Professional Documents
Culture Documents
Quản Trị Chiến Lược Ngân Hàng Acb
Quản Trị Chiến Lược Ngân Hàng Acb
Quản Trị Chiến Lược Ngân Hàng Acb
ACB có tỷ trọng tiền gửi từ khách hàng cá nhân lên đến 80% tổng tiền gửi. Trong năm
2022, lãi suất tiền gửi tăng cao, tiền gửi có xu hướng chuyển dịch qua có kỳ hạn. Tiền gửi có kỳ
hạn của ACB, đặc biệt là quý IV, tăng trưởng tốt với quy mô 322 nghìn tỷ đồng, tăng 14% so với
2021 (mức tăng trưởng cao nhất trong năm năm gần đây). Trong khi đó, tỷ trọng tiền gửi không
kỳ hạn giảm từ 25% xuống 22% trên tổng tiền gửi, tuy nhiên vẫn duy trì vị trí tốp 4 trên thị
trường.
Các dịch vụ trung gian (thực hiện thanh toán trong và ngoài nước, thực hiện dịch
vụ ngân quỹ, chuyển tiền kiều hối, chuyển tiền nhanh và bảo hiểm nhân thọ qua Ngân hàng).
Là một ngân hàng bán lẻ, ACB cũng cung cấp danh mục đa dạng các sản phẩm ngân quỹ
và thanh toán. Với hệ thống công nghệ thông tin tiên tiến, các dịch vụ thanh toán, chuyển tiền
được xử lý nhanh chóng, chính xác và an toàn với nhiều tiện ích cộng thêm cho khách hàng.
Thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ và vàng cũng là những mảng kinh doanh truyền thống
của ACB nhiều năm nay.
Thẻ thanh toán, thẻ tín dụng
ACB là một trong các Ngân hàng Việt Nam đi đầu trong việc giới thiệu các sản phẩm thẻ
quốc tế tại Việt Nam. Ngoài ra, để đáp ứng các nhu cầu thanh toán nội dịa, ACB đã phối hợp với
các tổ chức như Tổng Công ty Du lịch Sài Gòn, hệ thống siêu thị Co-opmart, Maximark,
Citimark, Urbox để phát hành các loại thẻ tín dụng đồng thương hiệu cho khách hàng nội địa.
ACB liên kết với hệ thống siêu thị, điện máy, trung tâm thương mại, sân Gold để mang đến
những tiện ích tốt nhất cho khách hàng và chương trình hoàn tiền giúp khuyến khích chi tiêu mua
sắm nhưng vẫn tiết kiệm chi phí cho khách hàng.
Ngoài ra, ACB đang từng bước giới thiệu các sản phẩm phái sinh cho thị trường: Mua
bán ngoại tệ giao ngay hoặc có kỳ hạn, quyền chọn mua bán ngoại tệ và vàng, Phái sinh giá cả
hàng hóa, Phái sinh lãi suất.
b) Năng lực cạnh tranh
Công nghệ
Năm 2022, ACB bắt đầu triển khai chương trình “Sáng kiến bảo mật’, qua đó nâng cấp
toàn bộ hệ thống về phòng chống mã độc, nâng công suất hệ thống bảo mật lõi cùng với các dự
án năng lượng mới như Chống giao dịch tự động “SMS Brandname”, “Threat
Intelligence:,v...v... Các hệ thống này cộng hưởng cùng nhau để tạo thành hệ sinh thái giúp phát
hiện, cập nhật và ngăn chặn các dấu hiệu tấn công.
ACB thiết lập Trung tâm Điều hành an ninh mạng 24/7 (SOC) có nhiệm vụ bảo vệ cơ sở
dữ liệu khỏi các sự kiện tấn công của “hacker”. Hệ thống công nghệ thông tin của ACB được
tích hợp tính năng phân tích hành vi của khách hàng, có khả năng đưa ra cảnh báo khi phát hiện
dấu hiện bất thường. Bằng việc áp dụng công cụ điều phối SOAR, SOC có khả năng tự động xử
lý các sự kiện/ cảnh báo vi phạm an toàn thông tin (ATTT) cấp độ thấp/đơn giản. Năm 2022 có
8.319 trên tổng số 8.494 sự vụ, tương đương 98% sự vụ được sử lý tự động.
