Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 15

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

VIỆN ĐÀO TẠO TIÊN TIẾN, CHẤT LƯỢNG CAO & POHE

BÀI TẬP LỚN


MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

ĐỀ BÀI:
Tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Sự vận dụng quan điểm nêu trên
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay.

Họ, tên SV: Ứng Châu Anh


Mã SV: 11220666
Lớp tín chỉ: TTHCM14
Giảng viên: Nguyễn Chí Thiện

HÀ NỘI – 4/2023
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.........................................................................................................................3
Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam......................................................................................................................4
1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về về những đặc điểm của nền kinh tế
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội...................................................................4
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về những đặc điểm của nền kinh tế trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.....................................................................5
2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam ...........................................................................................................................5
2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ chủ nghĩa xã
hội Việt Nam...............................................................................................................6
Chương 2: Sự vận dụng...................................................................................................8
1. Thời kỳ quá độ ở Việt Nam...............................................................................8
2. Đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam trong phát triển kinh tế
Việt Nam:....................................................................................................................8
3. Các thành tựu đã đạt được:..............................................................................10
4. Hạn chế và khó khăn thử thách........................................................................11
5. Giải pháp đề xuất:............................................................................................12
Chương 3: Trách nhiệm của mỗi cá nhân trong việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
để phát triển kinh tế.......................................................................................................14
KẾT LUẬN...................................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................16

1
MỞ ĐẦU
Tư tưởng của Hồ Chí Minh là báu vật của Việt Nam, Đảng ta đã vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh để viết lên những trang sử hào hùng hơn bao giờ hết cho lịch sử
Việt Nam. Chính nhờ tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh tài
tình của Đảng, ta mới có được nền độc lập như hiện nay, không phải chứng kiến đạn
bay, khói nổ, bóc lột từ quân xâm lược, nạn đói,… hoành hành ngay trước mắt.
Có thể thấy, tư tưởng Hồ Chí Minh đóng góp cho mọi mặt trận, từ chính trị,
kinh tế, giáo dục, văn hóa...không chỉ trong thời kỳ lịch sử đầy khó khăn mà còn đối
với xã hội hiện đại đầy biến động ngày nay.
Các quan điểm của Hồ Chí Minh thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội luôn là
nội dung quan trọng để Đảng ta vận dụng trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất
nước.
Cụ thể trong lĩnh vực kinh tế, quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã được Đảng ta tiếp tục vận dụng trong việc
phát triển kinh tế nước ta hiện nay.
Để hiểu hơn về nội dung quan điểm trên và sự vận dụng của Đảng Cộng sản
Việt Nam trong phát triển kinh tế nước ta hiện nay, bài luận với đề tài: “Tìm hiểu và
phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Sự vận dụng quan điểm trên của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong việc phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay?” này sẽ vận dụng các kiến
thức từ môn Tư tưởng Hồ Chí Minh dưới sự dẫn dắt của giảng viên....., nêu lên các
quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội. Đồng thời, nêu ra sự vận dụng quan điểm này trong tư tưởng Hồ Chí Minh của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay. Từ đó,
khẳng định tầm quan trọng của việc vận dụng đúng đắn tư tưởng Hồ Chí Minh trong
phát triển kinh tế nói riêng và mọi mặt của đời sống nói chung.

