thị ngồi xuống giường nhưng thị
vẫn e thẹn chỉ dám ngồi mớm vào mép giường rất khép lép. Cho đến khi bà cụ
Tứ về trước mặt mẹ chồng thì lại càng e thẹn. Vẫn đứng nguyên chỗ cũ không
dám nhúc nhích. Chính thái độ e thẹn của thị đã làm bà cụ Tứ thương cảm và
chào đón thị một cách rất nhiệt tình.

Sáng hôm sau cũng giống như bất kỳ nàng dâu mới về nhà chồng nào.
Thị cũng dậy sớm cùng với bà cụ Tứ lo dọn dẹp nhà cửa và chuẩn bị bữa sáng
cho cả gia đình. Một người vô tâm như Tràng cũng nhận được ra sự thay đổi kỳ
lạ của thị. Hôm nay Tràng nhìn thấy ở thị không còn vẻ chỏng lỏn, chao chát
hôm gặp ngoài tỉnh nữa mà chỉ còn nét hiền dịu đúng mực của người phụ nữ
Việt Nam. Không những thế Thị còn tỏ ra là người rất biết làm ăn và lo xa. Khi
nghe tiếng trống thúc thuế thị đã khẽ thở dài. Rồi cũng chính thị là người đã gợi
chuyện trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta đã không chịu đóng thuế
nữa mà đi phá kho thóc Nhật để chia cho người đói. Câu chuyện của thị như
tiếp thêm sức mạnh cho anh cu Tràng vươn đến khát vọng tự do vì một ngày
mai tươi sáng hơn. Trong giấc mơ của thị và Tràng đã lấp lánh hình ảnh lá cờ đỏ
sao vàng. Hình ảnh này biểu trưng cho một cuộc sống ấm no hạnh phúc trong
tương lai.

Thông qua nhân vật thị nhà văn Kim Lân không chỉ phản ánh thành công
hiện thực cuộc sống khốn khổ của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng
tháng Tám năm 1945. Không nhắc đến tên nhưng thông qua ngòi bút tài ba của
nhà văn nhân vật vợ nhặt đã hiện ra rất chân thực. Thị là tiêu biểu cho số phận
của hàng trăm, hàng ngàn phụ nữ trong xã hội phong kiến.

Phân tích nhân vật Thị trong truyện ngắn Vợ nhặt

Bài làm 3

Kim Lân là nhà văn của làng quê Việt Nam với cách viết chân chất, mộc
mạc và những hình ảnh nhân vật điển hình cho làng quê. Văn của Kim Lân đi
sâu vào lòng người đọc bởi tình cảm bình dị, rất đời thường nhưng chan chứa
nghĩa tình. Tác phẩm “Vợ nhặt” là một “kiệt tác” của văn học hiện thực Việt
Nam, tái hiện thành công xã hội nghèo khổ, cùng cực, bế tắc của người nông
dân. Bằng bút pháp tả thực Kim Lân đã xây dựng thành công tuyến nhân vật đại
diện cho cuộc sống bần cùng giai đoạn đó. Đó là nhân vật người vợ.

Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân ra đời trong thời kỳ đất nước đang
rơi vào nạn đói năm 1945, đời sống nhân dân bần cùng, kẻ sống người chết,
người chết như ngả rạ, không buổi sáng nào người trong làng đi chơi, đi làm
đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí bốc lên
mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Tác phẩm như đã tái hiện
lên khung cảnh lúc đó, ở một xóm nghèo nhỏ, người dân sống cực khổ quanh
năm , lại thêm cảnh chèn ép bắt đóng thuế nhọc nhằn sao kể xiết.

Ngay từ nhan đề của tác phẩm, Kim Lân đã dẫn người đọc khám phá
cuộc sống của những con người nghèo khổ trong xã hội Việt Nam. Là “vợ
nhặt”, là chi tiết và là tình huống truyện thắt nút cho diễn biến xoay quanh nhân
vật người vợ trong tác phẩm. Từ “nhặt” mang lại cho đọc giả cái cảm giác rẻ
rúng, bèo bọt của phận làm nữ nhi, gợi lên niềm xót thương cho số phận con
người. “ Vợ nhặt” nghe quá đỗi chân thực và vẽ lên hình ảnh người phụ nữ có
một cuộc sống khó khăn, chẳng được hưởng hạnh phúc trọn vẹn khi ngay cả
một đám cưới nhỏ cũng không có hay chính xác hơn là một mâm cơm ngon
cũng chỉ như giấc mộng hão huyền ngày cô về làm dâu nhà người ta.

Mở đầu truyện ngắn, tác giả đã phác họa hình ảnh nhân vật anh cu Tràng
“hắn bước đi ngật ngưỡng, vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai bên quai hàm bạnh
ra…” Chỉ với vài chi tiết đó, người đọc cũng đã hình dung được diện mạo xấu
xí của một anh nông dân nghèo rách mồng tơi. Từ ngày nạn đói hoành hành,
đám trẻ con không buồn trêu tràng nữa, vì chúng đã không còn sức lực. Bởi
cuộc sống quá khó khăn, đói kém con người ta trở nên càng mệt mỏi , chán nản,
từ già trẻ, gái trai đều đem sự khắc khổ của đời mà ghim vào những nếp nhăn ,
nếp chân chim, và làn da rám nắng , thân thể gầy gò quắt queo. . Trong khung
cảnh chiều tà, suy nghĩ của Tràng được tái hiện “hắn bước đi từng bước mệt
mỏi, cái áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay. Hình như những lo lắng, cực
nhọc đè nặng lên cái lưng gấu của hắn”. Và bỗng một hôm hắn dắt về một
người đàn bà lạ hoắc không một ai trong xóm nhỏ quen biết. Dưới ngòi bút
miêu tả của nhà văn đầy ám ảnh “ Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái
nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén,e thẹn” .
Một người đàn bà nghèo khổ, không còn thứ gì giá trị đi cạnh một người đàn
ông nghèo khổ, cùng cực đúng là một đôi trời sinh.Tưởng chừng Thị là một
người phụ nữ táo bạo vô duyên nhưng thực chất cũng vô cùng e lệ và suy nghĩ
như một người phụ nữ. Cắp thúng con theo Tràng về, nàng dâu mới cũng bẽn
lẽn theo sau, khi bị trêu chọc cũng e thẹn như bao nàng dâu mới khác. Về đến
nhà, khi được Tràng mời ngồi Thị chỉ ngồi mớm ở giường, tay vân vê và bộ mặt
lộ rõ vẽ đầy lo lắng. Chắc có lẽ Thị nghĩ về cuộc sống mới của hai vợ chồng, rồi
cuộc đời của Thị sẽ đi đến đâu.

Khi trở về nhà, hình ảnh bà cụ Tứ, mẹ Tràng được Kim Lân khắc họa
diễn biến và sự chuyển đổi trong tâm tính thật tài tình và sâu sắc. Người đọc sẽ
hiểu hơn tấm lòng một người mẹ bao dung và hiền hậu. Chi tiết “bà lão phấp
phỏng bước theo con vào nhà, đến giữa sân bà sững lại vì thấy có một người
đàn bà ở trong…”. Sự băn khoăn lo lắng của bà cụ bắt đầu hiện lên. Nhưng rồi
bà cũng nhận ra, cũng hiểu “bà lão cúi đầu nín lặng, bà lão hiểu rồi. Lòng người
mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán, vừa xót xa cho số
kiếp con mình. Chao ôi người ta dựng vợ gả chồng cho con là trong lúc làm ăn
nên nổi, còn mình…”. Những suy nghĩ chua xót của bà lão được Kim Lân diễn
tả qua một loạt động từ tình thái khiến cho cái khổ, cái đói lại vồ vập và hiển
hiện rõ ràng hơn bao giờ hết. Thế nhưng vì thương con, lại một chữ “thương”
mà bỏ qua tất cả để người mẹ chấp nhận cuộc sống vất vả, khổ cực có thêm một
miệng ăn và bà cũng thương cả hai con người trẻ tuổi trước mặt mình: “Bà lão
nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ là con dâu trong nhà rồi”.
Có hai tình huống xảy ra mà khiến độc giả có lẽ không cầm được nước mắt, đó
là khi nhà ăn bữa cơm đầu tiên đón nhận thành viên mới và lúc bà mẹ già bưng
nồi ‘‘chè khoán’’ nghi ngút khói ra đặt cạnh mâm cơm. Trong cái thời nạn đói,
người chết như rạ ấy thì một bữa cơm đúng nghĩa quả thực rất khó để có trong
một gia đình như của Tráng. Bữa cơm bao gồm “giữa cái mẹt rách có độc một
lùm rau chuối thái rối, một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà ăn đều rất ngon
lành’’. Thật sự là nghèo khó đến bần cùng cạn kiệt. Người vợ vẫn ăn mà không
một câu than phiền. Xuất thân của Thị cũng có hơn gì ai. Thị cũng nghèo khó,
gầy gò và vì tình thương mà đến làm vợ, làm con dâu nhà người ta. Thị cũng là
một người vô cùng đảm đang và tháo vát. Khi về nhà Tràng, buổi sáng sớm tinh
mơ, Thị đã dậy sớm để cùng bà dọn dẹp và sửa sang lại căn nhà vườn tược.
Dường như Thị muốn vun vén cuộc sống của gia đình và bắt đầu một cuộc sống
mới. Thị cũng rất vui tính và hòa nhập nhanh với cuộc sống mới. Trong bữa ăn,
Thị kể nhiều câu chuyện, có cả câu chuyện cướp kho thóc Nhật, từ đó dấy lên
bao niềm khát khao hi vọng tự do của những người dân nghèo khó. Một bữa
cơm đón dâu nghèo nàn đến đáng thương. Tình huống khiến người đọc nhớ
mãi, hình ảnh khiến người đọc khi nhắc đến tác phẩm này đều không quên là
hình ảnh “nồi cháo cám” trong buổi bữa cơm đón dâu đầu tiên. Hình ảnh “nồi
cháo cám” là hiện thân của cái đói nghèo đến cùng cực trong một gia đình
“không còn gì giá trị nữa". Ai cũng muốn có một bữa cơm đón dâu có mâm cao,
cỗ đầy trong ngày rước dâu nhưng gia cảnh nghèo nàn, “nồi cháo cám” là thứ
duy nhất đong đầy yêu thương bà Tứ có thể mang lại cho con. Và có lẽ trong
thâm tâm người ‘‘vợ nhặt’’ cảm thấy xúc động thêm thương xót cho những con
người trong gia đình này. Hoá ra cái đanh đá, trở trẽn trước kia ở người đàn bà
Tràng lấy làm vợ chẳng qua là do đói do khát mà ra.

Qua truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân đã khắc họa nhân vật người phụ nữ
vợ nhặt rất thành công. Tác giả chú trọng khắc họa hành động, cử chỉ, nét mặt
của nhân vật để người đọc hiểu được tâm lí của người phụ nữ. Nhà văn lựa chọn
được những chi tiết rất phù hợp để bộc lộ số phận cũng như vẻ đẹp của nhân
vật. Nhân vật vợ nhặt nắm giữ vai trò khá quan trọng trong việc làm nổi bật chủ
đề tư tưởng của tác phẩm đồng thời có vai trò quyết định trong việc hình thành
nên tình huống truyện.ong mái ấm gia đình, người đàn bà ấy đã sống với bản
chất tốt đẹp vốn có của mình, của một người phụ nữ Việt Nam.

Phân tích nhân vật Thị trong truyện ngắn Vợ nhặt

Bài làm 4

“Vợ nhặt” - một nhan đề khiến người đọc không khỏi tò mò và cuốn hút.
“Vợ nhặt” - một việc làm có lẽ sẽ hạ thấp phẩm giá của người phụ nữ vì chỉ có
đồ vật bị rơi người ta mới nhặt lên. Thế nhưng, ở đây, nhà văn Kim Lân đã dùng
sự xót thương và lòng đồng cảm của mình để dựng lên một người “vợ nhặt” rất
đức hạnh, đảm đang qua tác phẩm cùng tên của ông. Ông cũng là một trong
những người được sinh ra và lớn lên trong cảnh nghèo khó, nên hơn ai hết, ông
cũng hiểu nỗi khổ cực khi miếng ăn không đủ no, quần áo không đủ ấm. Vì vậy,
nhà văn đã mượn nhân vật của mình để gửi gắm bao tâm tư, tình cảm vào đó.

“Vợ nhặt” là một câu chuyện khá hài hước nhưng cũng đầy thê lương về
tình cảnh thảm hại của nạn đói năm 1945. Chính cuộc sống cùng cực, bi thương
đã làm nên người vợ nhặt. Và ngay chính người chồng trong hoàn cảnh này
cũng có thể được gọi là “chồng nhặt”. Họ nhặt được nhau một cách rất tình cờ,
rất ngẫu nhiên giữa những ngày đói khủng khiếp. Cả xóm làng chìm trong nạn
đói. Người chết có lẽ còn nhiều hơn cả người sống. Mà đôi khi người sống
tưởng như đã chết. Họ nằm thoi thóp, còng queo khắp lều chợ.

Khi đối mặt với mẹ Tràng – mẹ chồng của thị, con người thị thể hiện rõ
sự ngoan hiền, lương thiện. Thị cất tiếng chào “U đã về ạ”. Chưa nghe thấy bà
trả lời, thị nghĩ bà lão già cả, điếc lác nên thị cất tiếng chào lần nữa. Hóa ra, thị
đâu có cong cớn như cái vẻ lúc ở ngoài chợ trước mặt Tràng. Thị rất lễ phép,
biết điều. Trong ngày đầu tiên ở nhà Tràng cũng vậy. Thị dậy sớm làm mọi
việc: quét dọn nhà cửa sân vườn, thu dọn quần áo sạch sẽ, gọn gàng. Mẹ Tràng
cũng cùng thị làm vườn. Những công việc đơn giản nhưng lại mang ý nghĩa sâu
sắc khiến Tràng thấy mới lạ và thêm yêu cuộc sống này. Chính bản thân Tràng
cũng tự ý thức bản thân mình cũng nên góp sức vào việc thay đổi căn nhà để
cuộc sống khấm khá hơn, nề nếp hơn. Còn thị, với những công việc tuy đơn
giản nhưng đã thể hiện phẩm chất tốt đẹp, chịu thương chịu khó của một người
vợ trung hậu, đảm đang. Thị chính là hình mẫu rất đẹp về người phụ nữ truyền
thống của dân tộc Việt Nam.

Không những thế, Thị còn là một người có tấm lòng thấu hiểu và cảm
thông sâu sắc. Trong bữa cơm đầu tiên, dù chỉ có rau chuối thái rối, và một đĩa
muối ăn với cháo nhưng Thị vẫn cùng cả nhà ăn rất ngon lành. Ngay cả khi ăn
cháo cám cũng vậy, vị đắng xít nhưng thị vẫn điềm nhiên và vào miệng.

Khi xây dựng nhân vật người vợ nhặt, Kim Lân đã rất thành công và
khiến người đọc bị cuốn hút vào câu chuyện. Đồng thời qua đó, nhà văn cũng
thể hiện một cách rất chân thực về nạn đói khủng khiếp năm 1945. Ở đó, vì quá
đói nên đến cái quyền cơ bản nhất và vốn có của con người là quyền mưu cầu
hạnh phúc cũng không có, khiến họ phải “nhặt” nhau về. Không mai mối,
không sính lễ, không cau trầu, Thị đã theo không về nhà Tràng. Có lẽ lúc đó,
người ta cũng chỉ nghĩ đến miếng ăn nên chẳng bận tâm để ý về việc thị làm vợ
Tràng như thế nào. Họ chỉ thấy lạ một điều rằng, giữa lúc đói khổ như thế này
mà còn đèo bòng nhau. Còn thị, thị cũng bước qua rào cản phong tục và cái lý lẽ
thường tình rằng làm người con gái phải đoan trang, có giá trị… Mà thị cũng
đâu có phải là không đoan trang. Rõ ràng Tràng có lời mời thị về làm vợ, chứ
không phải thị tự dưng chạy theo Tràng. Chỉ là sự việc diễn ra quá bất ngờ và
chóng vánh khiến cho ai cũng ngỡ ngàng. Thế nhưng, một khi đã làm vợ, thị đã
rất chu đáo trong bổn phận làm vợ của mình. Hơn nữa, thị cũng không hề ca
thán nửa lời với cảnh ngộ đói kém của nhà chồng. Mà có ca thán cũng đâu có
nghĩa lý gì khi tất cả mọi người lúc đó đều cùng chung một hoàn cảnh.

Và rồi, chính thị là người đã đưa ra cảnh tượng nhân dân đua nhau phá
kho thóc của Nhật, chia cho dân nghèo. Đây chính là hình ảnh đắt giá làm nên
giá trị sâu sắc cho tác phẩm. Cảnh tượng ấy là niềm cổ vũ cho nhân dân, cho
những con người cùng khổ vùng dậy đấu tranh giải cứu chính mình. Để từ nay
về sau, những mảnh đời như thị không còn phải khổ nữa, cũng không có hiện
tượng phải làm “vợ nhặt” nữa.

Qua câu chuyện của cuộc đời người vợ nhặt đầy lam lũ, khổ cực nhưng
vẫn đầy lòng nhân ái khiến người đọc liên tưởng đến những người vợ trong thời
hiện đại. Họ sống sung sướng, đầy đủ nhưng không phải ai cũng có được phẩm
chất đạo đức tốt đẹp như thị. Lại một lần nữa, thị chính là tấm gương sáng về
người vợ tốt cho mọi người noi theo.

Thị tuy chỉ là một người vợ được Tràng “nhặt” về nhưng chính thị đã
mang lại nguồn sống mới, niềm hi vọng mới cho Tràng và cả mẹ Tràng, chính
thị đã làm tăng sức hấp dẫn và giá trị cho tác phẩm. Tất cả các nhân vật trong đó
đều chịu chung một số phận nghèo đói, thê lương, cùng chung một ách thống trị
và tất nhiên cũng cùng chung một niềm nung nấu là sẽ đứng lên đấu tranh, phá
kho thóc của bọn Nhật, để cứu chính mình và chia cho dân nghèo.

Phân tích nhân vật Thị trong truyện ngắn Vợ nhặt


Bài làm 5

Kim Lân là một nhà văn có nhiều trang viết gắn liền với cuộc sống của
những người nông dân Bắc bộ Việt Nam. Ông có nhiều tác phẩm viết về con
người và mảnh đất này như: “Làng”, “Vợ nhặt”, “Con chó xấu xí”. Tác phẩm
“Vợ nhặt” được trích từ tập truyện “Con chó xấu xí” là tác phẩm xuất sắc của
Kim Lân. Tác phẩm vừa là bức tranh chân thực về nạn đói khủng khiếp năm
1945 vừa là bài ca ca ngợi về vẻ đẹp tình người và khát vọng sống, niềm tin vào
tương lai của người lao động nghèo. Dường như nạn đói định mệnh ấy đã làm
cho con người ta quên đi cả danh dự, họ bất chấp để được sống, thậm chí
chuyện hạnh phúc cả đời cũng tặc lưỡi cho qua. Nhân vật Thị là một điển hình
trong số những nạn nhân xấu số của nạn đói đó.