ACB đã đạt chứng chỉ PCI – DSS về bảo mật dữ liệu thẻ thanh toán và chứng chỉ ISO
277001 bảo mật an ninh thông tin. Ngoài ra, hệ thống của ACB đã vượt qua bài đánh giá khung
Kiểm soát Bảo mật khách hàng CSP – SWIFT. Kết thúc năm 2022, ACB không ghi nhận cụ tấn
công nào có ảnh hưởng đáng kể lên hệ thống ACB.
Tỷ lệ nợ xấu thuộc nhóm thấp nhất thị trường, chất lượng tài sản vững chắc
Hiện mảng bán lẻ chiếm tỉ trọng hơn 93% danh mục cho vay của ACB và ngân hàng
không tập trung vào các lĩnh vực có rủi ro cao như cho vay tiêu dùng, cho vay tín chấp, cho vay
kinh doanh bất động sản,...
ACB thực hiện nghiêm túc việc kiểm soát và xử lý nợ xấu trong hoạt động để ngăn ngừa
rủi ro. Nhờ vậy, dù trong bối cảnh nợ xấu toàn ngành nói chung và tại ACB nói riêng có xu
hướng tăng lên (1,2%), ACB vẫn duy trì được tỉ lệ nợ xấu thuộc nhóm thấp nhất thị trường. Nhìn
chung, rủi ro về chất lượng tài sản đối với ACB tương đối thấp do không sở hữu trái phiếu doanh
nghiệp, tỉ lệ nợ xấu thấp và chiến lược thận trọng (98% khoản vay của ACB được đảm bảo với tỉ
lệ cho vay trên giá trị tài sản (LTV) chỉ 54%).
ACB nổi bật với chất lượng tài sản tốt nhất tại Việt Nam. Nhờ chiến lược ưu tiên tập
trung vào chất lượng, quản lý rủi ro và tập trung các khoản vay mua nhà trên thị trường thứ cấp
và các khoản vay kinh doanh cho hộ gia đình và doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) ở nhiều lĩnh
vực, tỷ lệ NPL của ACB (1,2% đến cuối quý 3 năm 2023) là thấp nhất trong số các Ngân hàng.
Có thể thấy, chất lượng tài sản của ACB sẽ cải thiện trong 2024, thể hiện qua tỷ lệ NPL thấp hơn
(dự kiến 2024: 0,95%, dự kiến 2023: 1,27%) và tỷ lệ LLR cao hơn (dự kiến 2024: 110%, dự kiến
2023: 95%). Sự phục hồi này đến từ khả năng thanh toán của khách hàng cá nhân và doanh
nghiệp vừa và nhỏ được cải thiện khi chi phí vay giảm và kinh tế hồi phục.
An toàn vốn
ACB là một trong những ngân hàng hoàn thành sớm ba trụ cột của Basel II theo Thông tư
số 41/2016/TTNHNN, và Thông tư số 13/2018/TT-NHNN để nâng cao năng lực quản trị rủi ro.
ACB đã áp dụng ICAAP, trụ cột thứ hai của Basel III, thông qua việc thiết lập các chỉ tiêu đánh
giá kết quả hoạt động gắn liền với rủi ro, định hướng danh mục kinh doanh. Cuối năm 2022,
ACB đã chính thức hoàn thành triển khai các nội dung trọng yếu ILAAP và chuẩn mực Basel III,
một trong những chuẩn mực yêu cầu cao về vốn và quản lý rủi ro thanh khoản.