2
Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam

1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về về những đặc điểm của nền kinh
tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Từ hình thái kinh tế-xã hội này sang hình thái kinh tế-xã hội khác phải trải qua
giai đoạn trung gian, C.Mác và Ph.Ăngghen gọi đó là thời kỳ quá độ.
C.Mác chỉ ra và xác định hai giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa: Giai đoạn thấp là xã hội chủ nghĩa, giai đoạn cao là cộng sản chủ
nghĩa.
V.I.Lênin đã phân chia quá trình hình thành, phát triển của hình thái kinh tế - xã
hội chủ nghĩa cộng sản thành ba giai đoạn: I “những cơn đau đẻ kéo dài”, II “giai đoạn
đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa”, III “giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa”.
Ở đó, xác định: “giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa, là xã hội vừa thoát thai
từ xã hội tư bản chủ nghĩa sau những cơn đau đẻ kéo dài”.(3)
Nghiên cứu, phát triển chủ nghĩa Mác, V.I.Lênin đã cho rằng: Với những nước
chưa có chủ nghĩa tư bản phát triển cao mà đi lên chủ nghĩa xã hội, “cần phải có một
thời kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội”. Với những nước
càng ít phát triển, “tất yếu phải có một thời kỳ quá độ lâu dài và phức tạp từ xã hội tư
bản chủ nghĩa (xã hội đó càng ít phát triển, thì thời kỳ đó càng dài),… chỉ là một trong
những bước đầu tiên tiến lên xã hội cộng sản chủ nghĩa”.
Từ thực tiễn những năm đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước
Nga Xô viết giúp cho V.I.Lênin đưa ra kết luận khoa học: “Tất cả các dân tộc đều sẽ đi
đến chủ nghĩa xã hội, đó là điều không tránh khỏi, nhưng tất cả các dân tộc đều tiến tới
chủ nghĩa xã hội không phải một cách hoàn toàn giống nhau; mỗi dân tộc sẽ đưa đặc
điểm của mình vào hình thức này hay hình thức khác của chế độ dân chủ, vào loại này
hay loại khác của chuyên chính vô sản, vào nhịp độ này hay nhịp độ khác của việc cải
tạo xã hội chủ nghĩa đối với các mặt khác nhau của đời sống xã hội”…(3)
Từ đó, xác lập nên hai hình thức cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nhĩa xã hội:
- Quá độ trực tiếp - từ những nước tư bản phát triển lên chủ nghĩa xã hội;
- Quá độ gián tiếp - từ những nước chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa lên chủ nghĩa xã hội.(3)

3
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về những đặc điểm của nền kinh tế trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam
Hồ Chí Minh đã kế thừa tư tưởng Mác-Lênin và phát triển chúng.
Hồ Chí Minh cho rằng: “Sau khi cách mạng giải phóng dân tộc thắng lợi, Việt
Nam sẽ tiến dần lên chủ nghĩa xã hội”.
Đặc điểm thời kỳ quá độ ở Việt Nam là “Việt Nam bước vào thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội có đặc điểm là từ một nước nông nhiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã
hội chứ không đi qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản”.
Nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam nhằm giải
quyết hai vấn đề sau:
Một là, xây dựng nền tảng cơ sở vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, xây
dựng các tiền đề kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng cho chủ nghĩa xã hội.
Hai là, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo và xây dựng,
trong đó lấy xây dựng là trung tâm.
Theo Hồ Chí Minh, Người cho rằng thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam là khó khăn, phức tạp, lâu dài. Bởi vì: “Đây là cuộc cách mạng làm đảo lộn mọi
mặt đời sống xã hội, cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cả cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tần, nó đặt ra và đòi hỏi giải quyết hàng loạt vấn đề khác nhau”.
Hồ Chí Minh coi đây là cuộc chiến đấu khổng lồ của toàn Đảng, toàn dân tộc
Việt Nam. Và “Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là lĩnh vực kinh tế,
Đảng, Nhà nước, nhân dân ta chưa có nhiều kinh nghiệm, phải vừa làm vừa học nên
khó tránh khỏi vấp váp, thiếu sót”.
Tiếp đến, Người cho rằng “Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta luôn
bị các thế lực thù địch trong và ngoài nước chống phá”.
Về nguyên tắc xây dựng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ gồm bốn nguyên
tắc chính:
- Mọi tư tưởng, hành động phải được thực hiện trên nền tảng chủ nghĩa
Mác-Lênin.
- Phải giữ vững độc lập dân tộc.
- Phải đoàn kết, học tập kinh nghiệm của các nước anh em.
- Xây phải đi đôi với chống.(1)