Tác phẩm “Vợ nhặt” được viết ngay sau Cách mạng với tên gọi “Xóm
ngụ cư”. Nhưng do thất lạc bản thảo nên sau khi hòa bình lập lại, tác giả đã viết
lại thành “Vợ nhặt”. Tác phẩm có nhiều nhân vật nhưng nhân vật người “vợ
nhặt” là nhân vật mang lại nhiều thương cảm nhất cho người đọc. Nhân vật này
được xây dựng dựa trên sự đối lập giữa hình thức bên ngoài và phẩm chất bên
trong, giữa trước và sau khi về làm vợ Tràng.

Trước hết, hình ảnh người vợ nhặt hiện lên là một “người phụ nữ nghèo,
cùng đường và liều lĩnh”. Vì đói mà sẵn sàng bất chấp cả thể diện để có được
miếng ăn để sống được qua ngày. Ẩn sau cái vẻ ngoài bất cần ấy Thị là một
người đầy “nữ tính và giàu khát vọng”. Điều này đã góp phần tôn vinh vẻ đẹp
của người phụ nữ và lòng ham sống, khát vọng sống vươn lên hướng đến ánh
sáng ngày mai. Tất cả những điều này đã mang đến cho người đọc cái nhìn
đúng đắn về người vợ nhặt nạn nhân của nạn đói năm 1945.
Đi suốt chiều dài của tác phẩm đúng là người vợ nhặt là “người phụ nữ
nghèo, cùng đường và liều lĩnh”. Thị là một trong số vô vàn các nạn nhân của
nạn đói năm Đinh Dậu. Dưới ngòi bút của Kim Lân, người vợ nhặt của anh
Tràng chẳng biết từ đâu xuất hiện, không có cái tên để gọi, không có nguồn gốc
sinh thành, không quê hương bản xứ, mọi thứ về Thị chỉ là một con số không
tròn trĩnh. Không phải là nhà văn không thể đặt cho Thị một cái tên mà bởi vì
Thị là cánh bèo nổi trôi trong nạn đói, là người đàn bà vô danh. Từ đầu đến cuối
tác phẩm, nhân vật này chỉ được gọi là “cô ả”, “Thị”, “người đàn bà”, “nàng
dâu mới”, “nhà tôi”. Nhưng chính nhân vật này để lại cho người đọc nhiều ấn
tượng sâu sắc, đã làm nên tiếng vang cho truyện ngắn Vợ Nhặt.

Thị bị cơn bão nạn đói thổi cho phiêu dạt đến miền đất này, cuộc sống lê
la tháng ngày không biết đến ngày mai nếu như không có cái lần anh Tràng “hò
một câu chơi cho đỡ nhọc” ấy. Thị xuất hiện với ngoại hình không xinh đẹp,
hấp dẫn. Chân dung của Thị được gợi tả với “những nét không dễ nhìn”. Đó là
người phụ nữ gầy vêu vao, “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “khuôn mặt lưỡi cày
xám xịt” nổi bật với “hai con mắt trũng hoáy”. Phải chăng, sức tàn phá của nạn
đói đã khiến Thị càng nhếch nhác, tội nghiệp lại càng tội nghiệp hơn nữa, nó đã
làm cho người phụ nữ ấy trở nên thê thảm hơn bao giờ hết. Cái đói không chỉ
tàn hại dung nhan của Thị mà còn tàn hại cả tính cách, nhân phẩm. Vì đói mà
Thị trở nên “chao chát”, “chỏng lỏn”, “chua ngoa, đanh đá”. Thị “cong cớn”,
“sưng sỉa” khi giao tiếp, nói chuyện. Cái đói đã xui khiến Thị quên đi ý tứ, lòng
tự trọng của người con gái. Được cho ăn, Thị sẵn sàng “sà xuống cắm đầu ăn
một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Với Thị lúc đó miếng ăn
để duy trì cuộc sống còn cao hơn nhân cách, nếu như chết thì nhân cách có cũng
chẳng để làm gì .
Phía sau tình cảnh trôi dạt, vất vưởng, người “vợ nhặt” lại có một lòng
ham sống mãnh liệt. Thị đồng ý theo Tràng là vì để được sống chứ không phải
là loại đàn bà con gái lẳng lơ. Thị bất chấp tất cả để được ăn, ăn để được tồn tại.
Đó là ý thức bám lấy sự sống. Khi anh cu Tràng hay đùa, lại đùa “có muốn theo
tớ về nhà thì ra khuân đồ lên xe rồi ta cùng về”. Thị không trả lời mà lặng lẽ
theo Tràng về, Thị đã gián tiếp đồng ý, một sự đồng ý không hề có sự băn
khoăn hay phân vân gì cả, dường như chuyện dựng vợ gả chồng trở nên dễ dàng
và rẻ rúng hơn bao giờ hết. Cái giá của người phụ nữ ít nhất cũng là “Ba trăm
một mụ đàn bà/ Mua về mà trải chiếu hoa cho ngồi”. Ở đây, Thị đã “đại hạ giá”
xuống còn bốn bát bánh đúc, hai hào dầu, một thúng con. Thị nào có biết Tràng
là ai, tốt xấu như thế nào, quê quán, gốc tích ra sao? Chỉ một câu hò bâng quơ
và mấy bát bánh đúc là Thị đã theo về làm vợ anh Tràng. Phải chăng Thị theo
Tràng chỉ vì miếng ăn ? Thị dễ dàng, hời hợt thế ư? Thực ra hành động theo
Tràng của Thị xuất phát từ lòng khao khát được sống. Khi đã cận kề cái chết,
người đàn bà không hề buông xuôi sự sống. Trái lại, Thị vẫn vượt lên trên cái
thảm đạm để dựng xây mái ấm gia đình. Tinh thần lạc quan yêu sự sống của Thị
chính là một phẩm chất rất đáng quý. Nói như Kim Lân: "Khi viết về con người
năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi
muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề
bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng
tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”.

Trên đường về nhà chồng, trước cái nhìn “săm soi”, trước những lời bông
đùa, chòng ghẹo của người dân ngụ cư. Nếu như anh cu Tràng sung sướng, tự
mãn, cái mặt vênh lên tự đắc với mình thì người đàn bà lại cảm thấy xấu hổ. Thị
ngượng nghịu, thiếu tự tin “chân nọ bước díu cả vào chân kia cái nón rách tàng
che nửa khuôn mặt”. Đấy là nữ tính cũng là hình ảnh của một người phụ nữ
giàu lòng tự trọng. Thực ra, cái đói đã đẩy đưa Thị phải theo Tràng. Cơn bão tố
cuộc đời đã xô đẩy thân phận cùng cực ấy ngã vào đôi vai người đàn ông thô
kệch. Nhưng biết đâu đấy lại là cái may mắn của Thị. Bởi cũng biết đâu, nếu
không có câu bông đùa ấy của Tràng, ít bữa nữa thôi, Thị có khi lại trở thành
thây ma giữa nạn đói khủng khiếp này.

Kim Lân rất tinh tế khi miêu tả nét tâm lý, tính cách của Thị. Nhà văn
như lọt vào trong nỗi thẳm sâu tâm tư tình cảm ấy của người phụ nữ năm đói.
Ông như nhìn thấy cả nỗi tủi nhục của kiếp người, thấy cả trong bước chân liêu
xiêu, bước díu vào nhau kia là cả tủi hờn, xấu hổ. Cả tiếng thở dài não nuột kia
cũng đáng để ông xót xa và mến yêu. Ấy là lúc Thị về đến nhà Tràng, nhìn thấy
“ngôi nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ
dại”, Thị “nén một tiếng thở dài”. Đây là tiếng thở dài ngao ngán, thất vọng
nhưng cũng là sự chấp nhận. Ai ngờ cái phao mà Thị vừa bám vào lại là một
chiếc phao rách.

Trong tiếng thở dài đó vừa có sự lo lắng cho tương lai ngày mai, vừa có
cả những lo toan và trách nhiệm của Thị về gia cảnh nhà chồng đó phải chăng là
Thị đã ý thức được phận trách của mình đối với việc cùng chồng chung tay gây
dựng gia đình. Tấm lòng của Thị thật đáng quý biết bao. Hay chính Kim Lân đã
thổi vào tâm hồn Thị niềm lạc quan ấy để Thị vững lòng cho một cuộc sống
ngày mai. Quả thật là Thị không tìm thấy ở Tràng một chút gì gọi là nương tựa
về vật chất nhưng Tràng chính là chỗ dựa tinh thần vững chắc nhất cho Thị vào
lúc này. Cuộc sống này xét về tình nghĩa như thế cũng đáng để sống lắm chứ.

Đến lúc này người đọc chợt nhận ra, bên trong vẻ chao chát, chỏng lỏn,
Thị lại là một người phụ nữ hiền hậu, đúng mực, biết lo toan và cũng giàu lòng
tự trọng. Vào trong nhà, Thị e thẹn, dè dặt “ngồi mớm” vào mép giường. Thị ý
tứ, cung kính, lễ phép chào bà cụ Tứ (chào đến hai lần). Thị thể hiện mình là
một nàng dâu hiếu thảo, lễ phép với mẹ chồng..

Sáng hôm sau, Thị dậy rất sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, sắp xếp lại nhà
cửa, ngôi nhà của bà cụ Tứ giờ đây như được hồi sinh.. Đến đây, người đọc dễ
nhận thấy: bao nhiêu vẻ “chỏng lỏn”, “sưng sỉa” của Thị trước kia không còn
nữa. Dường như Thị đã lột xác trở nên nữ tính hơn. Hơn ai hết, Tràng cảm nhận
đủ đầy sự thay đổi tuyệt vời ấy “Tràng nom Thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là
người đàn bà hiền hậu, đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như
những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Lúc này Tràng cảm thấy vợ mình đã thật sự
thay đổi. Chính sức mạnh của tình yêu đã cảm hóa và làm thay đổi con người
Thị.

Trong bữa cơm đầu đón nàng dâu: Dù bữa ăn chỉ có “niêu cháo lõng
bõng, mỗi người được lưng hai bát đã hết nhẵn”, lại phải ăn cháo cám nhưng
Thị vẫn vui vẻ, bằng lòng. Thị đã làm cho không khí gia đình ấm cúng, thân
thương hơn bao giờ hết. Thị chính là ngọn gió mát lành thổi vào cuộc sống của
gia đình Tràng, thổi vào cả tâm hồn người đàn ông phu xe cục mịch, thổi cả vào
khuôn mặt “bủng beo u ám” của bà cụ Tứ để hôm nay trông bà “rạng rỡ hẳn
lên”. Thị đã đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng.
Nghe tiếng trống thúc thuế, Thị nói với mẹ chồng: "Trên mạn Thái Nguyên, Bắc
Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc
của Nhật chia cho người đói nữa đấy". Sự hiểu biết này của Thị như đã giúp
Tràng giác ngộ về con đường phía trước mà anh sẽ lựa chọn. Qua đó, ta cảm
thấy nhân vật vợ Tràng, "nàng dâu mới" cũng là Người truyền tin cách mạng.

Có thể nói, người vợ nhặt được miêu tả ít, song đó lại là nhân vật không
thể thiếu trong tác phẩm. Thiếu Thị, Tràng vẫn chỉ là Tràng của ngày xưa; bà cụ
Tứ vẫn lặng thầm trong đau khổ, cùng cực. Chính Thị đã thổi một luồng sinh
khí, một luồng gió mới vào cuộc sống tối tăm, nghèo khổ của Tràng, làm ngời
sáng lên niềm tin vào cuộc sống. Viết về sự đổi thay trong tâm tính của Thị,
Kim Lân bày tỏ tình cảm trân trọng, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người
dân nghèo. Tình cảm nhân đạo của nhà văn thể hiện ở đây. Chính vì thế, cả hai
ý kiến nêu trên ta thấy đều đúng, xác đáng. Thị nghèo khổ, cùng đường, liều
lĩnh nhưng đáng thương hơn là đáng giận bởi đằng sau cái cùng đường liều lĩnh
ấy là phẩm chất ham sống, giàu lòng tự trọng và khát vọng vượt lên thảm cảnh
nạn đói để được sống cho một ánh sáng ngày mai.

Tóm lại, người vợ nhặt là một sáng tạo của Kim Lân. Thông qua nhân vật
này, nhà văn đã thể hiện một ý nghĩa nhân văn cao đẹp. Con người ta dù sống
trong hoàn cảnh khốn cùng nào cũng sẽ luôn hướng về tương lai và không bao
giờ mất đi niềm tin vào sự sống. Thông qua hình ảnh nhân vật Thị nhà văn như
phanh phui, lột trần bộ mặt thối nát của bọn thực dân và bọn cường quyền lộng
hành, chính vì tội ác của chúng mà làm thân phận con người chỉ đáng vài bát
bánh đúc, chính chúng là thủ phạm hủy hoại tương lai của biết bao con người.
Chính Thị là một hình tượng mà nhà văn Kim Lân đã dựng lên để nói với nhân
dân và bè lũ độc ác kia rằng người phụ nữ Việt Nam nói riêng và nhân dân Việt
Nam nói chung không bao giờ từ bỏ sự sống ở bất cứ hoàn cảnh nào.

Phân tích nhân vật Thị trong truyện ngắn Vợ nhặt

Bài làm 6

Lấy bối cảnh từ những hoàn cảnh có thật về cuộc sống của người dân
Việt Nam trước nạn đói năm 1945, tác giả Kim Lân đã dựng lại một câu chuyện
ấn tượng và thành công với miêu tả chân thực về cuộc sống, tình cảm đặc biệt là
diễn biến tâm lí nhân vật. Trong bối cảnh ra đời, tác phẩm làm toát lên tấm lòng
yêu thương, đùm bọc lẫn nhau và khát vọng hạnh phúc của những người người
khổ. Vẻ đẹp ấy được tác giả xây dựng thành công ở hình tượng nhân vật người
“vợ nhặt” trong tác phẩm Vợ Nhặt.

Trong cảnh đói nghèo người chết như ngả rạ, người ta chỉ nghĩ tới cái
sống của bản thân mình còn lo lắng chứ chưa nói tới lo cho những người xung
quanh. Trong tác phẩm, Tràng xấu, xấu là xấu trai, nhưng được cái tốt bụng và
dễ gần. Xóm làng nghĩ Tràng không thể có vợ, vì với cái thời đói đến ăn cám
hay ánh sáng vào đêm là thứ xa xỉ vậy người vừa nghèo vừa xấu thì ai dám gởi
thân ?

Xóm tản cư nheo nhóc và hoang tàn. Đông thì có đông nhưng xóm làng
như vẻ không người, chỉ là những cái bóng nhếch nhác lê gót trên những con
đường quanh co. Xác chết nhiều hơn thực thể di động. Bóng đen gần như chiếm
lĩnh cả, mặt trời vẫn sáng đó, nhưng đôi mắt của dân chúng ở đây cứ tối sầm
sầm lại.

Cái tin Tràng có vợ khiến cho khắp xóm làng ấy bao trùm lên một vẻ
khác. Ấy vậy mà Tràng có vợ thường thay cho cái im ỉm thụ động, chắc không
ai dạy nhưng chúng biết bớt vận động là bớt bầu bạn với đói. Nhưng Tràng lấy
vợ ! Bản năng làm chúng tò mò. Chúng nhốn nháo cả một đoạn. Rồi còn trêu
Tràng với câu “chông vợ hài”. Đường dài quanh co, sự dài ấy như trêu chọc cái
e thẹn ban đầu của đôi uyên ương. Nghĩ chữ uyên ương cũng không hợp trong
hoàn cảnh này, khi người ta hay dùng chữ mĩ miều đó cho những đám cưới linh
đình. Đường về nhà chồng với xác chết cạnh đường đủ gần để nhìn thấy sự
phân hủy hoặc cứ văng vẳng bên tai tiếng khóc tang gia; thiết nghĩ ngày cưới
cũng đáng nhớ thật.
Tình yêu luôn là trò phiêu lưu. Vì rằng chúng ta không biết sẽ gặp ai,
hoặc chi chúng ta không biết sẽ đi về đâu. Như vết thương ở miệng, mỗi ngày
một bào mòn đến cùng kiệt sức khỏe. Người vợ nhặt của Tràng trước hết là
người có cùng cảnh ngộ người vợ nhặt chỉ là một con số không tròn trĩnh:
không tên tuổi, không quê hương, không gia đình, không nghề nghiệp… Từ đầu
đến cuối tác phẩm chị chỉ được gọi bằng “thị” - một cách gọi phiếm định dành
cho chị và tất cả những người phụ nữ có cảnh ngộ và số phận đáng thương và
tội nghiệp như chị. Không những vậy, chân dung của người phụ nữ ấy hiện ra
ngay từ đầu là những nét không mấy dễ nhìn: đó là hình ảnh của người đàn bà
gầy vêu vao, ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, quần áo thì rách như tổ
đỉa. Hình ảnh này phần nào cũng phác họa con người và cuộc đời của thị.

Về tính cách của người vợ nhặt thì có chút thay đổi. Trước khi trở thành
vợ Tràng, thị là một người phụ nữ ăn nói chỏng lỏn, táo bạo và liều lĩnh: Lần
gặp đầu tiên, thị chủ động làm quen ra đẩy xe bò cho Tràng và “liếc mắt cười
tít” với Tràng. Lần gặp thứ hai, thị “sầm sập chạy tới”, “sưng sỉa nói” và lại còn
“đứng cong cớn” trước mặt Tràng. Đã vậy, thị còn chủ động đòi ăn. Khi được
Tràng mời ăn bánh đúc, thị đã cúi gằm ăn một mạch bốn bát bánh đúc. Ăn xong
còn lấy đũa quẹt ngang miệng và khen ngon… Tất cả những biểu hiện trên của
thị suy cho cùng cũng là vì đói. Cái đói trong một lúc nào đó nó có thể làm biến
dạng tính cách của con người.

Nhưng khi trở thành vợ Tràng, thị đã trở về với chính con người thật của
mình là một người đàn bà hiền thục, e lệ, lễ phép, đảm đang. Nó được thể hiện
qua dáng vẻ bẽn lẽn đến tội nghiệp của thị khi bên Tràng vào lúc trời chạng
vạng. Sau một ngày làm vợ, thị dậy sớm, quét tước, dọn dẹp cho căn nhà khang
trang, sạch sẽ. Đó là hình ảnh của một người vợ biết lo toan, thu vén cho cuộc
sống gia đình - hình ảnh của một người vợ hiền, một cô dâu thảo.

Hình ảnh của thị trong bữa cơm cưới giữa ngày đói, chị tỏ ra là một phụ
nữ am hiểu về thời sự khi kể cho mẹ và chồng về câu chuyện ở Bắc Giang
người ta đi phá kho thóc của Nhật. Chính chị đã làm cho niềm hy vọng của mẹ
và chồng thêm niềm hy vọng vào sự đổi đời trong tương lai. Những nét tính
cách của thị đã làm nổi bật lên những vẻ đẹp của người phụ nữ thời xưa, trong
hoàn cảnh khó khăn vẫn luôn chịu thương chịu khó.