Đến hết năm 2022, tỷ lệ an toàn vốn hợp nhất đạt ở mức 12,80%, cao hơn nhiều mức 8%
theo quy định. Tổng vốn tự có đạt hơn 58 nghìn tỷ đồng, tăng 32% so với năm 2021.
Thu nhập đa dạng
Thu nhập ngoài lãi năm 2022 tăng 14%, đạt gần 5,3 nghìn tỷ đồng, đóng góp 18% trên
tổng doanh thu. Thu nhập từ hoạt động đầu tư chứng khoán giảm do thanh khoản thị trường sụt
giảm mạnh. Thu nhập phí tang trưởng tốt 22% so với cùng kỳ, nhờ các loại phí chủ lực gồm đại
lý bảo hiểm nhân thọ, thẻ và thanh toán quốc tế.
- Doanh thu từ hoạt động đại lý bảo hiểm nhân thọ đóng góp tỷ trọng lớn trong thu nhập
phí với tỷ lệ 55%, đạt gần 2 nghìn tỷ đồng, tăng trưởng 31% so với năm 2021.
- Hoạt động kinh doanh thẻ tăng trưởng mạnh mẽ ở mức 86% so với năm 2021, chủ yếu
đến từ các dòng thẻ tín dụng quốc tế cao cấp (Visa Platinum, Visa Signature) và dòng thẻ ghi nợ.
Với các dòng thẻ chủ lực trên, doanh số chi tiêu thẻ tăng 64% so với năm trước và số lượng thẻ
phát hành mới tăng 58% so với năm 2021.
- Hoạt động thanh toán quốc tế đóng góp tỷ trọng lớn thứ ba, chiếm 11% trong tổng phí
dịch vụ. Hoạt động xuất nhập khẩu năm 2022 của cả nước tiếp tục đạt kỷ lục mới về mặt quy
mô, với kim ngạch xuất nhập khẩu đạt con số hơn 700 tỷ USD. Nhờ đó, doanh số thanh toán
quốc tế của ACB đạt mức tăng trưởng cao 24% so với năm 2021, đạt 11,7 tỷ USD.
Một điều đặc biệt ở ACB là ACB tạo cơ hội phát triển cho toàn thể nhân viên, bình đẳng
và không phân biệt đối xử giới tính, vùng miền,... ACB tạo cơ hội phát triển cho toàn thể nhân
viên. Các chính sách về bình đẳng giới tính và cơ hội tại ACB được quy định cụ thể trong nội
quy lao động và thỏa ước lao động tập thể, và được áp dụng xuyên suốt trong tất cả các hoạt
động của ACB, như tuyển dụng, đào tạo, bố trí công việc, phát triển nghề nghiệp, quản lý quan
hệ lao động, lương và chế độ phúc lợi. Tỷ lệ nhân viên nữ tại ACB tính đến ngày 31 tháng 12
năm 2022 là 65,40%.
Tất cả các nhân viên đều có chương trình đạo tạo thường xuyên và chuyên sâu về quản trị
chiến lược, quản trị marketing, quản lý rủi ro, quản lý chất lượng, sản phẩm, kiến thức chuyên
sâu và kỹ năng mềm. Ngân hàng cũng khuyến khích và thúc đẩy sự chia sẻ kỹ năng, tri thức giữa
các thành viên trong Ngân hàng trên tinh thần một tổ chức không ngừng học tập để chuẩn bị tạo
nền tảng cho sự phát triển liên tục và bền vững.
Mức độ đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ và chất lượng phục vụ khách hàng
Đa dạng hóa là một chiến lược tăng trưởng và ACB quan tâm thực hiện, ACB đã có Công
ty ACBS, Công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản (ACBA), đang chuẩn bị thành lập Công ty
Cho thuê tài chính và Công ty Quản lý quỹ. Với vị thế cạnh tranh đã được thiết lập khá vững
chắc trên thị trường, trong thời gian sắp tới, ACB có thể xem xét thực hiện chiến lược đa dạng
hóa tập trung để từng bước trở thành nhà cung cấp dịch vụ tài chính toàn diện thông qua các hoạt
động sau đây:
- Cung cấp và tăng cường quan hệ hợp tác với các công ty bảo hiểm để phối hợp cung cấp các
giải pháp tài chính cho khách hàng.