4
2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ chủ nghĩa
xã hội Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần nói chung, từng
thành phần kinh tế nói riêng được thể hiện khá rõ trong “Hồ Chí Minh toàn tập”,
nhưng rõ nhất trong hai tác phẩm là “Thường thức chính trị” (năm 1953) và “Báo cáo
Dự thảo Hiến pháp năm 1959”. Theo đó, về cơ cấu các thành phần kinh tế trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Hồ Chủ tịch cho rằng, “có nước thì đi lên
chủ nghĩa xã hội (cộng sản) như Liên Xô, có nước phải kinh qua chế độ dân chủ mới
rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội” như các nước Đông Âu, Trung Quốc, Việt Nam.
Có thể hiểu “chế độ dân chủ mới” theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
khi đó là giai đoạn lịch sử tương ứng với khái niệm “thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội” của nước ta hiện nay. Người lý giải, nước ta phải trải qua một giai đoạn dân chủ
mới vì "đặc điểm to lớn của thời kỳ quá độ là một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng
lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa".
Từ đó, Người xác định, cơ cấu các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở
nước ta và chỉ ra các loại hình kinh tế, các hình thức sở hữu khác biệt, nhưng được cố
kết lại thành một chỉnh thể kinh tế - xã hội quá độ trong quá trình vận động.
Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng đề cập đến việc phải tiếp tục sử dụng, phát triển
chúng theo định hướng xã hội chủ nghĩa khi sự tồn tại của các thành phần kinh tế khác
nhau vẫn còn là một tất yếu khách quan và có vai trò nhất định đối với sự phát triển
của nền kinh tế.
Trong tác phẩm “Thường thức chính trị”, Người cho rằng, trong chế độ dân chủ
mới, có 5 loại kinh tế khác nhau là:
- Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ nghĩa xã hội, vì là của chung nhân dân)
- Các hợp tác xã (là nửa chủ nghĩa xã hội và sẽ tiến đến chủ nghĩa xã hội)
- Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp
tác xã, tức là nửa chủ nghĩa xã hội)
- Tư bản của tư nhân và cuối cùng là tư bản của nhà nước.(1)
Còn nói về thành phần kinh tế tư bản của tư nhân, Hồ Chí Minh cho rằng đó là
thành phần kinh tế của giai cấp tư sản dân tộc. Giai cấp tư sản nước ta mới ra đời, còn
non yếu do bị tư bản nước ngoài chèn ép. Tuy nhiên, "về mặt sản xuất so với chế độ
phong kiến thì chế độ tư bản là một tiến bộ to". Họ có nhiều kinh nghiệm sản xuất, sử
dụng vốn, khoa học kỹ thuật, vì vậy “Chính phủ cần giúp họ phát triển. Nhưng họ phải
phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế quốc gia, phải phù hợp với lợi ích của đại đa số nhân
dân”. Còn thành phần kinh tế tư bản quốc gia là thành phần kinh tế do nhà nước và nhà