Trong tác phẩm này, mặc dù người vợ nhặt chỉ là một nhân vật bên cạnh
Tràng nhưng cái người phụ nữ không tên tuổi, không gia đình, không tên gọi,
không người thân ấy đã thật sự đổi đời bằng chính tấm lòng giàu tình nhân ái
của Tràng và mẹ Tràng. Bóng dáng của thị hiện ra tuy không lộng lẫy nhưng lại
gợi nên sự ấm áp về cuộc sống gia đình. Phải chăng thị đã mang đến một làn gió
tươi mát.

Phân tích nhân vật Thị trong truyện ngắn Vợ nhặt

Bài làm 7

Kim Lân là một trong số ít những nhà văn thành công khi viết về cái
nghèo, cái đói để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Khi viết về cái đói,
Kim Lân không dừng lại ở việc khơi gợi lòng thương cảm, xót xa mà còn tạo ra
một nỗi ghê sợ, ám ảnh về sức mạnh hủy diệt của nó đối với nhân phẩm và thể
xác con người. Tuy nhiên, với thông điệp “Hãy tin ở con người”, hầu hết nhân
vật của Kim Lân, đến cuối truyện luôn tìm về với bản chất tốt đẹp, đáng quý của
mình. Đại diện cho kiểu nhân vật này, chúng ta có thể kể đến người vợ nhặt
trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn. Đây là nhân vật bị cái đói xui khiến,
sẵn sàng vứt bỏ tự tôn, nhắm mắt đưa chân theo người xa lạ vì một miếng ăn.
Nhưng, ở đâu đó trong con người Thị vẫn luôn tồn tại những phẩm chất đáng
trân trọng của một người phụ nữ truyền thống: đảm đang, biết vun vén gia đình
và cũng đầy tinh tế, ý nhị.

Vợ nhặt là truyện ngắn được sáng tác năm , lấy bối cảnh của nạn đói Ất
Dậu 1945. Đây là tai họa vô cùng khủng khiếp trong lịch sử dân tộc ta cướp đi
sinh mạng của hơn hai triệu người. Kim Lân đã dựng lên khung cảnh “tối sầm
vì đói khát”. Ở đó, “người chết như ngả rạ, không buổi sáng nào người trong
làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường”.
Còn người sống thì lay lắt, thê thảm bởi họ sống nhưng lại chắc rằng cái chết
đang chờ đợi mình ở phía trước. Nạn đói hoành hành dữ dội. Cái đói, cái chết
dồn ép con người vào thế chông chênh của kiếp người. Trần gian nối tiếp địa
ngục, khoảng cách giữa sự sống và cái chết trở nên mong manh hơn bao giờ hết.

Nhân vật người vợ nhặt hiện lên trong tác phẩm không tên tuổi, không
gốc gác, quê quán, không người thân, họ hàng. Kim Lân gọi nhân vật bằng đại
từ phiếm chỉ “Thị, ả, người đàn bà” cho thấy thân phận mờ nhạt, đáng thương
của nhân vật. “Thị” có thể là bất cứ người đàn bà khốn khổ, nghèo đói nào
ngoài kia, họ cũng đang chết dần chết mòn về cả hình hài và nhân phẩm trong
cái đói. Chỉ vài câu miêu tả ngắn ngủi, Kim Lân đã cho thấy sự hiện hình của
cái đói trên khuôn mặt Thị: “Áo quần tả tơi như tổ đỉa, Thị gầy sọp hẳn đi, trên
cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.” Ngoại hình của Thị
khiến người ta liên tưởng đến một bóng ma, một xác chết hơn là một con người.
Thị là đại diện cho hàng triệu con người bần cùng, đói rách, tha phương cầu
thực và rồi sẽ chết gục nơi đầu đường xó chợ.

Không chỉ là hình dáng bên ngoài, đến cả vẻ dịu dàng, nữ tính thiên bẩm
của người phụ nữ ở Thị cũng bị cái đói bóp méo đến thảm hại. Thị đanh đá, táo
bạo đến mức trơ trẽn, thậm chí vứt bỏ liêm sỉ.

Lần đầu tiên gặp Tràng, chỉ vì một câu “hò cho đỡ nhọc” của Tràng: “
Muốn ăn cơm trắng mấy giò/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh”, Thị đã cong cớn
bám lấy rồi “vùng đứng dậy” đẩy xe cho Tràng. Lần thứ hai, Thị đến trước mặt
Tràng “sưng sỉa” “nhắc chuyện cũ”. Sau đó, Thị lại không ngại ngùng “ngồi sà
xuống ăn một chập bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Trong con mắt
của chúng ta, Thị sao mà vô duyên, trơ trẽn quá. Thị hành động theo bản năng
sinh tồn, cái đói làm mờ nhân phẩm Thị. Thậm chí, đến cả việc lấy chồng, theo
một người đàn ông về nhà chung sống cả đời Thị cũng quyết định hoàn toàn
theo bản năng. Vin vào câu nói bông đùa của Tràng: “Này nói đùa chứ, có về ở
với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” mà “Thị về thật”. Không cần mai
mối, không cần cưới hỏi, không cần mâm cao cỗ đầy, Thị theo không Tràng với
hy vọng có miếng ăn.

Tuy nhiên, Thị đáng thương nhiều hơn đáng trách. Vẫn biết Thị tự bán rẻ
nhân cách, hạ thấp nhân phẩm của mình, lấy chồng theo cái cách đầy mỉa mai
và chua xót, được người ta nhặt về như món đồ rơi. Thế nhưng, tựu chung lại
cũng vì cái đói bức bách làm khát vọng sống, bản năng sinh tồn trỗi dậy trong
con người Thị. Thị giống như người đang chới với giữa dòng nước lũ, chỉ một
cánh tay đưa về phía mình thì dù nó nhỏ bé, yếu đuối cũng mang lại một niềm
hi vọng được sống. Việc Thị cố gắng dùng mọi cách nắm lấy bàn tay kia vốn
không sai, không đáng xấu hổ. Rất nhiều bậc nam nhi “đội trời đạp đất” giữa
sống và chết cũng sẽ lựa chọn như vậy, huống chi Thị chỉ là một người phụ nữ
bình thường.

Tuy nhiên, Kim Lân không hề dừng lại việc khắc họa nhân vật người vợ
nhặt ở sự trơ trẽn, vô duyên. Như chúng ta đã biết, thông điệp khi viết về cái đói
của nhà văn là “hãy tin ở con người”. Chính vì vậy, trong nhân vật người vợ
nhặt là cả một sự đối lập giữa bề ngoài và nội tâm, ban đầu và về sau. Nếu ban
đầu Thị cong cớn, chỏng lỏn và chao chát thì sau khi theo Tràng về nhà, Thị trở
lại là người phụ nữ với nét tâm hồn đáng quý, đáng yêu.

Thị cũng biết xấu hổ, ngượng ngùng như bao cô gái lần đầu về nhà
chồng.Trên đường về nhà cùng Tràng, khi biết mọi người xung quanh đang nhìn
mình, Thị “ngượng nghịu chân nọ bước víu cả vào chân kia”. Đằng sau vẻ ngoài
rách rưới, xấu xí, Thị cũng có lòng tự trọng. Thị hiểu vì sao người ta nhìn mình
và xì xào bàn tán. Giữa cái đận đói khát, khi tình yêu là thứ xa xỉ, họ lại dắt díu
nhau về để rồi “biết có qua nổi cái thì này không” . Khi về đến nhà, Thị chỉ dám
“ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần”. Đứng
trước mặt mẹ chồng, Thị chỉ dám “cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt”
ngay cả khi nghe bà cụ Tứ bảo ngồi xuống, “Thị vẫn khép nép đứng nguyên chỗ
cũ”. Và người đọc có lẽ đã phải ồ lên đầy ngạc nhiên trước hành động “củng tay
vào trán” Tràng và mắng yêu: “chỉ được cái thế là nhanh. Dơ!”. Thị giường như
đã biến thành con người khác hẳn, giống như thiếu nữ e lệ mới về nhà chồng mà
không phải người đàn bà chao chát, đanh đá, chua ngoa ban đầu nữa.

Trở thành vợ Tràng, người đàn bà đã làm tốt thiên chức của người phụ
nữ, Thị đảm đang, khéo léo, biết thu vén gia đình, “là người đàn bà hiền hậu
đúng mực”. Thị như một cơn gió mát lành thổi vào cuộc sống u ám của mẹ con
Tràng. Dưới bàn tay người phụ nữ, mọi thứ được sắp xếp ngăn nắp, gọn gàng.
“Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ, gọn
gàng.Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc
nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi
đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch”. Chỉ là
những thay đổi hết sức nhỏ nhặt nhưng dường như Thị đã mang đến cả một thế
giới khác cho mẹ con Tràng. Đối với Tràng, hắn cảm thấy “một nguồn vui
sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”. Còn bà cụ Tứ thì “nhẹ nhõm,
tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo, u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Ở
cuối truyện, chính người vợ nhặt đã dấy lên trong lòng Tràng biết bao dự định,
hi vọng thay đổi cuộc sống , Thị nói: “Ở trên mạng Thái Nguyên, Bắc Giang
người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc Nhật chia
cho người đói nữa đấy”. Chính câu nói của Thị đã gợi lên trong đầu Tràng “đám
người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”. Có thể không lâu nữa, hắn cũng sẽ đứng
trong hàng ngũ những người đi phá kho thóc Nhật, thay đổi số phận của mình
và gia đình. Vậy mới thấy hơi ấm tình người có ý nghĩa biết nhường nào. Mẹ
con Tràng sẵn sàng cưu mang người khác trong cảnh đói khát và có lẽ họ đã
nhận lại nhiều hơn thế. Chính người đàn bà đói khát lại làm cho cuộc sống của
họ hồi sinh một lần nữa.

Không chỉ làm tròn trách nhiệm của một người vợ, một người con dâu
trong gia đình, nhân vật người vợ nhặt còn là một người phụ nữ cam chịu, hi
sinh và có lòng cảm thông sắc. Theo một người đàn ông xa lạ về nhà, Thị hi
vọng có nơi bấu víu để vượt qua cơn đói khát. Thế nhưng, khi về tới nhà Tràng,
nhìn gia cảnh của mẹ con hắn, Thị không khỏi cất tiếng thở dài thất vọng. Điều
đó khiến Thị không khỏi thất thần, buồn bã trước hoàn cảnh mới, trước số phận
trớ trêu của mình. Mặc dù vậy, Thị đã không bỏ đi, tình nghĩa, sự cam chịu níu
giữ chân Thị ở lại cùng với mẹ con Tràng hướng về tương lai tốt đẹp hơn. Bữa
cơm đầu tiên thảm đạm với niêu cháo mà mỗi người có hai lưng bát đã hết
nhẵn. Khi mẹ chồng múc cho Thị bát cháo cám, “hai con mắt tối sầm” nhưng
“Thị vẫn điềm nhiên và vào miệng”. Thị hòa mình vào cuộc sống gia đình. Bát
cháo cám đắng chát trong cổ khiến Thị không khỏi tủi hờn nhưng Thị không hề
tỏ ra thất vọng hay chán nản bởi Thị hiểu hoàn cảnh của gia đình chồng. Có lẽ,
hơn ai hết, Thị hiểu rằng, chính hai con người nghèo khổ kia đã không ngại đói
nghèo mà cưu mang, che chở mình, đối với Thị, họ là ân nhân, là người Thị
mang ơn. Và cũng có thể, nếu không có Tràng và bà cụ Tứ, ngay cả cháo cám
Thị cũng không có để ăn, phải chết đói nơi đầu đường, xó chợ.

Nhân vật người vợ nhặt được Kim Lân khắc họa chỉ bằng vài câu miêu tả
ngắn ngủi nhưng đây có thể coi là nhân vật không thể thiếu trong tác phẩm. Thị
không chỉ là nhân vật mang thông điệp đầy tính nhân văn của nhà văn, khẳng
định niềm tin vào phẩm chất tốt đẹp của con người mà còn là nhân tố tạo nên
bước chuyển mình độc đáo của tác phẩm. Không có Thị, hai mẹ con Tràng sẽ
mãi mãi bị vùi lấp trong cuộc sống tăm tối, lặng lẽ và câu chuyện có lẽ sẽ kết
thúc theo một hướng nào đó bi đát, tồi tệ hơn, đồng thời cũng không thể gây cho
người đọc sự thương cảm, xót xa sâu sắc đến thế.

Thông qua hình tượng nhân vật người vợ nhặt, Kim Lân đã gửi gắm đến
độc giả rất nhiều chiêm nghiệm sâu sắc. Đó có thể là lời nhắn nhủ: Đôi khi
những thứ ta tận mắt thấy lại không hẳn là sự thật, hãy khoan phán xét con
người qua hình dáng hay hành động nhất thời, chỉ có thời gian mới mang đến
câu trả lời hoàn hảo. Nhân vật Thị có thể đanh đá, chua ngoa, trơ trẽn trước sự
đe dọa của cái đói nhưng bản chất của Thị là người phụ nữ có phẩm chất tốt
đẹp, đáng quý mà nếu anh cu Tràng không cho Thị cơ hội, nhưng điều đó sẽ
mãi chẳng ai biết tới. Đó cũng có thể là triết lí về sức mạnh của tình người, hãy
cứ cho đi và chúng ta sẽ nhận được thứ vô giá hơn gấp bội. Giống như nhân vật
Thị khi được mẹ con Tràng cưu mang đã làm cho cuộc sống của họ mới mẻ tươi
đẹp hơn, đáng sống hơn. Có thể nói, nhân vật không chỉ đưa chúng ta đến
những nhận thức mới mẻ về con người mà còn làm dâng lên trong lòng người
đọc niềm thương cảm, chua xót cho thân phận rẻ rúng, đau khổ của người phụ
nữ trong đói nghèo và chết chóc.

Phân tích nhân vật Thị trong truyện ngắn Vợ nhặt

Bài làm 8

Nạn đói năm 1945 đã gây ra bao mất mát, tang thương cho con người
Việt Nam: người chết như ngả rạ, người sống thì vật vờ như những bóng ma.
Viết về hiện thực khốc liệt của nạn đói năm Ất Dậu, nhà văn Kim Lân đã tái
hiện đầy chân thực qua truyện ngắn “Vợ nhặt”. Cùng với nhân vật Tràng, bà cụ
Tứ, nhân vật người vợ nhặt đã góp phần quan trọng trong việc thể hiện tư tưởng
chủ đề của truyện ngắn. Bàn về nhân vật người vợ nhặt, có ý kiến cho rằng: Đó
là người đàn bà liều lĩnh, thiếu tự trọng giữa nạn đói. Ý kiến khác lại khẳng
định: Đó là một người phụ nữ có khát vọng sống, có ý thức về phẩm giá của
mình.

Hai ý kiến đánh giá về người vợ nhặt nhìn qua có vẻ mâu thuẫn, đối lập
hoàn toàn thế nhưng mỗi ý kiến lại là một cách nhìn nhận riêng mà khi kết hợp
những đánh giá ấy, ta lại thấy được chân dung con người, tính cách người vợ
nhặt hoàn chỉnh nhất.

Trước hết, về ý kiến đánh giá thứ nhất cho rằng người vợ nhặt là
người đàn và liều lĩnh, thiếu tự trọng. Đánh giá này dựa trên những lời
nói, hành động thực tế của người vợ nhặt trong tác phẩm. Người vợ nhặt
vì đói nghèo mà trơ trẽn đòi anh Tràng trả công bằng những bát bánh đúc,
để chạy trốn cái đói, cái chết người đàn bà ấy đã chấp nhận theo không
một người đàn ông xa lạ về làm vợ.

Điều gây bất ngờ nhất là cách người vợ nhặt đồng ý làm vợ anh Tràng
quá dễ dàng chỉ với vài câu bông đùa và bốn bát bánh đúc. Chị ta chấp nhận
giao cuộc sống và tương lai của mình cho một người đàn ông mới quen và có lẽ
hoàn cảnh người đàn ông ấy cũng không khá khẩm hơn mình bao nhiêu. Ngay
cả khi chứng kiến gia cảnh nghèo khó, tồi tàn của mẹ con Tràng người vợ nhặt
vẫn ở lại mà không bỏ đi, chị ta đã chấp nhận đánh cược với số phận để thay đổi
cuộc sống. Hành động này chẳng phải quá mức liều lĩnh với một con người ham
sống như chị ta hay sao?

Ý kiến thứ hai cho rằng người vợ nhặt là người phụ nữ có tự trọng, có ý
thức về phẩm giá. Thông qua những biểu hiện của chị vợ nhặt với anh Tràng ở
chợ huyện ta chỉ thấy chị ta vô duyên, trơ trẽn liều lĩnh. Thế nhưng từ khi theo
Tràng về nhà, sự thay đổi của chị ta đã mang đến những cảm nhận vô cùng khác
biệt với ấn tượng ban đầu.

Khi theo anh Tràng về nhà, người đàn bà không còn tỏ ra trơ trẽn, chỏng
lỏn mà tỏ ra vô cùng biết điều, đúng mực. Trước những lời đàm tiếu, trêu đùa
của người dân xóm ngụ cư, chị ta có bực mình nhưng chỉ làu bàu trong miệng.
Khi gặp bà cụ Tứ chị ta cũng tỏ ra rất đúng mực của một người con dâu mới. Ý
kiến đánh giá này đã thể hiện sự cảm thông, trân trọng đối với những giá trị tốt
đẹp tiềm ẩn bên trong người vợ nhặt.

Nhìn nhận một cách toàn diện nhất về nhân vật, ta có thể thấy người vợ
nhặt đanh đá, chỏng lỏn chỉ là cách chị ta phản kháng lại với xã hội đen tối. Sự
vô duyên, thiếu tự trọng lúc ban đầu là do chị ta quá đói, quá khổ, cũng vì ham
sống mà chị ta có những hành động thiếu tự trọng. Xét đến cùng, người vợ nhặt
cũng chỉ là nạn nhân đáng thương của nạn đói, cảnh ngộ bi thảm đã khiến chị ta
trở nên liều lĩnh, chấp nhận theo không một người đàn ông xa lạ.

Sống trong cái dữ dội của nạn đói, bị đẩy vào hoàn cảnh bi thảm nhưng
người vợ nhặt vẫn có những biểu hiện ý tứ, chuẩn mực đầy tự trọng: ngượng
nghịu khi bị người dân xóm ngụ cư nhìn soi mói trên đường về nhà Tràng; đến
nhà Tràng, chị ta cũng chỉ ngồi mớm ở mép giường.

Qua sự thay đổi của người vợ nhặt, ta có thể thấy người đàn bà ấy có khát
vọng sống, khát khao hạnh phúc âm thầm mà mãnh liệt. Đó cũng là những khát
vọng chính đáng của con người dẫu bị đặt vào hoàn cảnh éo le nhất. Hai ý kiến
đánh giá về người vợ nhặt đã mang đến cái nhìn sâu sắc, toàn diện hơn về nhân
vật, con người trong nạn đói.

