Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 68

PHẦN MỘT

NGHỊ LUẬN VỀ TÁC PHẨM VĂN HỌC-PHẦN THƠ VÀ


TRUYỆN HIỆN ĐẠI
BÀI 1
RÈN LUYỆN KỸ NĂNG PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC
1-Phân tích hoàn cảnh ra đời của tác phẩm:
Cần có sự phân biệt hoàn cảnh chung và hoàn cảnh riêng.
-Hoàn cảnh chung là bối cảnh lịch sử xã hội nói chung. Hoàn cảnh chung ít có tác động trực tiếp
tới tác phẩm mà thường tác động đến nhà văn thông qua hoàn cảnh riêng tư của từng người.
Hơn nữa ngay trong hoàn cảnh riêng cũng chưa chắc đã chi phối trực tiếp nội dung của tác phẩm
mà còn phải thông qua bối cảnh cụ thể, ở đó sự xúc cảm được xuất hiện. Chẳng hạn theo Viễn
Phương bài “Viếng lăng Bác” được hình thành khi tác giả vào lăng viếng Bác. Tình cảm chân
thành của tác giả được bộc lộ và tạo nên những ý thơ tha thiết xúc động.
-Phân tích tác phẩm nên cố gắng tìm ra được hoàn cảnh nói trên, vì thường đấy là những gợi ý
có nhiều ý nghĩa.
2-Phân tích trực tiếp tác phẩm.
Thông thường cần tiến hành qua 3 bước sau:
Bước 1: Đọc tác phẩm từ đầu đến cuối, không quá lướt nhưng cũng chưa cần quá kĩ, cảm thụ
cho được bằng cảm xúc lẫn lí trí tinh thần chung của tác phẩm.
Ví dụ: Tinh thần chung của “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật là tinh thần
lạc quan, dũng cảm bất chấp khó khăn nguy hiểm của các chiến sĩ lái xe trên tuyến đường
Trường Sơn những năm kháng chiến chống Mỹ, thể hiện lòng yêu nước, tất cả vì miền Nam ruột
thịt.
Còn tinh thần chung của tác phẩm “Lặng lẽ Sa Pa” là tinh thần trách nhiệm trong công việc,
sự hi sinh thầm lặng của những con người trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tuy chỉ là sự cảm nhận khái quát về tác phẩm nhưng thực ra bước này tạo đường, hướng cho
việc phân tích ở các bước sau. Nếu ở bước này sự cảm nhận sai lạc đương nhiên những bước sau
cũng khó đạt yêu cầu (ở đây cần phân biệt về mặt thể loại của từng tác phẩm) nhiều hs thường
đồng nhất việc phân tích thơ trữ tình và văn xuôi tự sự. Nếu là thơ trữ tình, đặc biệt phải lưu ý
đến cái “tôi” trữ tình của tác giả qua hình ảnh, nhịp điệu. Nếu là tác phẩm tự sự (kể cả thơ tự sự)
phải chú ý đến việc xây dựng tính cách nhân vật đến cốt truyện và các tình huống xung đột.
Bước 2: Chia tác phẩm ra thành nhiều phần (hoặc nhiều đoạn, ý) đây là một thao tác cần thiết
mỗi khi nghiên cứu một đối tượng. Có thể chia dọc, chia ngang…. Phân tích từng hình ảnh, chi
tiết, từng thủ pháp nghệ thuật …tùy từng hoàn cảnh. Nhưng tác phẩm vốn là chỉnh thể, do đó
việc chia ra như đã nói không khi nào được tách rời khỏi chỉnh thể (tinh thần chung đã nhận biết
ở bước 1)
Trong nhiều chi tiết trong tác phẩm thường chí có một số chi tiết kết tinh sự sáng tạo độc đáo
của nhà văn. Trình độ của người làm bài thể hiện một phần ở việc chọn đúng và phân tích kĩ các
chi tiết đó, không rơi vào tình trạng dàn đều. Ngay khi giải quyết những đề bài có tính chất khái
quát cần lấy dẫn chứng ở nhiều tác phẩm thì chủ yếu cũng chỉ chọn những chi tiết này mà thôi.
Chẳng hạn khi phân tích nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” có thể bỏ qua đoạn ông
Hai dặn con rồi ông Hai đi đến phòng thông tin nghe đọc báo, ông Hai nói chuyện với bà Hai
nhưng không thể bỏ qua đoạn sau khi ông Hai nghe được tin làng theo giặc (tâm trạng đau đớn
dằn vặt của ông Hai)
Phân tích bài thơ “Viếng lăng Bác” không thể bỏ những hình ảnh “Mặt trời trong lăng rất đỏ”
“vầng trăng” “trời xanh” đó là những hình ảnh ẩn dụ để nói lên sự vĩ đại của Bác.
Bước 3: Kiểm tra lại một cách toàn diện cảm nhận bao quát ở bước một và việc phân tích từng
chi tiết ở bước 2 xem chúng có phù hợp không. Đồng thời trên cơ sở đã phân tích các chi tiết mà
GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 1
có sự tổng hợp sâu sắc hơn. Như vậy sự tổng hợp này là kết quả của một quá trình nhận thức
bằng cả trí tuệ lẫn tâm hồn. Do đó, sự tổng hợp này có chất lượng cao hơn nhiều so với sự cảm
nhận ở bước 1.
Ví dụ: sau khi đã trình bày cảm nhận bao quát về bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” ở
bước 1. Phân tích kỹ một số hình ảnh từ ngữ trong bài thơ (bước 2) đến bước 3 có thể khẳng định
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật đã làm sống lại một thời gian khổ oanh
liệt của anh bộ đội cụ Hồ. Bài thơ là bức tượng đài nghệ thuật về hình ảnh người lính lái xe trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ.

GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 2
BÀI 2
HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH
CÁCH LÀM BÀI NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
ĐỀ 1: Phân tích bài thơ “Đồng Chí” của Chính Hữu. Từ bài thơ em có suy nghĩ gì về mối tình
đồng chí, đồng đội của anh bộ đội Cụ Hồ.
DÀN Ý:
I-Mở bài:
-Chính Hữu viết bài thơ “Đồng chí” năm 1948.
-Bài thơ gợi cho người đọc nhiều cảm xúc trước tình cảm thiêng liêng cao quí của những người
chiến sĩ trong thời kì chống Pháp.
-Bài thơ ngợi ca tình đồng chí gắn bó keo sơn giữa những người chiến sĩ quân đội nhân dân xuất
thân là nông dân lao động.
II-Thân bài:
1-Phân tích bài thơ:
a-Sự phát triển của tình cảm cách mạng trong quân đội ta:
-Đây là một hiện tượng tình cảm kì lạ mà nhà thơ đã phát hiện được .
-Những người chiến sĩ xuất thân từ cảnh nghèo khó. Họ là nông dân sống ở những vùng quê
nghèo:
“Nước mặn đồng chua, đất cày lên sỏi đá”
-Nhà thơ đã chọn lựa được những chi tiết rất thực, rất thơ để gợi tả về cuộc sống của người
chiến sĩ.
-Trước ngày vào bộ đội, họ chẳng hề quen biết nhau. Ý thơ được nhấn mạnh “đôi người” mà
“xa lạ” nhưng lại rất thương nhau. Vì tuy xa lạ, tuy ở những vùng quê khác nhau nhưng họ đều
gian nan vất vả như nhau:
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
-Khi tham gia kháng chiến: họ cùng chiến đấu, cùng chịu đựng gian khổ, cùng chung lưng đấu
cật.
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
-Hai hình ảnh thơ cụ thể hóa sự hòa nhập của người chiến sĩ cùng chung lý tưởng chiến đấu bảo
vệ tổ quốc: Súng và đầuý chí và tình cảm. Súng bên súng, đầu sát bên đầu thể hiện sự gắn bó
keo sơn của những người cùng chung lý tưởng. “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ” phải cùng
chung hoàn cảnh xuất thân, cùng chung lí tưởng chiến đấu thì một đêm rét chung chăn mới trở
thành đôi tri kỉ (câu thơ là một sự phát triển nhưng đồng thời cũng là một sự kết thúc để dẫn tới
một kết luận)Họ hiểu nhau, thương nhau và gọi nhau “Đồng chí”
-Từ “đồng chí” vang lên như một tiếng gọi thân thương, thể hiện một sự cảm kích về nhiều đổi
thay kì lạ trong quan hệ tình cảm.
b-Những biểu hiện của tình đồng chí:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
-Ba câu thơ đưa ta trở lại với hoàn cảnh riêng của những người chiến sĩ vốn nông dân đó. Nếu ở
hai câu đầu ta biết những người chiến sĩ ra đi từ những quê hương nghèo khó thì ở đây ta lại hiểu
thêm hoàn cảnh riêng của họ:
+Gửi lại bạn thân cày cấy ruộng nương của mình.
+Nhớ tới gian nhà trống không “gió lung lay” nhưng đành “mặc kệ” ra đi vì nghĩa lớn “cứu
nước, cứu nhà”

GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 3
+Rồi kẻ ở hậu phương (giếng nước,gốc đa), người đi (đi bộ đội ra tiền tuyến: ra lính) không
nguôi thương nhớ.
-Họ cùng chia ngọt sẻ bùi bên nhau:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày”
-Những người chiến sĩ là nông dân mặc áo lính ấy đã cùng chung cảnh ngộ ở quê hương gia đình
tại hậu phương, trở thành đồng chí của nhau, lại thêm lần nữa chia bùi sẻ ngọt với những thiếu
thốn gian khổ của cuộc sống và chiến đấu hiện tại.
-Lời thơ nhẹ nhàng như lời thủ thỉ tâm tình, biểu hiện tình đồng chí thật là cảm động.
“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
-Chỉ có những con người cùng chung một ý chí và lí tưởng mới có những tình cảm đáng quí như
thế.
c-Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” biểu tượng của tình đồng chí.
-Tại một cánh rừng hoang đầy sương muối, hoang vắng, lạnh lẽo. Câu thơ “Đêm nay rừng hoang
sương muối” nói lên cái gian khổ trong cuộc sống, chiến đấu của người lính.
-Trong đêm phục kích ấy có vừng trăng như treo trên đầu súng, những người lính “đứng cạnh
bên nhau chờ giặc tới”
-Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” cuối bài thơ là hình ảnh độc đáo, giàu cảm xúc bất ngờ, thú vị
cho người đọc.
-Hình ảnh mang ý nghĩa cao đẹp của mục đích lí tưởng chiến đấu về mối tình đồng chí thiêng
liêng trong sáng của anh bộ đội Cụ Hồ.
2-Suy nghĩ về mối tình đồng chí của anh bộ đội.
-Tình giai cấp của người lao động: Những người lính được miêu tả trong bài “Đồng chí” vốn là
nông dân. Họ tha thiết, gắn bó với ruộng đồng, gia đình, quê hương.
-Tình đồng chí, đồng đội được hình thành trên tình giai cấp, trên lí tưởng chống giặc bảo vệ tổ
quốc. Sức mạnh của lý tưởng đã gắn bó những người nông dân mặc áo lính đó thành những đồng
chí của nhau.
-Tình đồng chí, đồng đội lại được rèn luyện, thử thách trong cuộc sống, chiến đấu vô cùng thiếu
thốn gian khổ. Chính trong quá trình cùng chung cuộc sống và chiến đấu đó mối tình đồng chí,
đồng đội càng được củng cố và phát triển vì không có sự thử thách nào khiến con người ta thêm
vững vàng, thương yêu, gắn bó với nhau như những thử thách trong chiến đấu, trong gian khổ
mà người lính đã trải qua.
*Đó là một mối tình đẹp
-Một trong những phẩm chất đẹp đẽ của anh bộ đội Cụ Hồ đó là tình đồng chí, đồng đội.
III-Kết bài:
-Bài thơ hàm súc, mộc mạc, chân thực, gợi tả, có sức khái quát cao, khắc họa được một trong
những phẩm chất cao đẹp của anh bộ đội Cụ Hồ. Đó là mối tình đồng chí, đồng đội gắn bó keo
sơn, gian khổ, sống chết có nhau. Bài thơ có thực, có lãng mạn tạo nên vẻ đẹp của bài thơ, gây
cho người đọc những suy tư sâu sắc, những xúc động sâu lắng.

GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 4
Đề 2:
Cảm nhận của em về hình ảnh người lính trong hai bài thơ "Đồng chí" của Chính Hữu và "Bài
thơ về tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật.
Dàn ý:
I-MB
1-Hình ảnh người lính trong Đồng Chí (Chính Hữu)
-Xuất thân là những người nông dân mộc mạc, chấ phác, chiến đấu vì Tổ quốc, vì quê hương, đất
nước thân yêu:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
-Dù phải chiến đấu trong hoàn cảnh khó khăn giữa trời đông rét buốt, tâm hồn người lính vẫn
sáng bừng tình yêu cuộc sống, tình yêu con người và đặc biệt là tình đồng chí (Đồng chí!
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay-Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới)
-Lạc quan, yêu đời:
"Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không , mặc kệ gió lung lay"
"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai"
"Thương nhau tay nắm lấy bàn tay"
-Khao khát hòa bình: Đầu súng trăng treo
 Người lính trong thơ Chính Hữu: Giàu tình cảm với quê hương, với bạn bè chiến hữu
2-Hình ảnh người lính trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật)
-Thiếu thốn, khó khăn nhưng vẫn ung dung, hiên ngang, yêu đời và một tinh thần trách nhiệm
cao với công việc:
"Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi"
" Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng"
" Không có kính, ừ thì có bụi

Không có kính, ừ thì ướt áo"
-Tình cảm của những người lính: Những chiếc xe không kính trở thành khung trời hò hẹn, nơi
gặp gỡ, hội ngộ, nối liền niềm tin, hi vọng và tình đồng đội cao quí:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
…..
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
-Ước mơ, khát vọng chiến đấu và chiến thắng, giải phóng miền Nam ruột thịt:
Không có kính, rồi xe không có đèn
…..
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Người lính trong thơ PTD hồn nhiên trẻ trung, phu chút ngang tàng, dễ mến.
3-KB
Nhận xét, đánh giá:
-Chính Hữu và Phạm Tiến Duật, từng tham gia quân ngũ, họ hiểu cuộc đời của những người
lính.
-Hai tác phẩm tuy ra đời không cùng một thời điểm nhưng đều vẽ lên trước mắt người đọc
những hình tượng, biểu tượng đẹp về người chiến sĩ, thể hiện lòng yêu mến, ngưỡng mộ và trân
trọng sâu sắc mà hai tác giả dành cho những con người của khát khao và lí tưởng sống cao đẹp.

GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 5
Đề 3: Trong bài “Tiếng nói văn nghệ” Nguyễn Đình Thi có viết:
“Một bài thơ hay không bao giờ ta đọc qua một lần rồi bỏ xuống được. Ta sẽ dừng ta trên trang
giấy đáng lẽ lật đi và đọc lại bài thơ. Tất cả tâm hồn chúng ta đọc”
Em có suy nghĩ gì về ý kiến trên?
Từ đó, hãy trình bày cảm nhận về một bài thơ hay trong chương trình ngữ văn THCS, phần
văn học Việt nam.
Hướng dẫn
I-MB:
Có những Tác phẩm đọc rồi quên lãng, lại có những tác phẩm đọc xong nó lại vấn vương, du
dương như khúc nhạc và mãi mãi ngự trị trong tâm hồn của mỗi chúng ta. Đúng như nhà văn
Nguyễn Đình Thi đã viết: “Một bài thơ hay không bao giờ ta đọc qua một lần rồi bỏ xuống
được. Ta sẽ dừng ta trên trang giấy đáng lẽ lật đi và đọc lại bài thơ. Tất cả tâm hồn chúng ta
đọc”. Bài thơ hay là một bài thơ tạo được ấn tượng ngay từ khi chúng ta đọc.
II-TB:
Chắc mỗi chúng ta đều biết một bài thơ hay là một bài thơ khiến ta phải rung động khi đọc.
Càng đọc lại càng thấy bài thơ thực sự hay. Nó khiến cho người đọc phải trăn trở suy tư, càng
đọc càng khám phá ra những điều, mới lạ, hấp dẫn về nghệ thuật, tình đời, tình người. Đối với
bài thơ nói chung và bài thơ hay nói riêng, người đọc phải đem cả tâm hồn mà đọc, đọc cho đến
lúc bài thơ tự phát sáng, làm rung lên mọi cung bậc trong tâm hồn người đọc. Có lẽ để lại ấn
tượng sâu sắc trong lòng người đọc phải nhắc đến bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu. Bài thơ đã
ca ngợi mối tình đồng chí đẹp đẽ, chân thành và đồng thời ca ngợi hình ảnh của anh bộ đội Cụ
Hồ với tình cảm chân thành mộc mạc. Điều này làm cho độc giả có nhiều suy nghĩ về hình ảnh
anh bộ đội trong cuộc kháng chiến giữ nước của dân tộc.
Bài thơ được làm theo thể thơ tự do với những câu thơ dài ngắn khác nhau phụ thuộc vào mạch
cảm xúc của tác giả. Lời thơ chân thành như chính tâm hồn bình dị của người lính, hình ảnh thơ
có tính tượng trưng khái quát cao, ca ngợi người lính trong kháng chiến chống Pháp. Từng vần,
từng nhịp trong bài thơ như những nốt nhạc độc đáo chấm phá thêm cho tình đồng chí thắm thiết
của họ. Sẽ không bao giờ người đọc có thể quên được hình ảnh những người nông dân mặc áo
lính ấy. Họ xuất thân từ những làng quê nghèo khó “Nước mặn đồng chua” “Đất cày lên sỏi đá”.
Nhà thơ đã chọn lọc những chi tiết rất thực, rất thơ đã miêu tả về cuộc sống của người chiến sĩ.
Trước ngày vào bộ đội, họ đều là những người nông dân, những người xa lạ thế nhưng họ đều
giống nhau ở chỗ đều gian khổ và vất vả.
Tuy họ rất xa lạ thế nhưng khi đã hiểu nhau gắn bó lại thì tạo thành sức mạnh vô song, thành
đôi tri kỉ:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
Hai câu thơ đã miêu tả và phác họa lại cuộc sống của người chiến sĩ, cả hai câu thơ chỉ có một
từ “Chung” nhưng cái chung ấy đã bao trùm lên tất cả “Súng bên súng” là chung nhiệm vụ chiến
đấu “Đầu sát bên đầu” là cùng chung lý tưởng, chung mục đích chiến đấu . . . “Đêm rét chung
chăn” là hình ảnh rất thực, rất thơ nồng ấm tình người. Có ai đi chiến đấu nơi núi rừng Việt Bắc
mà không biết đến cái lạnh “ Rét Thái Nguyên, rét về Yên Thế, gió qua rừng đèo khế gió sang”
và không ai có thể quên được cuộc sống chiến đấu “bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng…” cuộc
sống của người lính gian nan cực khổ nhưng họ vẫn mỉm cười với nhau.
Hai từ “Đồng chí” đứng riêng thành một dòng thơ có tác dụng như một lời nói thiết tha, chân
thành khẳng định cái giá trị chân thực của tình đồng chí. Tứ thơ tự nhiên chuyển mạch nhưng
không rời rạc, ngắn gọn nhưng không khô khan mà trái lại nó thắm đượm ân tình, thiết tha, nồng
hậu như nhắc, như bảo, như khẳng định rằng: “Tình đồng chí chỉ có được qua khó khăn gian
khổ”.
GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 6
Những câu thơ tiếp theo nói về tình cảm khác của người lính.
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
………………………………….
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Đối với người nông dân, đất đai là quan trọng thế nhưng vì tình yêu tổ quốc họ sẵn sàng để lại
ruộng nương, nhà cửa cho bạn thân cày để ra đi chiến đấu. Họ đã nén tình cảm riêng tư để đến
với một tình yêu lớn hơn đó là lòng yêu nước.
Trải qua cuộc sống gian khổ, biết bao điều gắn bó người chiến sĩ với nhau.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
…………………………………
Chân không giày
Những chiến sĩ là nông dân mặc áo lính ấy đã cùng chung cảnh ngộ ở quê hương gia đình tại
hậu phương trở thành đồng chí của nhau lại thêm lần nữa chia ngọt sẻ bùi với những thiếu thốn
gian khổ của những người lính trong cuộc sống, chiến đấu hiện tại: Chung cả những cơn sốt rét
rừng ghê gớm. cái căn bệnh quái ác mà lính ta anh nào cũng sợ. Sợ mà không sao tránh khỏi.
Nhà thơ nhắc đến chuyện này như nhắc đến một kỷ niệm khó quên trong tình bạn. Đoạn thơ thật
đến từng chi tiết, từng hình ảnh và thật trong cả cách diễn tả. Đầu K/C chúng ta đánh Pháp trong
h/cảnh cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc nên chiến sĩ ta có gì mặc nấy. Ở giữa rừng sâu, kim
chỉ chẳng có rách đâu lấy dây rừng cột túm đấy, Vì vậy mới thành giai thoại vui về các anh vệ
trọc, vệ túm, giản dị đến sơ sài mà không kém phần oai phong. Thiếu thốn gian khổ thế mà vẫn
vui vẻ, tin tưởng “Miệng cười ….giày” là thái độ coi thường thử thách khó khăn, là chất lạc quan
đến thanh thản của những con người hồn nhiên, giản dị. Đó là cái dũng thuộc về bản chất của
người lao động. Bao vật chất thiếu thốn được thay thế bằng tình thương yêu sâu sắc: “Thương
nhau tay nắm lấy bàn tay” lời thơ nhẹ nhàng như lời thủ thỉ tâm tình biểu hiện tình cảm thật cảm
động. Cái nắm tay ấy thay lời muốn nói động viên nhau, truyền hơi ấm, niềm tin vào cuộc chiến
đấu chính nghĩa của dân tộc. Có lẽ không ngôn ngữ nào diễn cho hết tình đồng chí thiêng liêng
trong hoàn cảnh ấy. Cái xiết tay thật chặt và ánh mắt cảm thông, tin cậy đủ nói lên tất cả.
Đoạn kết bài thơ thật đẹp. nó tạc vào thơ ca chân dung người chiến sĩ mộc mạc đơn sơ mà
khỏe khoắn hào hùng
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Chất hiện thực nghiệt ngã và chất trữ tình lãng mạn bay bổng hòa quyện với nhau. Cảnh vẫn là
rừng hoang sương muối âm u lạnh giá nhưng dường như nó không đe dọa được con người mà
trái lại nó bị đẩy lùi nhường chỗ cho hình ảnh đồng đội đang sát cánh bên nhau trong tư thế sẵn
sàng chiến đấu. Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” mang ý nghĩa biểu tượng đẹp đẽ được nhận ra từ
một điểm nhìn của người lính trong không gian và thời gian giàu chất liên tưởng( đêm trăng
sáng, những người lính đứng chờ giặc tới. Họ nhìn lên đầu súng, nhìn xa ra là bầu trời, trăng đã
xuống thấp hơn mũi súng nên thấy như trăng treo đầu súng). Súng và trăng là sự hài hòa giữa
gần và xa, giữa hiện thực chiến đấu và chất trữ tình lãng mạn, giữa chiến sĩ và thi sĩ. …đó là mặt
bổ sung cho nhau làm tăng thêm vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội ở những người lính cách
mạng.
Như vậy bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu là một bài thơ hay vì nó không chỉ là tình cảm
của nhà thơ mà của biết bao người Việt nam dành cho anh bộ đội cụ Hồ. Tg đã khắc họa hình
ảnh người chiến sĩ với tấm lòng cảm phục và mến thương sâu sắc. Bài thơ đã lưu lại mãi mãi
trong kí ức bao thế hệ cầm súng chống xâm lăng từ đó đến nay. Bởi thế nhắc đến tg là người đọc
nhớ ngay đến bài thơ. Chỉ có thế thôi ta cũng hiểu được ấn tượng sâu sắc của bài thơ tác động
đến tâm hồn người đọc như thế nào và cũng chỉ thế thôi cũng là điều đáng quý đối với người
sáng tác.
GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 7
Đề 4: Nhận xét về hình thức nghệ thuật của một tác phẩm VH, có ý kiến: Hình thức hay là hình
thức sáng tạo, sinh động, phù hợp nhất với nội dung, có sức biểu hiện nội dung hùng hồn nhất,
gây được ấn tượng sâu sắc nhất.
Qua việc phân tích vẻ đẹp hình thức của bài thơ “Ánh trăng”, em hãy bày tỏ cách hiểu của em
về vấn đề trên?
I-MB:
Mỗi tác phẩm là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung (Lê-ô-nít Lê-ô-nốp).
Bên cạnh một nội dung sâu sắc, hình thức là một yếu tố quan trọng không thể thiếu làm nên giá
trị tác phẩm. Chính vì vậy mà có nhận định: Hình thức hay là hình thức sáng tạo, sinh động, phù
hợp nhất với nội dung, có sức biểu hiện nội dung hùng hồn nhất, gây được ấn tượng sâu sắc nhất.
Đi vào tìm hiểu bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy ta sẽ hiểu rõ hơn về nhận định này.
II-TB: Nội dung và hình thức là hai yếu tố tạo nên một tác phẩm. Nội dung thể hiện đề tài, chủ
đề, tư tưởng của tác phẩm ấy còn hình thức thường thể hiện trong kết cấu, trong lời văn nghệ
thuật và những biện pháp nghệ thuật. Ở đây, nhận định đưa ra quan niệm về hình thức hay.
Trước hết, đó phải là hình thức sáng tạo, sinh động. “Sự bình thường là cái chết của nghệ thuật”.
Nội dung tác phẩm được lấy từ những khía cạnh khác nhau trong c/s nhưng cũng có khi cùng
một nội dung nhưng mỗi người lại có một cách thể hiện khác nhau và tất nhiên trong số đó,
không phải tác phẩm nào cũng được đón nhận và để lại dấu ấn. H/thức sáng tạo riêng đánh dấu
phong cách của người nghệ sĩ trong sáng tác của họ. H/thức sáng tạo sẽ tạo ra màu sắc mới cho
nội dung khiến nó vượt lên trên những tác phẩm cùng đề tài. Nhưng dù là sáng tạo, đó cũng phải
là hình thức sinh động tức sáng tạo hoàn toàn mới mẻ nhưng không hề gượng ép và nhất là phải
phù hợp với nội dung tác phẩm. Sự thống nhất giữa nội dung và hình thức là sự thống nhất giữa
cái bên ngoài và cái bên trong. Hình thức phù hợp sẽ tôn thêm vẻ đẹp của nội dung và ngược lại.
Ý kiến trên đã đặc biệt tập trung nhấn mạnh vào khía cạnh “Phù hợp nhất với nội dung, có sức
biểu hiện nội dung hùng hồn nhất, gây được ấn tượng sâu sắc nhất” tức đặc biệt nhấn mạnh vào
sự hài hòa giữa nội dung và hình thức. Đó chính là mối quan hệ mang tính quyết định về giá trị
trong tất cả các tác phẩm văn học.
Hình thức hay với những đặc điểm và yêu cầu như trên vừa là một điều kiện cần vừa là dấu
hiệu để nhận diện một tác phẩm văn học được coi là thành công. Đó cũng chính là những gì ta sẽ
bắt gặp trong Ánh trăng.
Nguyễn Duy là một nhà thơ trưởng thành từ trong cuộc kháng chiến, từng trải qua nhiều gian
khổ, chứng kiến những hi sinh mất mát, sống chan hòa với thiên nhiên. Thế hệ này từng lăn lộn
nơi chiến trường nhưng ra khỏi chiến tranh không phải ai cũng con nhớ đến quá khứ. Bài thơ là
cái giật mình về những cái phút giây vô tình dễ có ấy, cái giật mình gửi gắm biết bao ý nghĩa
triết lý về nhân sinh. Để thể hiện nội dung này, nhà thơ đã sử dụng một hình thức riêng thật độc
đáo mang lại cho người đọc những ấn tượng sâu đậm. Ở Ánh trăng, nội dung và hình thức hài
hòa với nhau tạo nên một bài thơ ý vị về cuộc sống.
Bài thơ thuộc thể thơ năm chữ, là sự kết hợp giữa tự sự và trữ tình, giữa con đường tái hiện lại
một cách khách quan các hiện tượng của cuộc sống với việc phản ánh đời sống qua những ấn
tượng cảm xúc chủ quan của mình khiến cho những xúc động trữ tình mang tính hiện tại. Dòng
cảm xúc được thể hiện trong nhịp thơ trôi chảy nhẹ nhàng, lối tự sự khi tha thiết, khi trầm lắng
suy tư. Hình thức này khiến cho tác phẩm dù suy tư về quá khứ, xúc động trữ tình vẫn xuất hiện
như một trạng thái sống động, một quá trình đang diễn ra vậy. Cảm xúc hiện tại xuất hiện cùng
sự xuất hiện đột ngột của ánh trăng dẫn ta về với những suy tư về quá khứ và cuối cùng là sự suy
nghĩ về tình người và lẽ đời. Nhờ phương thức tự sự, bài thơ mang dáng dấp của một câu chuyện
được kể theo trình tự thời gian, dòng cảm xúc men theo dòng tự sự. Nó rất phù hợp với dòng suy
tư của tg trong suốt bài thơ, khiến chất triết lí trở nên thấm thía sâu sắc hơn. Trong mạch tự sự
trữ tình đó, vầng trăng xuất hiện trong những mảng không – thời gian khác nhau:
GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 8
Hồi nhỏ…. ……tri kỉ
Ấy là thời điểm mà con người sống gần gũi với thiên nhiên trong mối chan hòa giao cảm như
tri kỉ. Vầng trăng đi cùng từ suốt tuổi thơ, đi qua những năm tháng chiến tranh. Từ trong khó
khăn nhưng tâm hồn trong sáng, đẹp đẽ vẫn tìm đến nhau để chan hòa, để sẻ chia. Ở trong những
thời điểm ấy, trăng và tâm hồn con người có sự tương đồng: đều đẹp trong sáng, đều mang
những tình cảm hồn nhiên và vầng trăng trở thành vầng trăng tình nghĩa.
Và rồi thời bình, bằng biện pháp đối lập, nhà thơ đã dựng nên một hiện thực xót xa:
Từ hồi về thành phố……….. qua đường
Về thành phố, trước ánh đèn và cửa gương, vầng trăng chợt trở nên vô duyên. Ánh sáng hồn
nhiên trong trẻo của nó không đủ sức để chiếu sáng với những ánh sáng hào nhoáng của thành
phố. Và quan trọng hơn là chính trong những ánh sáng hào nhoáng kia, người ta đã quên mất còn
có một vầng trăng nữa cũng đang chiếu sáng. Trăng trở thành người dưng qua đường. Tất cả sẽ
không thay đổi nếu như không có một ngày thành phố mất điện. Lúc mọi ánh sáng nhân tạo
không còn, người ta mới giật mình nhận ra ánh trăng. Mặc cho ánh đèn lấn át, mặc cho con
người vô tình, trăng vẫn tròn vành vạnh. Ấy là vầng trăng thức tỉnh của thực tại nhưng cũng là
vầng trăng đánh thức quá khứ, là vầng trăng của nghĩa tình năm xưa, là trăng của suy tư đánh
thức những cảm xúc đã trở nên chai lì trong cuộc sống hiện tại. Người vô tình nhưng trăng vẫn
luôn là một tâm hồn thủy chung, son sắt.
Nội dung triết lí sâu sắc của bài thơ đã được thể hiện tài tình qua hình ảnh vầng trăng mang
tính biểu tượng, nhiều tầng nghĩa. Từ đầu đến cuối bài thơ, lúc nào cũng vầng trăng cũng tròn
đầy, viên mãn, như tình cảm thủy chung không bao giờ thay đổi, đối lập với sự thay đổi của lòng
người, của tình đời. Vầng trăng vừa là biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình sắt son, không đổi qua
thời gian đồng thời cũng là biểu tượng cho vẻ đẹp bình dị vĩnh hằng trong đời sống. Cái im
phăng phắc nhắc nhở người ta về quá khứ, nhớ về những gì đã qua để biết trân trọng nó, cũng là
lời nhắc nhở cho lẽ sống thủy chung của chính mình. Cũng giống như nhan đề, hình tượng ánh
trăng và vầng trăng xuyên suốt từ đầu đến cuối tác phẩm. Nhan đề bài thơ là Ánh trăng nhưng
phải đến cuối tác phẩm thì ánh trăng mới xuất hiện. Hình ảnh vầng trăng khẳng định sự tròn đầy,
viên mãn của quá khứ, của kỉ niệm, của nghĩa tình không thay đổi. Đến cuối tác phẩm Ánh trăng
xuất hiện gợi cho người ta cảm giác về một sự lan tỏa. Vầng trăng, bản thân như một chứng nhân
chứng kiến tất cả những gì đang diễn ra xung quanh tác giả: quên lãng, kỉ niệm, kí ức, bất ngờ,
xúc động rưng rưng đến giật mình … còn ánh sáng của nó lại có sức chiếu rọi và lan tỏa sâu sắc.
Vầng trăng là của trời, ở trên trời. Ánh trăng chiếu xuống đất, thuộc về đất, bởi vậy nên nó có thể
chiếu tận vào trong những góc khuất của tâm hồn con người, có khả năng đánh thức kí ức, tâm
hồn họ. Hình ảnh thơ được khoác lên mình tính biểu tượng nên có sức hấp dẫn và sức gợi rất lớn.
Bài thơ vì thế mà đậm chất triết lý.
Đọc bài thơ sự phù hợp với nội dung cảm xúc trong bài thơ ta còn bắt gặp một hình thức thể
hiện đặc biệt: bài thơ không viết hoa ở những chữ đầu dòng. Cũng giống như Đò Lèn, một bài
thơ khác của nhà thơ, hình thức trình bày này có ý nghĩa quan trọng trong việc thể hiện nội dung
tác phẩm. Nó khiến cho cả tác phẩm trở thành một dòng suy nghĩ trở nên liền mạch, liên kết ý
tưởng và hình ảnh trong từng khổ cũng như cả bài, lôi cuốn người đọc vào những cảm xúc tương
tự. Và khi kết thúc dòng cảm xúc cũng là kết thúc bài thơ.
III-KB:
Ánh trăng là bài thơ hay đậm chất triết lí. Làm nên sự hấp dẫn của bài thơ không chỉ là nội
dung sâu sắc mà còn là một hình thức thơ phù hợp và cũng đầy sáng tạo. Việc sử dụng các hình
ảnh mang tính biểu tượng, đậm chất triết lí, việc triển khai bài thơ theo hình thức tự sự -trữ tình,
việc vận dụng lối viết thơ mới mẻ, ngôn ngữ thơ gần gũi, giàu tính biểu cảm …đã góp phần làm
nên sức hấp dẫn của bài thơ vượt qua những thử thách khắc nghiệt của thời gian.

GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 9
Đề 5: Những đặc sắc trong bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương
Dàn ý:
I-MB:
-Giới thiệu về tác giả, tác phẩm, giới thiệu khái quát về bài thơ.
+ Viễn Phương là nhà thơ của thơ ca cách mạng miền Nam thời kì chống Mỹ cứu nước. Ông
sáng tác nhiều và có những bài thơ nổi tiếng.
+Viếng lăng Bác sáng tác năm 1976 trong dịp nhà thơ từ miền Nam ra thăm lăng Bác. Đây là bài
thơ đã thể hiện được những cảm xúc chân thành tha thiết.
II-TB:
a-Cảm xúc của tg khi đến thăm lăng Bác:
-Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác. Mang trong lòng niềm thương nhớ Bác của cả đồng bào
miền Nam, tác giả nói với Bác bằng sự xúc động chân thành nhất. Cách xưng hô thân mật, gần
gũi “Bác” “Con” tạo không khí ấm áp thân thương.
-Hình ảnh hàng tre vừa mộc mạc vừa quen thuộc, giàu ý nghĩa tượng trưng: Sức sống quật
cường, truyền thống bất khuất của dân tộc VN. Phẩm chất cao quý của Bác Hồ - người con ưu tú
của dân tộc. Hình ảnh hàng tre xanh xanh, hàng tre khơi nguồn cho cảm xúc thiêng liêng của nhà
thơ.
b-Sự tôn kính của tg đối với Bác khi đứng trước lăng Người.
-Theo đoàn người vào lăng viếng Bác nhà thơ nhìn thấy:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
-Hình ảnh mặt trời ở câu thơ thứ nhất là mặt thực, nguồn sáng sưởi ấm cho nhân loại. Mặt trời
thứ hai là hình ảnh ẩn dụ. Bác là mặt trời cách mạng mang ánh sáng tự do cho dân tộc VN. Đưa
dân tộc VN thoát khỏi đêm đen nô lệ. Ca ngợi khẳng định công đức và sự vĩ đại của Bác.
-Nhìn đoàn người vào thăm lăng Bác, tg tưởng tượng đoàn người kết thành vòng hoa lớn dâng
lên Bác.
-Vào trong lăng dưới ánh sáng dịu nhẹ của những ngọn đèn, nhà thơ tưởng tượng ánh sáng đang
tỏa ra xung quanh Bác. Sự liên tưởng kì lạ nhưng hợp lí thể hiện sự hiểu biết của tg về Bác.
-Bằng niềm tôn kính chân thành nhà thơ ca ngợi Bác có lúc ấm áp như mặt trời, có lúc lại dịu
hiền như ánh trăng rằm. Bác chúng ta là vậy: “Mặt trời” “Vầng trăng” “Trời xanh” mãi mãi bất
diệt muôn đời. Nói như thế những tg không khỏi đau lòng “Nghe nhói ở trong tim” khi đứng
trước thi hài Bác. Nỗi đau như hàng ngàn mũi kim đâm vào trái tim thổn thức của tg. Đó chính là
sự rung động rất chân thành của nhà thơ.
c-Niềm lưu luyến và ước muốn của tg
-Nghĩ đến ngày về nhà thơ trào nước mắt.
-Tác giả ước muốn :-làm con chim
-làm bông hoa
-làm cây tre
-Ước nguyện thành kính của Viễn Phương cũng là mong ước chung của những người đã hoặc
chưa một lần nào gặp Bác.
III-KB:
-Bài thơ VLB được đánh giá là bài thơ hay viết về lãnh tụ
-Bài thơ thành công vì VP đã chọn được một hình thức và giọng điệu phù hợp với nội dung trữ
tình.

GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 10
Đề 6: Trình bày cảm nhận về bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương.
I-MB: Tất cả những gì làm rung động lòng người cũng có lúc bị phai nhòa nhưng trường hợp
thơ của Viễn Phương và tài năng của ông thì vẫn còn đọng lại mãi trong lòng muôn người. Viễn
Phương tên khai sinh là Phan Thanh Viễn, ông là nhà thơ của thơ ca cách mạng miền Nam thời
kì kháng chiến chống Mỹ. Ông sáng tác nhiều và có những bài thơ nổi tiếng như: “Viếng lăng
Bác”. Bài thơ được sáng tác đầu năm 1976 khi tác giả từ miền Nam ra thăm miền Bắc. Đây là
bài thơ đã thể hiện được những cảm xúc chân thành tha thiết của nhà thơ.
II-TB
Bài thơ mở ra một khung cảnh thân thương của đất Bắc trong nhịp bước của nhà thơ:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
…………………………………..
Bão táp mưa sa vẫn thẳng hàng
Tình cảm của nhà thơ rất chân thành và cũng rất gần gũi. Đối với người chiến sĩ miền Nam
được ra thăm lăng Bác là một điều rất vinh dự nhưng không vì thế mà giảm mất tình yêu thương
của tác giả đối với Bác. Câu thơ ấm áp tình người với cách xưng hô thân mật “con” “Bác” vừa
biểu lộ sự ngưỡng mộ thành kính vừa gần gũi thân thương. Đoạn thơ đã tạo nên một không khí
ấm áp, gần gũi. Tác giả khéo léo chọn hình ảnh cây tre, hình ảnh quen thuộc của đất nước để mở
bài thơ rộng hơn, xa hơn nhưng cũng gần gũi hơn bao giờ hết. Nhắc đến hình ảnh cây tre, ta nghĩ
tới đất nước, tới dân tộc VN với bao đức tính cao quý. Tre vất vả chịu nhiều nắng mưa nhưng
vẫn hiên ngang đứng giữa trời xanh như DT ta không bao khuất phục bọn cướp nước “Bão táp
mưa sa đứng thẳng hàng”. Bác Hồ -Người con ưu tú của DT, là cây tre tiêu biểu trong hàng tre
VN. Hình ảnh hàng tre khơi nguồn cho cảm xúc thiêng liêng của nhà thơ:
Theo đoàn người vào lăng viếng Bác nhà thơ nhìn thấy:
“ Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
Đọc câu thơ ta như say trong ánh hào quang rực rỡ của hai ánh mặt trời. “Ngày ngày mặt trời
đi qua trên lăng” là mặt trời của đất đai vạn vật, tưởng nó chỉ đi qua lăng theo quy luật tự nhiên.
Nhưng bằng hai động từ “đi” và “thấy”. Mặt trời tự nhiên đã được nhân hóa. Mặt trời như con
người bất tử thấy khi đi qua lăng một con người đã đi vào cõi trường sinh. Hình tượng “Mặt trời
trong lăng rất đỏ” được Viễn Phương liên tưởng thật tuyệt vời, sáng tạo và độc đáo qua nghệ
thuật ẩn dụ. Bác chính là mặt trời cách mạng soi đường chỉ lối cho cách mạng VN đi đến thành
công, đem cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc đến cho toàn dân tộc. Con người cảm nhận được sự
vĩ đại của Bác trong lúc còn sống cho đến lúc mất đi vẫn rạng ngời thắm sắc. Ý thơ đồng thời là
lời ca ngợi khẳng định công đức vĩ đại của Bác luôn sánh ngang tầm vũ trụ…Theo sự vận động
của tự nhiên: Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng, theo sự lớn lao của Bác cũng đã nảy sinh:
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…”
Hình ảnh dòng người đi trong thương nhớ kết thành những tràng hoa không chỉ là hình ảnh tả
thực mà còn có ý nghĩa tượng trưng. Người ta là hoa đất, những bông hoa mà sinh thời Bác hết
lòng thương quí, ngày ngày đang kết thành những dây hoa dài, lặng lẽ nối nhau nhích từng bước
chậm chạp với nỗi lòng trĩu nặng thương nhớ, thành kính dâng lên viếng Bác. Nhưng không phải
để viếng một thi hài, một người đã tử trần mà như để chúc thọ một cuộc đời, một người cha bảy
mươi chín tuổi với tình cảm nâng niu, quí trọng, với tấm lòng biết ơn, tôn kính sâu sắc. Điệp từ
“ngày ngày” trong khổ thơ vừa thể hiện qui luật tự nhiên của tạo hóa vừa là qui luật của tình
cảm. Toàn khổ thơ thể hiện tình cảm của nhân dân đối với Bác thật đáng kính trọng, lời thơ trang
nghiêm mà tha thiết vô cùng.
Tiếp tục theo chân nhà thơ vào trong lăng, bước chân người con như chậm hơn nữa để cảm
nhận và suy nghĩ:
GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 11
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”
Bác còn đó như đang ngủ một giấc ngủ bình yên, thanh thản và vẻ đẹp tâm hồn Người vẫn
luôn tỏa sáng giữa tấm lòng dân tộc. Dưới ánh sáng những ngọn đèn, nhà thơ tưởng tượng – ánh
sáng đang tỏa xung quanh Bác. Một sự liên tưởng kì lạ nhưng hợp lí thể hiện sự hiểu biết của tác
giả về Bác. Bằng niềm tôn kính chân thành nhà thơ ca ngợi Bác: có lúc ấm áp như mặt trời, có
lúc lại dịu hiền như ánh trăng rằm. Bác của chúng ta là vậy: “mặt trời” “vầng trăng” “trời xanh”
mãi mãi bất diệt muôn đời. Hiểu như thế “vẫn biết trời xanh là mãi mãi”. Vẫn biết “Bác sống
như trời đất của ta” Người đã hóa thân thành thiên nhiên, đất nước, dân tộc. Niềm tin là thế!
Song có tiếng nấc nghẹn ngào ở xung quanh. Tác giả bỗng nghe trái tim mình quặn thắt, nỗi đau
nhói lên trong lòng khi ông chợt nhận ra sự thật “Bác đã đi xa”
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Trong câu thơ nhà thơ đã đề cập đến qui luật cuộc sống qua đó để gửi gắm suy nghĩ của mình.
Hình ảnh ẩn dụ “trời xanh” càng khẳng định Bác Hồ đã mất thật rồi. Khổ thơ dẫn dắt người đọc
đi từ cái xa vời đến thực tế khi đứng bên thi thể Người. Nhà thơ Tố Hữu từng cảm nhận “Đời
tuôn nước mắt trời tuôn mưa”. Đó là nỗi đau không của riêng ai. Sự ra đi của Bác là một tổn thất
vô cùng lớn lao của toàn Đảng, toàn dân và của cả bạn bè quốc tế…Đây chính là sự rung cảm
rất chân thật của nhà thơ.
Còn đứng trong lăng Bác nhưng nghĩ đến ngày rời miền Bắc, ngày xa Bác, VP thấy bịn rịn
không muốn dứt. Tình cảm của nhà thơ trong suốt thời gian trên luôn sâu lắng, đau lặng lẽ nhưng
đến giây phút này, VP không thể nào ngăn được nữa, để cho tình cảm theo dòng nước mắt tuôn
trào, dâng cao và tha thiết nhất:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Ở câu thơ này tác giả không sử dụng một nghệ thuật nào cả, chỉ là lời nói giản dị, là tình
thương sâu lắng từ tấm lòng nhưng lại làm cho ta xúc động, bài thơ thêm giàu cảm xúc. Tác giả
thay mặt nhân dân miền Nam bày tỏ niềm thương tiếc vô hạn đối với vị cha già dân tộc. Được
gần Bác dù chỉ trong giây phút nhưng không bao giờ ta muốn xa Bác, bởi Người ấm áp quá, rộng
lớn quá. Ước nguyện thành kính của VP cũng là mong ước chung của những người đã hoặc chưa
một lần nào gặp Bác:
“Muốn làm con chim …………………….
…………………………………………
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Ngữ “muốn làm” được lặp đi lặp lại nhiều lần trong đoạn thơ thể hiện ước muốn, sự tự
nguyện của tác giả. Hình ảnh cây tre lại xuất hiện khép lại bài thơ một cách khéo léo. Tác giả
muốn làm con chim hằng ngày ca hót cho Bác yên ngủ, làm đóa hoa tỏa hương thơm ngào ngạt
cùng muôn đóa hoa khác làm đẹp nơi Bác nghỉ. Và thật đáng trân trọng khi tác giả mơ ước mình
được làm cây tre trung hiếu đứng mãi bên Bác canh từng giấc ngủ của Người. VP nói lên mong
ước của mình cũng là ước nguyện của tất cả chúng ta muốn được gần Bác.
Bác của chúng ta là vậy. Người giàu tình yêu thương, giàu đức hi sinh và đời Người thì vô
cùng giản dị. Đất nước ta mất Bác như mất người cha vĩ đại, người cha luôn dành cho nhân loại
tình thương vô bờ.
III-KB
Bài thơ “VLB” thật giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, mấy ai đọc bài thơ mà không thấy rung động
trong lòng. Bằng cách sử dụng điêu luyện những biện pháp tu từ một cách sáng tạo, tác giả đã
thể hiện tình cảm ngọt ngào đằm thắm lại rất giản dị chân thành đối với Bác. Nhà thơ đã truyền
được cảm xúc của mình đến người đọc bởi chính cảm xúc của tác giả cũng là cảm xúc của cả
đồng bào Nam bộ nói riêng, của cả dân tộc nói chung

GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 12
Đề 7: Phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh.
Dàn ý:
I-MB:
-Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm
-Bài thơ Sang thu được sáng tác năm 1977 thể hiện tâm trạng bâng khuâng xao xuyến của tác giả
trước những chuyển biến tinh tế của đất trời lúc sang thu.
II-TB:
1-Tín hiệu báo thu về:
-Sự cảm nhận mùa thu đã sang bắt đầu bằng khướu giác
-Bằng thị giác và cảm giác
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
-Câu thơ thể hiện tâm trạng bâng khuâng mong chờ mùa thu của thi sĩ
2-Quang cảnh đất trời chuyển dần sang thu:
-Không gian rộng mở từ gần đến xa, từ thấp đến cao: Sông dềnh dàng (vì đã qua mùa lũ), chim
vội vã (vì cái se lạnh của gió thu)
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Hai câu thơ tuyệt bút, tả cảnh ngụ tình, thể hiện tâm trạng bâng khuâng, xao xuyến trước
những chuyển biến kì diệu của thiên nhiên lúc giao mùa hạ-thu. Vừa luyến tiếc mùa hạ nồng ấm,
vừa mong ước mùa thu êm dịu.
3-Suy ngẫm của nhà thơ trước cảnh giao mùa
-Mạch cảm xúc tiếp tục dâng cao, tuy vậy đã có bề sâu của sự đối sánh và chiêm nghiệm.
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
-Hai câu thơ vừa tả thực thời tiết lúc này vừa có ý hàm ẩn về cuộc đời của mỗi con người
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi
-Mọi tác động của khách quan đối với người đứng tuổi cũng đã khác xưa. Qua thử thách, bản
lĩnh con người cứng cỏi hơn, vững vàng hơn
-Tầng sâu chính là ý nghĩa triết lý nhân sinh.
III-KB:
-Bằng sự cảm nhận tinh nhạy, bằng ngôn ngữ thơ ca giản dị và hàm súc, nhà thơ Hữu Thỉnh đã
vẽ nên bức tranh thiên nhiên mùa thu tuyệt mỹ.
-Với bài Sang thu Hữu Thỉnh đã đóng góp thêm một nét thu độc đáo vào những bài thơ mùa thu
hay và đẹp trong thơ ca tiếng Việt.
Bài Làm
I-MB:
Nếu mùa xuân là mùa hội tụ của những bàn tay nghệ sĩ tài hoa thì mùa thu bước vào thơ ca
cũng tự nhiên và gần gũi. Trước đây, Nguyễn Khuyến nổi tiếng với ba bài thơ thu “Thu điếu,
Thu vịnh, Thu ẩm”. Sau này Xuân Diệu có “Đây mùa thu tới”. Nhỏ nhẹ và khiêm nhường Hữu
Thỉnh cũng góp vào cho mùa thu đất nước một góc quê hương qua bài thơ “Sang thu” được sáng
tác vào cuối năm 1977. Nội dung thể hiện tâm trạng bâng khuâng, xao xuyến của nhà thơ trước
những chuyển biến tinh tế của đất trời và là bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp của nông thôn đồng
bằng Bắc bộ lúc giao mùa từ hạ sang thu.
II-TB:
Xưa nay, mùa thu vẫn luôn là mùa nhạy cảm nhất trong năm, vì thế mà mang lại cho thi nhân
nhiều cảm xúc. Mùa thu đẹp, mùa thu mơ màng và có những khoảnh khắc, mùa thu cũng thật lạ.
GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 13
Ấy là khi mùa thu như cô thiếu nữ, rụt rè nhón chân bước vào vườn trần. Ngay từ đầu, bài thơ
đã khiến người đọc cảm thấy bị thu hút bởi từ chính những cảm xúc rất thực của nhà thơ. Trong
cái mơ hồ phảng phất gió thu và lá thu đang ngả màu, là hương ổi chứ không phải bất cứ một thứ
mùi nào khác. Nhà thơ đã khiến cho người đọc như cũng đang chìm ngập trong màu sắc và mùi
vị của mùa thu, để những ai chưa từng nhận ra rằng mùa thu có thể đến trong hương ổi giờ đây
cũng có thể như đang ngửi thấy mùi hương ngọt ngào ấy. Mùa thu đến trong sự mơ hồ “cảm”
nhiều hơn “nhận”. Mặc dù nhà thơ nói rằng: Bỗng nhận ra hương ổi nhưng thực ra cái nhận có
xuất xứ từ cảm, cảm được sự chuyển động của hương sắc: Phả vào trong gió se. Hương ổi ngào
ngạt đến mức có thể phả vào trong gió se như có thể đưa tay mà nắm bắt lấy, trong cái gió rất
đặc trưng của mùa thu, se lạnh. Ta chợt băn khoăn: Hương ổi nồng nàn đến vậy mà sao giờ thi
nhân mới giật mình nhận ra? Phải chăng con người đã quá vô tình mà không cảm nhận được
bước đi của thời gian? Nhưng nếu đã vô tình thì không thể cảm nhận một cách tinh tế đến như
vậy. Có lẽ nên đi tìm câu trả lời trong cái bất ngờ về dấu hiệu của mùa thu. Sau những năm chiến
tranh, không được hưởng những mùa thu trọn vẹn, khi bước vào mùa thu hòa bình đầu tiên,
người ta bỗng trở nên bất ngờ, sửng sốt trước tất cả những cái gì thuộc về mùa thu. Và cũng có
lẽ bởi, xưa nay người ta đã quen nhìn thấy mùa thu đến trong hương cốm, trong lá vàng, trong
cúc nở…Giờ đây, phát hiện rằng mùa thu cũng có thể đến trong hương ổi nồng nàn nên cảm xúc
bất ngờ, sung sướng bật lên thành tiếng reo ngỡ ngàng, thích thú. Thu đã nhẹ nhàng những bước
đi đầu tiên vào cảnh vật, vào trong lòng người trong những vần thơ đầy ngỡ ngàng, nó khiến
người ta không thể không tiếp tục dõi theo những bước chân ấy để cảm nhận mùa thu.
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Giật mình trước hương ổi, thi nhân ngỡ ngàng nhìn ra xung quanh. Thu đã đến thật rồi! Đến
không hề báo trước để người ta phải giật mình thích thú “Sương chùng chình qua ngõ” nửa như
muốn đi, nửa lại như muốn dùng dằng ở lại. Rõ ràng Hữu Thỉnh đang nhẹ nhàng dẫn dắt người
đọc đến với từng đường nét của mùa thu nhưng với từ “hình như” làm như tất cả những cảm
nhận trước đó đột nhiên trở nên mơ hồ. Là hương ổi, là gió se, là sương chùng chình của mùa thu
đấy. Nhưng có lẽ nhà thơ đang quá vui mừng, quá sững sờ trước những cảm nhận mới mẻ, khác
lạ, đặc biệt của mùa thu mà vẫn còn chưa dám tin rằng thu đã sang. Điều kì lạ thú vị là đến đây
người đọc cũng đột nhiên mang trong mình thứ cảm giác mơ hồ đáng yêu như vậy.
Và sang thu! Sự vật trong khoảnh khắc giao mùa ấy cũng mang một nét duyên riêng thật lạ:
Sông được lúc ……
…………………..vội vã
Mùa thu, dòng sông dường như trở nên nhẹ nhàng, êm dịu hơn. Sông như biến thành một
con người có tâm hồn nhạy cảm, cảm nhận được khí thu đang bao trùm lên vạn vật mà tự cho
mình được lúc dềnh dàng, nán lại chưa muốn chảy, để được tự mình chứng kiến những bước
chân nhẹ nhàng của thu sang. Và cánh chim, không phải là vội vã mà bắt đầu vội vã. Nếu như
vội vã thì đã là bước sang hẳn mùa thu, chuẩn bị bước sang mùa đông, đàn chim chuẩn bị bay về
phương Nam ấm áp tránh rét. Còn ở đây mới sang thu nên sự vội vã mới chỉ bắt đầu. Thiên
nhiên vẫn luôn là những sự vật nhạy cảm nhất với khoảnh khắc giao mùa. Và nhà thơ đã nắm bắt
được cái khoảnh khắc vội vã ấy của cánh chim và cảm nhận mùa thu đến từ chính trong cái vội
vã ấy.
Mùa hạ chuyển giao cây “quyền trượng” cho mùa thu nhưng vẫn không quên để lại một chút
dấu ấn của mình. Hữu Thỉnh không tả trời thu “xanh ngắt mấy tầng cao” như Nguyễn Khuyến
mà chỉ điểm vào bức tranh thu một chút mây vương lại của mùa hè vừa qua.
Có đám mây ……………sang thu
Hữu Thỉnh nói rằng: Khi tôi viết bài thơ này tôi đã liên tưởng đến những đám mây mùa hạ. Đó
là những đám mây tràn trọn vẹn vào mùa thu. Mặc dù cũng theo nhà thơ, đằng sau hình ảnh ấy
còn ẩn chứa biết bao ý tưởng về khát khao ước vọng của tuổi trẻ, của con người trong cuộc đời
GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 14
nhưng không thể phủ nhận rằng nó vẫn tạo ra một nét vẽ thật đẹp cho bức tranh cảnh vật. Cái tư
thế vắt nửa mình như có gì lưu luyến. Nó đã giao hòa ở trong một khoảnh khắc thời điểm giữa
mùa hạ sang mùa thu, thời điểm mà không phải ai cũng có thể cảm và thể hiện ra được. Nắng
cuối hạ vẫn còn nhưng bớt nồng nàn rực rỡ và những cơn mưa rào ào ạt cũng đã thưa dần
Vẫn còn …………………………….cơn mưa
Đâu chỉ có đám mây mùa hạ còn lưu luyến mà đó còn là nắng. Còn bao nhiêu nắng bởi hạ
vẫn còn lưu luyến với đất trời trước khi chuyển giao sang mùa thu. Nhà thơ thể hiện cảm xúc
của mình rất thành công bằng những từ ngữ diễn tả cảm giác, trạng thái: bỗng, phả vào, chùng
chình, hình như, dềnh dàng, vắt nửa mình … cả bài thơ là bức tranh thiên nhiên tuyệt mỹ của trời
đất lúc vào thu được tác giả vẽ nên bằng sự rung động của trái tim nghệ sĩ. Chính điều đó khiến
cho mỗi từ ngữ, hình ảnh đều phập phồng sự sống. Ba khổ thơ, mười hai câu thơ, câu nào cũng
đẹp, cũng hay nhưng nét riêng của thời điểm giao mùa hạ - thu được Hữu Thỉnh thể hiện tập
trung nhất ở hai câu thơ cuối bài:
Sấm ……………….tuổi
Đến đây ta lại bắt gặp những phát hiện hết sức tinh tế của Hữu Thỉnh. Dấu hiệu của mùa thu
được cảm nhận ở từng chi tiết, ngay cả sự thay đổi của sắc lá hàng cây. “Hàng cây đứng tuổi”
bởi nó đã vượt qua cái xanh tươi, mơn mởn của mùa xuân, mùa hạ, giờ đây đang thay đổi tấm áo
mà mình đang mặc để trở thành đứng tuổi…
Hai câu thơ này có hai tầng nghĩa. Tầng nghĩa thứ nhất tả thực hiện tượng sấm chớp và hình
ảnh hàng cây trong cơn mưa cuối hạ. Tầng nghĩa thứ hai là nghĩa hàm ngôn thông qua hình ảnh
có tính chất ẩn dụ nghệ thuật. Sấm là những vang động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời.
Hàng cây đứng tuổi ngụ ý chỉ con người đã từng trải. Lúc sang thu, tiếng sấm dữ dội và bất ngờ
của những cơn dông mùa hạ đã bớt đi, hàng cây không còn bị giật mình, run rẩy vì tiếng sấm.
Nhà thơ Hữu Thỉnh tâm sự rằng với những hình ảnh có giá trị tả thực về hiện tượng thiên nhiên
này, ông muốn gửi gắm suy ngẫm của mình: khi con người đã từng trải thì bản lĩnh cũng vững
vàng hơn trước những thử thách của cuộc đời.
Bài thơ kết thúc nhưng khoảnh khắc sang thu đã ngập tràn khắp không gian, tràn vào lòng
người và để trong lòng họ những ấn tượng sâu sắc và cũng rất riêng. Người đọc như dõi theo
từng bước chân của mùa thu, hòa mình vào trong hương ổi, trong cái chùng chình của sương, cái
dềnh dàng của sông, cái vội vã của thu, cái mềm mại của dải mây mùa hạ vắt sang thu. Không
chỉ là đọc, đó còn là sự căng mở của tất cả các giác quan theo bước chân của mùa thu, đón nhận
mùa thu với tất cả sự ngỡ ngàng, hào hứng, vui thích. Có thể nói bài thơ không chỉ lôi cuốn
người đọc mà nó còn khiến cho con người ta hòa mình vào trong cảm xúc ấy một cách trọn vẹn.
III-KB:
Bài thơ đã khiến cho người ta không thể dừng lại ở nó một lần. Bằng cảm nhận tinh tế và
cách dùng từ tự nhiên chân thật cùng nghệ thuật ẩn dụ, nhân hóa tài tình và một giọng thơ vừa có
thoáng ngỡ ngàng vừa vui sướng. Hữu Thỉnh đã đưa ta về một miền quê dân dã mà ấm áp tình
người. “Sang thu” một hình ảnh quê hương tự nó đã tôn thêm vẻ đẹp cho đất nước, cho quê nhà,
cho đồng quê trong mùa thu chung của cả đất trời Việt Nam.

Đề 8: Phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải
Dàn ý:
I-MB:
-Giới thiệu sơ lược về tác giả-tác phẩm, nêu nhận định khái quát về nội dung bài thơ: Thanh Hải
(1930-1980). Quê Thừa Thiên Huế là nhà thơ tiêu biểu của nền văn chương cách mạng miền
Nam thời kì chống Mĩ cứu nước.

GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 15
Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ, sáng tác năm 1980, in trong tập Mùa xuân đất này. Tác phẩm
được đánh giá là bài thơ hay, phản ánh cái nhìn lạc quan tin tưởng của tác giả đối với đất nước
và con người VN trong giai đoạn lịch sử mới.
II-TB:
1-Mùa xuân và cảm hứng của nhà thơ:
-Cảnh đẹp thiên nhiên: Mùa xuân của đất trời (hoa nở, chim hót) đơn sơ mà đẹp, phơi phới sức
xuân.
-Cảm xúc nhà thơ: say mê yêu mến và trân trọng lặng ngắm hoa nở, lắng nghe chim hót, hòa tâm
hồn vào với cảnh vật xung quanh.
2-Mùa xuân của con người và đất nước.
-Con người: Nhà thơ dựa trên đặc điểm của lịch sử dựng nước và giữ nước, chọn ra hai hình ảnh
tiêu biểu cho dân tộc là người lính cầm súng và người nông dân.
+Lộc mùa xuân: giắt đầy quanh lưng, trải dài nương mạ. Lộc (chồi non) tượng trưng cho mùa
xuân, sức sống mạnh mẽ, khí thế đi lên.
+Điệp từ tất cả kết hợp với nhịp thơ nhanh tạo âm hưởng vui tươi nhấn mạnh không khí tưng
bừng của mùa xuân và niềm vui rạo rực lòng người.
-Đất nước: được phản ánh qua dòng suy tưởng của nhà thơ. Cảm xúc của nhà thơ khi nghĩ về đất
nước: vui, tin tưởng, kiêu hãnh.
+Hình ảnh so sánh: Đất nước như vì sao – cứ đi lên phía trước. Mang ý nghĩa tượng trưng: đất
nước VN với lịch sử hào hùng đang tiến lên trên con đường XDXH mới với khí thế sôi động,
mạnh mẽ của mùa xuân. Từ “cứ” khẳng định tinh thần vượt khó và quyết tâm của toàn dân tộc.
3-Lời ước nguyện của nhà thơ trước mùa xuân và đất nước.
-Một ước nguyện khiêm nhường nhưng rất đáng quý: được làm con chim hót, làm một cành hoa,
một nốt nhạc trầm xao xuyến để hòa chung vào bản giao hưởng lớn của mùa xuân cuộc đời.
-Cuộc đời của nhà thơ là một mùa xuân nho nhỏ, góp phần tạo nên mùa xuân to lớn của thiên
nhiên và đất nước. Thái độ tự nguyện hiến dâng: dù là tuổi hai mươi –dù là khi tóc bạc, là biểu
hiện của phong cách sống rất tốt đẹp “Mình vì mọi người”.
-Năm câu thơ cuối: mang âm hưởng ngọt ngào của các làn điệu dân ca Huế. Câu thơ thứ 3 và 4
được lặp đi lặp lại: Nước non ngàn dặm mình – Nước non ngàn dặm tình (chỉ thay một từ) như
tiếng hát thiết tha, say mê của trái tim giàu cảm xúc của nhà thơ. Nhịp phách tiền rộn rã là nhịp
điệu náo nức, rộn ràng của mùa xuân đất nước.
III-KB:
-Bài thơ mang tựa đề thật khiêm tốn “Mùa xuân nho nhỏ” nhưng ý nghĩa lại sâu sắc, lớn lao.

Đề 9: Phân tích hai đoạn thơ trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải:
“Ta làm con chim hót
……………………
Dù là khi tóc bạc”
Dàn ý:
I-MB:
GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 16
-Giới thiệu tác giả -tác phẩm –khổ 4 và 5 của bài thơ:
VD: Trong công cuộc xây dựng XH mới đòi hỏi những con người mới biết cống hiến, biết hi
sinh. Nhà thơ Thanh Hải, một nhà thơ cách mạng đã thấm nhuần quan điểm trên. Bài thơ Mùa
xuân nho nhỏ đã thay ông nói lên niềm tâm sự khát vọng được cống hiến cho mùa xuân của đất
nước. Chỉ với hai khổ thơ tác giả nêu bật được niềm khát vọng thiết tha, cháy bỏng của mình.
“Ta làm con chim hót
……………………
Dù là khi tóc bạc”
II-TB:
-Khái quát ý của khổ 1,2,3
+Trong sức xuân mạnh mẽ của đất trời, trong khí thế bừng bừng sức sống của đất nước vào
xuân, tác giả đã cảm nhận được một mùa xuân trỗi dậy tự đáy tâm hồn mình. Đó là mùa xuân
của lòng người, mùa xuân của sức sống tươi trẻ, mùa xuân của cống hiến và hi sinh.
-Tập trung thể hiện, làm nổi bật ước muốn cống hiến mùa xuân nho nhỏ của mình cho mùa xuân
của dân tộc.
+Tác giả không mơ một giấc mơ vĩ đại, chẳng tưởng một viễn cảnh kì lạ, mà tâm hồn của tác giả
nguyện những ước mơ đơn sơ mà bình dị.
Ta là con chim hót
………………….
Một nốt trầm xao xuyến
+Tác giả mơ được hi sinh, được cống hiến. Tác giả mơ ước nhưng lại nguyện làm “con chim”
“cành hoa”. Tác giả nguyện làm một cành hoa để góp vào vườn hoa muôn hương sắc, rộn rã
tiếng chim. Một cành hoa, một tiếng chim để tô điểm cho phong cảnh mùa xuân thêm tươi đẹp.
Đó là ước nguyện đẹp lạ thường, không cao siêu vĩ đại mà gần gũi đáng yêu.
+Tác giả nguyện sẽ cống hiến những gì đơn sơ, giản dị nhưng lại có ích cho đời.
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến
+Tâm hồn của tác giả hòa vào mùa xuân đất nước, thôi thúc từng hồi mạnh mẽ nhưng âm thầm
lặng lẽ.
Một mùa xuân nho nhỏ
……………………….
Dù là khi tóc bạc
Mùa xuân nho nhỏ trong mùa xuân lớn của đất nước. Đó là ước nguyện của tác giả, nguyện
sẽ mãi mãi được làm việc, được hi sinh, được cống hiến. Tác giả muốn góp vào mùa xuân chút
công sức nhỏ bé của mình. Đó là ý thích, là niềm tin vào cuộc sống tốt đẹp, cũng là tấm lòng
chân tình của tác giả. Tác giả không mơ ước xa xôi: “Một mùa xuân nho nhỏ”. Mùa xuân nho
nhỏ, rất nhỏ nhưng lại có ý nghĩa lớn lao. Bởi tấm lòng của tác giả luôn hướng tới sự cống hiến
tốt đẹp, bởi mùa xuân nho nhỏ sẽ vẽ lên mùa xuân lớn đất trời rộng lớn.
Mùa xuân của tác giả chẳng ồn ào náo nhiệt mà âm thầm lặng lẽ hiến dâng, chẳng phô trương,
chẳng cần ai biết đến.
Lặng lẽ dâng cho đời
+Tuổi trẻ cống hiến, tuổi già cũng âm thầm cống hiến
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc
+Ý thức về trách nhiệm với quê hương, đất nước, khát vọng được sống, được cống hiến trở thành
một ý thức bất diệt trong tâm hồn của tác giả. Tác giả sẽ sống và cống hiến. Còn sống còn cống
hiến. Lời thơ nhỏ nhẹ chân tình.
+Chú ý các biện pháp tu từ: điệp ngữ, hoán dụ, khai thác ý nghĩa từ “dâng”, đại từ “ta” nhịp điệu
thiết tha, sâu lắng.
GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 17
III-KB:
-Khẳng định lối sống đẹp “mình vì mọi người” của nhà thơ.
-Liên hệ bản thân.

Đề 10: Vẻ đẹp của nhân vật anh thanh niên trong truyện “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành
Long.
Dàn ý:
I-MB: Giới thiệu tác giả- hoàn cảnh ra đời của tác phẩm:
-Nguyễn Thành Long là một nhà văn chuyên viết truyện ngắn và bút kí. Truyện ngắn Lặng lẽ Sa
Pa được viết vào mùa hè năm 1970 nhân chuyến đi thực tế lên Lào Cai của tác giả.
-Giới thiệu đặc điểm nhân vật cần phân tích: Là một người trẻ tuổi biết ý thức sâu sắc công việc
của mình. Có những nét cao quý đáng khâm phục.
II-TB:
Luận điểm 1: Anh thanh niên đẹp ở tấm lòng yêu đời, yêu nghề có tinh thần trách nhiệm cao với
công việc:
*Giới thiệu chung về nhân vật:
-Một anh thanh niên 27 tuổi, sống một mình trên đỉnh Yên Sơn cao 2600 m, làm công tác khí
tượng kiêm vật lý địa cầu. Công việc của anh là đo gió, đo mưa, tính mây, đo chấn động mặt
đất…góp phần vào việc dự báo thời tiết phục vụ sản xuất và chiến đấu
*Sống hồn nhiên, say mê công việc: Công việc đòi hỏi sự tỉ mỉ chính xác cao, thực hiện thời gian
biểu đúng giờ, gian khổ nhất là lúc một giờ sáng
-Công việc gian khổ nhưng anh rất yêu công việc của mình “Khi ta làm việc, ta với công việc là
đôi sao gọi là một mình được? Huống chi công việc của cháu gắn liền với bao anh em đồng chí
dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy chứ cất nó đi cháu buồn đến chết mất”
*Thích học tập nghiên cứu tự tạo cho mình cuộc sống đẹp: Gửi bác tài xế mua hộ sách. Nhà anh
có thư viện nhỏ “một giá sách” “Lúc nào cũng có người trò chuyện. Nghĩa là có sách ấy mà. Mỗi
người viết một vẻ”
-Ngăn nắp, chủ động trong cuộc sống: trồng hoa, nuôi gà. Sắp xếp nhà cửa gọn gàng.
Luận điểm 2: Sống giàu tình cảm, biết quan tâm, chu đáo với người khác:
-Rất muốn gặp người dưới xuôi lên nên đẩy khúc gỗ ra đường để chắn xe lại
-Tặng vợ bác lái xe củ tam thất để ngâm rượu, mời mọi người lên nhà chơi, hái hoa tặng cô kỹ
sư, pha trà mời mọi người, khi chia tay tặng làn trứng để ăn đường
Luận điểm 3: Khiêm tốn
-Tuy có những đóng góp đáng kể nhưng không tự cao mà cho là những đóng góp của mình là
bình thường nhỏ bé
-Khi ông họa sĩ vẽ mình khiêm tốn giới thiệu người khác đáng vẽ hơn (ông kĩ sư ở vườn rau su
hào dưới Sa Pa, anh cán bộ nghiên cứu bản đồ sét) anh không muốn họa sĩ vẽ mình.
-Dù còn trẻ tuổi nhưng anh đã thấm thía cái nghĩa cái tình của mảnh đất Sa Pa.
Tóm lại, anh là một hình tượng đẹp của người thanh niên trí thức: Âm thầm lặng lẽ làm việc
mong đem hết sức mình để phục vụ đất nước.
III-Kết bài:
-Cốt truyện nhẹ nhàng, chi tiết chân thực tinh tế, bằng ngôn ngữ đối thoại sinh động.
-Anh thanh niên làm công tác khí tượng trong truyện LLSP, tuy sống một mình nhưng không hề
cô độc. Vẻ đẹp rực rỡ của tâm hồn anh làm cho anh bao giờ cũng có những người thân và bạn bè
mới . . . cuộc đời anh thật đáng sống và con người anh thật vô cùng đẹp đẽ.. Anh thanh niên hình
tượng tiêu biểu cho thế hệ trẻ VN cống hiến hết sức mình cho đất nước.
-Nêu suy nghĩ liên hệ bản thân: Mỗi chúng ta cần phải sống đẹp như thế

GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 18
Đề 11: Cảm nhận của em về những cô gái Trường Sơn trong “Những ngôi sao xa xôi” của Lê
Minh Khuê
Dàn ý:
I-MB:
-Giới thiệu về tác giả -tác phẩm:
+Lê Minh Khuê thuộc thế hệ nhà văn trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
+Những tác phẩm của chị viết về cuộc sống chiến đấu dũng cảm và hi sinh thầm lặng của lực
lượng thanh niên xung phong Trường Sơn đã gây được sự chú ý và tình cảm yêu mến của bạn
đọc.
+Truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi phản ánh chân thực tâm hồn trong sáng, mơ mộng cùng
tinh thần lạc quan cách mạng của những cô gái mở đường Trường Sơn giữa trọng điểm ném bom
ác liệt của máy bay Mỹ.
II-TB:
1-Tóm tắt nội dung:
-Ba nữ thanh niên xung phong làm thành tổ trinh sát mặt đường (Thao, Định, Nho). Nhiệm vụ
của họ là quan sát máy bay địch ném bom. Đánh dấu và phá bom nổ chậm, ước chừng số lượng
đất đá để lấp hố bom …công việc hết sức nguy hiểm vì phải đối mặt với cái chết, nhưng họ vẫn
sống hồn nhiên, thanh thản và lạc quan, đúng như tuổi trẻ đáng yêu của họ.
2-Cảm nhận về ba cô gái
a-Nhiệm vụ nặng nề:
-Ba cô gái sống và chiến đấu trên một cao điểm, giữa vùng trọng điểm tập trung bom đạn của
giặc Mỹ bắn phá tuyến đường ra mặt trận.
-Ban ngày, họ phải phơi mình dưới tầm đánh phá của máy bay. Sau mỗi trận bom, họ phải lao
ngay ra trọng điểm để làm nhiệm vụ.
-Họ phải mạo hiểm với cái chết, thần kinh luôn căng thẳng, đòi hỏi sự bình tĩnh, sáng suốt và
dũng cảm.
-Với ba cô gái, công việc nguy hiểm ấy đã thành chuyện bình thường hằng ngày.
b- Đời sống tâm hồn phong phú, đáng yêu.
-Cả ba cô gái đều là người Hà Nội, tính cách mỗi người mỗi khác nhưng họ có chung những
phẩm chất tốt đẹp của thanh niên xung phong tiền tuyến: dũng cảm tuyệt vời, không sợ gian khổ,
hi sinh, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ.(đưa dẫn chứng và nêu cảm nhận về những chi tiết đó)
-Đoàn kết, gắn bó trong tình đồng đội: dễ xúc động, hay mơ mộng, thích làm đẹp cho cuộc sống
của mình, dù là giữa bom đạn (đưa dẫn chứng và nêu cảm nhận về những chi tiết đó)
-Nhân vật Phương Định là cô gái trẻ trung, xinh đẹp …. tập trung những nét đáng yêu, đáng yêu,
đáng khâm phục của lực lượng nữ thanh niên xung phong.
- Phương Định, con gái Hà Nội hai bím tóc dày, tương đối mềm, một cái cổ cao, kiêu hãnh như
đài hoa loa kèn. Đôi mắt cô được các anh lái xe bảo là có cái nhìn sao mà xa xăm. Nhiều pháo
thủ và lái xe hay "hỏi thăm" hoặc "viết những bức thư dài gửi đường dây" cho Định. Cô có vẻ
kiêu kì, làm "điệu" khi tiếp xúc với một anh bộ đội nói giỏi nào đấy, nhưng trong suy nghĩ của cô
thì những người đẹp nhất, thông minh, can đảm và cao thượng nhất là những người mặc quân
phục, có ngôi sao trên mũ.
- Phương Định là một cô gái rất hồn nhiên, yêu đời, giàu cá tính. Thuở nhỏ đã hay hát. Cô có thể
ngồi lên thành cửa sổ căn phòng nhỏ bé nhà mình hát say sưa ầm ĩ. Bàn học lúc nào cũng bày
bừa bãi lên, để đến nỗi mẹ phải mắng. Sống trong cảnh bom đạn ác liệt, cái chết kề bên, Định lại
càng hay hát. Những bài hành khúc, những điệu dân ca quan họ, bài Ca-chiu-sa của Hồng quân
Liên Xô, bài dân ca ý...Định còn bịa ra lời những bài hát, Định hát trong những khoảng khắc im
lặng, hát để động viên Nho, chị Thao và động viên mình. Hát khi máy bay rít, bom nổ. Đúng là
GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 19
tiếng hát át tiếng bom của những người con gái trong tổ trinh sát mặt đường, những con người
khao khát làm nên những sự tích anh hùng.
- Trong kháng chiến chống Mĩ, tiền tuyến vẫy gọi, hàng vạn cô gái mang chí khí Bà Trưng, Bà
Triệu xung phong ra tiền tuyến trong đó có những người như chị Thao, Nho, Phương Định. Con
đường Trường Sơn huyền thoại được làm nên bằng xương máu, mồ hôi và bao sự tích phi
thường của những người con gái Việt Nam anh hùng. . Phương Định cùng Nho, chị Thao đã
sáng ngời trong khói bom lửa đạn. Chiến công thầm lặng của họ bất tử với năm tháng và lòng
người.
- Những cô gái TNXP xinh đẹp, dũng cảm trong lửa đạn, giàu tình yêu thương đồng đội, trong
sáng, mộng mơ, thích làm duyên như cô thôn nữ ngày xưa soi mình xuống giếng làng vừa mỉm
cười vừa vuốt tóc. Họ có mặt trên những trọng điểm của con đường Trường Sơn chiến lược và
trái tim rực đỏ của họ của những người con gái Việt Nam anh hùng là những ngôi sao xa xôi mãi
mãi lung linh, toả sáng.
III- Kết bài.
- "Những ngôi sao xa xôi" của Lê Minh Khuê đã làm sống lại trong lòng ta hình ảnh tuyệt đẹp về
những chiến công phi thường của tổ trinh sát mặt đường, của Nho, Định, Thao, của hàng vạn cô
thanh niên xung phong thời đánh Mĩ. Chiến công thầm lặng của Phương Định và đồng đội là bài
ca anh hùng.
- Đọc "Những ngôi sao xa xôi"ta như được sống lại những năm tháng hào hùng của đất nước.
Những Phương Định gần xa vẫn toả sáng hồn ta với bao ngưỡng mộ.