5
tư bản cùng góp vốn để kinh doanh, do nhà nước lãnh đạo. Tư bản của tư nhân là tư
bản chủ nghĩa. Tư bản của nhà nước là xã hội chủ nghĩa.
Năm thành phần kinh tế nêu trên tồn tại khách quan trong suốt thời kỳ quá độ.
Do đó, cần phải sử dụng chúng một cách triệt để nhằm phát triển nền sản xuất của xã
hội, mà không sợ khuynh hướng phát triển tự phát theo chủ nghĩa tư bản của các thành
phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa.
Nguyên tắc, mục tiêu cần hướng tới của nền kinh tế nhiều thành phần
Nói về vai trò và mối quan hệ của các thành phần kinh tế trên, Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “Chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ gồm có mấy điều:
1. Công tư đều lợi: Kinh tế quốc doanh là công. Nó là nền tảng và sức lãnh đạo
của kinh tế dân chủ mới. Tư là những nhà tư bản dân tộc và kinh tế cá nhân của nông
dân và thủ công nghệ. Đó cũng là lực lượng cần thiết cho cuộc xây dựng kinh tế nước
nhà. Cho nên Chính phủ cần giúp họ phát triển. Nhưng họ phải phục tùng sự lãnh đạo
của kinh tế quốc gia, phải hợp với lợi ích của đại đa số nhân dân.
2. Chủ thợ đều lợi: Nhà tư bản thì không khỏi bóc lột. Nhưng Chính phủ ngăn
cấm họ bóc lột công nhân quá tay. Chính phủ phải bảo vệ quyền lợi của công nhân.
Đồng thời, vì lợi ích lâu dài, anh chị em thợ cũng để cho chủ được số lợi hợp lý, không
yêu cầu quá mức. Chủ và thợ đều tự giác, tự động, tăng gia sản xuất lợi cả đôi bên”.
Chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh có thể
khái quát như sau:
“Công tư đều lợi - Chủ thợ đều lợi - Công nông giúp nhau - Lưu thông trong
ngoài” và "Bốn chính sách ấy là mấu chốt để phát triển kinh tế của nước ta".
Ở đây, Hồ Chí Minh nêu quan điểm "công tư đều lợi", "chủ thợ đều lợi" trong
thời kỳ quá độ và khi nhấn mạnh vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh, Người vẫn
đồng thời khẳng định, thành phần kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế cá thể "là lực lượng
cần thiết cho xây dựng kinh tế nước nhà".
Hồ Chí Minh đã cho chúng ta thấy những nguyên tắc, mục tiêu cần hướng tới
của nền kinh tế nhiều thành phần. Đó là các thành phần kinh tế phải tồn tại trong mối
quan hệ bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi, tạo nên sự phát triển cân đối của nền kinh tế
quốc dân. Những quan điểm trên thể hiện rất rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh
tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.(5)

6
Chương 2: Sự vận dụng

1. Thời kỳ quá độ ở Việt Nam


Thời kỳ quá độ ở Việt Nam bắt đầu từ năm 1954 diễn ra ở miền Bắc trước tiên
sau khi miền Bắc giải phóng.
Cho đến năm 1975, đất nước ta đã hoàn toàn độc lập và thống nhất hai miền
Nam Bắc. Đảng đã đề ra mục tiêu để phát triển đất nước là là khôi phục kinh tế, xã hội
và đi lên chủ nghĩa xã hội trước tiên.
Ta có thể hiểu đơn giản đến năm 1975, cả nước cùng quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Thời kỳ này được thực hiện với các đường lối, chủ trương cần thiết bởi sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.(7)

2. Đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam trong phát triển kinh
tế Việt Nam:
Đảng ta đã vận dụng rất tốt các tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt ở lĩnh vực kinh
tế. Cụ thể là qua các đường lối, chủ trương, nghị quyết sau:
Tại Đại hội ĐBTQ lần thứ VI của Đảng năm 1986: Đảng đã đề ra và tiến hành
áp dụng chính sách kinh tế nhiều thành phần với mục đích là khai thác sức mạnh toàn
dân trong các thành phần kinh tế, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Đây là một
nhận định hoàn toàn đúng đắn và cần thiết với nền kinh tế Việt Nam lúc bấy giờ.
Đại hội lần thứ VII của Đảng năm 1991: Đảng vẫn thực hiện áp dụng việc định
hướng xã hội chủ nghĩa trong đó có phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.
Trong Đại hội này, kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển mặc dù trước đó nó
không phải là một nền kinh tế độc lập.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng năm 1996 chỉ ra nền kinh tế Việt Nam bao gồm
các thành phần như sau: Kinh tế nhà nước; Kinh tế hợp tác; Kinh tế tư bản nhà nước;
Kinh tế cá thể, tiểu chủ; Kinh tế tư bản tư nhân.
Tiếp đến, trong Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng năm 2001 nêu rõ là:
“Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, có các thành phần kinh tế như: Kinh
tế nhà nước; Kinh tế tập thể; Kinh tế cá thể, tiểu chủ; Kinh tế tư bản tư nhân; Kinh tế
tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó, đã có sự bổ sung thêm
là thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, là sự vận dụng quan điểm của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về nguyên tắc "lưu thông trong - ngoài". Điều này khẳng định vai
trò của việc thu hút các nguồn lực bên ngoài cho sự phát triển kinh tế Việt Nam.