Phân tích nhân vật Thị trong truyện ngắn Vợ nhặt

Bài làm 9

Vợ nhặt là tác phẩm đặc sắc, tiêu biểu nhất trong sự nghiệp sáng tác của
nhà văn Kim Lân. Nội dung truyện kể về anh Tràng ở xóm ngụ cư, làm nghề
kéo xe bò thuê. Giữa trận đói kinh hoàng nuôi thân còn khó, thế mà bất ngờ, anh
dám đèo bòng thêm cô vợ nhặt. Kim Lân đã sáng tạo ra tình huống nhặt vợ rất
độc đáo, đồng thời vận dụng ngôn ngữ bình dân tự nhiên, mộc mạc để khắc họa
tính cách của từng nhân vật. Từ bà cụ Tứ đến anh Tràng và người vợ nhặt, nhân
vật nào cũng sinh động và chân thực.
Ngay cái tên truyện là Vợ nhặt cũng gợi cho người đọc nhiều liên tưởng
thú vị. Nhân vật vợ nhặt được tác giả miêu tả rất tinh tế, phù hợp với diễn biến
tâm trạng ở từng tình huống khác nhau. Chị đã đem lại niềm vui ấm áp và hạnh
phúc gia đình cho mẹ con Tràng trong cảnh ngộ mấp mé giữa sự sống và cái
chết. Vì thế nhân vật này chứa đựng ý nghĩa nhân văn sâu sắc, góp phần hoàn
thiện giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.

Thường thường, các nhân vật trong tác phẩm dù là chính hay phụ đều có
một cái tên để gọi, để phân biệt giữa nhân vật này với nhân vật khác. Đôi khi,
tên nhân vật cũng bao hàm một dụng ý nào đó của tác giả hoặc có thể toát lên tư
tưởng chủ đề của tác phẩm. Truyện ngắn vợ nhặt của Kim Lân đã được nhà văn
Nguyễn Khải nhận xét là : “Dường như chẳng có gì cả nhưng lại có khả năng
làm kinh động lòng người”. Cho nên, khi tác giả cố tình không đặt tên cho nhân
vật của mình và lấy nhân vật không tên ấy làm nhan đề tác phẩm thì chắc hẳn
đó là một dụng ý nghệ thuật sâu xa.

Cốt truyện xoay quanh sự kiện “ nhặt vợ ” bất ngờ và trớ trêu của anh
Tràng. Nhà Tràng chỉ có hai mẹ con ở cái xóm nghèo ven chợ. Là dân ngụ cư
nên Tràng bị khinh rẻ. Đã thế, anh ta vừa luống tuổi lại vừa xấu trai nên ế vợ.
Trong hoàn cảnh bình thường, Tràng không thể cưới được vợ, ấy vậy mà giữa
nạn đói khủng khiếp, anh ta lại “nhặt” được “vợ” một cách tầm phơ tầm phào,
chẳng cần phải cưới xin gì.

Nhân vật vợ nhặt xuất hiện trong bối cảnh trận đói năm 1945 đang diễn ra
vô cùng khủng khiếp. Người chết đói như ngả rạ. Quạ bay vù vù như những
đám mây đen trên nền trời. Đoàn người chạy đói từ những vùng Nam Định,
Thái Bình đội chiếu lũ lượt như những bóng ma xanh xám, nằm ngổn ngang
khắp lều chợ. Không khí vẩn mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác
người.

Chẳng ai biết gốc tích của chị ta ở đâu? Cha mẹ là ai? Anh em thế nào?
Tất cả đều không. Chỉ biết ngày ngày, chị ngồi lẫn vào đám đàn bà con gái tụ
tập trước cửa kho thóc để nhặt nhanh hạt rơi hạt vãi hay chờ có ai thuê mướn
việc gì thì làm để kiếm sống. Về hình thức, chị ta cũng giống như bao kẻ đói
khát khác : Áo quần tả tơi như tổ đỉa… người gầy vêu vao, trên cái khuôn mặt
lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt… Chị là hiện thân của hàng triệu con
người bần cùng, đói rách, tha phương cầu thực và rồi sẽ chết gục nơi đầu đường
xó chợ.

Lần đầu, chị ta xuất hiện trước mắt Tràng với cách nói năng đối đáp tỏ ra
bạo dạn. Chị quen Tràng bởi câu hò chơi cho đỡ nhọc của anh và những lời
chòng ghẹo của mọi người. Khi nghe Tràng hò : Muốn ăn cơm trắng mấy giò
này Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì và bị mấy cô bạn đẩy vai chòng ghẹo…
thị cười như nắc nẻ, cong cớn nói với Tràng: Này, nhà tôi ơi, nói thật hay nói
khoác đấy ? Thị lon ton chạy lại đẩy xe cho Tràng, đùa bỡn với anh và liếc mắt
cười tít làm cho anh Tràng thích lắm.

Chuyện chỉ có thế và Tràng cũng quên ngay. Lần sau, Tràng vừa trả hàng
xong đang ngồi uống nước ở ngoài cổng chợ tình thì thị ở đâu sầm sầm chạy
đến, sưng sỉa trách anh: Điêu! Người thế mà điêu ! Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn
xuống, thế mà mất mặt. Gặp lại chị ta, Tràng không nhận ra vì chị ta khác quá.
Một lúc sau nhớ ra, Tràng toét miệng cười, đon đả: Này hẵng ngồi xuống ăn
miếng giầu đã. Chị ta ngúng nguẩy: Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu. Thấy Tràng vỗ
vào túi khoe Rích bố cu… hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị
đon đả : Ăn thật nhá! ừ ăn thì ăn sợ gì.
Chị ta đang đói. Đói lắm! Cái đói cào cấu ruột gan khiến chị ta quên hẳn
ý tứ của một người con gái trước người đàn ông chỉ mới quen một hai lần: Thị
cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị
cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng rồi vừa thở vừa khen: Hà, ngon! Mê mải ăn
như chưa từng được ăn bao giờ, như thế là chị ta không phải mới đói một ngày
mà đã đói cả tuần, đói sắp chết.

Quả là cái đói đã đẩy lùi sĩ diện và nhân cách. Tuy nhiên, ăn xong chị ta
cũng biết đùa cho đỡ xấu hổ : về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố. Tràng cười nhạt:
Làm đếch gì có vợ, rồi tự nhiên bật ra câu nói: Này nói đùa chứ có về với tớ thì
ra khuân hàng lên xe rồi cùng về. Tưởng giỡn cho vui, ai ngờ chị ta theo về thật.
Thế là chị ta thành vợ Tràng cứ như là một trò đùa. Hay nói như tác giả là
chuyện tầm phơ tầm phào đâu có hai bận, ấy thế mà thành vợ thành chồng.

Người đàn bà ấy đã chấp nhận theo không một gã đàn ông xa lạ, xấu xí
trước hết là để có miếng ăn, sau là để có một nơi nương tựa cho khỏi chết đói
chứ đã có tình cảm gì với nhau đâu ?! Nghĩ cũng xấu hổ nên trên đường theo
“chồng” về nhà, chị ta chả biết nói gì, chỉ ngượng ngùng và khó chịu khi thấy
mọi người nhìn mình bằng con mắt tò mò.

Một người đàn ông mới quen đôi lần, nay hào phóng đãi ăn một bữa no,
ngoài ra không biết tính tình ra sao, gia cảnh thế nào, chỉ nghe nói là chưa có
vợ, ấy vậy mà chị ta đi theo ngay, không đắn đo, sợ hãi gì. Liều lĩnh chăng?
Nhẹ dạ chăng? Mặc kệ! Theo anh ta để được ăn, được sống cái đã! Vợ chồng là
chuyện lâu dài, biết đâu mà tính trước. Khỏi đói, khỏi chết lúc này là quan trọng
nhất. Mọi cái khác thứ yếu tất. Thế mới biết cái đói ghê gớm, kinh khủng biết
chừng nào!
Trên đường theo Tràng về nhà, chị ta vừa xấu hổ, tủi nhục lại vừa lo lắng,
phấp phỏng, xấu hổ, tủi nhục vì dẫu có lâm vào bước đường cùng thì chị ta cũng
không sao tránh khỏi tiếng xấu là “đàn bà theo giai” trong xã hội phong kiến
đầy rẫy những định kiến nặng nề lúc đó. Còn lo lắng, phấp phỏng vì không biết
liệu cái anh chàng mà chị đánh liều theo về làm vợ này có giúp chị thoát khỏi
chết đói và những người trong gia đình anh ta có thông cảm mà chấp nhận chị
hay không?

Chuyện làm “vợ” đến với chị quá bất ngờ khiến lòng chị không yên. Bên
cạnh dáng điệu phởn phở khác thường của Tràng, vẻ e thẹn, ngượng ngập của
chị ta lại càng nổi bật : Người đàn bà đi sau hắn chừng ba bốn bước. Thị cắp cái
thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi
nửa mặt. Nhà văn thật sự đã hiểu thấu tâm trạng và thể hiện được những gì đang
diễn ra trong lòng người đàn bà ấy kể từ Khi chị đặt bước trên con đường xa lạ.
Nhận lời làm vợ Tràng rồi theo anh về nhà, bước đầu chị ta đã có được vẻ nhu
mì, khép nép của một cô dâu. Chắc là với chị, con đường ấy dài dằng dặc, bởi
không biết cái gì đang chờ đợi chị, liệu chị có được đón nhận một cách dễ dàng?
Liệu hành động “Cũng liều nhắm mắt đưa chân” này có mang lại cho chị được
chút hạnh phúc ấm áp nào chăng hay lại khốn nạn hơn, cay đắng hơn tình cảnh
của chị bây giờ ?! Bao nhiêu lo lắng, phấp phỏng khiến chị sốt ruột bật ra câu
hỏi: sắp đến chưa ? vẫn chưa đến à ? Rồi lại: Nhà có ai không ?

Về tới nhà Tràng, thấy cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc
lổn nhổn những búi cỏ dại, trong nhà, niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên
giường, dưới đất, thì chị ta không khỏi chán nản, thất vọng: Thị đảo mắt nhìn
xung quanh, cái ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài. Hóa ra gia cảnh
của anh chàng mới ban trưa còn vỗ vỗ vào túi khoe rích bố cu là thế này đây!
Chị còn biết làm sao được nữa? Việc đã rồi ! Thất vọng, buồn tủi, chua xót quá
nên mặc cho Tràng lăng xăng, đon đả, chị ta nhếch mép cười nhạt nhẽo. Tràng
mời ngồi, chị ta chỉ ngồi mớm xuống mép giường, hai tay ôm khư khư cái
thúng, mặt bần thần…

Nghệ thuật miêu tả kĩ càng, tỉ mẩn của Kim Lân ở chi tiết tưởng như rất
bình thường này khiến người đọc phải chú ý. Sao đã được Tràng mời ngồi mà
chị chỉ ngồi mớm xuống mép giường? Thì ra cái thế ngồi tạm bợ, dè dặt ấy cũng
là cái thế của tâm trạng ngổn ngang trăm mối. Liệu chỗ ngồi này có phải là của
chị không ? Liệu mái nhà cũ kĩ, xiêu vẹo này có phải là nơi chị dung thân ? Đặc
biệt là cảnh chị ta hai tay ôm khư khư cái thúng mặt bần thần.

Phải chăng vì căn nhà rúm ró của mẹ con Tràng quá chật chội, chị ta
chẳng biết để cái thúng vào đâu? Hay vì giờ đây, cái thúng là tài sản duy nhất
nên chị chẳng nỡ rời? Hay là chị ta sẽ bỏ đi ngay? Chị bần thần vì ngỡ ngàng, vì
mải nghĩ tới chuyện bỗng dưng thành vợ của mình. Nó là thực mà cứ như không
phải thực, khó có thể tin là sự thực. Làm vợ, làm dâu mà như thế này ư? Lấy
chồng, đám cưới, rước dâu… Cái hạnh phúc lớn nhất của đời người con gái chị
có được hưởng chút nào đâu? Buồn lắm ! Tủi lắm ! Chị không nói được nên lời
bởi cất tiếng, chắc chắn chị sẽ khóc. Nỗi đau không trào ra thành nước mắt mà
chảy ngược vào trong nên càng đau, càng tủi.

Lâm vào cái cảnh phải theo không Tràng, chị ta vừa tủi phận, vừa ngượng
ngập. Gặp bà cụ Tứ, chị e thẹn, khép nép. Trước khi gặp Tràng, hoàn cảnh
nghiệt ngã khiến chị ta có lúc thành ra kẻ trơ trẽn, trâng tráo, nhưng bản chất chị
ta không phải như vậy. Tuy nhiên, ngòi bút của Kim Lân không chỉ tinh tế mà
còn rất nhân hậu. Ông không muốn xoáy sâu vào những nỗi trớ trêu xót xa, đau
lòng ấy. Khi viết truyện ngắn vợ nhặt, mặc dầu lấy bối cảnh là nạn đói khủng
khiếp do phát xít Nhật và thực dân Pháp gây ra đầu năm Ất Dậu (1945) làm hơn
hai triệu đồng bào từ miền Bắc đến miền Trung bị chết đói, nhưng dù trong tình
huống bi thảm đến đâu, thậm chí kề bên cái chết thì nhân vật của Kim Lân vẫn
khao khát hạnh phúc, vẫn tin vào cuộc sống và hi vọng ở tương lai, vẫn muốn
sống cho ra con người.

Ở cuối truyện, cái khát vọng mãnh liệt được sống, được hạnh phúc của
nhân vật vợ nhặt đã bộc lộ ra một cách hồn hậu, tự nhiên. Tuy không tìm thấy
sự no đủ nhưng dẫu sao chị cũng vơi bớt được nỗi lo khi biết nhà Tràng chỉ có
một mẹ già. Chị hiểu như thế là ít có khả năng bị hắt hủi, xua đuổi. Mà đấy
chẳng phải đã là một nửa sự sống rồi sao?

Trước sự cảm thông, sẵn lòng chấp nhận của người mẹ già và sự cưu
mang của Tràng, chị đã trở thành một người đàn bà khác hẳn. Nếu như hôm
qua, cái đói đã làm mất đi những gì là nữ tính ở chị thì hôm nay, chỉ sau một
bữa ăn no, một đêm ngủ ấm dưới mái nhà bình yên thì vẻ đẹp ấy đã trở về với
chị. Chị bắt đầu vun vén cho tổ ấm của mình. Chị quét dọn sân nhà sạch sẽ,
gánh nước đổ đầy ang. Có bàn tay săn sóc của chị, căn nhà tồi tàn, tăm tối của
mẹ con Tràng như sáng sủa, gọn ghẽ hẳn ra. Sự sống đã trở về với người, với
cảnh. Sự thay đổi ấy khiến Tràng không khỏi ngạc nhiên: Tràng nom thị hôm
nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao
chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh. Cho đến lúc này, chị mới
có cảm giác chuyện làm vợ của mình là thật. Người đàn bà vô danh nhưng
không vô nghĩa bởi chị đã đem lại niềm vui và sinh khí cho mẹ con Tràng.

Nét đẹp bên trong của người vợ nhặt còn thể hiện qua một chi tiết rất nhỏ.
Trong bữa cơm đầu tiên ở nhà chồng, khi mẹ chồng đưa cho bát chè cám, hai
con mắt chị ta thoảng tối lại, nhưng ngay sau đó, chị điềm nhiên và vào miệng.
Đây là một chi tiết rất đắt, thể hiện sự tinh tế trong nhận thức và sự khéo léo
trong cách cư xử của người đàn bà tưởng như vô học nọ. Chị hiểu ra cơ sự của
mẹ con Tràng nhưng chị không muốn làm mất đi niềm vui của người mẹ chồng
già nua, tội nghiệp. Bà đang mừng vì cuối cùng thằng con trai vừa nghèo vừa
xấu vừa đứng tuổi của mình cũng đã có vợ, dẫu rằng đó chỉ là cô vợ nhặt.

Điều đặc biệt thú vị là trong bữa ăn ấy, người nói toàn chuyện vui, toàn
chuyện sung sướng về sau này lại là một bà cụ gần đất xa trời ; còn người nói
đến phong trào đấu tranh chống thuế, phá kho thóc của Nhật, chia cho người đói
lại chính là chị vợ nhặt người đàn bà không tên trong tác phẩm. Hình ảnh từng
đoàn những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp và lá cờ đỏ bay
phấp phới hiện lên trong tâm trí của Tràng báo hiệu sắp có một sự đổi thay ghê
gớm. Hình ảnh ấy là một luồng gió mạnh xô đi, cuốn đi ám khí ngột ngạt của
câu chuyện đáng buồn này.

Nhiều người cho rằng ở truyện ngắn Vợ nhặt; nhân vật bà cụ Tứ, người
mẹ nhân hậu và từng trải khiến người đọc xúc động nhất. Điều ấy quả không
sai, nhưng đọc đến những dòng chữ cuối cùng thì điều ám ảnh tâm trí người đọc
lại là hình ảnh người vợ nhặt của anh Tràng. Bằng nghệ thuật miêu tả chân thực,
sinh động và tinh tế, nhà văn Kim Lân đã khắc họa thành công hình ảnh người
vợ nhặt người đàn bà vô danh.

Đây là một nhân chứng có ý nghĩa tố cáo, lên án tội ác tày trời của Nhật
Pháp đã gây ra nạn đói khủng khiếp đẩy nhân dân ta vào cảnh lầm than, không
được sống đúng nghĩa là một con người. Qua tác phẩm Vợ nhặt, nhà văn Kim
Lân gián tiếp khẳng định: Trong đói khổ, hoạn nạn, kề bên cái chết, những con
người nghèo khổ nếu biết dựa vào nhau, san sẻ vật chất và tình thương cho nhau
thì chính là vừa tự cứu mình, vừa cứu người. Những con người như vậy nhất
định phải được sống ấm no, hạnh phúc.

Phân tích nhân vật Thị trong truyện ngắn Vợ nhặt

Bài làm 10 - Cảm nhận

Trong nền văn học hiện thực Việt Nam giai đoạn những năm trước cách
mạng và những năm đầu sau cách mạng tháng tám, Kim Lân là một trong
những cái tên nổi bật nhất khi viết về đề tài người nông dân trong xã hội cũ. Dù
có số lượng tác phẩm hạn chế, thế nhưng hầu như tác phẩm nào của Kim Lân
cũng hay và có nhiều giá trị, là cơ sở xếp nhà văn vào một trong 9 tác giả tiêu
biểu nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại.

Điểm sáng và đáng lưu ý nhất trong các tác phẩm của Kim Lân ấy là
giọng văn nhẹ nhàng, tình cảm, các tác phẩm của ông chủ yếu tập trung làm nổi
bật vẻ đẹp tâm hồn của người, hướng đến một lối thoát nhân văn cho những
kiếp người lầm than khốn khổ, chứ không tập trung tái hiện hiện thực khắc
nghiệt đau thương của xã hội cũ. Vợ nhặt là một trong số những tác phẩm nổi
tiếng và xuất sắc nhất của Kim Lân, đặt trong bối cảnh đất nước những ngày
đau thương nhất - nạn đói năm 1945. Nhân vật vợ Tràng là một trong những
kiếp người khốn khổ tột cùng, cái đói đã khiến thị tàn tạ, xơ xác, để nên xấu xí
trong mắt người đời, thế nhưng khi tìm hiểu sâu về nhân vật này ta mới phát
hiện ra ở thị cũng có những phẩm chất tốt đẹp, đáng quý.