Đề 12: Cảm nhận của em về nhân vật Phương Định trong truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi”
của Lê Minh Khuê.
Dàn ý:
I-MB:
- Giới thiệu những nét chính về tác giả Lê Minh Khuê, truyện ngắn "Những ngôi sao xa xôi" và
ba nhân vật trong truyện.
GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 20
- Cả ba cô, cô nào cũng đáng mến, đáng cảm phục. Nhưng Phương Định là cô gái để lại nhiều ấn
tượng sâu sắc trong lòng ta.
II-TB:
1-Tóm tắt cốt truyện:
-Ba nữ thanh niên xung phong làm thành tổ trinh sát mặt đường (Thao, Định, Nho). Nhiệm vụ
của họ là quan sát máy bay địch ném bom. Đánh dấu và phá bom nổ chậm, ước chừng số lượng
đất đá để lấp hố bom …công việc hết sức nguy hiểm vì phải đối mặt với cái chết, nhưng họ vẫn
sống hồn nhiên, thanh thản và lạc quan, đúng như tuổi trẻ đáng yêu của họ.
2-Cảm nhận về nhân vật Phương Định
- Phương Định, con gái Hà Nội hai bím tóc dày, tương đối mềm, một cái cổ cao, kiêu hãnh như
đài hoa loa kèn. Đôi mắt cô được các anh lái xe bảo là có cái nhìn sao mà xa xăm. Nhiều pháo
thủ và lái xe hay "hỏi thăm" hoặc "viết những bức thư dài gửi đường dây" cho Định. Cô có vẻ
kiêu kì, làm "điệu" khi tiếp xúc với một anh bộ đội nói giỏi nào đấy, nhưng trong suy nghĩ của cô
thì những người đẹp nhất, thông minh, can đảm và cao thượng nhất là những người mặc quân
phục, có ngôi sao trên mũ.
- Phương Định là một cô gái rất hồn nhiên, yêu đời, giàu cá tính. Thuở nhỏ đã hay hát. Cô có thể
ngồi lên thành cửa sổ căn phòng nhỏ bé nhà mình hát say sưa ầm ĩ. Bàn học lúc nào cũng bày
bừa bãi lên, để đến nỗi mẹ phải mắng. Sống trong cảnh bom đạn ác liệt, cái chết kề bên, Định lại
càng hay hát. Những bài hành khúc, những điệu dân ca quan họ, bài Ca-chiu-sa của Hồng quân
Liên Xô, bài dân ca ý...Định còn bịa ra lời những bài hát, Định hát trong những khoảng khắc im
lặng, hát để động viên Nho, chị Thao và động viên mình. Hát khi máy bay rít, bom nổ. Đúng là
tiếng hát át tiếng bom của những người con gái trong tổ trinh sát mặt đường, những con người
khao khát làm nên những sự tích anh hùng.
- Trong kháng chiến chống Mĩ, tiền tuyến vẫy gọi, hàng vạn cô gái mang chí khí Bà Trưng, Bà
Triệu xung phong ra tiền tuyến trong đó có Phương Định. Con đường Trường Sơn huyền thoại
được làm nên bằng xương máu, mồ hôi và bao sự tích phi thường của những người con gái Việt
Nam anh hùng.
- Những ngôi sao xa xôi tái hiện chân thực diễn biến tâm lí Phương Định trong một lần phá bom
nổ chậm. Cô dũng cảm, bình tĩnh tiến đến gần quả bom đàng hoàng mà bước tới. Định dùng lưỡi
xẻng đào đất, có lúc lưỡi xẻng chạm vào quả bom, có lúc Định rùng mình vì cảm thấy tại sao
mình làm chậm thế! Rồi bom nổ váng óc, đất rơi lộp bộp, mắt cay mãi mới mở
được, cát lạo xạo trong miệng. Đó là cuộc sống thường nhật của họ. Phương Định cho biết “Tôi
có nghĩ đến cái chết. Nhưng đó là một cái chết mờ nhạt không cụ thể” . Phương Định cùng Nho,
chị Thao đã sáng ngời trong khói bom lửa đạn. Chiến công thầm lặng của họ bất tử với năm
tháng và lòng người.
- Phương Định cô gái Hà Nội xinh đẹp, dũng cảm trong lửa đạn, giàu tình yêu thương đồng đội,
trong sáng, mộng mơ, thích làm duyên như cô thôn nữ ngày xưa soi mình xuống giếng làng vừa
mỉm cười vừa vuốt tóc. Họ có mặt trên những trọng điểm của con đường Trường Sơn chiến lược
và trái tim rực đỏ của họ của những người con gái Việt Nam anh hùng là những ngôi sao xa xôi
mãi mãi lung linh, toả sáng.
III- Kết bài.
- "Những ngôi sao xa xôi" của Lê Minh Khuê đã làm sống lại trong lòng ta hình ảnh tuyệt đẹp về
những chiến công phi thường của tổ trinh sát mặt đường, của Nho, Định, Thao, của hàng vạn cô
thanh niên xung phong thời đánh Mĩ. Chiến công thầm lặng của Phương Định và đồng đội là bài
ca anh hùng.
- Đọc "Những ngôi sao xa xôi"ta như được sống lại những năm tháng hào hùng của đất nước.
Những Phương Định gần xa vẫn toả sáng hồn ta với bao ngưỡng mộ.

GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 21
Đề 13: Em cảm nhận được người cha nói những gì với con qua bài thơ “Nói với con” của Y
Phương
I-MB:
-Giới thiệu vài nét về tác giả-tác phẩm:
+Y Phương tên thật là Hứa Vĩnh Sước, nhà thơ dân tộc Tày, quê ở huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao
Bằng.
+Thơ Y Phương đậm đà bản sắc dân tộc, phản ánh đời sống tinh thần phong phú của đồng bào
vùng cao Việt Bắc.
+Bài thơ Nói với con thể hiện tình yêu thương và ước nguyện tha thiết của các bậc cha mẹ, mong
các con nối tiếp xứng đáng và phát huy truyền thống tốt đẹp của quê hương.
II-TB:
1-Con lớn lên trong tình yêu thương, nâng đỡ của cha mẹ, trong cuộc sống cần lao của quê
hương:
-Tình yêu thương của cha mẹ đối với con cái là sâu sắc và vô hạn, thể hiện qua hình ảnh giản dị
và cách diễn đạt mộc mạc.
Chân phải bước tới cha
………………………
Hai bước tới tiếng cười
-Đây là hình ảnh của một gia đình đầm ấm, hạnh phúc.
-Thiên nhiên đẹp đẽ, cuộc sống cần lao của con người quê hương góp phần tạo nên đời sống tinh
thần phong phú cho con, nươi dưỡng nên vóc nên hình
Rừng cho hoa
………………
Vách nhà ken câu hát
2-Ước nguyện tha thiết của người cha đối với con.
-Mong con chung thủy với quê hương, chấp nhận và vượt qua mọi gian nan thử thách bằng ý chí
và niềm tin vững chắc.
Dẫu làm sao thì cha vẫn ……….cực nhọc
-Mong con sống xứng đáng với truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Người đồng mình thô sơ da thịt…………quê hương
III-KB:
-Bài thơ đã thể hiện được điều tâm huyết nhất mà người cha muốn nói với con. Đó chính là lòng
tự hào với sức sống bền bỉ, mạnh mẽ, với truyền thống tốt đẹp của dân tộc, quê hương và niềm
tin vững chắc khi bước vào đời.
-Qua bài thơ Nói với con, người đọc rung động trước tình cảm cha con thắm thiết và tình yêu quê
hương sâu nặng của nhà thơ.

Đề 14: Phân tích tình yêu làng, yêu nước của nhân vật ông Hai trong tác phẩm “Làng” của Kim
Lân.
Dàn ý:
I-MB:

GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 22
-Giới thiệu tác giả Kim Lân, hoàn cảnh ra đời của truyện ngắn Làng. Nêu nhận định sơ bộ về
nhân vật ông Hai –người đại diện cho người nông dân trong kháng chiến.
II-TB:
1-Tình yêu làng quê gắn bó với tình yêu nước và tinh thần chiến đấu chống xâm lăng.
a- Tình cảm của ông Hai với làng Chợ Dầu trước CM/8: Ông kể về làng Chợ Dầu với giọng say
mê náo nức lạ thường. Ông khoe làng ông có “nhà ngói . . .như tỉnh” ông khoe làng ông có “con
đường . . .thượng hạng”. Ông khoe cả cái sinh phần của viên tổng đốc làng ông “Ôi có lăm lắm
là của” .
b-Tình yêu làng của ông Hai sau CM có sự chuyển biến rõ rệt: ông tự hào về phong trào cách
mạng sôi nổi . . .
-CM và cuộc K/C chống Pháp đã khơi dậy ở ông Hai, ở những người nông dân tình cảm yêu
nước hòa nhập thống nhất trong tình yêu làng quê thành một thứ tình cảm cao cả rộng lớn nhất.
+Tg đặt NV vào một tình huống để bộc lộ sâu sắc tình cảm yêu làng, yêu nước của ông. Đó
chính là ông nghe được tin làng Chợ Dầu là Việt gian theo tây từ miệng những người tản cư từ
dưới xuôi lên: đưa lý lẽ + dẫn chứng để làm rõ
-Lòng yêu nước của ông Hai còn được biểu hiện rõ hơn khi nghe tin làng cải chính. Ông đi khoe
với mọi người “Tây nó đốt . . . .”nhà bị giặc đốt nhưng ông Hai không buồn tiếc vì đó là bằng
chứng về lòng trung thành với cách mạng và với kháng chiến của ông. Đây là tình cảm đặc biệt
của ông Hai, tình cảm chung của những người nông dân,của nhân dân ta thời bấy giờ trong cuộc
k/c chống Pháp. Đối với họ lúc này tổ quốc là trên hết. Vì tổ quốc họ sẵn sàng hy sinh cả tính
mạng, tài sản.
III-KB:
-Khái quát lại giá trị nội dung – nghệ thuật của tác phẩm.

Đề 15: Suy nghĩ về tình cha con trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng.
Dàn ý:
I-MB:

GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 23
-Giới thiệu tác phẩm “Chiếc lược ngà” một truyện ngắn của Nguyễn Quang sáng. Viết vào năm
1966-chiến trường miền Nam hết sức khốc liệt
-Tình cha con sâu nặng của anh Sáu trong chiến tranh không gì có thể ngăn cách được.
II-TB:
1-Nhân vật bé Thu:
-Thái độ và tình cảm của bé Thu trong ngày đầu: không nhận anh sáu là ba “Nghe gọi con bé giật
mình tròn mắt nhìn….Má!Má!”
-Thái độ và tình cảm của bé Thu trong ngày tiếp theo: tiếp tục không nhận anh Sáu là ba “con
kêu rồi mà người ta không nghe” “Cơm sôi rồi chắt nước giùm cái …” “Trong bữa cơm anh sáu
gắp một cái trứng cá to, vàng ươm để vào chén nó, nó liến lấy đũa soi vào chén để rồi bất thần
hất cái trứng cá ra, cơm văng tung tóe..”
-Thái độ và hành động của Thu trong buổi chia tay: tình cha con cảm động “Nhưng thật lạ lùng
đến lúc ấy, tình cha con bỗng nổi dậy trong con người nó, trong lúc không ai ngờ đến thì nó bỗng
kêu thét lên Ba ..a…a ..ba !”
2- Nhân vật ông Sáu:
a-Trong đợt nghỉ phép:
-Đầu tiên là sự hụt hẫng, buồn khi thấy đứa con sợ hãi và bỏ chạy.
-Tiếp theo là kiên nhẫn cảm hóa, vỗ về đứa con nhận cha
-Đến lúc chia tay có cảm nhận bất lực và buồn. Khi đứa con thét lên tiếng “Ba” thì hạnh phúc tột
đỉnh.
b-Những ngày ở chiến khu:
-Say sưa tỉ mẩn làm chiếc lược ngà trên có khắc dòng chữ “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”
-Trước khi trút hơi thở cuối cùng: trao chiếc lược ngà cho người bạn chiến đấu nhờ đưa lại cho
con “ Hình như thể có tình cha con là không thể chết được” trong trái tim của nhân vật anh Sáu.
3-Đánh giá:
“Phụ tử tình thâm” vốn là một nét đẹp văn hóa trong đời sống tinh thần của người phương Đông
nói chung, người VN nói riêng. Người ta cho rằng đó là một thứ tình cảm thiêng liêng, nó
thường vô thức vừa là ý thức và thường ít khi bộc lộ ra một cách ồn ào, lộ liễu. Tuy nhiên trong
đoạn trích “CLN” tác giả đã xây dựng một tình huống truyện độc đáo chỉ có trong chiến tranh và
nhờ có tình huống này mà tình phụ tử đã được nén chặt để sau đó bùng nổ thành một cảm xúc
nhân văn sâu sắc, cảm động. Nói cách khác tg đã tô đậm và ngợi ca tình phụ tử như một lẽ sống
mà vì nó con người có thể bình thản hi sinh cho lí tưởng.
III-Kết bài:
-Nhân vật sinh động, nhất là các biện thái tình cảm và hành động của nhân vật bé Thu . Ngôn
ngữ giản dị mang màu sắc Nam Bộ
- Tình cảm gia đình là một trong những tình cảm sâu đậm nhất, nhất là tình phụ tử, nó lại càng
được khẳng định hơn trong chiến tranh –chúng ta hãy trân trọng gìn giữ những cái mà chúng ta
đang có.

Đề 16 : Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ: “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải để thấy được
tâm hồn tha thiết của nhà thơ tràn ngập niềm cảm xúc trước mùa xuân của thiên nhiên, của đất
trời:
GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 24
Mọc giữa dòng sông xanh Mùa xuân người cầm súng
Một bông hoa tím biếc Lộc giắt đầy trên lưng
Ơi! Con chim chiền chiền Mùa xuân người ra đồng
Hót chi mà vang trời Lộc trải dài nương mạ
Từng giọt long lanh rơi Tất cả như hối hả
Tôi đưa tay tôi hứng Tất cả như xôn xao
Dàn ý
I-MB:
-Giới thiệu tác giả -tác phẩm –khổ thơ 1-2:
Thanh Hải là tác giả của lời ca, bài thơ cùng tên đã một thời được nhiều người yêu mến với
những bài thơ nổi tiếng như: “Mồ anh hoa nở” “Những đồng chí trung kiên”. Bệnh tật ác nghiệt
đã cướp đi cuộc sống của ông, nhưng cả những khi nằm trên giường bệnh ông đã để lại cho đời
một số bài thơ rất dễ thương, trong đó có bài: “MXNN”. Với thể thơ năm chữ, bài thơ đã có
nhiều đoạn giản dị chân tình, gợi cho em nhiều cảm xúc tha thiết, nhẹ nhàng mà lắng đọng:
Mọc giữa dòng sông xanh Mùa xuân người cầm súng
Một bông hoa tím biếc Lộc giắt đầy trên lưng
Ơi! Con chim chiền chiền Mùa xuân người ra đồng
Hót chi mà vang trời Lộc trải dài nương mạ
Từng giọt long lanh rơi Tất cả như hối hả
Tôi đưa tay tôi hứng Tất cả như xôn xao
II-TB:
-Khổ đầu bài thơ với nhịp thơ ngắn gọn, súc tích, ít lời mà nhiều ý miêu tả cảnh mùa xuân. Đây
là một mùa xuân với cảnh sắc thiên nhiên:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi! Con chim chiền chiền
Hót chi mà vang trời
Một vài nét phác họa về mùa xuân trên xứ Huế: một dòng sông, một bông hoa, một tiếng
chim hót. Nhà thơ có tả người nhiều đâu, nhưng sông thì xanh, bông hoa xuân tím biếc, chim
chiền chiện hót vang trời…Đơn giản thế nhưng mà đẹp, vui mắt, vui tai biết mấy! Và tâm hồn
nhà thơ thì mở rộng để đón nhận, nâng niu trân trọng vẻ đẹp, sức sống và niềm vui. Mấy tiếng
chim “hót chi mà” nghe sao mà thân thương tha thiết vậy! Tấm lòng của nhà thơ trước cảnh mùa
xuân tưởng như có thể nhìn rõ, cân, đo, đong, đếm được.
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng
Giọt gì rơi? “Giọt” âm thanh của chim chiền chiện? Giọt gì long lanh? “Giọt” ánh sáng! Hay
“giọt” tiếng chim? Hay giọt mưa mùa xuân? Giọt hạnh phúc của đời, của trời cao rơi xuống long
lanh cho nhà thơ xòe “hứng” với hai bàn tay trân trọng của mình?
Một hiện tượng chuyển đổi cảm giác tưởng như phi lí nhưng lại tự nhiên mà người đọc có thể
chấp nhận được trong thơ ca, vì nó đã nói lên cái ngây ngất say sưa của nhà thơ trước cảnh đất
trời vào xuân. Nhà thơ đón xuân bằng tất cả con người mình, cho nên mới có những câu thơ
thắm thiết ân tình đến vậy.
Xuân đến với thiên nhiên, xuân đến với con người. Suốt mấy ngàn năm dựng nước và giữ
nước, hình ảnh dân tộc VN kết tụ lại ở hình ảnh người cầm súng và người ra đồng. Thanh Hải
thấy sức xuân phơi phới trong mỗi con người
Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 25
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao
Mùa xuân cây cối đâm chồi nảy lộc. Lộc là chồi non, lá non, lộc tượng trưng cho may mắn,
thành công và hạnh phúc. Người cầm súng bảo vệ tổ quốc thì lộc là vòng lá ngụy trang xanh
tươi. Người nông dân ra đồng lộc là nương mạ mơn mởn trải dài, hứa hẹn một mùa bội thu. Phải
gắn bó với quê hương, với con người bằng tình cảm máu thịt, nhà thơ nhà thơ mới có được
những liên tưởng vừa rất thực vừa rất nên thơ. Điệp từ tất cả cùng với tính từ hối hả, xôn xao làm
tăng thêm sức xuân mãnh liệt trong mỗi người và trong cả cộng đồng rộng lớn là dân tộc.
III-KB:
Có thể nói với những khổ thơ của bài thơ Mùa xuân nho nhỏ Thanh Hải đã để lại cho đời một
tấm lòng thật đáng trân trọng. Đây là mùa xuân của lòng người, xuân của niềm vui. Chúng ta
chia sẻ niềm vui của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên và đất nước lúc vào xuân. Và mỗi
người hãy là một tiếng chim, cành hoa góp phần tô điểm cho đời thêm đẹp. Hãy giữ cho tâm hồn
mình mãi mãi thanh xuân

Đề 17: Cảm nhận của em về bức tranh xuân trong hai phần trích sau:
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 26
(Truyện Kiều –Nguyễn Du)
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng
( Mùa xuân nho nhỏ -Thanh Hải)
Gợi ý:
-Bức tranh xuân trong thơ Nguyễn Du trong sáng và mang đậm sắc thái cổ điển. Trên nền xanh
bất tận điểm xuyết một vài bông lê trắngvẻ đẹp rất riêng của mùa xuân tươi mới giàu sức sống
nhưng cũng rất thanh khiết nhẹ nhàng.
-Bức tranh xuân trong thơ Thanh Hải không gian xuân với cả chiều dài và chiều rộng được vẽ
lên bằng các hình ảnh sông xanh, hoa tím và tiếng chim chiền chiệnbức tranh mùa xuân thiên
nhiên tươi sáng, tràn đầy sức sống mà vẫn đằm thắm. nồng nàn, mang đậm phong vị quê hương
xứ Huế.
==> Cả hai bức tranh xuân đều thật đẹp, ẩn chứa tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước
của các tác giả.
Đề 18: Em hãy nêu cảm nhận về vẻ đẹp của những hình ảnh thơ sau:
-Cỏ xanh như bến xuân đầu trại
(Bến đò xuân đầu trại-Nguyễn Trãi)
-Cỏ non xanh tận chân trời
(Truyện Kiều –Nguyễn Du)
-Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
(Mùa xuân chín -Hàn Mặc Tử)
Gợi ý:
-Cảm nhận chung: Ba câu thơ đều viết về cỏ, đều tả vẻ đạp của cỏ mùa xuân. Cỏ với sắc non
xanh là nét chấm phá làm bức tranh xuân thêm tươi sáng.
-Cảm nhận riêng về vẻ đạp của từng hình ảnh thơ:
+Cỏ trong câu thơ Nguyễn Trãi: cỏ xanh tươi tốt, mượt mà, êm như nhung, khiến không gian
xuân vừa tươi tắn, vừa huyền mộng(chú ý cách so sánh như khói)
+Cỏ trong câu thơ của Nguyễn Du: non tơ, có màu xanh bất tận, gợi vẻ thanh tân, tràn đầy sứa
sống của mùa xuân (chú ý từ tận)
+Cỏ trong câu thơ Hàn Mặc Tử: cỏ dài, mềm, mượt, chuyển động đầy sức sống (chú ý từ sóng,
gợn)
-Hình ảnh cỏ trong câu thơ nào cũng đẹp, nó thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của mỗi nhà thơ.

Đề 19: Cảm nhận của em về vẻ đẹp của mùa thu xưa và nay qua những dòng thơ sau:
"Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng"
GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 27
(Truyện Kiều –Nguyễn Du)
"Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về"
(Sang thu –Hữu Thỉnh)
Gợi ý:
1-Điểm tương đồng của mùa thu thu xưa và nay:
-Cả hai đoạn thơ đều ghi lại những nét thần sắc của mùa thu muôn đời.
-Thu trong mắt hai nhà thơ đẹp một vẻ đẹp trong trẻo, thanh khiết, mơ mộng, quyến rũ đến kì
lạtình yêu tha thiết với cuộc đời, với con người.
2-Điểm khác biệt giữa mùa thu xưa và nay:
-Mùa thu xưa: trong đêm thanh lặng, vầng trăng in bóng xuống mặt hồ. Từ long lanh gợi vẻ lung
linh, lấp lánh cho mặt hồ thu. Hình ảnh khói biếc gợi ra vẻ đẹp mông lung, huyền ảo. Cả không
gian như được bao phủ bởi làn sương mờ ảo. Trăng tỏa sáng bầu trời, in vào đáy nước, dát vào
trên non cao, tạo nên vẻ đẹp rực rỡ lấp lánh, quyến rủ kì ảo vẻ đẹp cổ điển.
-Mùa thu nay: in đệm vẻ đẹp hiện đại với hương ổi-một hương thơm thanh nhẹ, dịu dàng. Hương
ổi tan ra trong cái se lạnh của cơn gió heo may mùa thu. Sương thu được nhân hóa, như muốn
chậm lại, bịn rịn và lưu luyến. Mùa thu đến thật bất ngờ.
3-Nhận xét, đánh giá:
-Cùng một mùa thu nhưng với mỗi thi nhân, nó lại đẹp một cách khác nhau do mỗi tác giả có cái
nhìn khác nhau, có rung cảm khác nhau trước thu của muôn đời.

Đề 20: Về giá trị truyện ngắn "Lặng lẽ Sa Pa" của Nguyễn Thành Long, sách giáo khoa Ngữ văn
9 –tập 1 nhận định: "Một trong những yếu tố tạo nên sức hấp dẫn và góp vào thành công của
truyện ngắn "Lặng lẽ Sa Pa" là chất trữ tình.
Em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 28
Gợi ý:
1-Giải thích ý kiến:
-Thành công của truyện ngắn "Lặng lẽ Sa Pa" được tạo nên từ nhiều yếu tố (tình huống, cốt
truyện, xây dựng nhân vật, cách kể chuyện..). Trong đó, chất trữ tình là yếu tố quan trọng tạo nên
sức hấp dẫn của truyện.
-Chất trữ tình của tác phẩm được tạo nên bởi cảm xúc, chiêm nghiệm, suy tưởng và thể hiện
bằng những lời văn giàu nhịp điệu, giàu hình ảnh.
2-Chứng minh:
-Chất trữ tình được tạo nên từ những chi tiết khung cảnh thiên nhiên đẹp, thơ mộng của Sa Pa
qua cái nhìn của người nghệ sĩ già.
-Chất trữ tình được toát lên chủ yếu từ nội dung của truyện: cuộc gặp gỡ tình cờ mà để lại nhiều
dư vị trong lòng mỗi người, từ những nét đẹp giản dị, từ những câu chuyện về cuộc sống lặng lẽ
ở Sa Pa (qua lời kể của anh thanh niên và bác lái xe, suy nghĩ của ông họa sĩ già, cô kĩ sư trẻ và
từ những cảm xúc, tình cảm mới nảy nở trong tâm hồn các nhân vật với anh thanh niên)
-Để tạo nên không khí trữ tình cho tác phẩm, nhà văn đã sử dụng lời văn giàu cảm xúc, hình
ảnh, giọng điệu tâm tình nhẹ nhàng.
3-Nhận xét, đánh giá:
-Chất trữ tình kết hợp với bình luận, tự sự đã làm nổi bật chủ đề tác phẩm: Truyện khắc họa
thành công những người lao động bình thường mà tiêu biểu là anh thanh niên làm công tác khí
tượng ở một mình trên đỉnh núi cao. Qua đó, truyện khẳng địnhvẻ đẹp của con người lao động và
ý nghĩa của những công việc thầm lặng.