7
Vào năm 2006, Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng dựa vào cơ sở ba chế độ
sở hữu là toàn dân, tập thể, tư nhân đã khẳng định “Các thành phần kinh tế hoạt động
theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác
và cạnh tranh lành mạnh” và nêu lên các thành phần kinh tế gồm: Kinh tế nhà nước;
Kinh tế tập thể; Kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân); Kinh tế tư bản nhà
nước; Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Kinh tế nhà nước được nhấ mạnh vai trò chủ
đạo, “Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh
tế”, Đảng chỉ rõ. Tư tưởng Hồ Chí Minh lúc này đã được kế thừa, phát triển và đổi
mới cho phù hợp với sự phát triển của kinh tế ta lúc bấy giờ, điều này thể hiện tư duy
nhạy bén của Đảng lãnh đạo, là sức bật lớn để khiến kinh tế tư nhân phát triển mạnh.
Đến năm 2011, Đại hội lần thứ XI của Đảng tiếp tục đưa ra chủ trương phát
triển nhanh, hài hòa các thành phần kinh tế. Nổi bật là Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ ra:
“Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan
trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và
cạnh tranh lành mạnh”.
Tiếp đến, Đại hội XI, Đại hội XII và Đại hội XIII của Đảng đều có quyết định
chung về việc hoạch định phương hướng phát triển nền kinh tế có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, cụ thể là: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư
nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Khi việc hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra
ngày càng mạnh mẽ, Đảng ta đã có những nội dung chung mới về lý luận. Đảng nhấn
mạnh nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu, kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo,
kinh tế tập thể hợp tác liên tục đượng củng cố và kinh tế tư nhân là động lực, khuyến
khích phát triển kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.(6)
Vai trò của các chính sách phát triển đối với các thành phần kinh tế được Đại
hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng nêu cụ thể hơn. Về việc Kinh tế nhà nước là công cụ,
lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, định
hướng, điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Doanh nghiệp nhà nước
tập trung vào những lĩnh vực then chốt, địa bàn quan trọng, quốc phòng, an ninh; hoạt
động theo cơ chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, cạnh
tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
Như vậy cũng có thể thấy, Đảng ta đã thể hiện vai trò lãnh đạo tốt trong thời kỳ
đổi mới, hội nhập thông qua việc vận dụng sáng tạo và phát triển, đổi mới Tư tưởng
Hồ Chí Minh trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, có vai trò quan trọng trong
việc thúc đẩy năng lực của các thành phần kinh tế đối với chiến lược phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam(6).
8
3. Các thành tựu đã đạt được:
Thông qua các chủ trương, đường lối của Đảng, Việt Nam đã có sự thay đổi rõ rệt
về mặt trận kinh tế, đạt được nhiều thành tựu nổi bật. Đây được xem là đệm nhảy cho
các bước phát triển vững mạnh trong tương lai của Việt Nam ta.
Các thành tựu nổi bật như:
- Việt Nam ta đã mạnh mẽ thoát ra khỏi khủng hoảng, sự tăng trưởng kinh tế đạt
tốc độ liên tục, xu hướng tăng không giảm giữa các năm.
- Công nghiệp hóa-hiện đại hóa cùng với sản xuất, thị trường đã là hướng phát
triển của cơ cấu kinh tế Việt Nam. Đây là một điểm đáng ghi nhận.
- Nền kinh tế nhiều thành phần được thực hiện và đem đến các kết quả to lớn,
điều này làm thúc đẩy mạnh mẽ các tiềm năng của các thành phần kinh tế.
- Nền kinh tế vĩ mô đã dần bước vào thời kỳ ổn định, định hướng kinh tế thị
trườn theo hướng xã hội chủ nghĩa bắt đầu hình thành.
- Trong những năm đổi mới, sự hội nhập kinh tế của Việt Nam đã được phát triển
vô cùng mạnh mẽ, và đem đến những ý nghĩa nhất định, làm thay đổi nhiều cục
diện kinh tế chính trị Việt Nam.
- Các chủ trương trở thành hành động cụ thể về việc đi đôi của phát triển kinh tế
và giải quyết các vấn đề của đời sống – xã hội cho nhân dân đã được thực hiện
hóa, nâng cao.
Nhờ có sự nổ lực của nhân dân, của Đảng, Nhà nước mà Việt Nam mới có
những bước ngoặt thành tựu lớn trong lĩnh vực kinh tế. Có thể thấy, đường lối đổi mới
do Đảng đề ra từ đại hội VI (1986) đã có các nội dung đổi mới quan trọng về việc thực
hiện xây dựng kinh tế sau 5 năm.
Các vấn đề kinh tế lương thực đã được giải quyết, cụ thể là việc ở năm 1988 ta
nhập khẩu 45 vạn tấn gạo, đến khi năm 1990 đã có thể tự đáp ứng mà không cần nhập
khẩu gạo, ngược lại còn xuất khẩu 1,5 triệu tấn. Cuộc sống nhân dân đã dần ổn định và
xuất nhập khẩu của ta được cải thiện cân bằng. Trong giai đoạn này hàng tiêu dùng trở
nên tiến bộ kể cả về chất lượng và kiểu mẫu.(2)
Không chỉ vậy, từ đó kinh tế ta đã phát triển mạnh mẽ hơn, hàng xuất khẩu tăng
mạnh, bao gồm các mặt hàng giá trị xuất khẩu tăng gấp 3 lần là gạo và dầu thô ở
những năm 1986 đến 1990.
Thành tựu to lớn với Việt Nam khác là đã có thể kiểm soát và làm giảm tốc độ
lạm phát: 799,7% ở năm 1986 , 67,1% ở năm 1991.(2)
Sự hình thành và phát triển của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Các thành tựu về điều chỉnh
cơ cấu đầu tư và bố trí lại cơ cấu kinh tế từ đó đã dần xoá bỏ dần từng bước cơ chế tập