Nhân vật thị là một người đàn bà không tên, không tuổi, không quê quán,
gốc gác, không gia đình, và cũng chẳng ai biết thị từ đâu đến, cả cuộc đời trước
khi gặp Tràng của thị dường như chẳng có gì để nhắc người ta nhớ đến. Cái
hoàn cảnh khốn khổ của thị, chính là hoàn cảnh chung của rất nhiều người nông
dân trong nạn đói năm 1945, tại cái thời điểm mà kiếp người rẻ rúng như cọng
rơm cọng rác nhặt ngoài đường. Không chỉ nghèo khó, không lai lịch, tên tuổi
mà trên người thị còn mang đủ những bất hạnh của một người đàn bà, thị không
có một nhan sắc xinh đẹp, và cái đói khổ nó lại càng làm cho cái nhan sắc xấu
xí ấy thêm phần thảm hại, người ta bắt gặp thị trong bộ ““áo quần tả tơi như tổ
đỉa”, người ngợm “gầy xọp”, “trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai
con mắt”, rồi “cái ngực gầy lép nhô lên” và “hai con mắt trũng hoáy”. Bấy
nhiêu những nét vẽ ấy cũng đủ để thấy bản thân thị cũng đang bước dần những
bước cuối đến cái nghĩa địa của cuộc đời như nhiều số phận khốn khổ khác
trong nạn đói kinh hoàng.

Đã không có một ngoại hình hấp dẫn, nhưng cách nói năng, hành động
của thị cũng khiến người ta mang nhiều phản cảm. Khi nghe anh Tràng hò mấy
câu đùa cho khuây khỏa, nghe thấy có cái ăn thị đã cong cớn, mỉa mai, rồi cũng
chẳng biết ngại ngần thị sấn tới tranh đẩy xe với Tràng, “liếc mắt, cười tít”. Tuy
nhiên sau bữa đẩy xe phụ, mà không được cái ăn, khi gặp lại Tràng thị đã sưng
sỉa, chỉ thẳng vào mặt Tràng mà mắng “Điêu, người thế mà điêu”. Khi nghe
thấy anh Tràng đãi ăn “hai con mắt trũng hoáy của thị sáng lên”, điệu dáng đon
đả, đổi hẳn thái độ. Và rồi thị cúi đầu ăn một chặp 4 bát bánh đúc không thèm
chuyện trò gì, ăn xong thì lấy đôi đũa quệt ngang miệng, thở “hà”. Quả thực
trước giờ chưa từng thấy người đàn bà nào trước mặt một người đàn ông lạ mới
gặp hai lần mà có thể thoải mái, thậm chí đến mức vô duyên, trơ trẽn, hành
động táo bạo và bất chấp vì miếng ăn như thị.

Nạn đói nó khiến cho tâm hồn và nhân cách con người trở nên rẻ rúng,
thiểu não quá. Nhưng đến khi xét kỹ lại, nhìn lại những hành động của nhân vật
thị một cách nhân văn hơn, ta mới nhận ra rằng, thực tế khi đứng trước cái chết,
cái đói, và đứng trước viễn cảnh hàng triệu người đang chết như ngả rạ trước
mặt khó ai có thể bình tĩnh và cư xử một cách bình thường nổi. Ai mà không sợ
chết, thị cũng sợ chết, và ngay lúc này đây khi gặp Tràng khi phải đối diện với
lưỡi hái của tử thần mà lại bắt được cọng rơm cứu mạng, thì những khao khát
được sống sót của thị bùng cháy. Thị bất chấp tất cả để có được miếng ăn, vứt
bỏ hết liêm sỉ, nhân cách chỉ vì được sống, quyết không buông bỏ cuộc sống dễ
dàng. Không chỉ có khao khát sống mãnh liệt mà bản thân thị còn có những
khao khát được hạnh phúc, được có một mái ấm, một tấm chồng để nương tựa
những lúc khó khăn như này.

Thành thử ra chỉ với một câu nói nửa đùa nửa thật “Này nói đùa chứ có
về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”, mà thị đã không ngần ngại nhận
lời, trở thành người vợ mặt dày, mày dạn theo không Tràng. Đối với thị bây giờ
cỗ bàn, đám rước đám hỏi chẳng còn quan trọng, miễn sao là có được một chỗ
trú chân, một gia đình và qua được cái đói thì mọi chuyện đều có thể cho qua
hết. Thế là thị đã nên vợ nên chồng với Tràng bằng những niềm hy vọng mới
mẻ, thị mong rằng cái người trước mắt đã có thể sảng khoái mà đãi mình 4 bát
bánh đúc, thì hẳn sau chung sống hắn cũng sẽ tử tế với mình, được nhiêu đó
cũng đủ mãn nguyện rồi. Như vậy bên cạnh ý nghĩa nhân văn trong sự kiện thị
theo không Tràng, thì Kim Lân cũng phản ánh một hiện thực đau xót của xã hội
lúc bấy giờ: giá trị con người dường như đã xuống đến mức âm, thậm chí còn
không bằng cọng rơm cọng rác, để đến nỗi những người làng trông thấy Tràng
dẫn vợ về họ còn cho đó là “của nợ”.

Những tưởng thị trời sinh đã đanh đá, chỏng lỏn và sưng sỉa nhưng khi
nhìn thấy dáng vẻ của thị sau khi làm vợ Tràng ta mới nhận ra rằng, sự vô
duyên, ghê gớm của thị chỉ là một cái vỏ bọc bảo vệ thị trong nạn đói, thực tế
rằng thị cũng là một người phụ nữ có nhiều phẩm chất tốt đẹp được giấu kín sau
dáng vẻ tàn tạ, khốn khổ kia. Trên đường trở về nhà với Tràng, thị bỗng trở nên
“e thẹn, rón rén”, đầu cúi xuống, cái nón tà nghiêng nghiêng che nửa đi khuôn
mặt đang ngại ngùng, đúng với dáng vẻ của một cô dâu khi bước về nhà chồng.
Gặp phải cảnh trêu chọc của đám trẻ con, ánh nhìn ái ngại của những người
làng, thị thấy khó chịu, tủi cho phận mình là một người vợ theo không, thành
thử ra thị càng trở nên bối rối “ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả chân kia”,
nom đến thương vô cùng. Khi đến nhà Tràng khung cảnh xác xơ, tiêu điều của
một căn nhà tạm, không có bàn tay người đàn bà săn sóc, không khỏi khiến thị
thất vọng, buồn lòng, bởi có lẽ thị đã hy vọng về một ngôi nhà tươm tất, đủ đầy
hơn, để cuộc đời thị từ đây bớt khổ sở.

Nhưng cảnh trước mắt kém quá xa so với những gì thị tưởng tượng, tuy
nhiên thị không vì thất vọng mà phàn nàn với Tràng, thị bỗng trở thành một
người đàn bà nhẫn nhịn và tế nhị “cái ngực gầy lép nhô hẳn lên, rồi nén một
tiếng thở dài”. Thị đã cất hết cái thất vọng, buồn bã của mình vào lòng, không
để Tràng biết, quyết tâm cùng người chồng mới cưới xây dựng gia đình, phấn
đấu vượt qua cái nghèo cái khó. Khi ra mắt mẹ chồng, thị đã rất phải phép mà
chào bà cụ Tứ, khi tưởng cụ không nghe thấy thị đã chào thêm lần nữa, dáng
điệu khép nép, ngại ngùng, thực sự thị đã lột xác trở thành một nàng dâu hiền
lành, e ấp, khác hẳn với dáng bộ của người đàn bà đanh đá, chua ngoa ở chợ
tỉnh.

Sau đêm tân hôn, thị lột xác trở thành một người phụ nữ của gia đình,
đảm đang tháo vát, gánh lấy cái trách nhiệm thu xếp nhà cửa, đem đống quần áo
rách ra sân hong, gánh nước, quét sân, gom rác đem vứt, rồi dọn cơm,... Không
khí gia đình trở nên hòa hợp vui vẻ và có nhiều hy vọng hơn cả. Đặc biệt khi
đối diện với nồi cháo cám đắng ghét, nghẹn bứ nơi cổ họng của bà cụ Tứ, “đôi
mắt thị tối lại” nhưng vẫn “điềm nhiên và vào miệng”, không nói năng hay tỏ
thái độ gì. Cách cư xử tế nhị ấy của thị, đã bộc lộ một nét tính cách khác của thị
ấy là sự thấu hiểu và cảm thông cho người mẹ già thương con, thị hiểu rằng vì
nghèo quá không có gì đãi con nhân ngày tân hôn thế nên bà cụ tội nghiệp mới
cố kiếm một nồi cháo cám.

Và trong không khí gia đình vui vẻ ấy, thị không muốn phá hỏng nó,
khiến cho bà cụ trở nên bối rối. Cuối cùng cảnh thị kể việc ở Thái Nguyên, Bắc
Giang người ta không chịu đóng thuế mà đi phá kho thóc của Nhật đã bộc lộ
những suy nghĩ và hướng nhìn mới của thị, người đàn bà bà này không cam
chịu cuộc đời đói kém, và có lẽ trong một mai thị sẽ cùng chồng là Tràng đi phá
kho thóc, theo cách mạng để giải phóng cuộc đời, tìm kiếm một tương lai tươi
sáng hơn.

Nhân vật thị trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân là nhân vật đại diện
cho hàng triệu kiếp người nông dân Việt Nam trong nạn đói năm 1945. Tuy
nhiên sống trong cảnh khốn khổ cùng đường nhưng thị vẫn giữ cho mình được
những vẻ đẹp tâm hồn quý giá, tiêu biểu nhất ấy là niềm khao khát được sống,
khao khát hạnh phúc, niềm hy vọng vào một tương lai mới tốt đẹp hơn. Bộc lộ
rõ nét tư tưởng nhân văn, nhân đạo mà tác giả muốn truyền tải trong tác phẩm
của mình.

Phân tích nhân vật Thị trong truyện ngắn Vợ nhặt


Bài làm 11

Làm nên một tác phẩm, nhà văn phải có trách nhiệm là bật nên giá trị
hiện thực thông qua nhân vật và cốt truyện của mình. Qua đó, đem đến cho độc
giả những cái nhìn, xúc cảm đặc biệt cảm thông cho thời đại lúc bấy giờ. Và
Kim Lân, một cây viết chuyên về truyện ngắn, về người nông dân, người tri
thức nghèo trong xã hội phong kiến, đã làm được điều đấy. Nếu người ta nhắc
về nạn đói, chỉ nhắc về một hiện thực đầy phũ phàng của xã hội lúc đấy, chỉ
nhắc về cái chết đói, chết rét của nhân dân, nhưng Kim Lân lại khác. Ông viết
về những con người mà “dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy
không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở
tương lai”. Trong đó, “Vợ Nhặt” đã thể hiện rõ ràng quan niệm văn chương ấy.
Mà tất cả đã được cô đọng trong văn phong và nhân vật Thị của tác phẩm.

Người phụ nữ Việt Nam trong văn học mỗi khi được nhắc đến sẽ rất
mong manh, rất yếu đuối vì chịu một sự hà hiếp, sự áp bức của xã hội. Thị, một
người đàn bà không tên, không tuổi mà Kim Lân chỉ nhắc tới bằng những đại từ
phiếm chỉ. Không rõ ràng và đầy mơ hồ, cũng như số phận của Thị, người đàn
bà “nhặt hạt rơi hạt vãi, hay ai có công việc gì gọi đến thì làm”. Thị là bất kì
người đàn bà nghèo khổ nào đấy ngoài kia đang bị cái đói, cái khổ bủa vây.
Nhắc tới thị bằng hai tiếng “vợ nhặt” sao mà thê lương tới thế. “Vợ” không
được cưới hỏi, không được đưa rước về nhà chồng mà là “nhặt” về, lượm về
cũng như một món hàng bị rẻ rúng. Kim Lân dường như đã cho thấy giá trị bần
cùng, thấp kém của con người trong xã hội vào những năm 1945 ấy. Một thời
buổi đầy loạn lạc, bi thương như màu sắc của xóm làng buổi xế chiều “hai bên
dày phố, úp súp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa bóng người đói dật dờ
đi lại lặng lẽ như bóng ma”. Khung cảnh đầy thê lương như dâng lên tột bậc với
tiếng quạ “cứ gào lên từng hồi”.

Hai lần Thị gặp Tràng đã vẽ nên bức chân dung và cho thấy sự tàn khốc
của nạn đói được nhắc đến. Từ một cô gái đầy sức sống “liếc mắt, cười tít…ton
ton chạy lại đẩy xe cho Tràng” khi nghe Tràng hò hát vu vơ:

“Muốn ăn cơm trắng mấy giò này!

Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!”

Mà thoát cái đã “áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái
khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Thị đã bị cái đói đầy vào
lối cụt, đẩy Thị vào bước đi cuối cùng. Thị bỏ cả cái gọi là danh dự và tôn
nghiêm của mình. Thị không mất mặt nữa,”cắm đầu ăn một chập bốn bát bánh
đúc, ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng”. Cái đói vắt kiệt cùng sức
lực của một con người, mà Thị phải kiếm một con đường mới, một sự sống mới,
thế là thị theo Tràng về nhà. Dù rằng “Tràng cũng tưởng là nói đùa, ai ngờ thị
về thật”. Thị không về thì sẽ thế nào? Nhân phẩm, danh dự cũng không cứu nổi
Thị, Thị mặc tất cả theo lời nói đùa ngô nghê của Tràng mà Thị cứ tự cho đấy là
thật vậy: “Nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”.
Không về thì có lẽ những ngày sau, trên phố “người chết như ngả rạ”, trong “ba
bốn cái thây nằm cong queo bên đường” sẽ có Thị. Bởi cái đói cứ như con quỷ
dữ, hiện hình cho bọn thực dân đang bóc lột người dân miền Bắc nói riêng,
chúng dồn họ vào con đường chết để trục lợi cho mình. Liệu một người đàn bà
như Thị có còn sức để chống đối, Kim Lân đã cho Thị con đường sống.

Mà phải chăng chính Thị cũng là một điều tươi đẹp, một tia sáng le lói
nhưng làm ánh lên cái đẹp trong bức tranh u ám đấy. Thị theo Tràng về trong
con mắt săm soi của những người đàn bà khác: “Giời đất này còn rước cái của
nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?”. “Người
đàn bà như cũng biết xung quanh người ta đang nhìn dồn cả về phía mình, Thị
càng ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia”. Nhưng sự xuất hiện của
Thị cũng “có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy
của họ”. Không còn vẻ “chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”, “Thị
có vẻ rón rén, e thẹn…Thị vẫn ngôi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái
thúng, mặt bần thần”. Có một chút buồn, một chút thất vọng trong tâm trí Thị,
“cái ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài”. Liệu rằng họ có nuôi nổi Thị
hay không?

Nhưng Thị đâu trơ trẽn, đâu như những con người bị bần cùng hóa, thị
vẫn là người không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng,
tin tưởng ở tương lai”. Thị gặp mẹ Tràng vẫn chào hỏi, vẫn lễ phép kính cẩn.
Thị là con người khéo léo, biết vun vén cho gia đình. Thị là người mang đến sự
đổi mới trong nhà Tràng, nhờ có Thị mà Tràng mới cảm nhận được không khí
gia đình. “Xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ.Thị hôm
nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao
chát, chỏng lỏn”. Dù bát chè khoán mà mẹ Tràng đưa đầy “đắng ngắt và nghẹn
ứ trong cổ”, nhưng thị vẫn không nói gì “điềm nhiên và vào miệng”. Bởi Thị
hiểu hoàn cảnh nhà Tràng, thị biết ơn sự cưu mang của mẹ con Tràng dành cho
Thị. Nếu không đến ngày cả chè khoán đắng ngắt ấy Thị cũng không có để ăn,
sẽ là một cái xác vô danh trên đường đi. “Chưa bao giờ trong nhà này hai mẹ
con lại dầm ấm, hòa hợp như thế”, Thị còn giúp Tràng nhìn ra một tương lai
tương sáng hơn trong cái không khí, “một nỗi tủi hờn len vào tâm trí con
người”. Thị kể cho Tràng nghe cách Việt Minh “phá kho thóc Nhật” chia cho
dân nghèo. Điều đó đã làm trong lòng Tràng một ý nghĩ vẩn vơ về “đám người
đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”. Mà có lẽ một ngày nào đó Tràng cũng sẽ góp
mặt, một ý nghĩ chợt lóe lên, như cách tia sáng, hơi thở mới mà Kim Lân đưa
Thị vào cuộc đời Tràng.

Tóm lại, nhân vật Thị không chỉ đại diện cho một lớp người, cho những
sức sống mãnh liệt, khao khát sống tiềm tàng của nhân dân lúc đấy. Thị còn là
điểm nhấn, cái nét bút điểm xuyết làm sáng bừng lên giá trị nhân đạo, và cả hiện
thực của “Vợ Nhặt”. Kim Lân đã cho thấy tinh thần đùm bọc, cưu mang của
người với người, đã bộc lộ cái khát vọng một tổ ấm vẹn tròn của những con
người nghèo khổ.

Phân tích nhân vật Thị trong truyện ngắn Vợ nhặt

Bài làm 12

Mảnh đất cày bừa, gieo trồng của mỗi nhà văn có thể trùng khớp nhau
nhưng cách trồng, vun xới cho ra thành phẩm ở mỗi thi sĩ sẽ khác nhau, đó
chính là phong cách của riêng họ. Cũng giống như đề tài người nông dân rất
phổ biến trong văn xuôi Việt Nam nhưng vào ngòi bút Kim Lân lại thật sâu sắc,
hiện thực vô cùng. Nạn đói cùng với việc miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật rất
đặc sắc đầy tính nhân văn trong tác phẩm Vợ Nhặt của Kim Lân đã rất thành
công, tái diễn rất chân thực. Hình tượng nhân vật Thị - người vợ của Tràng dù
chỉ là một nhân vật phụ nhưng sự tài tình ở nhà văn đã giúp nhân vật Thị làm
sáng tỏ chủ đề tác giả muốn gửi đến.