Đề 21:
Cảm nhận của em về tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng và cao đẹp qua bài thơ “Đồng chí” của
Chính Hữu và “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật.
Gợi ý:
GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 29
1-Cảm nhận về hình tượng anh bộ đội cụ Hồ qua hai tác phẩm:
a-Những nét chung
-Đó là những con người mộc mạc, bình dị chân chất đời thường từ tình cảm đến cách nghĩ cao
đẹp: họ mang trong mình những phảm chất chung của anh bộ đội cụ Hồ song ở họ có những nét
cao đẹp: tình đồng chí, đồng đội keo sơn, tinh thần lạc quan, lòng quả cảm, đức hi sinh và lòng
yêu nước nồng nàn. Cùng chiến đấu cho hòa bình và độc lập tự do của dân tộc với tinh thần
quyết chiến quyết thắng. Họ mang trong mình những phẩm chất chung của anh bộ đội cụ Hồ qua
các thời kì: bình dị và vĩ đại, sống có lí tưởng. Cái cao cả vĩ đại được bắt nguồn từ những gì bình
dị nhất.
b-Nét riêng
*Người lính trong bài thơ “Đồng chí”
- Đậm chất mộc mạc, bình dị, chất phác, ra đi từ luống cày, thửa ruộng từ những miền quê nghèo
khó: Quê hương anh ….cày lên sỏi đá”
-Theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, những người nông dân mặc áo lính vượt lên trên
những gian khổ, khám phá những tình cảm mới mẻ đáng trân trọng: tình đồng chí
-Chia sẻ tâm tư tình cảm, thấu hiểu hoàn cảnh của nhau cũng như thiếu thốn vật chất ở chiến
trường là biểu hiện tuyệt vời của tình đồng chí.
-Nét hiện thực hòa quyện với yếu tố lãng mạn tạo nên biểu tượng của người lính cách mạng của
thơ ca chống Pháp: “Đầu súng trăng treo”

Đề 21: Niềm vui của nhà văn chân chính là được dẫn đường đến xứ sở cái đẹp. Hãy khám phá
của xứ sở cái đẹp ấy qua văn bản "Lặng lẽ Sa Pa" và "Sang thu"
MB: Có những điều tuy giản dị, nhỏ bé thôi nhưng cũng đủ để trở thành niềm vui. Và niềm vui
–đó là thứ cảm xúc căng tràn niềm hạnh phúc khi ta nhận từ người khác một thứ gì đó cũng như
GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 30
khi ta trao một điều gì đó. Cũng như niềm vui của nhà văn chân chính là được dẫn đường đến xứ
sở cái đẹp. Họ muốn gửi vào mỗi tác phẩm, muốn đưa người đọc đến với những cái thuần túy,
tinh khiết của cái đẹp, một vẻ đẹp giản dị nhưng lại đầy ý nghĩa. Để có thể cảm nhận được
những điều đó, chúng ta hãy cùng nhau khám phá xứ sở của cái đẹp qua hai tác phẩm "Lặng lẽ
Sa Pa" của Nguyễn Thành Long và "Sang thu" của Hữu Thỉnh.
TB: Vâng! Có thể nói "xứ sở cái đẹp" qua tác phẩm "LLSP" phải nói đến trước hết là bức tranh
thiên nhiên tuyệt đẹp, đầy chất thơ, chất lãng mạn "LLSP" mang đến cho người đọc thưởng thức
bức tranh thiên nhiên rộng lớn của núi rừng Tây Bắc. Lào Cai –vùng Tây Bắc của Tổ quốc
không hề hoang vu, lặng lẽ mà trái lại rất hữu tình tráng lệ. Bức tranh thiên nhiên từ xa đến gần,
từ bầu trời đến mặt đất thật thơ mộng. Khi "xe vừa trèo lên núi" thì "mây hắt từng chiếc quạt
trắng xóa lên từ các thung lũng" "Trạm rừng" là nơi con suối có "Thác trắng xóa". Giữa màu
xanh của rừng " Những cây thông rung tít trong nắng" những cây tử kinh màu hoa cà hiện lên
đầy thơ mộng. Có lúc, cảnh tượng núi rừng vô cùng tráng lệ, đó là khi "nắng đã mạ bạc cả con
đèo, đốt cháy rừng cây hừng hực như một bó đuốc ". Mây bị nắng xua, vòm lá ướt sương, gần
hơn là cả một vườn hoa với muôn vàn màu sắc: vàng, tím, hồng phấn …do bàn tay cần mẫn của
con người làm nên. SP với những rặng đào, với đàn bò lang cổ đeo chuông đang cắm cúi gặm cỏ
bên những đám cây cối rậm rạp. Tất cả gợi bao liên tưởng về vùng đất thơ mộng –SP. Mọi thứ
như dẫn hồn du khách bước vào miền cực lạc của vùng đất kì thú đó.
"LLSP" không chỉ là bức tranh thiên nhiên đầy thơ mộng, hữu tình mà còn có những con
người đáng yêu nơi vùng đất SP lặng lẽ. Truyện đã mang đến cho ta được chiêm ngưỡng một
bức chân dung đẹp. Đó là anh thanh niên hai mươi bảy tuổi làm công tác khí tượng kiêm vật lý
địa cầu trên đỉnh Yên Sơn cao hai nghìn sáu trăm mét. Anh từng được nói tới biệt danh "một
trong những người cô độc nhất thế gian". Thế nhưng, anh đã vượt qua cô đơn, buồn chán đó để
tự tạo cho mình một cuộc sống rất có ý nghĩa. Người đọc tìm thấy ở anh một thế giới tâm hồn
tình cảm, nhất là cách nghĩ, lí tưởng sống và làm việc của anh khiến người ta phải nể phục, noi
theo và tin yêu vào cuộc sống.
"LLSP" là một bức tranh thiên nhiên đẹp, một bức chân dung hoàn mĩ nhưng nó không chỉ
đẹp về mặt nội dung mà còn đẹp cả về mặt nghệ thuật. Tác phẩm đã đem đến cho ta một tình yêu
văn chương với những rung cảm thẩm mĩ trước cái đẹp, đẹp từ nhan đề, tình huống cho đến cốt
truyện. Nhan đề "LLSP" lặng lẽ mà lại không hề lặng lẽ. Bởi nơi đó có những con người ngày
đêm làm việc khẩn trương, sôi nổi để cống hiến sức mình cho đất nước. Thật đúng như lời Bác
từng nói:"Đất nước ta là một vườn hoa đẹp, mỗi người là một bông hoa ngát hương". Nhà văn
Nguyễn Thành Long đã dành những lời tốt đẹp nhất cho những con người đang sống và cống
hiến giữa "SP lặng lẽ". Những con người với lí tưởng sống cao cả và luôn ý thức được lẽ sống
như của Pa-ven trong "Thép đã tôi là thế đấy" rằng: "Đời người chỉ sống có một lần. Hãy sống
làm sao cho xứng đáng cho đến khi nhắm mắt xuôi tay không phải hối hận về những năm tháng
đã sống hoài sống phí". Mỗi người nơi non xanh ấy là một tấm gương sáng, một bông hoa đẹp
tỏa sáng giữa đời thường mà chúng ta cần phải noi theo.
Bên cạnh đó, cốt truyện chẳng cầu kì, gay gắt mà giản đơn xoay quanh một cuộc gặp gỡ ngắn
ngủi. Ấy thế mà NTL đã dựng nên mối quan hệ chung –riêng thật đẹp. Tất cả những điều đó là
nhờ vào hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, âm điệu nhẹ nhàng cuốn hút, ngôn ngữ như chắp cánh
tâm hồn người đọc đến với những thẩm mĩ sâu xa, thấm thía.
"Xứ sở cái đẹp" một lần nữa đi qua lăng kính tâm hồn người nghệ sĩ và trở thành món quà vô
giá mà thiên nhiên ban tặng cho con người qua bài "Sang thu" của Hữu Thỉnh. Bức tranh thiên
nhiên mùa thu hiện lên thật mới lạ, độc đáo không phải là độ giữa thu hay cuối thu mà là tiếng
thu giao mùa được cảm nhận qua một hương vị đặc biệt –hương ổi. Một mùi hương đặc trưng
của đồng bằng Bắc Bộ như gieo rắc vào lòng người một cảm giác bâng khuâng, lưu luyến.

GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 31
Hương ổi, thoảng qua như chính mùi vị của vườn, của làng quê mộc mạc thân yêu. Phải
chăng lúc này đây hương ngọt ngào của trái ổi đầu mùa mà không phải là hương hoa thiên lý như
trong bài "Chiều thu" của Nguyễn Bích "Mùi hoa thiên lý thoảng hương đưa"
Hay bài " Đất nước" của Nguyễn Đình Thi"
"Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa"
Trước niềm ngỡ ngàng, ngạc nhiên, thu về từ bao giờ nhỉ? Thu đến một cách nhẹ nhàng
nhưng đột ngột quá! Thu về trời đất, quê hương cùng với thu diễn ra bức tranh giao mùa tuyệt
đẹp. "Gió se" tràn về xua đi bao cái nắng oi bức của mùa hè đem lại cảm giác thoải mái, dễ chịu
cho con người. "Sương thu" như cô gái đôi mươi chùng chình đi qua ngõ. Dòng sông thì lại được
lúc dềnh dàng, là phút hiếm hoi sau những ngày lên thác xuống ghềnh mệt nhọc rồi lại hối hả,
ào ạt dưới những cơn mưa rào. Và đến cả những đàn chim thì vội vã bay về phương Nam tránh
rét. Những đám mây mùa hạ trong khoảnh khắc giao mùa đã trở thành ranh giới giữa mùa hạ
với mùa thu. Từ cái giây phút giao mùa vô hình trừu tượng ấy, tác giả đã biến thành sự vật hữu
hình cụ thể để con người có thể cảm nhận rõ hơn tín hiệu của mùa thu. Bức tranh thiên nhiên vì
thế lại càng trở nên sinh động hơn. Tác giả từ sự quan sát thiên nhiên rất tự nhiên đã đem đến
cho ta một triết lý nhân văn sâu sắc: Nắng, mưa, sấm là những hình ảnh ẩn dụ cho sự khắc
nghiệt, biến chuyển của cuộc đời "Hàng cây đứng tuổi" chỉ những con người từng trải. Hữu
Thỉnh gửi tới chúng ta bức thông điệp:" Con người từng trải thường vững vàng hơn trước
những biến đổi của cuộc đời". Phải chăng nhà thơ đang gợi cho chúng ta nhớ về những truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, những kinh nghiệm sống và những thử thách trong hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mĩ hào hùng. và dù đã từng trải hay chưa từng trải con người cần
phải đứng vững trên dòng đời của mình.
Một lần nữa có thể khẳng định : "Niềm vui của nhà văn chân chính là được dẫn đường đến
xứ sở cái đẹp". Và dù trong"LLSP" hay "Sang thu"cũng vậy. Mỗi tác phẩm đều mang đến cho ta
được chiêm ngưỡng một bức tranh thiên nhiên đẹp, đầy nhựa sống cùng với những lý tưởng,
những kinh nghiệm sống ở đời dù bất kì lứa tuổi nào, thời đại nào cũng cần phải có.

Đề 22: Phân tích bài “Con cò” của Chế Lan Viên
I-MB:
GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 32
-Chế Lan Viên (1920-1989) tên thật là Phan Ngọc Hoan , quê gốc Quảng trị, lớn lên ở Bình
Định.Nổi tiếng từ trước cách mạng tháng Tám năm 1945 với tập thơ “Điêu tàn”
-Tham gia kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Có nhiều đóng góp cho thơ ca cách mạng Việt
Nam hiện đại.
-Được nhà nước truy tặng Giải thưởng HCM về văn học nghệ thuật.
-Bài thơ Con cò sáng tác năm 1962, in trong tập Hoa ngày thường –Chim báo bão, xuất bản năm
1967. Nội dung bài thơ ca ngợi tình mẹ bao la và ý nghĩa to lớn của lời ru đối với cuộc sống của
con người.
II-TB:
1-Hình ảnh con cò đến với tuổi ấu thơ qua lời ru của mẹ:
-Hình ảnh con cò trong ca dao được tg lấy làm hình tượng chủ đạo trong bài thơ với ý nghĩa biểu
trưng cho tình mẹ.
-Trong lời ru của mẹ có cánh cò, cánh vạc quen thuộc từ thủơ xưa, theo con vào giấc ngủ say
nồng.
-Hình ảnh tương phản: con cò xưa nhọc nhằn lam lũ (cò một mình có phải kiếm lấy ăn). Con
được mẹ nuôi dưỡng, yêu thương nên con sống đầy đủ, hạnh phúc (sữa mẹ nhiều con ngủ chẳng
phân vân). Phản ánh cuộc sống tốt đẹp con đang được hưởng.
2-Cánh cò trong lời ru sẽ theo con suốt cả cuộc đời:
-Cánh cò trở thành người bạn thân thiết của con từ thuở nằm nôi cho đến con tung tăng đi học:
(Cò đứng ở quanh nôi, Rồi cò vào trong tổ…Cánh của cò, hai đứa đắp chung đôi). Con đi học,
cò theo con đến lớp: (Mai khôn lớn, con theo cò đi học, Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân).
Con trưởng thành, cò vẫn là bầu bạn: (Lớn lên…con làm gì? Con làm thi sĩ! Cánh cò trắng lại
bay hoài không nghỉ, Trước hiên nhà. Và trong hơi mát câu văn)
3-Tình mẹ bao la và ý nghĩa lời ru của mẹ đối với mỗi con người:
-Nhà thơ rút ra một quy luật về tình mẫu tử thiêng liêng:
Dù ở gần con,
………………….
Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con
-Lời ru ngọt ngào, thấm thía cùng dòng sữa mẹ ngọt lành của mẹ nuôi lớn thể xác và tâm hồn của
mỗi đứa con.
-Tình mẹ con là tình cảm thiêng liêng nhất của con người
III-KB:
-Bài thơ Con cò thể hiện sự vận dụng ca dao một cách sáng tạo và độc đáo của Chế Lan Viên
-Hình tượng Con cò trong bài thơ hàm chứa những ý nghĩa mới mẻ, hàm súc và có khả năng gợi
cảm rất cao.
-Bài thơ là lời ngợi ca tình mẹ yêu con. Những lời ru của mẹ có vai trò tạo dựng nhân cách, bồi
đắp tâm hồn của mỗi chúng ta

ĐỀ THAM KHẢO THÊM

GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 33
Đề 1: Sống trong đời sống
Cần có một tấm lòng
Để làm gì em biết kg?
(Trích lời bài hát"Để gió cuốn đi" của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn)
Hãy tìm câu trả lời trong các văn bản "Mùa xuân nho nhỏ" của Thanh Hải và "Lặng lẽ Sa
Pa" của Nguyễn Thành Long (Sách Ngữ văn 9)

Đề 2: Nhà văn Nguyễn Đình Thi đã khẳng định: “Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng chất
liệu ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì
mới mẻ”
Em hiểu nhận định trên như thế nào. Hãy lấy ba tác phẩm “Làng” “Lặng lẽ Sa Pa” “Chiếc
lược ngà” để làm rõ nhận định.

Đề 3: Cảm nhận của em về hình tượng anh bộ đội cụ Hồ trong hai tác phẩm “Đồng chí”- Chính
Hữu và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” –Phạm Tiến Duật. Từ đó, em có suy nghĩ gì về dấu
ấn sáng tạo của hai nhà thơ.
Đề 4:
Câu 1
Trong truyện “ Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng, qua lời kể của nhân
vật ông Ba, tác giả có viết:
“ … Trong giờ phút cuối cùng, không còn đủ sức để trăng trối lại điều gì, hình như chỉ có
tình cha con là không thể chết được, anh đưa tay vào túi, móc cây lược đưa cho tôi và nhìn tôi
một hồi lâu. Tôi không đủ lời lẽ để tả lại cái nhìn ấy, chỉ biết rằng cho đến bây giờ, thỉnh thoảng
tôi cứ nhớ lại đôi mắt của anh.”
(Ngữ văn 9, tập 1)
Tại sao nhân vật ông Ba lại nghĩ “chỉ có tình cha con là không thể chết được” và ông
“không đủ lời lẽ để tả lại cái nhìn ấy” ?
Câu 2
Trong buổi giao lưu, trò chuyện với các thủ khoa tốt nghiệp xuất sắc của các trường đại học,
học viện tại Hà Nội, Giáo sư Ngô Bảo Châu đã chia sẻ:
“Tôi luôn tin rằng, trong mỗi thất bại luôn có mầm mống của sự thành công”.
Trình bày suy nghĩ của em về quan niệm trên.

Câu 3
Bàn về bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt có ý kiến cho rằng: " Bài thơ biểu hiện một triết lý
thầm kín: những gì là thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người, đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con
người trên hành trình dài rộng của cuộc đời".
Bằng những hiểu biết của em về bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt, em hãy làm sáng tỏ nhận
định trên.
Đề 5
Câu 1
Trong truyện “ Lục Vân Tiên”, Nguyễn Đình Chiểu viết:
“ Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”
Suy nghĩ của em về câu thơ trên.
Câu 2
Nhận xét về văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, có ý kiến viết:
“ Văn học của ta đã xây dựng và thể hiện sinh động hình ảnh của thế hệ trẻ

GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 34
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” với ý thức ngày càng sâu sắc về trách nhiệm của thế hệ
trước dân tộc và nhân dân, trước Tổ quốc và lịch sử.”
Qua một số tác phẩm đã học, em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên

Đề 6:
Câu 1:
Viết về cảnh đất trời mùa xuân ở đoạn trích Cảnh ngày xuân (Truyện Kiều – Nguyễn
Du), có ý kiến cho rằng: Từ cặp lục bát thứ nhất sang cặp lục bát thứ hai có sự biến đổi của
mạch thơ; riêng cặp lục bát thứ hai đã thể hiện tài tình nghệ thuật “thi trung hữu họa”.
Em hãy viết đoạn văn trình bày ý kiến của mình về nhận xét trên?

Câu 2:
Khi nói về quê hương, Đỗ Trung Quân cho rằng:
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi.
(Quê hương)
Em hiểu thế nào về quan niệm của nhà thơ? Từ đó hãy bày tỏ suy nghĩ của em về quê
hương?
Câu 3:
Nhận xét về truyện “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long, có ý kiến cho rằng:
“Tác phẩm như một bài thơ về vẻ đẹp trong cách sống và suy nghĩ của con người lao động
bình thường mà cao cả, những mẫu người của một giai đoạn lịch sử có nhiều gian khổ và hi sinh
nhưng cũng thật trong sáng, đẹp đẽ. Từ hình ảnh những con người ấy gợi lên cho ta những suy
nghĩ về ý nghĩa của cuộc sống, của lao động tự giác, về con người và về nghệ thuật”.
Qua truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa”, em hãy làm sáng tỏ nhận xét trên

Đề 7:
Câu 1 (2 điểm).
Trong truyện “ Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng, qua lời kể của nhân
vật ông Ba, tác giả có viết:
“ … Trong giờ phút cuối cùng, không còn đủ sức để trăng trối lại điều gì, hình như chỉ có
tình cha con là không thể chết được, anh đưa tay vào túi, móc cây lược đưa cho tôi và nhìn tôi
một hồi lâu. Tôi không đủ lời lẽ để tả lại cái nhìn ấy, chỉ biết rằng cho đến bây giờ, thỉnh thoảng
tôi cứ nhớ lại đôi mắt của anh.”
(Ngữ văn 9, tập 1)
Tại sao nhân vật ông Ba lại nghĩ “chỉ có tình cha con là không thể chết được” và ông
“không đủ lời lẽ để tả lại cái nhìn ấy” ?

Câu 2 (3 điểm).
GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 35
Trong buổi giao lưu, trò chuyện với các thủ khoa tốt nghiệp xuất sắc của các trường đại học,
học viện tại Hà Nội, Giáo sư Ngô Bảo Châu đã chia sẻ:
“Tôi luôn tin rằng, trong mỗi thất bại luôn có mầm mống của sự thành công”.
Trình bày suy nghĩ của em về quan niệm trên.

Câu 3 (5 điểm).
Bàn về bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt có ý kiến cho rằng: " Bài thơ biểu hiện một triết lý
thầm kín: những gì là thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người, đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con
người trên hành trình dài rộng của cuộc đời".
Bằng những hiểu biết của em về bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt, em hãy làm sáng tỏ nhận
định trên.

MỘT SỐ ĐỀ THI CHỌN HGS LỚP 9


MÔN: NGỮ VĂN

Câu 1(3 điểm)


Trong truyện “ Lục Vân Tiên”, Nguyễn Đình Chiểu viết:
“ Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”
Suy nghĩ của em về câu thơ trên.
Câu 2(7 điểm)
Nhận xét về văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, có ý kiến viết:
“ Văn học của ta đã xây dựng và thể hiện sinh động hình ảnh của thế hệ trẻ
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” với ý thức ngày càng sâu sắc về trách nhiệm của thế hệ
trước dân tộc và nhân dân, trước Tổ quốc và lịch sử.”
Qua một số tác phẩm đã học, em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên

ĐỀ THI HỌC SINH GIỎI LỚP 9


Câu 1: (4,0 điểm)
GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 36
Viết về cảnh đất trời mùa xuân ở đoạn trích Cảnh ngày xuân (Truyện Kiều – Nguyễn
Du), có ý kiến cho rằng: Từ cặp lục bát thứ nhất sang cặp lục bát thứ hai có sự biến đổi của
mạch thơ; riêng cặp lục bát thứ hai đã thể hiện tài tình nghệ thuật “thi trung hữu họa”.
Em hãy viết đoạn văn trình bày ý kiến của mình về nhận xét trên?

Câu 2: (4,0 điểm)


Khi nói về quê hương, Đỗ Trung Quân cho rằng:
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi.
(Quê hương)
Em hiểu thế nào về quan niệm của nhà thơ? Từ đó hãy bày tỏ suy nghĩ của em về quê
hương?
Câu 3: (12,0 điểm)
Nhận xét về truyện “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long, có ý kiến cho rằng:
“Tác phẩm như một bài thơ về vẻ đẹp trong cách sống và suy nghĩ của con người lao động
bình thường mà cao cả, những mẫu người của một giai đoạn lịch sử có nhiều gian khổ và hi sinh
nhưng cũng thật trong sáng, đẹp đẽ. Từ hình ảnh những con người ấy gợi lên cho ta những suy
nghĩ về ý nghĩa của cuộc sống, của lao động tự giác, về con người và về nghệ thuật”.
Qua truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa”, em hãy làm sáng tỏ nhận xét trên

ĐỀ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI HUYỆN

Câu 1 (2.0 điểm)


GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 37
” – Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp
chẳng thể trở về nhân gian được nữa.” (SGK Ngữ văn 9, tập I, trang 48)
Ý nghĩa của lời thoại trên trong “Chuyện người con gái Nam Xương”- Nguyễn Dữ?
Câu 2 (3.0 điểm)
Cảm nhận của em về đoạn thơ:
“Đồng chiêm phả nắng lên không
Cánh cò dẫn gió qua thung lúa vàng
Gió nâng tiếng hát chói chang
Long lanh lưỡi hái liếm ngang chân trời.”
(Trích “Tiếng hát mùa gặt” – Nguyễn Duy)
Câu 3 (5.0 điểm)
Sự vận động của cảnh thiên nhiên và tâm trạng con người trong “Truyện Kiều” (Nguyễn Du) qua
đoạn trích “Cảnh ngày xuân” và “Kiều ở lầu Ngưng Bích”.
——————- Hết ———————

ĐỀ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI LÓP 9


MÔN: NGỮ VĂN
Câu 1. (4,0 điểm)
Hãy chỉ ra biện pháp tu từ từ vựng và ý nghĩa của chúng trong các câu thơ sau:
a. “Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu”
(Ông đồ, Vũ Đình Liên)
b. Để miêu tả cảnh biệt li của Thúy Kiều với gia đình, đại thi hào Nguyễn Du viết:
“Đau lòng kẻ ở người đi
Lệ rơi thấm đá, tơ chia rũ tằm”
(Truyện Kiều, Nguyễn Du)
c. “Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”
(Bếp lửa, Bằng Việt)

Câu 2: ( 6,0 điểm)

NGƯỜI ĂN XIN
Một người ăn xin đã già. Đôi mắt ông đỏ hoe, nước mắt ông giàn giụa, đôi môi tái nhợt,
áo quần tả tơi. Ông chìa tay xin tôi.
Tôi lục hết túi nọ đến túi kia, không có lấy một xu, không có cả khăn tay, chẳng có gì hết.
Ông vẫn đợi tôi. Tôi chẳng biết làm thế nào. Bàn tay tôi run run nắm chặt lấy bàn tay run rẩy
của ông:

GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 38
- Xin ông đừng giận cháu! Cháu không có gì cho ông cả.
- Ông nhìn tôi chăm chăm, đôi môi nở nụ cười:
- Cháu ơi, cảm ơn cháu! Như vậy là cháu đã cho lão rồi.
Khi ấy tôi chợt hiểu ra: cả tôi nữa, tôi cũng vừa nhận được một cái gì đó của ông.
(Theo Tuốc-ghê-nhép, Ngữ văn 9, tập một, NXB Giáo dục 2009, tr.22)
Từ câu chuyện trên, em hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 300 từ) bàn về lòng nhân ái của
con người trong cuộc sống.
Câu 3: (10 điểm)
Phân tích những thành công về nghệ thuật miêu tả, khắc họa nhân vật của thi hào Nguyễn Du
qua các đoạn trích Truyện Kiều em đã học và đọc thêm.

PHẦN HAI
HƯỚNG DẪN LÀM NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
BÀI 1
GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 39
I-MỘT SỐ KĨ NĂNG LÀM NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
Để có thể triển khai tốt một bài văn nghị luận xã hội, cần thành thạo các kĩ năng cơ bản
sau:
1-Phân tích đề, tìm hiểu đề:
-Đọc kĩ đề, chú ý những từ quan trọng, những khái niệm khó, nghĩa đen, nghĩa bóng của từ ngữ,
nghĩa tường minh, hàm ẩn của câu, đoạn. Chia vế, chia đoạn, tìm hiểu mối tương quan giữa các
vế: song song, chính phụ, nhân quả, tăng tiến hay đối lập…
-Phần phân tích đề phải xác định được ba yêu cầu sau:
+Vấn đề cần nghị luận là gì? Có bao nhiêu ý cần triển khai? Mối quan hệ giữa các ý như thế
nào?
+Sử dụng thao tác lập luận gì là chính?
+Phạm vi tư liệu của bài viết: thuộc lĩnh vực xã hội nào, pham vi, ảnh hưởng…
Đây là thao tác quan trọng và cần thiết giúp người đọc phát hiện ra vấn đề cần nghị luận trong
yêu cầu của đề bài và triển khai đúng theo yêu cầu của đề. Thao tác này có ý nghĩa quyết định
đến chất lượng bài viết, cần phải có sự đầu tư thích đáng.
2-Lập dàn ý:
Lập dàn ý bài nghị luận xã hội theo các bước sau:
-Xác định các luận điểm (ý lớn)
+Đề bài có nhiều ý thì ứng với mỗi ý là một luận điểm.
+Đề bài có một ý thì ý nhỏ hơn cụ thể của ý đó được xem là những luận điểm.
-Tìm luận cứ (ý nhỏ) cho các luận điểm: Mỗi luận điểm cần được cụ thể hóa thành nhiều ý nhỏ
hơn gọi là luận cứ. Số lượng ý nhỏ và cách triển khai tùy thuộc vào ý lớn.
-Lập dàn ý gồm ba phần:
a-MB: Giới thiệu vấn đề xã hội cần nghị luận.
b-TB: Triển khai nội dung theo các ý nhỏ và ý lớn đã tìm.
c-KB: Tổng kết nội dung đã trình bày, liên hệ
II-CÁC THAO TÁC LẬP LUẬN TRONG BÀI NGHỊ LUẬN XÃ HỘI:
1-Giải thích:
Giải thích là vận dụng tri thức lí giải cho người khác hiểu vấn đề mà mình đề cập tới. Trong
một bài văn nghị luận xã hội, thao tác giải thích thể hiện cụ thể trước hết ở việc giải nghĩa
( nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa hẹp, nghĩa mở rộng) của các khái niệm, các từ ngữ khó hiểu …
trên cơ sở đó giải thích toàn bộ vấn đề (chú ý đến nghĩa tường minh và nghĩa hàm ẩn). Trong các
thao tác giải thích, người viết vừa dùng lí lẽ để phân tích, lí giải vừa dùng dẫn chứng để làm sáng
tỏ vấn đề, xác lập một cách hiểu đúng đắn, có tính biện chứng, chống lại những cách hiểu sai,
hiểu không đầy đủ về vấn đề xã hội đã được đưa ra.
2-Chứng minh:
Chứng minh là đưa ra những cứ liệu, dẫn chứng xác đáng để làm sáng tỏ một lí lẽ, một ý
kiến, làm sáng tỏ vấn đề xã hội đang bàn luận, thuyết phục người đọc, người nghe tin tưởng vào
vấn đề đang được nghị luận
VD: Tuổi trẻ học đường suy nghĩ và hành động để góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông.
Để làm sáng tỏ vấn đề, cần đưa ra dẫn chứng chứng minh cho các luận điểm:
-Thực trạng tai nạn giao thông
-Hậu quả của vấn đề
-Các hành động của tuổi trẻ học đường trong việc góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông.
3-Phân tích:
Phân tích là việc chia tách đối tượng, sự vật, hiện tượng thành nhiều bộ phận, yếu tố nhỏ để đi
sâu xem xét kĩ lưỡng nội dung và mối liên hệ bên trong của đối tượng.
4-Bình luận:

GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 40
-Là bàn bạc đánh giá vấn đề , sự việc, hiện tượng chỉ ra sự đúng sai, phải trái, tốt –xấu, lợi
–hại…để nhận thức đối tượng, có cách ứng xử phù hợp, phương châm hành động đúng. Đây là
thao tác có tính tổng hợp vì nó bao hàm cả công việc giải thích lẫn chứng minh nhằm mở rộng,
nâng cao vấn đề. Việc bình luận dựa trên sự nhìn nhận vấn đề một cách toàn diện, khách quan;
có lập trường tư tưởng đúng đắn, rõ ràng.
Như đã trình bày ở trên, một bài văn nghị luận thường là sự kết hợp của nhiều thao tác lập
luận, trong đó, tùy theo từng yêu cầu và vấn đề nghị luận nêu ra ở đề bài mà lựa chọn và sử dụng
thao tác nào là thao tác chính. Không thể sử dụng một thao tác lập luận duy nhất, làm cho vấn
đề bàn luận trở nên thiếu sức thuyết phục, không thấu đáo.
III-CÁCH LÀM CÁC DẠNG ĐỀ VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI:
1-Nghị luận về một tư tưởng đạo lí:
Đề tài của dạng bài này vô cùng phong phú. Nó bao gồm các vấn đề về nhận thức (lí tưởng,
mục đích sống…) về tâm hồn, tính cách (lòng yêu nước, lòng nhân ái, tính trung thực…) về các
quan hệ gia đình, xã hội, cách ứng xử ….
Ví dụ:
-Tình yêu thương là hạnh phúc của con người
Để làm tốt dạng đề này cần chú ý
-Giới thiệu, giải thích tư tưởng, đạo lí cần nghị luận.
-Phân tích các mặt đúng, bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan đến vấn đề nghị luận.
-Nêu ý nghĩa, rút ra bài học về tư tưởng đạo lí và hành động. Đây là vấn đề cơ bản của một bài
nghị luận bởi mục đích của việc nghị luận là rút ra những kết luận đúng để thuyết phục người
đọc áp dụng vấn đề vào thực tiễn đời sống.
-Lấy dẫn chứng minh họa (chủ yếu là các dẫn chứng trong thực tế đời sống)
2-Nghị luận về một hiện tượng đời sống:
-Nghị luận về một hiện tượng đời sống là bàn về một hiện tượng có ý nghĩa đối với đời sống xã
hội: cách thể hiện tình cảm gia đình, thực trạng trong xã hội, các vấn đề nóng bỏng mang tính
thời sự…
VD: Tuổi trẻ học đường suy nghĩ và hành động để góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông.
Để làm tốt dạng đề này cần chú ý những vấn đề sau:
-Đặt hiện tượng đời sống vào hoàn cảnh cụ thể, xã hội thực tại, nhìn chúng dưới những điều kiện
xã hội cụ thể để có sự phân tích, lí giải, đánh giá đúng.
-Từ những điều đã phân tích, chỉ ra mặt đúng –sai, lợi –hại của hiện tượng.
-Lí giải nguyên nhân của hiện tượng trên, từ đó bày tỏ thái độ, ý kiến của người viết và đưa ra
giải pháp hợp lí cho vấn đề.
-Lấy dẫn chứng minh họa (chủ yếu là các dẫn chứng trong thực tế đời sống)
Từ căn cứ vào đối tượng nghị luận xã hội này, dựa theo nội dung và hình thức thể hiện của
đề nghị luận lại có thể chia thành các dạng đề nghị luận xã hội cơ bản sau:
-Đề bài yêu cầu nghị luận (trực tiếp) về một vấn đề thuộc lĩnh vực xã hội.
-Đề bài yêu cầu nghị luận về một vấn đề thuộc lĩnh vực xã hội được thể hiện qua một câu tục
ngữ, một câu danh ngôn, qua một ý thơ, ý văn…
-Đề bài yêu cầu nghị luận về một vấn đề thuộc lĩnh vực xã hội nhưng xuất phát từ sự thể hiện
của vấn đề đó trong văn học
Với mỗi dạng đề cụ thể như vậy, người viết cần có cách triển khai riêng để bài viết của mình
đáp ứng được yêu cầu của người ra đề.

BÀI 2
HƯỚNG DẪN CÁCH LÀM BÀI

GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 41
Đề 1: Từ các nhân vật văn học thời chống Mĩ: anh thanh niên (Lặng lẽ Sa Pa –Nguyễn Thành
Long), người lính (Bài thơ về tiểu đội xe không kính-Phạm Tiến Duật), em có suy nghĩ gì về lối
sống đẹp trong xã hội hiện nay.
Gợi ý:
1-Giải thích: Lối sống là gì?
-Là cách sống của mỗi cá nhân trước thực tế cuộc sống (có mục đích hoặc không có mục đích).
2-Cảm nhận về lối sống tuổi trẻ thời chống Mĩ:
-Họ là những con người bình dị, có lí tưởng sống cao đẹp: giàu tình yêu thương (quê hương, đất
nước, con người, công việc) bất chấp mọi khó khăn nguy hiểm để cống hiến cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
3-Suy nghĩ về lối sống đẹp trong xã hội hiện nay:
-Có ý thức về cuộc sống cá nhân, xác định đúng đắn mục đích sống (sống vì ai? Sống vì cái gì?
Sống như thế nào?)
-Lối sống cá nhân phải phù hợp với quan điểm đạo đức xã hội và đạo lí dân tộc, biết gắn cá nhân
với cộng đồng, nhân loại.
-Lối sống đẹp là lối sống giàu tinh thần vị tha, rộng lượng, biết đoàn kết yêu thương, ầm thầm
cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
+Vị tha rộng lượng: biết sống vì người khác, đặt lợi ích người khác lên lợi ích của chính mình
(âm thầm cống hiến và hi sinh, đem tình yêu thương đến cho mọi người)
+Tinh thần đoàn kết tương thân tương ái giữa người với người
Vị tha, rộng lượng, đoàn kết, yêu thương có quan hệ mật thiết: không rộng lượng thì không
thể vị tha, không vị tha thì không có điểm tựa để đoàn kết, không đoàn kết thì không thể
sống bằng lòng yêu thương.
-Vậy muốn có lối sống đẹp phải thường xuyên trao đổi, học tập những kinh nghiệm, tấm gương
về lối sống của những người xung quanh để tự bồi đắp cho mình. Đặc biệt là tấm gương đạo đức,
tư tưởng HCM.
-Nên góp ý phê phán những quan niệm, lối sống không đúng đắn lành mạnh (hẹp hòi, vị kỉ,thực
dụng, cơ hội, keo kiệt tình thương, sống gấp không mục đích..)
-Cần hướng đời sống cá nhân đến mục đích cao đẹp, thiêng liêng, tránh xa những điều tầm
thường giả dốicon người hãy biết yêu thương và quan tâm đến mọi người xung quanh, đừng lo
chăm chút vào cái hạnh phúc nhỏ bé của riêng mình.

Đề 2: Trong bài thơ "Một khúc ca xuân" nhà thơ Tố Hữu viết:
Nếu là con chim, chiếc lá
GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 42
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả?
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình.
Cùng qua điểm đó, Nguyễn Thành Long đã xây dựng thành công nhân vật anh thanh niên
trong truyện ngắn "Lặng lẽ Sa Pa" (Ngữ văn 9, tập một).
Từ vẻ đẹp của nhân vật này, em có suy nghĩ gì về lí tưởng sống của thanh niên?
Gợi ý:
I-MB:
-Nêu được vấn đề cần nghị luận: thanh niên phải sống có lí tưởng
II-TB:
1-Thế nào là sống có lí tưởng?
-Lí tưởng chính là mục đích sống cao đẹp. Sống đẹp là lối sống mình vì mọi người, thể hiện bằng
cống hiến hết mình trong học tập, trong công việc, để xây dựng quê hương, đất nước…
2-Vì sao thanh niên phải sống có lí tường?
-Vì:"Nếu không có mục đích, anh không làm được gì cả. Anh cũng không làm được gì vĩ đại
nếu như mục đích bình thường" (nhà văn Pháp Đ.Đi-đơ-rô)
3-Lí tưởng sống của thanh niên trong quá khứ (trong hai cuộc k/c chống Pháp và chống Mĩ)
-Dùng dẫn chứng trong các tác phẩm văn học, trong lịch sử để làm rõ..)
4-Lí tưởng sống của thanh trong hiện tại niên (thời kì hội nhập của thế kỉ XXI)
-Dẫn chứng từ thực tế
5-Liên hệ bản thân
III-Kết bài:
-Khẳng định lại suy nghĩ của bản thân và nâng lên tầm khái quát vấn đề sống có lí tưởng.

Đề 3: Viết bài văn ngắn nêu suy nghĩ về ý nghĩa của tình yêu thương.
Gợi ý:
1-Thế nào là tình yêu thương?
-Yêu thương nảy nở trong mọi mối quan hệ giữa người với người, trong tình cảm gia đình, trong
tình bạn, trong nghĩa thầy trò, thậm chí trong tình cảm giữa con người với thế giới loài vật, đồ
vật vô tri…
-Yêu thương luôn phải chân thành, trong sáng, xuất phát từ trái tim…
2-Ý nghĩa của tình yêu thương
-Yêu thương là nhu cầu tình cảm không thể thiếu ở con người.
-Tình yêu thương vực con người dậy khi họ vấp phải những khó khăn, gian khổ.
-Tình yêu thương truyền cho con người ý chí, sức mạnh để vượt qua mọi trở lực.
-Yêu thương là kim chỉ nam hướng con người đến cuộc sống tinh thần lành mạnh.
-Yêu thương và được yêu thương sẽ luôn là ước mơ chính đáng, quyền lợi của mọi người.

Đề 4: Em hãy viết một bài nghị luận từ ý nghĩa của câu chuyện sau:
Hoa hồng tặng mẹ
GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 43
Anh dừng lại tiệm bán hoa để gửi hoa tặng mẹ qua đường bưu điện. Mẹ anh sống cách
chỗ anh khoảng 300km. Khi bước ra khỏi xe, anh thấy một bé gái đang đứng khóc bên vỉa hè.
Anh đến và hỏi nó sao lại khóc.
-Cháu muốn mua một bông hoa hồng để tặng mẹ cháu-Nó khóc nức nở nhưng cháu chỉ có bảy
mươi lăm xu trong khi giá hoa hồng đến hai đô la.
Anh mỉm cười và nói với nó:
-Đến đây, chú sẽ mua cho cháu.
Anh liền mua hoa cho cô bé và lại đặt một bó hồng để gửi cho mẹ anh. Xong xuôi, anh hỏi cô
bé có cần đi nhờ xe về nhà không . Nó vui mừng nhìn anh và trả lời:
-Dạ chú cho cháu đi nhờ đến nhà mẹ cháu
Rồi nó chỉ cho hướng anh lái xe đến một nghĩa trang, nơi có một phần mộ vừa mới đắp. Nó
chỉ ngôi mộ và nói:
-Đây là nhà của mẹ cháu.
Nói xong, nó ân cần đặt nhánh hoa hồng lên mộ.
Tức thì anh quay lại tiệm bán hoa hủy bỏ dịch vụ vừa gửi hoa vừa rồi và mua một bó hồng thật
đẹp. Suốt đêm đó, anh đã lái một mạch 300km về nhà mẹ anh để trao tận tay bà bó hoa.
Gợi ý:
1-Ý nghĩa câu chuyện:
-Một cậu con trai sống xa nhà ba trăm cây số nhưng vẫn nhớ đến mẹ trong ngày lễ tết để gửi điện
hoa về chúc mừng. Một bé gái nhỏ tuổi, tuy mẹ không còn nhưng em vẫn nhớ đến mẹ, vẫn yêu
thương mẹ như lúc mẹ em chưa qua đời. Em đã khóc khi không đủ tiền mua hoa và hân hoan
khi được mang hoa đến đặt lên mộ mẹ.
-Ý nghĩa: Câu chuyện nhắc nhở chúng ta phải biết tri ân, phải biết yêu thương đúng lúc, đúng
cách.
2-Bàn luận, mở rộng vấn đề:
-Trong mọi tình cảm, có thể nói mẫu tử là thứ tình cảm cao đẹp hơn cả.
-Ngợi ca những người con hiếu thảo cũng cần thiết phải phê phán, lên án những đứa con vô tâm.
-Bài học: với tư cách người con, người viết tự nhận thức về hành động của mình.

Đề bài : Nêu suy nghĩ của em về câu chuyện sau :


HỘP KEM
GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 44
Chị ơi, xin lỗi chị có thể đổi lại cho em hộp kem loại năm ngàn được không ạ ?
Cô chủ quán lộ rõ vẻ khó chịu khi đang định đặt hộp kem loại mười ngàn xuống cho vị
khách nhỏ.
Như không để ý đến ánh mắt xem thường của cô gái, chỉ sau một loáng cậu bé đã ăn hết
hộp kem. Tiến đến quầy trả tiền với tờ mười ngàn duy nhất trên tay, cậu bé nói nhỏ với cô gái
-Chị vui lòng gửi phần tiền còn lại cho bác có đứa nhỏ đang đứng trước quán giúp em nhé !
Cậu bé quay lưng, cô gái chợt lặng người nhìn ra cửa, nơi người đàn ông mù cầm cây đàn
đang đứng cạnh đứa con gái bé nhỏ mà ít phút trước đó đã bị cô mời ra khỏi quán.
Gợi ý :
Hình thức trình bày dưới dạng một bài văn nhỏ (gồm ba phần rõ ràng)
Nội dung :
-Câu chuyện khuyên mọi người cần có thái độ ứng xử nhã nhặn với mọi người xung quanh
(nhân vật em bé trong truyện)
-Giáo dục lòng yêu thương con người, biết giúp đỡ mọi người khi họ gặp khó khăn (hình ảnh cha
con người đàn ông mù)
-Câu chuyện còn nhắc nhở những người chưa biết quan tâm tới người khác cần suy xét lại hành
vi của mình (cái lặng người của cô chủ quán)
-Câu chuyện mang ý nghĩa nhân văn cao đẹp ( cử chỉ nhỏ mà ý nghĩa lớn)

Đề bài: Văn bản "Lỗi lầm và sự biết ơn" khép lại với thông điệp: "Hãy học cách viết những đau
buồn, thù hận lên cát và khắc ghi những ân nghĩa lên đá"
Bài làm
I-MB:
" Có gì đẹp trên đời hơn thế
Người với người sống để yêu nhau"
(Tố Hữu)
Con người sinh ra và lớn lên trên cõi đời nay đã là một điều kì diệu và còn kì diệu hơn nữa
nếu bản thân ta làm cho cuộc sống trở nên có ý nghĩa. Nhưng ý nghĩa của nỗi cuộc đời nằm ở
đâu? Ấy là khi ta biết yêu thương nhau biết tha thứ và có lòng vị tha : "Hãy học cách viết những
đau buồn, thù hận lên cát và khắc ghi những ân nghĩa lên đá". Chính khoảnh khắc đó bạn đã
làm cho cuộc đời mình mang ý nghĩa thực sự
II-TB:
Có khi nào bạn thắc mắc, cát và đá sẽ là những đôi cánh chắp tâm hồn bạn đến thế giới của
tình yêu thương? Có đấy! câu trả lời cực kì đơn giản. Khi bạn viết chữ lên cát thì cát dễ bị xóa đi
dấu vết vì cát bị gió thổi, nước cuốn trôi những giận hờn, oán ghét cũng như chữ viết trên cát sẽ
bay theo làn gió. Vậy nên, chính lúc đó bạn đang học cách tha thứ cho những người đã làm ta
đau lòng, tổn thương về lòng tự trọng hay những bất hạnh trong cuộc sống.
Ngược lại, nếu ta nhận những ân nghĩa từ người khác thì hãy khắc ghi nó lên đá. Bởi vì, đá
là một đồ vật vô tri, nó khó bị xóa đi dấu vết nhờ sự chắc bền. Nhờ vậy mà những điều tốt lành,
ân nghĩa sẽ luôn trường tồn, không gì có thể xóa nhòa. Chính khoảnh khắc đó, bạn đã học cách
ghi lòng, tạc dạ với những người đã mang lại sự may mắn, niềm vui và hạnh phúc cho mình.
Hãy học cách sống bao dung, có lòng vị tha và khắc ghi những ân nghĩa, ân tình đối với
những người đã giúp đỡ mình.
Bức thông điệp mà câu chuyện"Lỗi lầm và sự biết ơn" nói đến là bài học đẹp về lối sống ở
đời: lòng bao dung, vị tha được biểu hiện qua việc tha thứ, sẵn sàng bỏ qua lỗi lầm của người
khác, biết xóa đi những oán ghét, hận thù. Điều đó sẽ mang lại cảm giác thoải mái, nhẹ nhàng

GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 45
trong tâm hồn mỗi người, giúp người với người xích lại gần nhau hơn, khiến con người trở nên
cao thượng hơn.
Trong những truyền thống của dân tộc VN thì đạo đức là phẩm chất cao quý luôn dc đề cao.
Thế nhưng, cuốn theo chiều hút của guồng quay nhịp điệu cuộc sống thời "@" tình trạng đạo đức
ở một số thành phần thanh niên, học sinh đang xuống cấp trầm trọng. Sự biến tướng về mặt ngôn
ngữ trong giao tiếp, ăn nói thô tục, thiếu thiện chí làm mất đi sự trong sáng của tiếng Việt và
đánh giá trình độ văn hóa của mỗi người. Thậm chí, ngay trong thế giới học đường, đang diễn ra
ngày càng nhiều những xích mích và bạo lực học đường đang và đã là vấn đề nguy cấp cần giải
quyết là học sinh. Đang ngồi trên ghế nhà trường, chúng ta cần phải ý thức được những điều
trong giao tiếp. Đã là bạn bè thì phải yêu thương, nhường nhịn nhau và giải quyết các xung đột
bằng biện pháp hòa bình. Có như thế, cách đối nhân xử thế của mỗi người mới ngày được hoàn
thiện.
Cuộc sống chỉ trở nên tốt đẹp và có ý nghĩa khi con người biết tha thứ và nhận được sự tha
thứ từ người khác. Nhưng trong thực tế cuộc sống có rất nhiều người mang lối sống vị kỉ, thờ ơ
ghẻ lạnh. Họ ít chấp nhận thiếu sót, sai lầm của người khác, họ chỉ biết nhận mà không biết cho,
họ sống ích kỉ và vô ơn bạc nghĩa. Họ không được tận hưởng những giây phút nhẹ nhàng thanh
thản trong tâm hồn. Chúng ta đang sống trong thời đại mà tất cả mọi người phải đối mặt với
hàng loạt những vấn nạn, tệ nạn cần sự chung tay góp sức của cả một cộng đồng. Chỉ nói đến
các loại dịch bệnh ba mươi năm trở lại đây cũng đủ để hình dung đ/nước sẽ ra sao nếu như
không có sư chung tay góp sức của mọi người trong tập thể cộng đồng thì sự tương trợ, tương
thân tương ái là rất cần thiết. Hơn khi nào hết mỗi người phải có ý thức được điều đó. Bạn đã
đọc "Trăm năm cô đơn" của nhà văn Côlumbia G.G. Maiqueis có khiến bạn rùng mình sợ hãi.
Nỗi cô đơn của người da đỏ bản xứ ngay trên quê hương mình thời thực dân Tây Ban Nha. Tất
nhiên tôi không có ý nói đó là kết quả của sự thờ ơ ghẻ lạnh. Nhưng điều tất yếu đó là hệ quả của
sự thờ ơ, ghẻ lạnh. Và nỗi cô đơn nào cũng như nhau mà thôi. Dù bạn có giàu có hay không
nhưng nếu bạn chỉ biết sống cho mình mà không biết nghĩ đến người khác, không bạn bè, không
người thân, không được yêu thương. Cuộc sống ấy sẽ buồn chán biết nhường nào! Nó chẳng có ý
nghĩa gì cả.
Như vậy, muốn được sống một cuộc sống mang ý nghĩa thì mỗi con người cần phải rèn
luyện cách ứng xử trong giao tiếp ngay từ tấm bé. Nhưng tôi nghĩ rằng không khó để chúng ta ý
thức và nhận biết được đâu là đúng, sai nhưng điều quan trọng là mỗi người phải tự rút ra bài học
cho chính mình:"Hãy học cách viết những đau buồn, thù hận lên cát và khắc ghi những ân
nghĩa lên đá". Có như thế tình yêu thương mới ở mãi với lòng người.

GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 46
ĐỀ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI LÓP 9
MÔN: NGỮ VĂN
NĂM HỌC : 2014 - 2015
( Thời gian làm bài : 150 phút)

Câu 1. (4,0 điểm)


Hãy chỉ ra biện pháp tu từ từ vựng và ý nghĩa của chúng trong các câu thơ sau:
a. “Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu”
(Ông đồ, Vũ Đình Liên)
b. Để miêu tả cảnh biệt li của Thúy Kiều với gia đình, đại thi hào Nguyễn Du viết:
“Đau lòng kẻ ở người đi
Lệ rơi thấm đá, tơ chia rũ tằm”
(Truyện Kiều, Nguyễn Du)
c. “Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”
GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 47
(Bếp lửa, Bằng Việt)

Câu 2: ( 6,0 điểm)

NGƯỜI ĂN XIN
Một người ăn xin đã già. Đôi mắt ông đỏ hoe, nước mắt ông giàn giụa, đôi môi tái nhợt,
áo quần tả tơi. Ông chìa tay xin tôi.
Tôi lục hết túi nọ đến túi kia, không có lấy một xu, không có cả khăn tay, chẳng có gì hết.
Ông vẫn đợi tôi. Tôi chẳng biết làm thế nào. Bàn tay tôi run run nắm chặt lấy bàn tay run rẩy
của ông:
- Xin ông đừng giận cháu! Cháu không có gì cho ông cả.
- Ông nhìn tôi chăm chăm, đôi môi nở nụ cười:
- Cháu ơi, cảm ơn cháu! Như vậy là cháu đã cho lão rồi.
Khi ấy tôi chợt hiểu ra: cả tôi nữa, tôi cũng vừa nhận được một cái gì đó của ông.
(Theo Tuốc-ghê-nhép, Ngữ văn 9, tập một, NXB Giáo dục 2009, tr.22)
Từ câu chuyện trên, em hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 300 từ) bàn về lòng nhân ái của
con người trong cuộc sống.
Câu 3: (10 điểm)
Phân tích những thành công về nghệ thuật miêu tả, khắc họa nhân vật của thi hào Nguyễn Du
qua các đoạn trích Truyện Kiều em đã học và đọc thêm.

HƯỚNG DẪN CHẤM VÀ BIỂU ĐIỂM


ĐỀ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI HUYỆN
Môn: Ngữ văn lớp 9
Năm học 2014 – 2015
Thời gian làm bài: 150 phút (Không kể giao đề)
Câu 1: ( 2,0 điểm)
Học sinh có thể làm theo những cách khác nhau nhưng phải nêu được các ý sau:
- Đây là lời thoại của nhân vật Vũ Nương nói với Trương Sinh trong cảnh trở về ở phần kết
“Chuyện người con gái Nam Xương” – Nguyễn Dữ (0,25điểm)
- Ý nghĩa của lời thoại:
+ Khẳng định và hoàn thiện vẻ đẹp của nhân vật Vũ Nương: trọng ơn nghĩa, bao dung độ lượng
và khao khát được phục hồi danh dự. (1,0 điểm)
+ Góp phần tạo nên một kết thúc vừa có hậu vừa mang tính bi kịch: mặc dù Vũ Nương được giải
oan nhưng sự mất mát của nàng thì không thể bù đắp được. (0,5 điểm)
+ Góp phần tố cáo xã hội phong kiến bất công, không cho con người có quyền được sống hạnh
phúc nơi trần thế. (0,25 điểm)
Câu 2: (3,0 điểm)
Bài làm có thể trình bày theo những cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau:
- Đoạn thơ đã khắc họa được một bức tranh đồng quê mùa gặt thật đẹp. Đó là hình ảnh đồng lúa
GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 48
chín được miêu tả với màu vàng của đồng lúa, của nắng; âm thanh của tiếng hát, của không khí
lao động; hình ảnh gần gũi, sống động, nên thơ, hữu tình (“Cánh cò dẫn gió qua thung lúa vàng”,
“Long lanh lưỡi hái liếm ngang chân trời”).
- Bức tranh đã thể hiện được niềm vui rộn ràng của người nông dân trước vụ mùa bội thu.
- Bức tranh đồng quê mùa gặt được khắc họa bằng những nét nghệ thuật đặc sắc: hình ảnh nhân
hóa, ẩn dụ, nói quá, liên tưởng thú vị, tinh tế (đồng chiêm phả nắng lên không, cánh cò dẫn gió,
gió nâng tiếng hát chói chang, lưỡi hái liếm ngang chân trời… ); thể thơ lục bát quen thuộc; từ
ngữ gợi hình, gợi cảm (phả, chói chang, long lanh, liếm).
Câu 3: (5,0 điểm)
Bài làm có thể trình bày theo những cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau:
* Sự vận động của cảnh thiên nhiên trong hai đoạn trích:
- Nguyễn Du rất tinh tế khi tả cảnh thiên nhiên. Nhà thơ luôn nhìn cảnh vật trong sự vận động
theo thời gian và tâm trạng nhân vật. Cảnh và tình luôn gắn bó, hòa quyện.
+ Sự vận động của cảnh thiên nhiên trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân”:
./ Bốn câu mở đầu đoạn thơ là cảnh ngày xuân tươi sáng, trong trẻo, tinh khôi, mới mẻ và tràn
đầy sức sống; hình ảnh quen thuộc nhưng mới mẻ trong cách cảm nhận của thi nhân, màu sắc hài
hòa đến tuyệt diệu, từ ngữ tinh tế, nghệ thuật ẩn dụ, đảo ngữ… (dẫn thơ và phân tích)
./ Sáu câu cuối đoạn trích vẫn là cảnh thiên nhiên ngày xuân nhưng khi chiều về lại có sự thay
đổi theo thời gian và theo tâm trạng con người. Cảnh vẫn mang cái thanh, cái dịu nhưng mọi
chuyển động đều rất nhẹ nhàng, nhuốm màu tâm trạng: hình ảnh xinh xắn, nên thơ; sử dụng tinh
tế, khéo léo những từ láy gợi hình, gợi cảm (dẫn thơ và phân tích).
+ Sự vận động của cảnh thiên nhiên trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”:
./ Sáu câu mở đầu đoạn thơ là cảnh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích với vẻ đẹp hoang sơ, lạnh
lẽo, vắng vẻ, mênh mông, rợn ngợp, đượm buồn: hình ảnh ước lệ (núi, trăng, cồn cát, bụi hồng),
từ ngữ gợi hình gợi cảm (bốn bề bát ngát, xa – gần, nọ – kia…) (dẫn thơ và phân tích).
./ Tám câu thơ cuối đoạn trích vẫn là cảnh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích nhưng đã có sự vận
động theo dòng tâm trạng con người. Ngòi bút điêu luyện của Nguyễn Du đã thể hiện khá sinh
động bức tranh thiên nhiên với những cảnh vật cụ thể được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ
nhạt sang đậm, âm thanh từ tĩnh đến động: hình ảnh ẩn dụ, ước lệ (cửa bể chiều hôm, cánh
buồm, con thuyền, ngọn nước, cánh hoa, nội cỏ, chân mây, sóng gió); hệ thống từ láy gợi tả, gợi
cảm (thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, xanh xanh, ầm ầm.)
* Sự vận động của tâm trạng con người trong hai đoạn trích:
- Nguyễn Du không chỉ tinh tế khi tả cảnh thiên nhiên mà còn rất tài tình khi khắc họa tâm trạng
con người. Tâm trạng của nhân vật trong “Truyện Kiều” luôn có sự vận động theo thời gian,
không gian và cảnh ngộ.
+ Sự vận động của tâm trạng con người trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân”: Tâm trạng nhân vật
có sự biến đổi theo thời gian, không gian ngày xuân. Thiên nhiên ngày xuân tươi đẹp, lễ hội mùa
xuân đông vui, lòng người cũng nô nức, vui tươi, hạnh phúc, hào hứng, phấn khởi, tha thiết yêu
thiên nhiên, yêu cuộc sống. Nhưng khi lễ hội tan, cảnh xuân nhạt dần, tâm trạng con người trở
nên bâng khuâng, xao xuyến, nuối tiếc, buồn man mác: không khí lễ hội vui tươi, rộn ràng, nhộn
nhịp qua hệ thống danh từ, động từ, tính từ kép và những hình ảnh ẩn dụ, so sánh sinh động; bút
pháp tả cảnh ngụ tình điêu luyện qua những từ láy như: tà tà, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao
(phân tích dẫn chứng).
+ Sự vận động của tâm trạng con người trong “Kiều ở lầu Ngưng Bích”: Tâm trạng con người có
sự biến đổi khá rõ rệt. Từ tâm trạng bẽ bàng, tủi hổ, nặng suy tư khi đối diện với chính nỗi niềm
của mình nơi đất khách quê người, Thúy Kiều đã day dứt, dày vò khi tưởng nhớ đến chàng Kim
và lo lắng, xót xa khi nghĩ về cha mẹ, để rồi càng đau đớn, tuyệt vọng, lo sợ, hãi hùng khi đối
diện với cảnh ngộ trớ trêu, với tương lai mịt mờ, tăm tối của cuộc đời mình. (Phân tích dẫn
chứng để làm nổi bật nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật bằng ngôn ngữ độc thoại nội tâm, bút
GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 49
pháp tả cảnh ngụ tình, hình ảnh ẩn dụ ước lệ, điển cố điển tích, điệp ngữ, câu hỏi tu từ, các từ láy
giàu sắc thái gợi tả gợi cảm…)