9
trung quan liêu bao cấp, dần hình thành cơ chế quản lý kinh tế mới và chuyển sang chế
độ hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Các thành tựu này là bước đầu để dẫn đến sự nói tiếp của các thành tựu khác.
Để có được các thành tựu to lớn thì vai trò của các chủ trương đường lối đổi
mới của Đảng vô cùng quan trọng, góp phần lớn đén các thành công đó. Khẳng định
hơn nữa sự đúng đắn trong đường lối, chủ trương của Đảng tác động tích cực tới lĩnh
vực kinh tế và mọi mặt đời sống Việt Nam.

4. Hạn chế và khó khăn thử thách


Bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì vẫn còn nhiều hạn chế, khó khăn và
thử thách cần được giải quyết như:
Nhiều vấn đề kinh tế xã hội vẫn còn tồn đọng diều đó trở thành khó khăn to lớn
đối với công cuộc đổi mới và phát triển của Việt Nam ta.
Sự không cân đối ở nhiều khía cạnh, nổi bật là giữa cung và cầu giữa tích luỹ và
tiêu dùng, giữa công nghiệp và nông nghiệp. Và các vấn đề khác như nhiều lao động
thiếu việc làm, năng xuất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp.
Ảnh hưởng của các lĩnh vực khác trong đời sống cũng tác động mạnh mẽ đến
nền kinh tế, như các lĩnh vực văn hoá chính trị tư tưởng. Ở các lĩnh vực này ta có
nhiều khuyết điểm như: Không có dân chủ, các quy định luật pháp về vi phạm kỷ
cương kỷ luật còn buông lỏng, văn hoá giáo dục đạo đức lối sống của nhiều cán bộ,
nhân dân chưa được lành mạnh, nhiều biểu hiện chưa phù hợp như, tham nhũng hối
lộ...mà các vấn đề trên vẫn diễn ra vô cùng nhiều và không thể kiểm soát hết. Những
điều này cũng góp phần làm ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế.
Một khó khăn không thể quyết định được nữa là các khó khăn do thiên tai, khó
khăn này đã đem đến nhiều mất mác nghiêm trọng không chỉ về kinh tế, mầ còn về sức
khỏe tinh thần của nhân dân, ảnh hưởng đến nhiều vấn đề trong cuộc sống nhân dân ta.
Một khó khăn muôn thuở ở mọi thời đại chính là sự chống phá của các thế lực
thù địch trong và ngoài nước, trên tất cả mặt trận. Đem đến nhiều tác động tiêu cực đối
với nhân dân và nguy cơ đối với nước nhà.
Các hạn chế này cần có những biện pháp kịp thời để thay đổi, quán triệt, còn
không sẽ kéo thêm các nguy cơ hậu quả về sau.