Nhân vật tự sự chúng ta thường thấy trong các tác phẩm văn học thường
được đặt tên cụ thể, những nhân vật vô danh vì họ chỉ lướt qua tác phẩm hoặc
do dụng ý không đặt tên của tác giả nhưng không vì thế mà hình ảnh của họ trở
nên mờ nhạt. Nhân vật người vợ nhặt xuất hiện không nhiều nhưng ấn tượng để
lại vô cùng ấn tượng, ghi đậm chủ đề của truyện. Người đàn bà này xuất hiện
trước cái lúc Tràng đẩy xe thóc, tuy nhiên ấn tượng chỉ đến hôm gặp lại Tràng
ngay trước cổng chợ mới là điểm nhấn. Khi này cô ta chẳng biết từ đâu ập đến
mắng xối xả Tràng: “Điêu! Người thế mà điêu!”. Chính cuộc sống túng nghèo
đẩy con người ta vào ngõ cụt, ngôn ngữ của cô ta cũng thô lỗ, sỗ sàng không
chút nể nang. Tràng có chút ngạc nhiên bởi nay trông Thị khác hôm trước,
người sọp hẳn đi nhưng một lúc hắn cũng nhớ ra ngay cô ta. Tràng cười hiền
lành thể hiện sự hối lỗi bèn mời cô ta ăn trầu xã giao nhưng cô ta lại càng tấn
công: “Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu”. Tràng thấy thế vui vẻ mời bánh đúc, cô ta
liền sà vào ăn bốn bát liền. Từ đó mới thấy người đàn bà này thật tội nghiệp,
chính vì nạn đói đã khiến cô ấy đánh rơi đi nhân cách của mình, đói nên đầu gối
phải bò.

Thị là một người vô gia cư, nạn đói đã quật cô lưu lạc đến đây xa quê
hương sống bờ sống bụi. Thân hình gầy sọp, hai con mắt trũng hoáy, khuôn mặt
lưỡi cày xám xịt, quần áo rách tả tơi như tổ đỉa. Ngày đó, hiện trạng của nạn đói
vô tình mai một con người ta, Thị chính là một nạn nhân ở đó, thoi thóp từng
ngày, từng giờ. Trên đường theo Tràng về nhà, mọi người chẳng ai tin trong lúc
nạn đói ở lúc đỉnh điểm thế này Tràng sẽ có được vợ nên nhìn hắn với ánh mắt
dò xét, tò mò khiến cô ta bối rối, ngượng ngùng kéo nón che mặt. Nếu trước đó
Thị sỗ sàng, để mặc liêm sỉ của mình chỉ cần được ăn thì đến lúc này lòng tự
trọng trong cô hồi sinh rõ rệt. Họ nói chuyện với nhau rất vui vẻ, Tràng trả lời
rất hồn nhiên, trẻ con và tác giả miêu tả nhiều ở nụ cười của anh. Lúc này mới
thấy được ở Thị dần bộc lộ nét tính cách đẹp, đáng quý.
Về đến nhà Tràng, khi đảo mắt nhìn toàn bộ thấy hoang sơ, trống trải cô
bất giác thở dài giấu đi nỗi thất vọng. Ở trong cô lúc này cũng chẳng còn cách
nào khác, đi thì sẽ chẳng có nơi để đi, đành đưa mắt làm ngơ, ở lại. Khi cụ Tứ -
mẹ Tràng về cô ta lễ phép chào: “u đã về ạ!”. Vẻ đẹp của một người phụ nữ dịu
dàng, từ tốn toát lên ở Thị ngay lúc này. Cô có chút e ngại, nhìn lại bản thân
mình đầy tủi hổ khi nhìn thấy cụ Tứ ngồi đó im lặng không nói lời nào, sau đó
thì cụ cũng chấp cho hai người lấy nhau, không khí nhẹ nhàng hơn.

Một cuộc sống mới tại nhà Tràng, sáng sớm cô cùng mẹ chồng dậy sớm
quét dọn, sắp xếp nhà cửa ngăn nắp, gọn gàng. Quần áo của Tràng cũng được
đem phơi, nước đổ đầy ẳng. Đến bữa ăn sáng, mắt tối sầm lại Thị cầm trên tay
bát cháo cám của mẹ, tuy thất vọng nhưng cô không dám để lộ điều đó sợ mẹ
phật lòng nên đã cố nuốt vào. Trong sự tĩnh lặng, lo âu bởi tiếng trống thúc đòi
thuế thì Thị lên tiếng: “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu
đóng thuế nữa đâu. Người ta phá kho thóc của Nhật, chia cho người đói nữa
đấy”. Lúc này lời nói của Thị đã nhân lên thêm niềm hy vọng, ánh sáng ở tương
lai về niềm tin Cách mạng sẽ giải phóng cuộc đời, cái nghèo của họ.

Sau tất cả, hình ảnh người vợ nhặt hiện lên tuy nghèo khó, rách rưới
nhưng sâu thăm cô là một người phụ nữ dịu dàng, chân thành, cởi mở, một
người vợ hiền dâu thảo. Km Lân thông qua miêu tả thành công nhân vật thị tác
giả đã tái hiện được hiện thực tối tăm của xã hội nông thôn Việt Nam.

Phân tích nhân vật Thị trong truyện ngắn Vợ nhặt

Bài làm 14
Kim Lân là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn xuôi hiện đại
Việt Nam trước và sau Cách mạng tháng Tám. Một trong những tác phẩm tiêu
biểu của Kim Lân được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công là
truyện ngắn “Vợ nhặt”,được in trong tập truyện “Con chó xấu xí”. Đây là tác
phẩm mà Kim Lân đã tái hiện thành công bức tranh ảm đạm và khủng khiếp về
nạn đói Ất Dậu (1945) của nước ta. Trên cái nền tăm tối và đau thương ấy, nhà
văn đã đặt vào đó hình ảnh của nhân vật người vợ nhặt: nghèo đói, bất hạnh
nhưng lại có một khát vọng sống mãnh liệt. Điều đó được thể hiện qua việc chị
chấp nhận theo không một người đàn ông về làm vợ giữa ngày đói.

Về cảnh ngộ, xuất hiện trong tác phẩm, người vợ nhặt chỉ là một con số
không tròn trĩnh: không tên tuổi, không quê hương, không gia đình, không nghề
nghiệp… Từ đầu đến cuối tác phẩm chị chỉ được gọi bằng “thị”- một cách gọi
phiếm định dành cho chị và tất cả những người phụ nữ có cảnh ngộ và số phận
đáng thương và tội nghiệp như chị. Không những vậy, chân dung của người phụ
nữ ấy hiện ra ngay từ đầu là những nét không mấy dễ nhìn: đó là hình ảnh của
người đàn bà gầy vêu vao, ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, quần áo
thì rách như tổ đỉa, sống vất vưởng và chờ đợi may mắn.

Trước khi trở thành vợ Tràng, thị là một người phụ nữ ăn nói chỏng lỏn,
táo bạo và liều lĩnh. Lần gặp đầu tiên, thị chủ động làm quen ra đẩy xe bò cho
Tràng và “liếc mắt cười tít” với Tràng. Lần gặp thứ hai, thị “sầm sập chạy tới”,
“sưng sỉa nói” và lại còn “đứng cong cớn” trước mặt Tràng. Đã vậy, Thị còn
chủ động đòi ăn. Khi được Tràng mời ăn bánh đúc, Thị đã cúi gằm ăn một mạch
bốn bát bánh đúc. Ăn xong còn lấy đũa quẹt ngang miệng và khen ngon…
Trong đói khát cùng cực, thị gần như đánh mất đi nhân cách, sự tế nhị của con
người.
Về đến nhà, trông nếp nhà rẹo rọ của Tràng, thị nén tiếng thở dài, tiếng
thở dài chấp nhận bước vào cuộc đời của Tràng. Tiếng thở dài thất vọng vì hoàn
cảnh của Tràng cũng chẳng có gì khá hơn thị. Tràng đau chỉ nghèo mà còn có
mẹ già, còn phải lo toan, biết có cưu mang thị nổi hay không, hay có thể sẽ
khiến cuộc đời của thị thêm khổ. Hành động khép nép, tay vân vê tà áo khi
đứng trước mặt bà cụ Tứ, thị thật đáng thương. Ở sâu thẳm bên trong con người
này vẫn có một niềm khát khao mái ấm gia đình thực sự, bởi thế thị quyết định
gắn kết với tràng, trở thành một phần trong gia đình, bất chấp ngày mai ra sao.

Có thể nói, tất cả những biểu hiện trên của thị suy cho cùng cũng là vì
đói. Cái đói trong một lúc nào đó nó có thể làm biến dạng tính cách của con
người. Nói điều này, chắc chắn nhà văn thật sự xót xa và cảm thông cho cảnh
ngộ đói nghèo của người lao động. Khi trở thành vợ Tràng, thị đã trở về với
chính con người thật của mình là một người đàn bà hiền thục, e lệ, lễ phép, đảm
đang. Điều đó được thể hiện qua dáng vẻ bẽn lẽn đến tội nghiệp của thị khi bên
Tràng vào lúc trời chạng vạng. Thị ngượng ngùng đi sau Tràng ba bốn bước, cái
nón rách che nghiêng, “rón rén, e thẹn, ngượng nghịu,“chân nọ bước díu cả vào
chân kia”… . Lúc này, trông thị thật tội nghiệp, cảnh cô dâu mới theo chồng về
nhà: một cảnh đưa dâu không xe hoa, chẳng pháo cưới mà chỉ thấy những
khuôn mặt hốc hác u tối của những người trong xóm và âm thanh của tiếng quạ,
tiếng khóc hờ người chết tang thương… Hành trang bước đến với hạnh phúc
của thị là cả cuộc đời đen tối và nỗi lo sợ không thể nói nên lời.

Thế nhưng, có cái gì đó thật mới mẻ đã làm thay đổi người đàn bà ấy.
Sau một ngày làm vợ, chị dậy thật sớm, quét tước, dọn dẹp cho căn nhà khang
trang, sạch sẽ. Đó là hình ảnh của một người đàn bà hiền hậu, đúng mực, một
người vợ biết lo toan, thu vén cho cuộc sống gia đình chứ không có vẻ gì chao
chát, chỏng lỏn nữa.. Thị hiện rõ là một người vợ hiền, một cô dâu thảo. Cuộc
sống có cái gì đó khởi sắc mà không ai có thể lí giải được.

Trong bữa cơm cưới giữa ngày đói, bà cụ Tứ dành hết tình cảm cho con
dâu mới. Chị tỏ ra là một phụ nữ am hiểu về thời sự khi kể cho mẹ và chồng về
câu chuyện ở Bắc Giang người ta đi phá kho thóc của Nhật. Chính chị đã làm
cho niềm hy vọng của mẹ và chồng thêm niềm hy vọng vào sự đổi đời trong
tương lai.

Qua hình tượng người vợ nhặt, nhà văn đã mạnh mẽ lên án tội ác dã man
của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng khiếp; đồng thời
bày tỏ thái độ đồng cảm xót thương với số phận của người lao động nghèo khổ;
thái độ trân trọng tấm lòng nhân hậu, niềm khao khát hạnh phúc bình dị những
người lao động nghèo; trong lao khổ họ vẫn thương yêu đùm bọc, và cùng nhau
vun đắp hạnh phúc để vượt qua những thử thách khắc nghiệt.

Tóm lại, người phụ nữ không tên tuổi, không gia đình, không tên gọi,
không người thân ấy đã thật sự đổi đời bằng chính tấm lòng giàu tình nhân ái
của Tràng và mẹ Tràng. Bóng dáng của thị hiện ra tuy không lộng lẫy nhưng lại
gợi nên sự ấm áp về cuộc sống gia đình. Phải chăng thị đã mang đến một làn gió
tươi mát cho cuộc sống tăm tối của những người nghèo khổ bên bờ của cái
chết….

Phân tích nhân vật Thị trong truyện ngắn Vợ nhặt

Bài làm 15

Kim Lân là một hiện tượng trong làng văn học Việt Nam thế kỉ XX. Ông
viết không nhiều nhưng tác phẩm nào cũng xuất sắc. Người đọc nhận thấy trong
trang văn của ông một tinh thần lạc quan của con người, cốt lõi khát vọng cháy
bỏng về cuộc sống tốt đẹp của con người trong bất cứ hoàn cảnh nào ngay cả
khi cận kề với cái chết, cái đói. Những trang viết của Kim Lân về đề tài nông
thôn trước cách mạng hấp dẫn người đọc bởi tính nhân bản. Ngay cả khi con
người phải sống trong cảnh khốn cùng, bi đát nhất của trận đói, cuộc sống mấp
mé giữa sự sống và cái chết, này văn vẫn nhận thấy ở họ lòng yêu đời, ham
sống. Sức sống ấy thể hiện đậm nét qua nhân vật người “vợ nhặt” trong tác
phẩm Vợ nhặt của ông.

Dưới ngòi bút của Kim Lân, người vợ nhặt là người phụ nữ vô danh,
không tên không tuổi, không quê hương, không quá khứ. Không phải là nhà văn
nghèo ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho thị một cái tên mà bởi vì thị là cánh
bèo nổi trôi trong nạn đói, là người đàn bà vô danh. Từ đầu đến cuối tác phẩm,
nhân vật này chỉ được gọi là “cô ả”, “thị”, “người đàn bà”, “nàng dâu mới”,
“nhà tôi”. Nhưng nhân vật này để lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc.

Lần đầu thị xuất hiện là hình ảnh: ngồi lẫn trong đám con gái chờ nhặt hạt
rơi hạt vãi trước cổng chợ tỉnh. Khi nghe Tràng hò một câu chơi cho đỡ nhọc
“Muốn ăn cơm trắng mấy giò/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh”, Thị “ton ton chạy
lại đẩy xe cho Tràng…cười tít mắt”. Thị đẩy xe với hi vọng được ăn nên cũng
rất nhiệt tình và chẳng cần ý tứ.

Lần thứ hai, thị xuất hiện với ngoại hình kém hấp dẫn: Đó là người phụ
nữ gầy vêu vao, “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” nổi
bật với “hai con mắt trũng hoáy”. Có thể nói, cái đói đã khiến thị càng nhếch
nhác, tội nghiệp lại càng nhếch nhác, tội nghiệp hơn nữa. Cái đói không chỉ tàn
hại dung nhan của thị mà còn tàn hại cả tính cách, nhân phẩm.
Vì đói mà thị trở nên “chao chát”, “chỏng lỏn”, “chua ngoa, đanh đá”.
Thị “cong cớn”, “sưng sỉa” khi giao tiếp, nói chuyện.

Cái đói khiến thị quên cả việc phải giữ ý tứ, lòng tự trọng của người con
gái. Thị cứ thế mà đòi ăn. Được cho ăn, thị sẵn sàng “sà xuống cắm đầu ăn một
chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Thị đã đặt sự tồn tại của mình,
đặt miếng ăn lên trên nhân cách.

Khi anh cu Tràng hay đùa, lại đùa “có muốn theo tớ về nhà thì ra khuân
đồ lên xe rồi ta cùng về”. Thì người đàn bà kia lại im lặng (mà thường tâm lý im
lặng là đồng ý). Thị đồng ý, đồng ý mà không hề do dự, phân vân. Trong khi đó,
Tràng là ai, tốt xấu như thế nào? gốc tích ra sao? Thị nào hay nào biết. Chỉ mấy
bát bánh đúc là thị có thể theo ngay Tràng. Phải chăng thị theo Tràng chỉ vì
miếng ăn ? Thị dễ dàng, hời hợt thế ư? Thực ra hành động theo Tràng của thị
xuất phát từ nhu cầu bám lấy sự sống, từ lòng khao khát được sống. Thị bất
chấp tất cả để được ăn, ăn để được tồn tại. Thị chấp nhận theo không Tràng. Đó
là ý thức bám lấy sự sống.

Cận kề bên cái chết, người đàn bà không hề buông xuôi sự sống. Trái lại,
thị vẫn vượt lên trên cái thảm đạm để dựng xây mái ấm gia đình. Niềm lạc quan
yêu sống của thị chính là một phẩm chất rất đáng quý. Nói như Kim Lân: ”
Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy
không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở
tương lai”.

Trên đường về nhà chồng tâm trạng của thị có sự thay đổi rõ nét. Nếu
như anh cu Tràng sung sướng, tự mãn, cái mặt vênh lên tự đắc với mình thì
người đàn bà lại cảm thấy xấu hổ. Trước cái nhìn “săm soi”, trước những lời
bông đùa, chòng ghẹo của người dân ngụ cư. Thị ngượng nghịu, thiếu tự tin
“chân nọ bước díu cả vào chân kia… cái nón rách tàng che nửa khuôn mặt”.

Về đến nhà chồng, nhìn thấy“ngôi nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh
vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”, thị “nén một tiếng thở dài”. Đây là tiếng
thở dài ngao ngán, thất vọng nhưng cũng là sự chấp nhận. Ai ngờ cái phao mà
thị vừa bám vào lại là một chiếc phao rách. Trong tiếng thở dài đó vừa có sự lo
lắng cho tương lai ngày mai, vừa có cả những lo toan và trách nhiệm của thị về
gia cảnh nhà chồng. Đó phải chăng là thị đã ý thức được trách của mình đối với
việc cùng chồng chung tay gây dựng gia đình. Tấm lòng của thị thật đáng quý
biết bao.

Vào trong nhà, thị e thẹn, dè dặt “ngồi mớm” vào mép giường (“Ngồi
mớm” thế ngồi bấp bênh, không ổn định nhưng cũng rất ý tứ). Thị ý tứ, cung
kính, lễ phép chào bà cụ Tứ (chào đến hai lần). Đây là hình ảnh đẹp của người
con dâu rất mực thước trong quan hệ với mẹ chồng. Khi Tràng thưa chuyện với
mẹ, thị chỉ biết “đứng vân vê tà áo đã rách bợt”.

Sau đêm tân hôn, người phụ nữ ấy có sự thay đổi hoàn toàn về tâm trạng
và tính cách. Thị dậy rất sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, thu vén nhà cửa. Sự thay
đổi ấy người đọc cũng dễ nhận ra: nếu hôm qua Thị chua ngoa, đanh đá, chỏng
lỏn bao nhiêu thì hôm nay thị lại hiền lành bấy nhiêu. Hơn ai hết, Tràng cảm
nhận đầy đủ sự thay đổi tuyệt vời ấy: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng
là người đàn bà hiền hậu, đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như
những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Câu văn này đã ghi lại cảm xúc chân thật
của Tràng trước sự đổi thay tích cực của vợ. Phải chăng tình yêu đích thực với
sức nhiệm màu diệu kì đã có sức cảm hóa với thị.
Trong bữa cơm đầu tiên tại gia đình chồng, dù bữa ăn chỉ có “niêu cháo
lõng bõng, mỗi người được lưng hai bát đã hết nhẵn”, lại phải ăn cháo cám
nhưng Thị vẫn vui vẻ, bằng lòng. Thị đã đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời
cuộc cho mẹ con Tràng. Nghe tiếng trống thúc thuế, thị nói với mẹ chồng:
“Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu.
Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy”. Sự hiểu
biết này của thị như đã giúp Tràng giác ngộ về con đường phía trước mà anh sẽ
lựa chọn “trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói ầm ầm đi trên đê Sộp, phía
trước có lá cờ đỏ to lắm”. Qua đó, ta thấy nhân vật vợ Tràng, “nàng dâu mới”
cũng là Người truyền tin cách mạng.