- Nghiên cứu thành lập công ty thẻ (phát triển từ trung tâm thẻ hiện nay), công ty tài trợ mua xe.
- Nghiên cứu khả năng thực hiện hoạt động dịch vụ ngân hàng đầu tư.
Tuy ACB đã khẳng định được mình nhưng luôn nhận thức rằng thách thức vẫn còn phía
trước và phải nỗ lực rất nhiều, đẩy nhanh hơn nữa việc thực hiện các chương trình trợ giúp kỹ
thuật, các dự án nâng cao nâng lực hoạt động, hướng đến áp dụng các chuẩn mực và thông lệ
quốc tế để có khả năng cạnh tranh và hội nhập khu vực thành công.
III. PHÂN TÍCH MÔ HÌNH SWOT
1. Điểm mạnh
- Là ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu tại Việt Nam với mạng lưới kênh phân phối
tại các vùng kinh tế trên toàn quốc. Các sản phẩm tín dụng phong phú cho khách hàng cá nhân
và khách hàng doanh nghiệp.
- Các nghiệp vụ được chuẩn hóa theo quy trình
- Đội ngũ cán bộ nhân viên có trình độ cao và được công ty tài chính quốc tế IFC hỗ trợ
về đào tạo nghiệp vụ.
- Các giao dịch được trực tuyến hóa thông qua hệ quản trị nghiệp vụ ngân hàng bán lẻ và
có thể phục vụ khách hàng 24/24 giờ.
- ACB là thành viên của SWIFT (Hiệp hội Viễn thông Tài chính Liên ngân hàng Toàn
Thế giới) bảo đảm phục vụ khách hàng trên toàn thế giới trong suốt 24 giờ mỗi ngày.
- Có sự hậu thuẫn lớn về tài chính và các công nghệ ngân hàng do có các cổ đông chiến
lược nước ngoài là Connaught Investor, Dragon Financial Holding, Lit, ngân hàng Standard
Chartered.
- Đa ngành nghề kinh doanh về tiền tệ đặc biệt là về ngoại hối và kiều hối.
- ACB hoàn thành BASEL III và ILAAP, kiện toàn năng lực quản trị rủi ro
2. Điểm yếu
- ACB tập trung chủ yếu vào các thành phố lớn, chưa tiếp cận tín dụng đến các tỉnh nhỏ
lân cận các thành phố lớn.
- Công nghệ cao nhưng vẫn chưa đủ để đáp ứng nhu cầu giao dịch của khách hàng đặc
biệt là tài sản giao dịch vàng.
- Thị phần huy động và cho vay của ACB chiếm phần khá nhỏ trong hệ thống ngân hàng
thương mại.
3. Thách thức
Thứ nhất, theo xu thế phát triển và hội nhập, nhóm ngân hàng cần thực hiện các chuẩn
mực quốc tế cao hơn như Basel II, Basel III nhằm nâng cao năng lực quản trị rủi ro, khẳng định
vị thế, đồng thời tăng khả năng cạnh tranh với các ngân hàng trong khu vực và thế giới cũng như
tạo niềm tin cho khách hàng. Tuy nhiên, việc tăng vốn để đáp ứng các chuẩn mực gặp nhiều khó
khăn, phụ thuộc vào sự chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước và thị trường.
Thứ hai, trong bối cảnh hội nhập và sự phát triển của công nghệ, áp lực cạnh tranh của
ngành ngân hàng ngày càng khốc liệt. Không chỉ là cuộc cạnh tranh của ngân hàng với nhau,
giữa các ngân hàng với các công ty tài chính mà còn là giữa ngân hàng với fintech và bigtech,
nhất là trong lĩnh vực dịch vụ thanh toán và cho vay nhỏ lẻ, tiêu dùng.