5. Giải pháp đề xuất:


Một là, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa phù hợp
với điều kiện mới của đất nước và tình hình thế giới. Thực hiện phát triển đúng theo tư
tưởng Hồ Chí Minh và Cương lĩnh của Đảng đã đề xuất, đẩy mạnh vận dụng mọi mặt.

10
Hai là, để thực hiện vận dụng tốt hơn nữa trong phát triển kinh tế, dưới sự lãnh
đạo của Đảng, Nhà nước phải làm tốt vai trò kiến tạo phát triển thông qua hệ thống cơ
chế, chính sách, pháp luật phù hợp, bảo đảm.
Từ các việc như:
Tiến hành xử lí hòa hợp các quan hệ về lợi ích, trước hết là lợi ích kinh tế của
các thành phần kinh tế, các tầng lớp trong xã hội hay lơi ích của cá nhân với tập
thể,...tất cả các lợi ích giữa các thành phần trong xã hội. Kinh tế nhà nước phải thể
hiện được khả năng then chốt, dẫn đầu công cuộc đổi mới áp dụng khoa học kỹ thuật
công nghệ, làm tấm gương sáng, năng xuất.
Cần có sự đa dạng hóa các hình thức hợp tác phù hợp để gia tăng sản xuất, phát
triển sản xuất nhằm mang lại sự phát triển, công bằng, tiến bộ, hạnh phúc cho đa số
nhân dân lao động. Tức là các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác,
cạnh tranh theo pháp luật.
Sẵn sàng hợp tác, hỗ trợ giúp đỡ Nhà nước, đấu tranh bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân, đặc biệt là đối với các tổ chức xã hội.
Thứ ba, khong ngừng đầu tư vào việc nghiên cứu để đổi mới, nâng cấp, làm rõ
các cơ sở lý luận, hoàn thiện về các thể chế và hành động phát triển công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi
trường: phát triển nền kinh tế thị trưởng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Song, cũng cần đảm bảo các cơ sở tốt nhất của nghiên cứu lý luận, trong tư duy
đổi mới kinh tế, đảm bảo dân chủ trong các nội dung xây dựng và thực hiện chính
sách. Bên cạnh đó, cần bảo đảm những điều kiện tốt nhất trong nghiên cứu lý luận,
trong đổi mới tư duy về kinh tế, bảo đảm dân chủ trong xây dựng và thực thi chính
sách, thể chế kinh tế vừa là mục tiêu, nhiệm vụ vừa là phương thức, động lực và là giải
pháp chiến lược cho vấn đề tạo lập cơ sở kinh tế để thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa
trong lĩnh vực kinh tế ở nước ta hiện nay.