Viết về sự đổi thay trong tâm lý của thị, Kim Lân bày tỏ tình cảm trân
trọng, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động nghèo. Tình
cảm nhân đạo của nhà văn thể hiện ở đây. Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Xây
dựng nhân vật người vợ nhặt, nhà văn đã đặt nhân vật vào tình huống truyện
độc đáo; diễn biến tâm lí được miêu tả chân thực, tinh tế; ngôn ngữ mộc mạc,
giản dị, phù hợp với tính cách nhân vật. Nghệ thuật trần thuật hấp dẫn, kịch
tính…

Tóm lại, người “vợ nhặt” là một sáng tạo độc đáo của Kim Lân. Thông
qua nhân vật này, nhà văn đã thể hiện một ý nghĩa nhân văn cao đẹp. Con người
Việt Nam dù sống trong hoàn cảnh khốn cùng nào cũng sẽ luôn hướng về tương
lai với niềm tin mãnh liệt vào sự sống.

Phân tích nhân vật Thị trong truyện ngắn Vợ nhặt

Bài làm 16
Nhắc đến Kim Lân chúng ta có thể nghĩ ngay đến tác phẩm ''Vợ nhặt'',
một trong những tác phẩm xuất sắc, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người
đọc. Nổi bật trong đó không thể không nhắc đến nhân vật Thị trong câu chuyện.
Tác giả đã khắc họa một cách chân thực, cụ thể nhân vật qua tính cách, chân
dung, hoàn cảnh, để rồi từ đó nói lên triết lý cuộc sống mà tác giả muốn gửi
gắm qua tác phẩm.

Ngay từ nhan đề cũng đã khiến người đọc cảm thấy đặc biệt. Đi sâu vào
câu chuyện, có thể cảm nhận nhân vật Thị là một nhân vật có số phận vô cùng
thương cảm. Thị xuất hiện là một người nghèo, không ai thân thích, đến cái tên
cũng không có, gọi bằng Thị rất suồng sã, dân dã, đói khát, rách tả tơi, chỉ nghe
vài lời nói đùa mà chấp nhận theo không một người, mình chưa biết tính cách
họ ra sao, gia cảnh như thế nào ? Thị không đắn đo suy nghĩ mà quyết định
nhanh chóng chỉ vì hoàn cảnh đói quá. Cái đói đã khiến cho Thị chao chát,
chỏng lỏn, thô tục, cong cớn, nói lời ngọt ngào, tình tứ với người đàn ông mình
gặp lần đầu tiên (lời xưng hô thân mật: "nhà tôi ơi, đằng ấy nhỉ", thậm chí còn
liếc mắt cười tít, chỉ vì cái đói, vì sự tồn tại mà Thị trở nên xưng xỉa: "điêu,
người thế mà điêu" thậm chí đòi ăn: "có ăn gì thì ăn chả ăn giầu" và "cắm đầu
ăn một chập bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì" đúng là vì đói mà con
người ta không còn ý thức về danh dự, không còn ý thức về hành động, về sự e
thẹn, chỉ cốt làm sao khỏi đói, thoát chết. Họ trở nên trơ trẽn, liều lĩnh, thậm chí
bóp méo cả nhân cách. Hoàn cảnh của Thị giống như người chết đuối giữa dòng
đang chới với giữa sự sống và cái chết, họ sẽ bấu víu vào bất cứ cái gì, hi vọng
có thể sống sót nhưng với Thị là chết đuối mà vớ phải "cọc mục".

Vì khao khát được sống, vì muốn thoát khỏi lưỡi hái tử thần mà thậm chí
người ta sẵn sàng chấp nhận làm vợ theo, vợ nhặt. Cưới chồng là việc trọng đại
của một đời người, với nghi lễ sang trọng, vợ là bổn phận thiêng liêng của
người con gái khi lấy chồng, nhưng với Thị chẳng có người mai mối, chẳng
đám hỏi, treo cưới gì cả, tự nhiên theo không về nhà chồng chỉ qua lời nói đùa
tầm phào mà người nói vẫn tưởng là nói đùa thôi nhưng Thị vẫn theo về thật.
Câu chuyện tưởng như là bịa, hơn nữa cũng không có gì gọi là lãng mạn như
những câu chuyện tình ta vẫn thường gặp. Đúng là cười ra nước mắt gợi ra cho
người đọc sự xót xa, ngậm ngùi trước số phận bị rẻ rúng, bèo bọt của những
người nông dân nghèo giữa nạn đói thê thảm, đúng là sự khốn cùng của hoàn
cảnh.

Sáng hôm sau tỉnh dậy, Thị thay đổi hẳn từ vẻ ngoài cho đến cách cư xử,
ăn nói, hành động: "Tràng nom Thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà
hiền hậu, đúng mực, không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng
gặp ở ngoài tỉnh".

Qua đây, nhà văn muốn khẳng định con người thay đổi do hoàn cảnh,
hoàn cảnh làm thay đổi tính cách con người như lời nhà văn Nam Cao đã từng
nói trong truyện ngắn "Sao lại thế này": "Giữa một người đàn bà tốt và một
người đàn bà xấu khoảng cách chỉ bằng sợi tóc". Ở đây Thị vì đói, vì khao khát
được sống mà trở nên đanh đá, chua ngoa, trơ trẽn, khi có điểm tựa, có mái ấm
gia đình, Thị trở về đúng với bản chất tốt đẹp vốn có của Thị. Sự thay đổi ở Thị,
đồng thời thể hiện tấm lòng cảm thông của nhà văn đối với nhân vật. Đây là tư
tưởng nhân đạo cao cả.

Phân tích nhân vật Thị trong truyện ngắn Vợ nhặt

Bài làm 17
Trong tác phẩm Vợ nhặt người vợ không thực sự được khai thác nhiều.
Nhưng với nhân vật này, Kim Lân cũng gửi đến những thông điệp đầy ý nghĩa
và nhân văn, thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc của tác giả.

Người vợ nhặt được xây dựng là người phụ nữ nghèo khổ, cơ cực, túng
quẫn. Thị không có bất cứ gia sản gì, ngay cả cái tên cũng không có, thị chỉ
được gọi một cách chung chung và đầy rẻ rúng là vợ nhặt. Thị không có nhà
cửa, hai lần gặp Tràng chỉ thấy thị vất vưởng nơi đầu đường, xó chợ. Thị không
có họ hàng, không có nghề nghiệp. Trong hoàn cảnh toàn dân Việt Nam đang
phải oằn mình chống lại nạn đói, thị không có bất cứ một chỗ dựa nào, thị sống
trong sự dồn đuổi của cái chết, hàng ngày, hàng giờ, cái đói đã biến thị trở nên
xanh xao, hốc hác, gò má cao, không còn chút sự sống.

Chính hoàn cảnh bị đẩy đến bước đường cùng, đã khiến cho thị đánh mất
lòng tự trọng của bản thân. Nỗi ám ảnh về cái đói, cái chết không chỉ vắt kiệt sự
sống của người đàn bà nghèo mà còn xói mòn nhân cách, nhân phẩm của thị, nó
được thể hiện rõ qua hai lần gặp gỡ với Tràng. Lần thứ nhất, gặp Tràng vốn là
người không quen biết, chỉ vì một câu hò vu vơ, Thị đang ton ton chạy ra, híp
mắt cười tình, rồi đẩy xe bò cho Tràng. Mãnh lực của miếng ăn quá lớn, khiến
thị đánh mất sự e dè, thẹn thùng vốn có.

Lần thứ hai gặp lại sự trơ trẽn, vô duyên đã đánh mất cả lòng tự trọng.
Sau lần gặp gỡ đầu, không có bất cứ một lời hẹn ước nào, nhưng khi gặp lại
Tràng, thi sầm sập chạy đến, đứng trước mặt mà nói: “Điêu! Điêu. Người thế
mà điêu”. Và chỉ đến khi nhận được lời mời cho đi ăn, thì thị không còn chút ý
tứ, ngồi xuống cắm đầu ăn một chặp hết bốn bát bánh đúc. Những câu văn ngắn
diễn tả hành động ăn uống thô tục, lỗ mãng của thị. Nỗi ám ảnh của cái đói đã
khiến thị trở nên táo bạo, liều lĩnh. Nhân cách, lòng tự trọng là đáng quý nhất
với con người đã bị bán rẻ vì miếng ăn. Đó là hiện thực đau xót mà không chỉ
cô vợ nhặt mới vậy, mà rất nhiều người dân Việt Nam đã rơi vào tình cảnh này.
Và liều lĩnh nhất là chỉ một câu nói đùa của Tràng, cô đã theo anh về làm vợ.
Trong hoàn cảnh không còn đâu để bấu víu, thì dù có là vợ nhặt cô cũng chấp
nhận để thoát khỏi sự truy đuổi của thần chết.

Cũng như nhân vật Tràng, sau khi lập gia đình, người vợ nhặt đã có sự
thay đổi vô cùng lớn. Đầu tiên là sự thay đổi tâm lí, tính cách, trên đường về
nhà, trước sự để ý của những người dân, thị cắp cái thúng con, e dè, ngại ngùng
đi cạnh Tràng. Những biểu hiện ở dáng điệu đó cho thấy sự xấu hổ, ngượng
ngùng trong tâm lí của thị. Đó cũng là biểu hiện đầu tiên đánh dấu sự trở lại của
nữ tính, sự trơ trẽn, chỏng lỏn đã không còn. Trong lòng cô vợ nhặt còn dấy lên
niềm lo lắng cho tương lai. Về đến nhà, nhìn thấy ngôi nhà xiêu vẹo, đầy những
cỏ dại vây xung quanh, cái ngực lép của thị nhô lên, nén một tiếng thở dài. Vào
đến nhà, cô ngồi ghé ở mép giường, tay ôm chặt cái thúng.

Trước mặt mẹ chồng, cô lễ phép chào hỏi, tay mân mê tà áo đã rách bợt
đi. Những hành động, cử chỉ của thị thể hiện một tâm lí dễ hiểu đó là sự e thẹn
khi lần đầu tiền đối diện với mẹ chồng. Song cũng bộc lộ phần nào sự lễ phép,
dịu dàng trong cách giao tiếp với người lớn tuổi. Những biểu hiện này một lần
nữa cho thấy, cái chỏng lỏn chỉ là sản phẩm của sự xô đẩy của hoàn cảnh, còn
trong thẳm sâu bản chất thì vẫn là tâm hồn đầy nữ tính.

Sự thay đổi rõ nhất trong tính cách chính là buổi sáng đầu tiên sau khi thị
lấy chồng. Qua cái nhìn của nhân vật Tràng, thị hôm nay đã khắc hẳn, rõ ràng là
người đàn bà hiền hậu, đúng mực, không còn chao chát, chỏng lỏn như mấy lần
gặp ngoài tỉnh. Những thay đổi trong cảm nhận của Tràng xuất phát từ những
việc làm hết sức giản dị mà ý nghĩa mà cô vợ nhặt đã làm: dậy sớm, cùng mẹ
dọn dẹp, quét tước nhà cửa,… Thị đã đem đến màu sắc tươi sáng vào căn nhà
lạnh lẽo, u ám của Tràng. Tất cả những hành động đó cho thấy sự đảm đang,
tháo vát của cô cùng cho thấy thị thực sự yêu thương, trân trọng tổ ấm gia đình,
và có khát vọng mãnh liệt vào hạnh phúc gia đình.

Không chỉ biến chuyển trong tính cách mà thị còn có sự biến chuyển
trong nhận thức. Hạnh phúc đối với người vợ nhặt quả không hề dễ dàng, bởi sự
dồn đổi của cái đói và cái chết. Đêm tân hôn của hai vợ chồng cũng phải diễn ra
trong tiếng khóc tỉ tê của những gia đình có người chết. Bữa cơm đầu tiên đón
cô dâu mới là nồi cháo cám mặn chát, lõng bõng là nước. Nhưng chính lúc ấy,
trong tâm hồn thị vẫn có niềm tin mãnh liệt vào tương lai.

Không phải ngẫu nhiên, trong ba nhân vật Kim Lân lại chọn thị chứ
không phải hai nhân vật còn lại nói về khởi nghĩa, phá kho thóc Nhật. Có lẽ bởi
một người dám đánh đổi tất cả, kể cả trở thành vợ nhất để được sống, thì khát
vọng sống, hạnh phúc ở họ là không thể hủy diệt. Dù không nói rõ về tương lai,
nhưng ở một con người ham sống, ở một tinh thần khỏe khoắn như người vợ
nhặt, Kim Lân cho thấy tinh thần hăng hái, chắc chắn Thị sẽ theo cách mạng.

Nhân vật người vợ nhặt được Kim Lân đặt vào tình huống hết sức độc
đáo, từ đó nhân vật bộc lộ tâm trạng, cách hành xử của bản thân. Nhân vật được
tập trung khắc họa ở cử chỉ, hành động qua đó làm bật lên vẻ đẹp của người vợ
nhật.

Bằng ngòi bút tin yêu và trân trọng, Kim Lân đã dựng lên một chân dung
bất hủ của văn học. Người vợ nhặt chính là nạn nhân tiêu biểu nhất của nạn đói
năm 1945, nạn đói đã làm nhòe mờ nhân cách, lòng tự trọng của nhân vật.
Nhưng ẩn sâu trong con người ấy vẫn là một người phụ nữ đầy dịu dàng, nữ
tính, biết vun vén và có khao khát hạnh phúc mãnh liệt, đồng thời cũng là người
có niềm tin mãnh liệt vào tương lai.

Phân tích nhân vật Thị trong truyện ngắn Vợ nhặt

Bài làm 18

Ai đó từng nói rằng “ Hãy hướng về phía mặt trời, bóng tối sẽ ngả sau
lưng bạn”. Bởi nói như nhà văn Nguyễn Khải “Sự sống nảy sinh từ trong cái
chết, hạnh phúc bắt nguồn từ những gian khổ hy sinh. Ở đời không có con
đường cùng chỉ có những ranh giới điều cốt yếu là phải có đủ sức mạnh để bước
qua ranh giới đó". Đọc truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân ta càng
hiểu sâu sắc và thấm thía hơn chân lý đó. Ta không khỏi xót xa, ngậm ngùi
thương cho hoàn cảnh éo le, mừng vui cho niềm tin của con người vào tương lai
mới mà còn rưng rức trước tình cảm yêu thương của hơi ấm gia đình.Vậy điều
đó thể hiện như thế nào qua hình ảnh nhân vật Thị?

Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân được viết trên nền cái đói của năm 1945.
Chân dung nhân vật Tràng được Kim Lân miêu tả có ngoại hình thô kệch, xấu
xí với công việc làm thuê ngật ngưỡng bước ra trong đói nghèo ấy. Thị, cô gái
kém duyên đang vật lộn với cái đói. Hai người họ gặp nhau vỏn vẹn có hai lần
rồi thành đôi chỉ bằng bát bánh đúc với vài câu bông đùa. Tràng dẫn Thị về
trong cái nắng chiều chạng vạng trước sự bất ngờ của tất cả người dân xóm ngụ
cư. Bà cụ Tứ- mẹ Tràng nhìn nàng dâu mới mà lo cho con liệu có đùm bọc nhau
trong cảnh nghèo, lại mừng vui hạnh phúc vì khó khăn hay đói khổ cũng không
ngăn đôi lứa nên duyên. Họ cùng nhau vun vén cửa nhà, san sẻ từng bữa ăn.
Trong hạnh phúc ấy, câu chuyện khép lại với hình ảnh nhân dân phá kho thóc
Nhật và lá cờ đỏ sao vàng tung bay trong óc Tràng.
Thị là nhân vật mang đầy đủ những nét tiêu biểu của người lao động
nghèo trong nạn đói khủng khiếp. Dưới ngòi bút của Kim Lân, chân dung Thị
hiện lên như một con ma đói, áo quần luộm thuộm, gương mặt lấm lem với “cái
ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt”, không có nổi cái tên mà vỏn vẹn
chữ “Thị”. Cô gái đói đến độ phải nhặt đồ rơi vãi, nghe ba câu hò mà vội chạy
đến đẩy xe bò. Thị gặp Tràng nhưng không ăn trầu mà ăn bánh đúc rồi quẹt đũa
ngang miệng “chà ngon”. Ta chỉ thấy chân dung Thị chao chát, chỏng lỏn. Vậy
nhưng qua ngòi bút đầy tài năng của tác giả, người vợ anh Tràng hiện lên có
cong cớn, rất cong cớn nhưng không nanh nọc và tính cách ấy phải chăng do dốt
nát, đói nghèo, tăm tối chứ tuyệt nhiên không sinh ra từ cái ác, cái xấu. Nhân
vật Thị hiện lên chua xót hơn khi cuộc hôn nhân cả đời người cũng chỉ bắt đầu
bằng vài ba câu tầm phào của Tràng mà khiến người đàn bà quên hết sĩ diện, nết
na, đức hạnh để xà xuống ăn hết bát bánh đúc, theo Tràng về làm vợ mà không
dò hết ngọn ngành nguồn sông. Chính cái đói đã khiến thân phận con người bọt
bèo, rẻ mạt đến vậy.

Khi gặp Tràng thì đanh đá, chỏng lỏn nhưng khi về làm dâu, Thị lại là
người vợ đảm đang, con dâu hiếu thảo. Thị theo Tràng về như đến một chốn có
thể nương tựa trong cái đói đang rình rập. Trên con đường về nhà Tràng, cô Thị
đanh đá bỗng trở nên dịu dàng, e dè, ngượng ngập. Đôi mắt tư lự khi bỡ ngỡ đặt
chân đến ngôi nhà mới, dáng điệu khép nép ngồi và câu chào lúng túng…tất cả
làm cho Thị có cảm giác của một nàng dâu mới. Từ khi làm vợ, Thị đảm đang
và dịu dàng hơn cả, cô cùng mẹ sửa sang cửa nhà, dọn dẹp vườn tược và vui vẻ
trong bữa ăn loãng thếch, đắng chát. Thị kể về câu chuyện những người cướp
kho thóc Nhật với hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng phấp phới. Chính nó làm lóe lên
ánh sáng tia hy vọng về tương lai mới, mở ra con đường đấu tranh đi đến Cách
mạng. Rõ ràng, Thị dần dần nhận được đủ đầy cảm xúc từ chữ “tình”, có ý thức
về bổn phận và trách nhiệm của mình. Quả đúng, dù trong túng đói tột cùng thì
tình cảm vẫn quý hơn manh áo bởi nó khiến con người được sống là chính
mình, được nên người.

Truyện ngắn Vợ nhặt là lời kết tội đanh thép đối với thực dân Pháp và
phát-xít Nhật cùng bọn phong kiến tay sai đã đẩy con người vào thảm cảnh chết
đói khủng khiếp, mạng người như cỏ rác. Không chỉ vậy, Vợ nhặt còn mang ý
nghĩa nhân bản sâu xa rằng dù trong tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái
chết, con người vẫn yêu thương, trân trọng, đùm bọc lẫn nhau, vẫn khát khao
hạnh phúc, muốn sống như một con người, sống nên người.