Thứ ba, cùng với sự phát triển của công nghệ, nhiều mô hình kinh doanh mới trong lĩnh
vực tài chính ra đời như mô hình ngân hàng số 100%, tiền kỹ thuật số, cho vay ngang hàng... và
đang cạnh tranh trực tiếp với các ngân hàng truyền thống. Tại Việt Nam nhiều quy định liên quan
đến thanh toán không dùng tiền mặt, cho vay ngang hàng, dự thảo thay thế Nghị định 101 về
thanh toán không dùng tiền mặt... vẫn đang ở dạng dự thảo, chưa được chính thức ban hành. Các
quy định pháp lý trong nước lại chưa theo kịp với yêu cầu, khiến các ngân hàng thương mại e dè
trong việc áp dụng công nghệ, dịch vụ mới ngoài khuôn khổ cho phép.
Cuối cùng, rủi ro về an ninh mạng, thông tin dữ liệu an toàn. Ngân hàng đóng vai trò là
trụ cột của nền kinh tế và luôn dẫn đầu trong việc ứng dụng hệ thống công nghệ thông tin, hầu
hết các giao dịch và hoạt động tài chính được xử lý trực tuyến nên có một tỷ lệ cao số vụ tội
phạm an ninh mạng liên quan đến các ngân hàng. Ngoài ra, ngân hàng cũng gặp phải những rủi
ro về đạo đức liên quan đến khách hàng, và nhân viên ngân hàng.
4. Cơ hội
Thứ nhất, tăng trưởng tín dụng dự báo sẽ tiếp tục gia tăng, đặc biệt với động thái nới
room tín dụng vào ngày 5/12/2022 của NHNN lên 1,5 - 2% cũng như việc tiếp tục thực hiện Gói
hỗ trợ lãi suất 40.000 tỷ đồng cho các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh theo Chương
trình phục hồi phát triển kinh tế - xã hội 2022-2023 của Quốc hội và Chính phủ .
Thứ hai, dòng chảy vốn nhàn rỗi tiếp tục quay trở lại hệ thống ngân hàng trong bối cảnh
lãi suất huy động ở mức thực dương, trong khi các kênh đầu tư khác có nhiều thách thức về niềm
tin của nhà đầu tư.
Thứ ba, năng lực số hóa của các ngân hàng có nhiều tiềm năng tiếp tục được cải thiện
thông qua khả năng khai thác các ứng dụng các công nghệ tiên tiến nhất như: AI, máy học, điện
toán đám mây, Blockchain, không ngừng góp phần gia tăng trải nghiệm khách hàng và thúc đẩy
các sản phẩm tài chính mới.
Cuối cùng, phát triển bền vững thông qua chương trình ESG sẽ là cơ hội để xây dựng lợi
thế cạnh tranh mới cho các ngân hàng Việt Nam, minh chứng thông qua dòng vốn đầu tư đổ vào
các doanh nghiệp có xây dựng các tiêu chuẩn ESG mạnh mẽ hơn bao giờ hết, cùng với sự quan
tâm ngày càng lớn của các cơ quan quản lý nhằm hoàn thiện các quy định để triển khai các tiêu
chuẩn ESG.
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. https://acb.com.vn/
2. https://www.vndirect.com.vn/cmsupload/beta/ACB_BCcapnhat_20231227.pdf
3. https://cafef.vn/phat-trien-manh-va-cham-chuan-quoc-te-acb-dinh-huong-tang-
truong-the-nao-5-nam-toi-2019051007505969.chn?
fbclid=IwAR15UDGpayIeOx71nACieh5Yc0L9O9DbasvpvubZA293Z7oDMHsFJA0
ccS8
4. https://s.cafef.vn/hose/acb-ngan-hang-thuong-mai-co-phan-a-chau.chn