Chương 3: Trách nhiệm của mỗi cá nhân trong việc vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh để phát triển kinh tế
Sau quá trình học tập và vận dụng các kiến thức từ học phần Tư tưởng Hồ Chí
Minh, người viết rút ra được cho bản thân mình trách nhiệm trong việc phát triển kinh
tế Việt Nam. Và người viết cho rằng đây cũng là nhiệm vụ chung của mỗi cá nhân về
việc xây dựng đất nước thời kỳ đổi mới.
Một là, không ngừng trau dồi bản thân hoàn thiện cả về mặt kiến thức lẫn kỹ
năng, đạo đức,...để phát triển bản thân theo chiều hướng tích cực nhằm đến một mục
đích lớn lao hơn là xây dựng xã hội chủ nghĩa, phát triển nước nhà về kinh tế và mọi
mặt trong đời sống.
11
Hai là, Luôn có ý thức giữ gìn đoàn kết trong tập thể. Không chia rẽ, cũng như
có cách lời nói, hành động thiếu chuẩn mực. Cùng hướng đến các mục tiêu và trách
nhiệm lớn nhất của tập thể. Để có thể làm nền tảng vững chắc cùng tuân thủ và thực
hiện các chủ trương, đường lối của Đảng.
Ba là, tự đánh giá, tự phê bình và rút ra bài học. Thường xuyên nhìn nhận và
đánh giá các ưu, khuyết điểm của bản thân, đưa ra các cách giải quyết nhằm phát triển
các ưu điểm, giảm thiểu khuyết điểm.
Rèn luyện tư tưởng, tinh thần cách mạng: Yêu nước, sẵn sàng xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Ví dụ: Xung phong, chủ động trong các phong trào tìm hiểu về cội nguồn,
lịch sử nước nhà tại trường học và đời sống, xung phong trong các chiến dịch liên
quan đến phát triển kinh tế, học tốt các học phần như khởi nghiệp, giải quyết vấn đề...
Cần cù, siêng năng, trung thực: trong đời sống, học tập và làm việc. Luôn cố
gắng phát huy sự chăm chỉ đối với các mục tiêu mình đặt ra, không nói dối, làm hại
đến cá nhân, tập thể khác nhằm mục đích trục lợi cho bản thân mình.
Trung thành với Đảng và Nhà nước: thực hiện tốt các nghĩa vụ của một người
cong dân Việt Nam dưới chủ trương của Đảng trong mọi lĩnh vực. Ví dụ: báo cáo với
bộ phận có liên quan khi phát hiện đối tượng chống phá, phản động Đảng và Chính
phủ; thực hiện tốt các biện pháp phòng-chống-kiểm soát dịch bệnh theo chủ trương
của Đảng,...
Từ các hành động tốt trong những việc nhỏ nhất trong cuộc sống hằng ngày của
mỗi cá nhân, rồi chúng ta sẽ dần đạt được mục tiêu to lớn hơn là thúc đẩy sự phát triển
của Việt Nam về mọi mặt.

12
KẾT LUẬN
Thông qua nội dung bài luận trên, quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu
kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã được trình bày cụ thể. Sự vận
dụng quan điểm này trong tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
việc phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay cũn được trình bày thông qua các đường
lối, chủ trương kịp thời, đúng đắn. Có thể thấy, tầm quan trọng của việc vận dụng đúng
đắn tư tưởng Hồ Chí Minh trong phát triển kinh tế nói riêng và mọi mặt của đời sống
nói chung là vô cùng to lớn. Vì vậy, mỗi cá nhân cần trau dồi và học hỏi không ngừng
tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng mỗi ngày để kiến tạo cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


(1) Bộ giáo dục và đạo tạo, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh - Dành cho bậc đại học
hệ không chuyên lý luận chính trị 2021. NXB Chính trị Quốc gia Sự Thật.
13
(2) Butnghien. Những thành tựu và thiếu sót, khó khăn của Việt Nam từ năm 1986 đến
nay.
(3) Đại tá, PGS. TS Nguyễn Văn Quang, Viện Khoa học xã hội và Nhân văn quân sự,
16/09/2022. Lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin
và sự bổ sung, phát triển của Đảng ta.
(4) Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh
tế.
(5) PGS.TS. Vũ Văn Phúc. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế
nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội.
(6) ThS. Huỳnh Thanh Tân. Quan điểm của Hồ Chí Minh về thành phần kinh tế và sự
vận dụng của Đảng ta.
(7) Th.s Đinh Thùy Dung. Thời kỳ quá độ là gì? Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam?.

14

You might also like