Nam Cao từng nói “Một người đàn bà thật xấu khi yêu cũng lườm”, nó
quả đúng với nhân vật Thị trong Vợ nhặt. Tôi nghĩ, đó là cái lườm yêu của cô
Thị không chỉ thật xấu mà còn thật rách và còn thật đói. Nhưng có lẽ khi đong
đưa con mắt, Tràng và Thị, họ đã quên đi cuộc sống ở cõi trần đang mấp mé bờ
vực cõi âm, cõi âm như hòa với cõi trần, để chỉ còn nhớ đến sự thương yêu.
Thật trân trọng và cảm phục biết bao trước những giản dị của hạnh phúc của đời
thường!

Phân tích nhân vật Thị trong truyện ngắn Vợ nhặt

Bài làm 19

Trong kí ức của mỗi người Việt Nam, nạn đói năm Ất Dậu vẫn là một
cơn ác mộng khó quên. Cũng từ đó, miếng cơm manh áo từ nỗi đau hiện thực
trở thành đề tài sáng tác của những nhà văn. Thân phận những con người trở
nên tầm thường, đến cả chuyện hạnh phúc lứa đôi cũng là chuyện rẻ rúng. Tất
cả những điều đó đều được ghi lại bằng ngòi bút của Kim Lân qua nhân vật
người vợ nhặt trong tác phẩm cùng tên.

Trước tiên, ta thấy Thị là nạn nhân của nạn đói với cuộc sống trôi nổi,
bấp bênh. Là nhân vật vô danh, người vợ nhặt là đại diện chung của số phận của
những người phụ nữ không may sinh ra trong hoàn cảnh bất hạnh. Người phụ
nữ ấy không tên, không tuổi, không quê hương, không quá khứ. Từ đầu đến
cuối tác phẩm, Kim Lân chỉ ban tặng cho nhân vật này những cách gọi tên rất
chung chung như “cô ả”, “thị”, “người đàn bà”, “nàng dâu mới”, “nhà tôi”. Thị
xuất hiện một cách bạo dạn, đáng thương trong hai lần gặp Tràng. Thị “ngồi vêu
ra” lẫn trong đám con gái ngồi chờ nhặt hạt thóc rơi. Thị ton ton chạy lại đẩy xe
tiếp Tràng với hi vọng được “kiếm ăn” nhưng thất bại. Từ sự cong cớn, liếc mắt
cười tít, Thị chuyển sang vẻ tiều tụy, hốc hác vì cái đói trong lần gặp thứ hai
“Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái
khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Tràng dường như không
thể nhận ra thị. Cùng với sự thay đổi về hình thức, cái đói đã xóa đi cái hồn
nhiên hóm hỉnh của thị khi gặp Tràng, chị biến thành một người phụ nữ “đon
đả”, táo bạo và liều lĩnh. Thị đói đến mức cắm đầu ăn bốn bát bánh đúc liền
“Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong
thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng”. Kim Lân đã khắc họa hình ảnh một
người phụ nữ thật đáng thương! Từ ngoại hình đến cử chỉ, hành động, thị đều
hiện lên trên trang giấy với sự khắc khổ, nhếch nhác, tội nghiệp. Cái đói chẳng
những tàn hại dung nhan mà còn tước đoạt cả tính cách và nhân phẩm của thị.
Vì đói mà trở nên “chao chát”, “chỏng lỏn”, “sưng sỉa”.. Cái đói khiến thị quên
đi việc giữ gìn ý tứ và lòng tự trọng của con gái. Càng tội nghiệp hơn khi cái đói
buộc thị phải trở thành “người vợ nhặt” sau một câu nói nửa đùa nửa thật “này
nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cũng về”. Thế là xong một
câu chuyện tình, một cuộc hôn nhân! Sự lãng mạn chỉ là điều không tưởng.
Đang trên bờ vực của cái chết, thị còn lựa chọn nào hơn? Trong suy nghĩ của
thị, Tràng như một cái phao cứu sinh, cứu thị ra khỏi sự đói khát của thế kỉ. Cái
đói đã làm cho thị và biết bao người dân lúc bấy giờ rẻ rúng như vậy. Có ai ngờ
được hạnh phúc lứa đôi được xây đắp bằng bốn bát bánh đúc và một lời nói
bông đùa? Nhưng trong hoàn cảnh “người chết như ngả rạ”, “không khí ẩm lên
mùi ẩm thối của rác tưởi và mùi gây của xác người” thì hạnh phúc tầm thường,
đơn sơ kia cũng đáng quý biết bao.

Bên cạnh đó, Thị còn là người phụ nữ với lòng ham sống mãnh liệt. Thị
đồng ý theo không Tràng là vì để được sống chứ không phải là lẳng lơ. Khát
vọng sống mãnh liệt thúc giục thị phải tìm ra lối thoát cho hoàn cảnh thương
tâm. Niềm lạc quan lạc sống ấy chính là một phẩm chất đáng quý mà nói như
Kim Lân: “Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con
người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý thức khác.
Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy
không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở
tương lai”. Thị đến với Tràng trước hết làm tìm một chỗ nương tựa trong đói
kém. Bởi thế, thị không thể giấu nổi sự thất vọng thầm kín trước gia cảnh thảm
thương của gia đình Tràng “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc
lổn nhổn những búi cỏ dại. Thị đảo mắt nhìn quanh, cái ngực gầy lép nhô lên,
nén một tiếng thở dài”. Trên đường về nhà chồng, trước những lời bàn tán xôn
xao, những chỉ trỏ chòng ghẹo của người dân ngụ cư, người vợ nhặt cảm thấy
xấu hổ, ngượng nghịu đến mức “chân nọ bước díu cả vào chân kia”. Về đến nhà
chồng, thị thất vọng trước cảnh nhà quá tồi tàn, khổ sở nhưng cố nén lại tất cả
vào trong suy nghĩ. Trong tiếng thở dài ấy không chỉ có nỗi thất vọng mà còn
xen cả lo toan, ý thức trách nhiệm, bổn phận của mình trong việc xây dựng cuộc
sống gia đình về sau..

Nhân vật Thị còn để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc bởi những phẩm
chất tốt đẹp. Vào trong nhà, thị e thẹn “ngồi mớm” vào mép giường và chào u
một cách lúng túng. Khác với vẻ chao chát, cong cớn, chỏng lỏn ban đầu, thị
bây giờ là nàng dâu mới với đầy đủ sự ý tứ, cung kính, mực thước. Chính tình
cảm yêu thương, sự đùm bọc sẻ chia trong cơn hoạn nạn đã khiến con người
sống tốt hơn, ý thức sâu sắc hơn về bổ phận và trách nhiệm của mình. Sáng hôm
sau, thị dậy sớm để cùng mẹ chồng dọn dẹp trong ngoài. Đến cả chính Tràng
cũng phải ngạc nhiên: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn
bà hiền hậu, đúng mực, không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng
gặp ở ngoài tỉnh”. Trong bữa cơm đón nàng dâu mới bữa cơm thảm hại ngày
đói, thị vẫn vui vẻ bằng lòng với bát cháo cám đắng chát. Thị là một cơn gió
mới trong gia đình. Hiện thực khắc nghiệt, xót xa “người con dâu đón lấy cái
bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại” nhưng thị vẫn “điềm nhiên và vào
miệng”. Hoàn cảnh đấy, ai cũng phải cất lại nỗi tủi hờn bên trong để vui vầy
cũng hạnh phúc bình dị, đơn sơ. Sự lạc quan được gói trọn trong lời của bà cụ
Tứ: “Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn
chả có cám mà ăn đấy”. Bên cạnh đó, người vợ nhặt còn là người phụ nữ thông
minh hiểu biết. Nghe tiếng trống thúc thuế, thị tỏ ra ngạc nhiên hỏi mẹ chồng
“Ở đây vẫn phải đóng thuế cơ à?” Câu nói của thị làm Tràng ngờ ngợ vỡ ra
trong suy nghĩ “hắn đang nghĩ đến những người phá kho thóc Nhật”, “trong ý
nghĩ của hắn vụt ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm éo nhau đi trên đê Sộp.
Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm”…
Điểm nhấn nghệ thuật ở người vợ nhặt chính là nghệ thuật khắc họa nhân
vật của nhà văn Kim Lân. Tác giả đã đặt nhân vật trong tình huống “lạ”, “éo
le”; diễn biến tâm lí được khắc họa qua các sự kiện với sự quan sát tỉ mỉ, tinh tế
qua hệ thống ngôn ngữ giản dị, mộc mạc.

Như vậy, nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân
là một nhân vật tiêu biểu cho hình tượng người phụ nữ lao động nghèo khổ,
đáng thương. Nhưng dù bị đẩy vào hoàn cảnh khốn cùng, thị vẫn ngời sáng bởi
lòng ham sống, những phẩm chất tốt đẹp và niềm tin tưởng ở tương lai.

Phân tích nhân vật Thị trong truyện ngắn Vợ nhặt

Bài làm 20

Nhà giáo Trần Đồng Minh từng có nhận xét rất tinh tế: “Nhà văn dùng
Vợ nhặt để làm cái đòn bẩy để nâng con người lên trong tình nhân ái. Câu
chuyện Vợ nhặt đầy bóng tối nhưng từ trong đó đã lóe lên những tia sáng ấm
lòng”. Và phải chăng “những tia sáng ấm lòng” ấy chính là tình yêu thương, là
sức sống mãnh liệt của các nhân vật bị đẩy tới đường cùng tuyệt lộ buộc phải
đối mặt với cái chết nhưng lại biết cách tỏa sáng để nâng tầm giá trị của con
người. Bằng óc quan sát tinh tế và tấm lòng đồng cảm sâu sắc với số phận con
người, Kim Lân đã thực sự làm bạn đọc xúc động khi xây dựng thành công hình
tượng nhân vật Thị và qua đó thể hiện rất rõ số phận của người phụ nữ trong tác
phẩm.

Vợ Nhặt được tác giả Kim Lân lấy chính hiện thực xã hội của nạn đói
khủng khiếp năm 1945 làm chủ đề và tác phẩm cũng đã lột tả được hết thực
trạng ấy một cách chi tiết, sống động và đầy giá trị.
Tác phẩm được in trong tập Con chó xấu xí và sau khi xuất bản đã gây
một tiếng vang lớn đối với người đọc đặt biệt là những tình tiết éo le, nhưng
cũng đầy cảm động của truyện. Ở đó hiện lên hiện thực của xã hội khi mà người
ta sẵn sàng bỏ qua nhân phẩm, tư cách của chính bản thân mình vì miếng ăn vì
cái đói. Và nổi bật đó là nhân vật Thị người Vợ Nhặt đặc biệt. Nhưng ở đó là ý
nghĩa và giá trị mà tác giả muốn gửi gắm.

Dưới ngòi bút của Kim Lân, người vợ nhặt là người phụ nữ vô danh,
không tên không tuổi, không quê hương, không quá khứ. Không phải là nhà văn
nghèo ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho thị một cái tên mà bởi vì thị là cánh
bèo nổi trôi trong nạn đói, là người đàn bà vô danh. Từ đầu đến cuối tác phẩm,
nhân vật này chỉ được gọi là “cô ả”, “thị”, “người đàn bà”, “nàng dâu mới”,
“nhà tôi”. Nhưng nhân vật này để lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc.

Thị xuất hiện vừa bằng ngoại hình vừa bằng tính cách của một con người
năm đói:

Lần đầu thị xuất hiện là hình ảnh: ngồi lẫn trong đám con gái chờ nhặt hạt
rơi hạt vãi trước cổng chợ tỉnh. Khi nghe Tràng hò một câu chơi cho đỡ nhọc
“Muốn ăn cơm trắng mấy giò/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh”, thị “ton ton chạy
lại đẩy xe cho Tràng…cười tít mắt”. Thị đẩy xe với hi vọng được ăn nên cũng
rất nhiệt tình và chẳng cần ý tứ.

Lần thứ hai, thị xuất hiện với ngoại hình kém hấp dẫn: Đó là người phụ
nữ gầy vêu vao, “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” nổi
bật với “hai con mắt trũng hoáy”. Có thể nói, cái đói đã khiến thị càng nhếch
nhác, tội nghiệp lại càng nhếch nhác, tội nghiệp hơn nữa. Cái đói không chỉ tàn
hại dung nhan của thị mà còn tàn hại cả tính cách, nhân phẩm. Vì đói mà thị trở
nên “chao chát”, “chỏng lỏn”, “chua ngoa, đanh đá”. Thị “cong cớn”, “sưng sỉa”
khi giao tiếp, nói chuyện. Cái đói khiến thị quên cả việc phải giữ ý tứ, lòng tự
trọng của người con gái. Thị cứ thế mà đòi ăn. Được cho ăn, thị sẵn sàng “sà
xuống cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Thị đã
đặt sự tồn tại của mình, đặt miếng ăn lên trên nhân cách.

Khi anh cu Tràng hay đùa, lại đùa “có muốn theo tớ về nhà thì ra khuân
đồ lên xe rồi ta cùng về”. Thì người đàn bà kia lại im lặng (mà thường tâm lý im
lặng là đồng ý). Thị đồng ý, đồng ý mà không hề do dự, phân vân. Trong khi đó,
Tràng là ai, tốt xấu như thế nào? gốc tích ra sao? Thị nào hay nào biết. Chỉ mấy
bát bánh đúc là thị có thể theo ngay Tràng. Phải chăng thị theo Tràng chỉ vì
miếng ăn ?

Thị dễ dàng, hời hợt thế ư? Thực ra hành động theo Tràng của thị xuất
phát từ nhu cầu bám lấy sự sống, từ lòng khao khát được sống. Thị bất chấp tất
cả để được ăn, ăn để được tồn tại. Thị chấp nhận theo không Tràng.

Đó là ý thức bám lấy sự sống. Cận kề bên cái chết, người đàn bà không
hề buông xuôi sự sống. Trái lại, thị vẫn vượt lên trên cái thảm đạm để dựng xây
mái ấm gia đình. Niềm lạc quan yêu sống của thị chính là một phẩm chất rất
đáng quý.

Nói như Kim Lân: ” Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết
nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống,
vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”.

Trên đường về nhà chồng tâm trạng của thị có sự thay đổi rõ nét. Nếu
như anh cu Tràng sung sướng, tự mãn, cái mặt vênh lên tự đắc với mình thì
người đàn bà lại cảm thấy xấu hổ.
Trước cái nhìn “săm soi”, trước những lời bông đùa, chòng ghẹo của
người dân ngụ cư. Thị ngượng nghịu, thiếu tự tin “chân nọ bước díu cả vào
chân kia… cái nón rách tàng che nửa khuôn mặt”.

Về đến nhà chồng, nhìn thấy“ngôi nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh
vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”, thị “nén một tiếng thở dài”. Đây là tiếng
thở dài ngao ngán, thất vọng nhưng cũng là sự chấp nhận.

Nghi ngờ cái phao mà thị vừa bám vào lại là một chiếc phao rách. Trong
tiếng thở dài đó vừa có sự lo lắng cho tương lai ngày mai, vừa có cả những lo
toan và trách nhiệm của thị về gia cảnh nhà chồng. Đó phải chăng là thị đã ý
thức được trách của mình đối với việc cùng chồng chung tay gây dựng gia đình.
Tấm lòng của thị thật đáng quý biết bao.

Vào trong nhà, thị e thẹn, dè dặt “ngồi mớm” vào mép giường (“Ngồi
mớm” thế ngồi bấp bênh, không ổn định nhưng cũng rất ý tứ). Thị ý tứ, cung
kính, lễ phép chào bà cụ Tứ (chào đến hai lần). Đây là hình ảnh đẹp của người
con dâu rất mực thước trong quan hệ với mẹ chồng. Khi Tràng thưa chuyện với
mẹ, thị chỉ biết “đứng vân vê tà áo đã rách bợt”.

Sau đêm tân hôn, người phụ nữ ấy có sự thay đổi hoàn toàn về tâm trạng
và tính cách. Thị dậy rất sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, thu vén nhà cửa. Sự thay
đổi ấy người đọc cũng dễ nhận ra: nếu hôm qua thị chua ngoa, đanh đá, chỏng
lỏn bao nhiêu thì hôm nay thị lại hiền lành bấy nhiêu.

Hơn ai hết, Tràng cảm nhận đầy đủ sự thay đổi tuyệt vời ấy: “Tràng nom
thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực không còn
vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”.
Câu văn này đã ghi lại cảm xúc chân thật của Tràng trước sự đổi thay tích
cực của vợ. Phải chăng tình yêu đích thực với sức nhiệm màu diệu kì đã có sức
cảm hóa với thị.

Trong bữa cơm đầu tiên tại gia đình chồng, dù bữa ăn chỉ có “niêu cháo
lõng bõng, mỗi người được lưng hai bát đã hết nhẵn”, lại phải ăn cháo cám
nhưng thị vẫn vui vẻ, bằng lòng. Thị đã đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời
cuộc cho mẹ con Tràng.

Nghe tiếng trống thúc thuế, thị nói với mẹ chồng: “Trên mạn Thái
Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá
cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy”.

Sự hiểu biết này của thị như đã giúp Tràng giác ngộ về con đường phía
trước mà anh sẽ lựa chọn “trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói ầm ầm đi
trên đê Sộp, phía trước có lá cờ đỏ to lắm”. Qua đó, ta thấy nhân vật vợ Tràng,
“nàng dâu mới” cũng là Người truyền tin cách mạng.

Viết về sự đổi thay trong tâm lý của thị, Kim Lân bày tỏ tình cảm trân
trọng, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động nghèo. Tình
cảm nhân đạo của nhà văn thể hiện ở đây.

Xây dựng nhân vật người vợ nhặt, nhà văn đã đặt nhân vật vào tình
huống truyện độc đáo; diễn biến tâm lí được miêu tả chân thực, tinh tế; ngôn
ngữ mộc mạc, giản dị, phù hợp với tính cách nhân vật. Nghệ thuật trần thuật hấp
dẫn, kịch tính…

Tóm lại, người “vợ nhặt” là một sáng tạo của Kim Lân. Thông qua nhân
vật này, nhà văn đã thể hiện một ý nghĩa nhân văn cao đẹp. Con người Việt
Nam dù sống trong hoàn cảnh khốn cùng nào cũng sẽ luôn hướng về tương lai
với niềm tin vào sự sống.

Cái đẹp cứu vớt con người” (Đôx-tôi-ep-ki). Vâng, “vợ nhặt” của nhà văn
Kim Lân thể hiện rõ sức mạnh kì diệu ấy. Ánh sáng của tình người, lòng tin yêu
vào cuộc sống là con nguồn mạch giúp Kim Lân hoàn thành tác phẩm. Ông đã
đóng góp cho văn học Việt Nam nói chung, về đề tài nạn đói nói riêng một quan
niệm mới về lòng người và tình người. Đọc xong thiên truyện, dấu nhấn mạnh
mẽ nhất trong tâm hồn bạn đọc chính là vẻ đẹp của con người mà ở đây là người
nhân vật Thị. Dù là nạn nhân của nạn đói nhưng ở Thị vẫn có đầy đủ những
phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam. Đó là sự chân trọng và tôn vinh của
chính tác giả.

You might also like