 Khái quát và nhấn mạnh: tài năng tả cảnh, tả tình và tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du
trong “Truyện Kiều”; giá trị nội dung, nghệ thuật và sức sống của tác phẩm. (Có thể liên
hệ, mở rộng vấn đề)

ĐÁP ÁN CHẤM BÀI


Câu 1. (4.0 điểm) Yêu cầu học sinh trả lời được các câu hỏi:
a. Biện pháp tu từ: nhân hóa (buồn, sầu).
Ý nghĩa: Nỗi buồn tủi, cô đơn của ông đồ trong buổi suy tàn của nền Hán học. (1.0 điểm)
b. Biện pháp tu từ: tiểu đối (kẻ ở-người đi), nói quá (lệ rơi thấm đá), ẩn dụ (tơ chia rũ tằm).
- Ý nghĩa: Nỗi đau đớn đến đứt ruột của Thúy Kiều khi phải giã biệt gia đình, đồng thời thể hiện
tinh thần nhân đạo của Nguyễn Du dành cho nhân vật.(2.0 điểm)
c. Biện pháp tu từ: Điệp từ (nhóm).
Ý nghĩa: Hình ảnh người bà quen thuộc bên bếp lửa không chỉ nhóm những gì thân thuộc hữu
hình mà còn nuôi dưỡng những kí ức tuổi thơ của cháu. (1.0 điểm)
Câu 2. (6.0 điểm) Yêu cầu:
GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 50
a) Về kỹ năng: (2.0 điểm)
Học sinh biết trình bày suy nghĩ về một vấn đề tư tưởng, đạo lí thông qua một câu chuyện. Biết
viết thành bài văn rõ ràng, chặt chẽ. Bài viết mạch lạc, có cảm xúc, tránh lỗi dùng từ, diễn đạt,
chính tả…
b) Về nội dung: (4.0 điểm)
Bài viết có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần nêu được các ý:
- Truyện kể về việc cho và nhận của cậu bé và người ăn xin, qua đó ngợi ca cách ứng xử cao đẹp,
nhân ái giữa con người với con người.
- Sự đồng cảm, tình yêu thương chân thành và cách ứng xử lịch sự là món quà quý giá ta tặng
cho người khác.
- Và khi ta trao món quà tinh thần quý giá ấy ta cũng nhận được món quà quý giá tương tự.
- Truyện gợi cho chúng ta nhiều suy ngẫm về việc cho và nhận trong cuộc sống: cái cho và nhận
là gì? Đâu phải chỉ là vật chất, có thể là giá trị tinh thần, có khi chỉ là một câu nói, một cử chỉ…
và thái độ khi cho và nhận cần phải chân thành, có văn hóa.
- Xác định thái độ sống và cách ứng xử của bản thân: tôn trọng, quan tâm chia sẻ với mọi
người…
- Câu chuyện có tác dụng giáo dục lòng nhân ái cho mỗi chúng ta…
Câu 3. (10 điểm)
a) Về kỹ năng: (3.0 điểm)
- Học sinh nhận thức được yêu cầu về kiểu bài, nội dung, giới hạn…
- Biết làm bài văn nghị luận văn học: bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ; diễn đạt trong sáng, biểu
cảm; không mắc lỗi chính tả, dùng từ, viết câu…
b) Về nội dung: (7.0 điểm)
Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng phải bám sát yêu cầu của đề là nêu
bật được những thành công về nghệ thuật miêu tả, khắc họa nhân vật của thi hào Nguyễn Du
qua các đoạn trích Truyện Kiều đã học (giám khảo lưu ý thí sinh lạc sang phân tích nhân vật).
* Mở bài:
Dẫn dắt và đưa được vấn đề nghị luận – thành công về nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn
Du qua các đoạn trích Truyện Kiều.
* Thân bài :
+ Nghệ thuật miêu tả, khắc họa nhân vật
- Khắc họa chân dung nhân vật chính diện (Thúy Kiều, Thúy Vân) bằng bút pháp ước lệ, tượng
trưng (phân tích, chứng minh qua Chị em Thúy Kiều)
+ Thúy Vân có vẻ đẹp tươi tắn, đoan trang, phúc hậu. Vẻ đẹp như dự báo trước số phận yên ổn
của nàng sau này (thua, nhường)
+ Thúy Kiều đẹp sắc sảo mặn mà, lại còn có tài năng hơn người trong quan niệm thẩm mĩ thời
phong kiến: cầm, kì, thi, họa. Nàng còn là một cô gái có tâm hồn phong phú, sâu sắc, nhạy cảm.
Sắc đẹp, tài năng, tâm hồn của Kiều qua ngòi bút của Nguyễn Du đã dự báo trước tương lai số
phận đau khổ bất hạnh của nàng (ghen, hờn…)
- Khắc họa tính cách nhân vật qua miêu tả ngoại hình, ngôn ngữ, cử chỉ, hành động (phân tích,
chứng minh qua Mã Giám Sinh mua Kiều): Mã Giám Sinh là nhân vật phản diện, được khắc họa
bằng bút pháp tả thực. Hắn là một con buôn lưu manh, giả danh một Giám sinh đi hỏi vợ. Về
tính danh thì mập mờ. Về diện mạo thì trai lơ. Ngôn ngữ cộc lốc, hành động thô bỉ, xấc xược, vô
GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 51
lễ, ti tiện. Hắn lạnh lùng vô cảm trước những đau khổ của con người. Người đọc sẽ nhớ mãi chân
dung tên lái buôn họ Mã với những chi tiết đắt giá tót, cò kè…
- Miêu tả nội tâm nhân vật qua ngôn ngữ độc thoại và nghệ thuật tả cảnh ngụ tình (phân tích,
chứng minh qua Kiều ở lầu Ngưng Bích): Đoạn thơ là “một bức tranh tâm tình đầy xúc động”.
Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của thi hào trong đoạn thơ cho ta cảm nhận sâu sắc nỗi buồn tủi, cô
đơn, lo sợ… của nàng Kiều trước ngoại cảnh rộng lớn, heo hút, mịt mờ… Nghệ thuật độc thoại
nội tâm biểu lộ nỗi nhớ da diết của Kiều trong cảnh “bên trời góc bể bơ vơ”
- Khắc họa tính cách nhân vật qua ngôn ngữ đối thoại (Thúy Kiều báo ân báo oán).
+ Qua lời Kiều nói với Thúc Sinh, Hoạn Thư cho thấy nàng là người sắc xảo, trọng ân nghĩa,
bao dung, vị tha
+ Lời đối đáp của Hoạn Thư bộc lộ rõ tính cách “khôn ngoan”, “quỷ quái tinh ma” của

GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 52
ĐỀ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI HUYỆN
Môn: Ngữ văn lớp 9
Năm học 2014 – 2015
Thời gian làm bài: 150 phút (Không kể giao đề)
Câu 1 (2.0 điểm)
” – Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp
chẳng thể trở về nhân gian được nữa.” (SGK Ngữ văn 9, tập I, trang 48)
Ý nghĩa của lời thoại trên trong “Chuyện người con gái Nam Xương”- Nguyễn Dữ?
Câu 2 (3.0 điểm)
Cảm nhận của em về đoạn thơ:
“Đồng chiêm phả nắng lên không
Cánh cò dẫn gió qua thung lúa vàng
Gió nâng tiếng hát chói chang
Long lanh lưỡi hái liếm ngang chân trời.”
(Trích “Tiếng hát mùa gặt” – Nguyễn Duy)
Câu 3 (5.0 điểm)
Sự vận động của cảnh thiên nhiên và tâm trạng con người trong “Truyện Kiều” (Nguyễn Du) qua
đoạn trích “Cảnh ngày xuân” và “Kiều ở lầu Ngưng Bích”.
——————- Hết ———————

HƯỚNG DẪN CHẤM VÀ BIỂU ĐIỂM


ĐỀ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI HUYỆN
Môn: Ngữ văn lớp 9
Năm học 2014 – 2015
Thời gian làm bài: 150 phút (Không kể giao đề)
Câu 1: ( 2,0 điểm)
Học sinh có thể làm theo những cách khác nhau nhưng phải nêu được các ý sau:
- Đây là lời thoại của nhân vật Vũ Nương nói với Trương Sinh trong cảnh trở về ở phần kết
“Chuyện người con gái Nam Xương” – Nguyễn Dữ (0,25điểm)
- Ý nghĩa của lời thoại:
+ Khẳng định và hoàn thiện vẻ đẹp của nhân vật Vũ Nương: trọng ơn nghĩa, bao dung độ lượng
và khao khát được phục hồi danh dự. (1,0 điểm)
+ Góp phần tạo nên một kết thúc vừa có hậu vừa mang tính bi kịch: mặc dù Vũ Nương được giải
oan nhưng sự mất mát của nàng thì không thể bù đắp được. (0,5 điểm)
+ Góp phần tố cáo xã hội phong kiến bất công, không cho con người có quyền được sống hạnh
phúc nơi trần thế. (0,25 điểm)
Câu 2: (3,0 điểm)
Bài làm có thể trình bày theo những cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau:
- Đoạn thơ đã khắc họa được một bức tranh đồng quê mùa gặt thật đẹp. Đó là hình ảnh đồng lúa
chín được miêu tả với màu vàng của đồng lúa, của nắng; âm thanh của tiếng hát, của không khí
lao động; hình ảnh gần gũi, sống động, nên thơ, hữu tình (“Cánh cò dẫn gió qua thung lúa vàng”,
“Long lanh lưỡi hái liếm ngang chân trời”).
- Bức tranh đã thể hiện được niềm vui rộn ràng của người nông dân trước vụ mùa bội thu.
- Bức tranh đồng quê mùa gặt được khắc họa bằng những nét nghệ thuật đặc sắc: hình ảnh nhân
hóa, ẩn dụ, nói quá, liên tưởng thú vị, tinh tế (đồng chiêm phả nắng lên không, cánh cò dẫn gió,
gió nâng tiếng hát chói chang, lưỡi hái liếm ngang chân trời… ); thể thơ lục bát quen thuộc; từ
ngữ gợi hình, gợi cảm (phả, chói chang, long lanh, liếm).
GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 53
Câu 3: (5,0 điểm)
Bài làm có thể trình bày theo những cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau:
* Sự vận động của cảnh thiên nhiên trong hai đoạn trích:
- Nguyễn Du rất tinh tế khi tả cảnh thiên nhiên. Nhà thơ luôn nhìn cảnh vật trong sự vận động
theo thời gian và tâm trạng nhân vật. Cảnh và tình luôn gắn bó, hòa quyện.
+ Sự vận động của cảnh thiên nhiên trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân”:
./ Bốn câu mở đầu đoạn thơ là cảnh ngày xuân tươi sáng, trong trẻo, tinh khôi, mới mẻ và tràn
đầy sức sống; hình ảnh quen thuộc nhưng mới mẻ trong cách cảm nhận của thi nhân, màu sắc hài
hòa đến tuyệt diệu, từ ngữ tinh tế, nghệ thuật ẩn dụ, đảo ngữ… (dẫn thơ và phân tích)
./ Sáu câu cuối đoạn trích vẫn là cảnh thiên nhiên ngày xuân nhưng khi chiều về lại có sự thay
đổi theo thời gian và theo tâm trạng con người. Cảnh vẫn mang cái thanh, cái dịu nhưng mọi
chuyển động đều rất nhẹ nhàng, nhuốm màu tâm trạng: hình ảnh xinh xắn, nên thơ; sử dụng tinh
tế, khéo léo những từ láy gợi hình, gợi cảm (dẫn thơ và phân tích).
+ Sự vận động của cảnh thiên nhiên trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”:
./ Sáu câu mở đầu đoạn thơ là cảnh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích với vẻ đẹp hoang sơ, lạnh
lẽo, vắng vẻ, mênh mông, rợn ngợp, đượm buồn: hình ảnh ước lệ (núi, trăng, cồn cát, bụi hồng),
từ ngữ gợi hình gợi cảm (bốn bề bát ngát, xa – gần, nọ – kia…) (dẫn thơ và phân tích).
./ Tám câu thơ cuối đoạn trích vẫn là cảnh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích nhưng đã có sự vận
động theo dòng tâm trạng con người. Ngòi bút điêu luyện của Nguyễn Du đã thể hiện khá sinh
động bức tranh thiên nhiên với những cảnh vật cụ thể được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ
nhạt sang đậm, âm thanh từ tĩnh đến động: hình ảnh ẩn dụ, ước lệ (cửa bể chiều hôm, cánh
buồm, con thuyền, ngọn nước, cánh hoa, nội cỏ, chân mây, sóng gió); hệ thống từ láy gợi tả, gợi
cảm (thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, xanh xanh, ầm ầm.)
* Sự vận động của tâm trạng con người trong hai đoạn trích:
- Nguyễn Du không chỉ tinh tế khi tả cảnh thiên nhiên mà còn rất tài tình khi khắc họa tâm trạng
con người. Tâm trạng của nhân vật trong “Truyện Kiều” luôn có sự vận động theo thời gian,
không gian và cảnh ngộ.
+ Sự vận động của tâm trạng con người trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân”: Tâm trạng nhân vật
có sự biến đổi theo thời gian, không gian ngày xuân. Thiên nhiên ngày xuân tươi đẹp, lễ hội mùa
xuân đông vui, lòng người cũng nô nức, vui tươi, hạnh phúc, hào hứng, phấn khởi, tha thiết yêu
thiên nhiên, yêu cuộc sống. Nhưng khi lễ hội tan, cảnh xuân nhạt dần, tâm trạng con người trở
nên bâng khuâng, xao xuyến, nuối tiếc, buồn man mác: không khí lễ hội vui tươi, rộn ràng, nhộn
nhịp qua hệ thống danh từ, động từ, tính từ kép và những hình ảnh ẩn dụ, so sánh sinh động; bút
pháp tả cảnh ngụ tình điêu luyện qua những từ láy như: tà tà, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao
(phân tích dẫn chứng).
+ Sự vận động của tâm trạng con người trong “Kiều ở lầu Ngưng Bích”: Tâm trạng con người có
sự biến đổi khá rõ rệt. Từ tâm trạng bẽ bàng, tủi hổ, nặng suy tư khi đối diện với chính nỗi niềm
của mình nơi đất khách quê người, Thúy Kiều đã day dứt, dày vò khi tưởng nhớ đến chàng Kim
và lo lắng, xót xa khi nghĩ về cha mẹ, để rồi càng đau đớn, tuyệt vọng, lo sợ, hãi hùng khi đối
diện với cảnh ngộ trớ trêu, với tương lai mịt mờ, tăm tối của cuộc đời mình. (Phân tích dẫn
chứng để làm nổi bật nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật bằng ngôn ngữ độc thoại nội tâm, bút
pháp tả cảnh ngụ tình, hình ảnh ẩn dụ ước lệ, điển cố điển tích, điệp ngữ, câu hỏi tu từ, các từ láy
giàu sắc thái gợi tả gợi cảm…)

 Khái quát và nhấn mạnh: tài năng tả cảnh, tả tình và tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du
trong “Truyện Kiều”; giá trị nội dung, nghệ thuật và sức sống của tác phẩm. (Có thể liên
hệ, mở rộng vấn đề)

GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 54
ĐỀ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI LÓP 9
MÔN: NGỮ VĂN
NĂM HỌC : 2014 - 2015
( Thời gian làm bài : 150 phút)

Câu 1. (4,0 điểm)


Hãy chỉ ra biện pháp tu từ từ vựng và ý nghĩa của chúng trong các câu thơ sau:
a. “Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu”
(Ông đồ, Vũ Đình Liên)
b. Để miêu tả cảnh biệt li của Thúy Kiều với gia đình, đại thi hào Nguyễn Du viết:
“Đau lòng kẻ ở người đi
Lệ rơi thấm đá, tơ chia rũ tằm”
(Truyện Kiều, Nguyễn Du)
c. “Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”
(Bếp lửa, Bằng Việt)

Câu 2: ( 6,0 điểm)

NGƯỜI ĂN XIN
Một người ăn xin đã già. Đôi mắt ông đỏ hoe, nước mắt ông giàn giụa, đôi môi tái nhợt,
áo quần tả tơi. Ông chìa tay xin tôi.
Tôi lục hết túi nọ đến túi kia, không có lấy một xu, không có cả khăn tay, chẳng có gì hết.
Ông vẫn đợi tôi. Tôi chẳng biết làm thế nào. Bàn tay tôi run run nắm chặt lấy bàn tay run rẩy
của ông:
GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 55
- Xin ông đừng giận cháu! Cháu không có gì cho ông cả.
- Ông nhìn tôi chăm chăm, đôi môi nở nụ cười:
- Cháu ơi, cảm ơn cháu! Như vậy là cháu đã cho lão rồi.
Khi ấy tôi chợt hiểu ra: cả tôi nữa, tôi cũng vừa nhận được một cái gì đó của ông.
(Theo Tuốc-ghê-nhép, Ngữ văn 9, tập một, NXB Giáo dục 2009, tr.22)
Từ câu chuyện trên, em hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 300 từ) bàn về lòng nhân ái của
con người trong cuộc sống.
Câu 3: (10 điểm)
Phân tích những thành công về nghệ thuật miêu tả, khắc họa nhân vật của thi hào Nguyễn Du
qua các đoạn trích Truyện Kiều em đã học và đọc thêm.

ĐÁP ÁN CHẤM BÀI


Câu 1. (4.0 điểm) Yêu cầu học sinh trả lời được các câu hỏi:
a. Biện pháp tu từ: nhân hóa (buồn, sầu).
Ý nghĩa: Nỗi buồn tủi, cô đơn của ông đồ trong buổi suy tàn của nền Hán học. (1.0 điểm)
b. Biện pháp tu từ: tiểu đối (kẻ ở-người đi), nói quá (lệ rơi thấm đá), ẩn dụ (tơ chia rũ tằm).
- Ý nghĩa: Nỗi đau đớn đến đứt ruột của Thúy Kiều khi phải giã biệt gia đình, đồng thời thể hiện
tinh thần nhân đạo của Nguyễn Du dành cho nhân vật.(2.0 điểm)
c. Biện pháp tu từ: Điệp từ (nhóm).
Ý nghĩa: Hình ảnh người bà quen thuộc bên bếp lửa không chỉ nhóm những gì thân thuộc hữu
hình mà còn nuôi dưỡng những kí ức tuổi thơ của cháu. (1.0 điểm)
Câu 2. (6.0 điểm) Yêu cầu:
a) Về kỹ năng: (2.0 điểm)
Học sinh biết trình bày suy nghĩ về một vấn đề tư tưởng, đạo lí thông qua một câu chuyện. Biết
viết thành bài văn rõ ràng, chặt chẽ. Bài viết mạch lạc, có cảm xúc, tránh lỗi dùng từ, diễn đạt,
chính tả…
b) Về nội dung: (4.0 điểm)
Bài viết có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần nêu được các ý:
- Truyện kể về việc cho và nhận của cậu bé và người ăn xin, qua đó ngợi ca cách ứng xử cao đẹp,
nhân ái giữa con người với con người.
- Sự đồng cảm, tình yêu thương chân thành và cách ứng xử lịch sự là món quà quý giá ta tặng
cho người khác.
- Và khi ta trao món quà tinh thần quý giá ấy ta cũng nhận được món quà quý giá tương tự.

GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 56
- Truyện gợi cho chúng ta nhiều suy ngẫm về việc cho và nhận trong cuộc sống: cái cho và nhận
là gì? Đâu phải chỉ là vật chất, có thể là giá trị tinh thần, có khi chỉ là một câu nói, một cử chỉ…
và thái độ khi cho và nhận cần phải chân thành, có văn hóa.
- Xác định thái độ sống và cách ứng xử của bản thân: tôn trọng, quan tâm chia sẻ với mọi
người…
- Câu chuyện có tác dụng giáo dục lòng nhân ái cho mỗi chúng ta…
Câu 3. (10 điểm)
a) Về kỹ năng: (3.0 điểm)
- Học sinh nhận thức được yêu cầu về kiểu bài, nội dung, giới hạn…
- Biết làm bài văn nghị luận văn học: bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ; diễn đạt trong sáng, biểu
cảm; không mắc lỗi chính tả, dùng từ, viết câu…
b) Về nội dung: (7.0 điểm)
Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng phải bám sát yêu cầu của đề là nêu
bật được những thành công về nghệ thuật miêu tả, khắc họa nhân vật của thi hào Nguyễn Du
qua các đoạn trích Truyện Kiều đã học (giám khảo lưu ý thí sinh lạc sang phân tích nhân vật).
* Mở bài:
Dẫn dắt và đưa được vấn đề nghị luận – thành công về nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn
Du qua các đoạn trích Truyện Kiều.
* Thân bài :
+ Nghệ thuật miêu tả, khắc họa nhân vật
- Khắc họa chân dung nhân vật chính diện (Thúy Kiều, Thúy Vân) bằng bút pháp ước lệ, tượng
trưng (phân tích, chứng minh qua Chị em Thúy Kiều)
+ Thúy Vân có vẻ đẹp tươi tắn, đoan trang, phúc hậu. Vẻ đẹp như dự báo trước số phận yên ổn
của nàng sau này (thua, nhường)
+ Thúy Kiều đẹp sắc sảo mặn mà, lại còn có tài năng hơn người trong quan niệm thẩm mĩ thời
phong kiến: cầm, kì, thi, họa. Nàng còn là một cô gái có tâm hồn phong phú, sâu sắc, nhạy cảm.
Sắc đẹp, tài năng, tâm hồn của Kiều qua ngòi bút của Nguyễn Du đã dự báo trước tương lai số
phận đau khổ bất hạnh của nàng (ghen, hờn…)
- Khắc họa tính cách nhân vật qua miêu tả ngoại hình, ngôn ngữ, cử chỉ, hành động (phân tích,
chứng minh qua Mã Giám Sinh mua Kiều): Mã Giám Sinh là nhân vật phản diện, được khắc họa
bằng bút pháp tả thực. Hắn là một con buôn lưu manh, giả danh một Giám sinh đi hỏi vợ. Về
tính danh thì mập mờ. Về diện mạo thì trai lơ. Ngôn ngữ cộc lốc, hành động thô bỉ, xấc xược, vô
lễ, ti tiện. Hắn lạnh lùng vô cảm trước những đau khổ của con người. Người đọc sẽ nhớ mãi chân
dung tên lái buôn họ Mã với những chi tiết đắt giá tót, cò kè…
- Miêu tả nội tâm nhân vật qua ngôn ngữ độc thoại và nghệ thuật tả cảnh ngụ tình (phân tích,
chứng minh qua Kiều ở lầu Ngưng Bích): Đoạn thơ là “một bức tranh tâm tình đầy xúc động”.
Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của thi hào trong đoạn thơ cho ta cảm nhận sâu sắc nỗi buồn tủi, cô
đơn, lo sợ… của nàng Kiều trước ngoại cảnh rộng lớn, heo hút, mịt mờ… Nghệ thuật độc thoại
nội tâm biểu lộ nỗi nhớ da diết của Kiều trong cảnh “bên trời góc bể bơ vơ”
- Khắc họa tính cách nhân vật qua ngôn ngữ đối thoại (Thúy Kiều báo ân báo oán).
+ Qua lời Kiều nói với Thúc Sinh, Hoạn Thư cho thấy nàng là người sắc xảo, trọng ân nghĩa,
bao dung, vị tha
+ Lời đối đáp của Hoạn Thư bộc lộ rõ tính cách “khôn ngoan”, “quỷ quái tinh ma” của
GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 57
PHẦN HAI
HƯỚNG DẪN LÀM NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
BÀI 1
I-MỘT SỐ KĨ NĂNG LÀM NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
Để có thể triển khai tốt một bài văn nghị luận xã hội, cần thành thạo các kĩ năng cơ bản
sau:
1-Phân tích đề, tìm hiểu đề:
-Đọc kĩ đề, chú ý những từ quan trọng, những khái niệm khó, nghĩa đen, nghĩa bóng của từ ngữ,
nghĩa tường minh, hàm ẩn của câu, đoạn. Chia vế, chia đoạn, tìm hiểu mối tương quan giữa các
vế: song song, chính phụ, nhân quả, tăng tiến hay đối lập…
-Phần phân tích đề phải xác định được ba yêu cầu sau:
+Vấn 1đề cần nghị luận là gì? Có bao nhiêu ý cần triển khai? Mối quan hệ giữa các ý như thế
nào?
+Sử dụng thao tác lập luận gì là chính?
+Phạm vi tư liệu của bài viết: thuộc lĩnh vực xã hội nào, pham vi, ảnh hưởng…
Đây là thao tác quan trọng và cần thiết giúp người đọc phát hiện ra vấn đề cần nghị luận trong
yêu cầu của đề bài và triển khai đúng theo yêu cầu của đề. Thao tác này có ý nghĩa quyết định
đến chất lượng bài viết, cần phải có sự đầu tư thích đáng.
2-Lập dàn ý:
lập dàn ý bài nghị luận xã hội theo các bước sau:
-Xác định các luận điểm (ý lớn)
+Đề bài có nhiều ý thì ứng với mỗi ý là một luận điểm.
+Đề bài có một ý thì ý nhỏ hơn cụ thể của ý đó được xem là những luận điểm.
-Tìm luận cứ (ý nhỏ) cho các luận điểm: Mỗi luận điểm cần được cụ thể hóa thành nhiều ý nhỏ
hơn gọi là luận cứ. Số lượng ý nhỏ và cách triển khai tùy thuộc vào ý lớn.
-Lập dàn ý gồm ba phần:
a-MB: Giới thiệu vấn đề xã hội cần nghị luận.
b-TB: Triển khai nội dung theo các ý nhỏ và ý lớn đã tìm.
c-KB: Tổng kết nội dung đã trình bày, liên hệ
II-CÁC THAO TÁC LẬP LUẬN TRONG BÀI NGHỊ LUẬN XÃ HỘI:
1-Giải thích:

GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 58
Giải thích là vận dụng tri thức lí giải cho người khác hiểu vấn đề mà mình đề cập tới. Trong
một bài văn nghị luận xã hội, thao tác giải thích thể hiện cụ thể trước hết ở việc giải nghĩa
( nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa hẹp, nghĩa mở rộng) của các khái niệm, các từ ngữ khó hiểu …
trên cơ sở đó giải thích toàn bộ vấn đề (chú ý đến nghĩa tường minh và nghĩa hàm ẩn). Trong các
thao tác giải thích, người viết vừa dùng lí lẽ để phân tích, lí giải vừa dùng dẫn chứng để làm sáng
tỏ vấn đề, xác lập một cách hiểu đúng đắn, có tính biện chứng, chống lại những cách hiểu sai,
hiểu không đầy đủ về vấn đề xã hội đã được đưa ra.
2-Chứng minh:
Chứng minh là đưa ra những cứ liệu, dẫn chứng xác đáng để làm sáng tỏ một lí lẽ, một ý
kiến, làm sáng tỏ vấn đề xã hội đang bàn luận, thuyết phục người đọc, người nghe tin tưởng vào
vấn đề đang được nghị luận
VD: Tuổi trẻ học đường suy nghĩ và hành động để góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông.
Để làm sáng tỏ vấn đề, cần đưa ra dẫn chứng chứng minh cho các luận điểm:
-Thực trạng tai nạn giao thông
-Hậu quả của vấn đề
-Các hành động của tuổi trẻ học đường trong việc góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông.
3-Phân tích:
Phân tích là việc chia tách đối tượng, sự vật, hiện tượng thành nhiều bộ phận, yếu tố nhỏ để đi
sâu xem xét kĩ lưỡng nội dung và mối liên hệ bên trong của đối tượng.
4-Bình luận:
-Là bàn bạc đánh giá vấn đề , sự việc, hiện tượng chỉ ra sự đúng sai, phải trái, tốt –xấu, lợi
–hại…để nhận thức đối tượng, có cách ứng xử phù hợp, phương châm hành động đúng. Đây là
thao tác có tính tổng hợp vì nó bao hàm cả công việc giải thích lẫn chứng minh nhằm mở rộng,
nâng cao vấn đề. Việc bình luận dựa trên sự nhìn nhận vấn đề một cách toàn diện, khách quan;
có lập trường tư tưởng đúng đắn, rõ ràng.
Như đã trình bày ở trên, một bài văn nghị luận thường là sự kết hợp của nhiều thao tác lập
luận, trong đó, tùy theo từng yêu cầu và vấn đề nghị luận nêu ra ở đề bài mà lựa chọn và sử dụng
thao tác nào là thao tác chính. Không thể sử dụng một thao tác lập luận duy nhất, làm cho vấn
đề bàn luận trở nên thiếu sức thuyết phục, không thấu đáo.
III-CÁCH LÀM CÁC DẠNG ĐỀ VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI:
1-Nghị luận về một tư tưởng đạo lí:
Đề tài của dạng bài này vô cùng phong phú. Nó bao gồm các vấn đề về nhận thức(lí tưởng,
mục đích sống…) về tâm hồn, tính cách (lòng yêu nước, lòng nhân ái, tính trung thực…) về các
quan hệ gia đình, xã h, cách ứng xử ….
Ví dụ:
-Tình yêu thương là hạnh phúc của con người
Để làm tốt dạng đề này cần chú ý
-Giới thiệu, giải thích tư tưởng, đạo lí cần nghị luận.
-Phân tích các mặt đúng, bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan đến vấn đề nghị luận.
-Nêu ý nghĩa, rút ra bài học về tư tưởng đạo lí và hành động. Đây là vấn đề cơ bản của một bài
nghị luận bởi mục đích của việc nghị luận là rút ra những kết luận đúng để thuyết phục người
đọc áp dụng vấn đề vào thực tiễn đời sống.
-Lấy dẫn chứng minh họa (chủ yếu là các dẫn chứng trong thực tế đời sống)
2-Nghị luận về một hiện tượng đời sống:
-Nghị luận về một hiện tượng đời sống là bàn về một hiện tượng có ý nghĩa đối với đời sống xã
hội: cách thể hiện tình cảm gia đình, thực trạng trong xã hội, các vấn đề nóng bỏng mang tính
thời sự…
VD: Tuổi trẻ học đường suy nghĩ và hành động để góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông.
Để làm tốt dạng đề này cần chú ý những vấn đề sau:
GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 59
-Đặt hiện tượng đời sống vào hoàn cảnh cụ thể, xã hội thực tại, nhìn chúng dưới những điều kiện
xã hội cụ thể để có sự phân tích, lí giải, đánh giá đúng.
-Từ những điều đã phân tích, chỉ ra mặt đúng –sai, lợi –hại của hiện tượng.
-Lí giải nguyên nhân của hiện tượng trên, từ đó bày tỏ thái độ, ý kiến của người viết và đưa ra
giải pháp hợp lí cho vấn đề.
-Lấy dẫn chứng minh họa (chủ yếu là các dẫn chứng trong thực tế đời sống)
Từ căn cứ vào đối tượng nghị luận xã hội này, dựa theo nội dung và hình thức thể hiện của
đề nghị luận lại có thể chia thành các dạng đề nghị luận xã hội cơ bản sau:
-Đề bài yêu cầu nghị luận (trực tiếp) về một vấn đề thuộc lĩnh vực xã hội.
-Đề bài yêu cầu nghị luận về một vấn đề thuộc lĩnh vực xã hội được thể hiện qua một câu tục
ngữ, một câu danh ngôn, qua một ý thơ, ý văn…
-Đề bài yêu cầu nghị luận về một vấn đề thuộc lĩnh vực xã hội nhưng xuất phát từ sự thể hiện
của vấn đề đó trong văn học
Với mỗi dạng đề cụ thể như vậy, người viết cần có cách triển khai riêng để bài viết của mình
đáp ứng được yêu cầu của người ra đề.

BÀI 2
HƯỚNG DẪN CÁCH LÀM BÀI
Đề 1: Từ các nhân vật văn học thời chống Mĩ: anh thanh niên (Lặng lẽ Sa Pa –Nguyễn Thành
Long), người lính (Bài thơ về tiểu đội xe không kính-Phạm Tiến Duật), em có suy nghĩ gì về lối
sống đẹp trong xã hội hiện nay.
Gợi ý:
1-Giải thích: Lối sống là gì?
-Là cách sống của mỗi cá nhân trước thực tế cuộc sống (có mục đích hoặc không có mục đích).
2-Cảm nhận về lối sống tuổi trẻ thời chống Mĩ:
-Họ là những con người bình dị, có lí tưởng sống cao đẹp: giàu tình yêu thương (quê hương, đất
nước, con người, công việc) bất chấp mọi khó khăn nguy hiểm để cống hiến cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
3-Suy nghĩ về lối sống đẹp trong xã hội hiện nay:
-Có ý thức về cuộc sống cá nhân, xác định đúng đắn mục đích sống (sống vì ai? Sống vì cái gì?
Sống như thế nào?)
-Lối sống cá nhân phải phù hợp với quan điểm đạo đức xã hội và đạo lí dân tộc, biết gắn cá nhân
với cộng đồng, nhân loại.
-Lối sống đẹp là lối sống giàu tinh thần vị tha, rộng lượng, biết đoàn kết yêu thương, ầm thầm
cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
+Vị tha rộng lượng: biết sống vì người khác, đặt lợi ích người khác lên lợi ích của chính mình
(âm thầm cống hiến và hi sinh, đem tình yêu thương đến cho mọi người)
+Tinh thần đoàn kết tương thân tương ái giữa người với người
Vị tha, rộng lượng, đoàn kết, yêu thương có quan hệ mật thiết: không rộng lượng thì không
thể vị tha, không vị tha thì không có điểm tựa để đoàn kết, không đoàn kết thì không thể
sống bằng lòng yêu thương.
-Vậy muốn có lối sống đẹp phải thường xuyên trao đổi, học tập những kinh nghiệm, tấm gương
về lối sống của những người xung quanh để tự bồi đắp cho mình. Đặc biệt là tấm gương đạo đức,
tư tưởng HCM.
-Nên góp ý phê phán những quan niệm, lối sống không đúng đắn lành mạnh (hẹp hòi, vị kỉ,thực
dụng, cơ hội, keo kiệt tình thương, sống gấp không mục đích..)

GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 60
-Cần hướng đời sống cá nhân đến mục đích cao đẹp, thiêng liêng, tránh xa những điều tầm
thường giả dốicon người hãy biết yêu thương và quan tâm đến mọi người xung quanh, đừng lo
chăm chút vào cái hạnh phúc nhỏ bé của riêng mình.

Đề 2: Trong bài thơ "Một khúc ca xuân" nhà thơ Tố Hữu viết:
Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả?
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình.
Cùng qua điểm đó, Nguyễn Thành Long đã xây dựng thành công nhân vật anh thanh niên
trong truyện ngắn "Lặng lẽ Sa Pa" (Ngữ văn 9, tập một).
Từ vẻ đẹp của nhân vật này, em có suy nghĩ gì về lí tưởng sống của thanh niên?
Gợi ý:
I-MB:
-Nêu được vấn đề cần nghị luận: thanh niên phải sống có lí tưởng
II-TB:
1-Thế nào là sống có lí tưởng?
-Lí tưởng chính là mục đích sống cao đẹp. Sống đẹp là lối sống mình vì mọi người, thể hiện bằng
cống hiến hết mình trong học tập, trong công việc, để xây dựng quê hương, đất nước…
2-Vì sao thanh niên phải sống có lí tường?
-Vì:"Nếu không có mục đích, anh không làm được gì cả. Anh cũng không làm được gì vĩ đại
nếu như mục đích bình thường" (nhà văn Pháp Đ.Đi-đơ-rô)
3-Lí tưởng sống của thanh niên trong quá khứ (trong hai cuộc k/c chống Pháp và chống Mĩ)
-Dùng dẫn chứng trong các tác phẩm văn học, trong lịch sử để làm rõ..)
4-Lí tưởng sống của thanh trong hiện tại niên (thời kì hội nhập của thế kỉ XXI)
-Dẫn chứng từ thực tế
5-Liên hệ bản thân
III-Kết bài:
-Khẳng định lại suy nghĩ của bản thân và nâng lên tầm khái quát vấn đề sống có lí tưởng.

Đề 3: Viết bài văn ngắn nêu suy nghĩ về ý nghĩa của tình yêu thương.
Gợi ý:
1-Thế nào là tình yêu thương?
GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 61
-Yêu thương nảy nở trong mọi mối quan hệ giữa người với người, trong tình cảm gia đình, trong
tình bạn, trong nghĩa thầy trò, thậm chí trong tình cảm giữa con người với thế giới loài vật, đồ
vật vô tri…
-Yêu thương luôn phải chân thành, trong sáng, xuất phát từ trái tim…
2-Ý nghĩa của tình yêu thương
-Yêu thương là nhu cầu tình cảm không thể thiếu ở con người.
-Tình yêu thương vực con người dậy khi họ vấp phải những khó khăn, gian khổ.
-Tình yêu thương truyền cho con người ý chí, sức mạnh để vượt qua mọi trở lực.
-Yêu thương là kim chỉ nam hướng con người đến cuộc sống tinh thần lành mạnh.
-Yêu thương và được yêu thương sẽ luôn là ước mơ chính đáng, quyền lợi của mọi người.

Đề 4: Em hãy viết một bài nghị luận từ ý nghĩa của câu chuyện sau:
Hoa hồng tặng mẹ
Anh dừng lại tiệm bán hoa để gửi hoa tặng mẹ qua đường bưu điện. Mẹ anh sống cách
chỗ anh khoảng 300km. Khi bước ra khỏi xe, anh thấy một bé gái đang đứng khóc bên vỉa hè.
Anh đến và hỏi nó sao lại khóc.
-Cháu muốn mua một bông hoa hồng để tặng mẹ cháu-Nó khóc nức nở nhưng cháu chỉ có bảy
mươi lăm xu trong khi giá hoa hồng đến hai đô la.
Anh mỉm cười và nói với nó:
-Đến đây, chú sẽ mua cho cháu.
Anh liền mua hoa cho cô bé và lại đặt một bó hồng để gửi cho mẹ anh. Xong xuôi, anh hỏi cô
bé có cần đi nhờ xe về nhà không . Nó vui mừng nhìn anh và trả lời:
-Dạ chú cho cháu đi nhờ đến nhà mẹ cháu
Rồi nó chỉ cho hướng anh lái xe đến một nghĩa trang, nơi có một phần mộ vừa mới đắp. Nó
chỉ ngôi mộ và nói:
-Đây là nhà của mẹ cháu.
Nói xong, nó ân cần đặt nhánh hoa hồng lên mộ.
Tức thì anh quay lại tiệm bán hoa hủy bỏ dịch vụ vừa gửi hoa vừa rồi và mua một bó hồng thật
đẹp. Suốt đêm đó, anh đã lái một mạch 300km về nhà mẹ anh để trao tận tay bà bó hoa.
Gợi ý:
1-Ý nghĩa câu chuyện:
-Một cậu con trai sống xa nhà ba trăm cây số nhưng vẫn nhớ đến mẹ trong ngày lễ tết để gửi điện
hoa về chúc mừng. Một bé gái nhỏ tuổi, tuy mẹ không còn nhưng em vẫn nhớ đến mẹ, vẫn yêu
thương mẹ như lúc mẹ em chưa qua đời. Em đã khóc khi không đủ tiền mua hoa và hân hoan
khi được mang hoa đến đặt lên mộ mẹ.
-Ý nghĩa: Câu chuyện nhắc nhở chúng ta phải biết tri ân, phải biết yêu thương đúng lúc, đúng
cách.
2-Bàn luận, mở rộng vấn đề:
-Trong mọi tình cảm, có thể nói mẫu tử là thứ tình cảm cao đẹp hơn cả.
-Ngợi ca những người con hiếu thảo cũng cần thiết phải phê phán, lên án những đứa con vô tâm.
-Bài học: với tư cách người con, người viết tự nhận thức về hành động của mình.
GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 62
Đề bài : Nêu suy nghĩ của em về câu chuyện sau :
HỘP KEM
Chị ơi, xin lỗi chị có thể đổi lại cho em hộp kem loại năm ngàn được không ạ ?
Cô chủ quán lộ rõ vẻ khó chịu khi đang định đặt hộp kem loại mười ngàn xuống cho vị
khách nhỏ.
Như không để ý đến ánh mắt xem thường của cô gái, chỉ sau một loáng cậu bé đã ăn hết
hộp kem. Tiến đến quầy trả tiền với tờ mười ngàn duy nhất trên tay, cậu bé nói nhỏ với cô gái
-Chị vui lòng gửi phần tiền còn lại cho bác có đứa nhỏ đang đứng trước quán giúp em nhé !
Cậu bé quay lưng, cô gái chợt lặng người nhìn ra cửa, nơi người đàn ông mù cầm cây đàn
đang đứng cạnh đứa con gái bé nhỏ mà ít phút trước đó đã bị cô mời ra khỏi quán.
Gợi ý :
Hình thức trình bày dưới dạng một bài văn nhỏ (gồm ba phần rõ ràng)
Nội dung :
-Câu chuyện khuyên mọi người cần có thái độ ứng xử nhã nhặn với mọi người xung quanh
(nhân vật em bé trong truyện)
-Giáo dục lòng yêu thương con người, biết giúp đỡ mọi người khi họ gặp khó khăn (hình ảnh cha
con người đàn ông mù)
-Câu chuyện còn nhắc nhở những người chưa biết quan tâm tới người khác cần suy xét lại hành
vi của mình (cái lặng người của cô chủ quán)
-Câu chuyện mang ý nghĩa nhân văn cao đẹp ( cử chỉ nhỏ mà ý nghĩa lớn)

GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 63
Đề 1: Văn bản "Lỗi lầm và sự biết ơn" Khép lại với thông điệp: "Hãy học cách viết những đau
buồn, thù hận lên cát và khắc ghi những ân nghĩa lên đá"
Bài làm
I-MB:
" Có gì đẹp trên đời hơn thế
Người với người sống để yêu nhau"
(Tố Hữu)
Con người sinh ra và lớn lên trên cõi đời nay đã là một điều kì diệu và còn kì diệu hơn nữa
nếu bản thân ta làm cho cuộc sống trở nên có ý nghĩa. Nhưng ý nghĩa của nỗi cuộc đời nằm ở
đâu? Ấy là khi ta biết yêu thương nhau biết tha thứ và có lòng vị tha : "Hãy học cách viết những
đau buồn, thù hận lên cát và khắc ghi những ân nghĩa lên đá". Chính khoảnh khắc đó bạn đã
làm cho cuộc đời mình mang ý nghĩa thực sự
II-TB:
Có khi nào bạn thắc mắc, cát và đá sẽ là những đôi cánh chắp tâm hồn bạn đến thế giới của
tình yêu thương? Có đấy! câu trả lời cực kì đơn giản. Khi bạn viết chữ lên cát thì cát dễ bị xóa đi
dấu vết vì cát bị gió thổi, nước cuốn trôi những giận hờn, oán ghét cũng như chữ viết trên cát sẽ
bay theo làn gió. Vậy nên, chính lúc đó bạn đang học cách tha thứ cho những người đã làm ta
đau lòng, tổn thương về lòng tự trọng hay những bất hạnh trong cuộc sống.
Ngược lại, nếu ta nhận những ân nghĩa từ người khác thì hãy khắc ghi nó lên đá. Bởi vì, đá
là một đồ vật vô tri, nó khó bị xóa đi dấu vết nhờ sự chắc bền. Nhờ vậy mà những điều tốt lành,
ân nghĩa sẽ luôn trường tồn, không gì có thể xóa nhòa. Chính khoảnh khắc đó, bạn đã học cách
ghi lòng, tạc dạ với những người đã mang lại sự may mắn, niềm vui và hạnh phúc cho mình.
Hãy học cách sống bao dung, có lòng vị tha và khắc ghi những ân nghĩa, ân tình đối với
những người đã giúp đỡ mình.
Bức thông điệp mà câu chuyện"Lỗi lầm và sự biết ơn" nói đến là bài học đẹp về lối sống ở
đời: lòng bao dung, vị tha dc biểu hiện qua việc tha thứ, sẵn sàng bỏ qua lỗi lầm của người khác,
biết xóa đi những oán ghét, hận thù. Điều đó sẽ mang lại cảm giác thoải mái, nhẹ nhàng trong
tâm hồn mỗi người, giúp người với người xích lại gần nhau hơn, khiến con người trở nên cao
thượng hơn.

GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 64
Trong những truyền thống của dân tộc VN thì đạo đức là phẩm chất cao quý luôn dc đề cao.
Thế nhưng, cuốn theo chiều hút của guồng quay nhịp điệu cuộc sống thời "@" tình trạng đạo đức
ở một số thành phần thanh niên, học sinh đang xuống cấp trầm trọng. Sự biến tướng về mặt ngôn
ngữ trong giao tiếp, ăn nói thô tục, thiếu thiện chí làm mất đi sự trong sáng của tiếng Việt và
đánh giá trình độ văn hóa của mỗi người. Thậm chí, ngay trong thế giới học đường, đang diễn ra
ngày càng nhiều những xích mích và bạo lực học đường đang và đã là vấn đề nguy cấp cần giải
quyết là học sinh. Đang ngồi trên ghế nhà trường, chúng ta cần phải ý thức được những điều
trong giao tiếp. Đã là bạn bè thì phải yêu thương, nhường nhịn nhau và giải quyết các xung đột
bằng biện pháp hòa bình. Có như thế, cách đối nhân xử thế của mỗi người mới ngày được hoàn
thiện.
Cuộc sống chỉ trở nên tốt đẹp và có ý nghĩa khi con người biết tha thứ và nhận được sự tha
thứ từ người khác. Nhưng trong thực tế cuộc sống có rất nhiều người mang lối sống vị kỉ, thờ ơ
ghẻ lạnh. Họ ít chấp nhận thiếu sót, sai lầm của người khác, họ chỉ biết nhận mà không biết cho,
họ sống ích kỉ và vô ơn bạc nghĩa. Họ không được tận hưởng những giây phút nhẹ nhàng thanh
thản trong tâm hồn. Chúng ta đang sống trong thời đại mà tất cả mọi người phải đối mặt với
hàng loạt những vấn nạn, tệ nạn cần sự chung tay góp sức của cả một cộng đồng. Chỉ nói đến
các loại dịch bệnh ba mươi năm trở lại đây cũng đủ để hình dung đ/nước sẽ ra sao nếu như
không có sư chung tay góp sức của mọi người trong tập thể cộng đồng thì sự tương trợ, tương
thân tương ái là rất cần thiết. Hơn khi nào hết mỗi người phải có ý thức được điều đó. Bạn đã
đọc "Trăm năm cô đơn" của nhà văn Côlumbia G.G. Maiqueis có khiến bạn rùng mình sợ hãi.
Nỗi cô đơn của người da đỏ bản xứ ngay trên quê hương mình thời thực dân Tây Ban Nha. Tất
nhiên tôi không có ý nói đó là kết quả của sự thờ ơ ghẻ lạnh. Nhưng điều tất yếu đó là hệ quả của
sự thờ ơ, ghẻ lạnh. Và nỗi cô đơn nào cũng như nhau mà thôi. Dù bạn có giàu có hay không
nhưng nếu bạn chỉ biết sống cho mình mà không biết nghĩ đến người khác, không bạn bè, không
người thân, không được yêu thương. Cuộc sống ấy sẽ buồn chán biết nhường nào! Nó chẳng có ý
nghĩa gì cả.
Như vậy, muốn được sống một cuộc sống mang ý nghĩa thì mỗi con người cần phải rèn
luyện cách ứng xử trong giao tiếp ngay từ tấm bé. Nhưng tôi nghĩ rằng không khó để chúng ta ý
thức và nhận biết được đâu là đúng, sai nhưng điều quan trọng là mỗi người phải tự rút ra bài học
cho chính mình:"Hãy học cách viết những đau buồn, thù hận lên cát và khắc ghi những ân
nghĩa lên đá". Có như thế tình yêu thương mới ở mãi với lòng người.

GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 65
MỘT SỐ CÂU HỎI TỰ LUẬN
Câu 1: Nêu hoàn cảnh sáng tác, mạch cảm xúc, chủ đề của bài thơ? Em hiểu thế nào về nhan đề
“MXNN” mà Thanh Hải đã đặt cho tác phẩm?
Bài thơ được viết vào tháng 11/1980 khi tác giả đang ốm nặng trên giường bệnh, bài thơ được
viết không bao lâu thì nhà thơ qua đời (12/1980).
Mạch cảm xúc của bài thơ: là đi từ mùa xuân của thiên nhiên đất trời đến mùa xuân của đất
nước, của cách mạng đến suy nghĩ và ước nguyện của nhà thơ trước mùa xuân của đất nước và
cuối cùng là lời ca ngợi quê hương đất nước.
Chủ đề bài thơ: ước vọng của tác giả là được cống hiến khả năng nhỏ bé của mình để làm cho
mùa xuân của dân tộc ngày càng đẹp.
Giải thích nhan đề bài thơ: nhà thơ nguyện làm một mùa xuân nho nhỏ dâng cho đời, tức là
sống đẹp, cống hiến những gì tốt đẹp của mỗi con người cho cuộc đời chung, hòa vào mùa xuân
lớn của đất nước cuộc đời.
Câu 2: Nêu vài nét về tác giả Viễn Phương? Hoàn cảnh, cảm xúc bao trùm, mạch cảm xúc của
bài Viếng lăng Bác? Nêu ý nghĩa của hình ảnh: Mặt trời, vầng trăng, trời xanh?
Hai câu thơ: “Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng-Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ” sử dụng
biện pháp nghệ thuật gì? Phân tích hình ảnh mặt trời ở hai câu thơ trên?
Viễn Phương (1928-2005) quê ở tỉnh An Giang, là một trong những cây bút có mặt sớm nhất
của lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam thời kì chống Mĩ cứu nước.
Bài thơ viết năm 1976, khi cuộc K/C chống Mĩ kết thúc thắng lợi, đất nước thống nhất, lăng
chủ tịch HCM cũng vừa khánh thành, Viễn Phương ra thăm miền Bắc, vào lăng viếng Bác. Bài
thơ được viết trong dịp đó và in trong tập “Như mây mùa xuân” (1978)
Cảm xúc bao trùm: niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi
đau xót khi tác giả từ miền Nam ra viếng Bác.
Mạch cảm xúc: cảm xúc của tác giả trước cảnh vật bên ngoài lăng Bác đến cảm xúc của tác giả
trước cảnh dòng người vào lăng viếng Bác và cảm xúc của tác giả khi vào trong lăng, cuối cùng
là cảm xúc của nhà thơ trước lúc ra về.
Ý nghĩa của hình ảnh: Mặt trời, vầng trăng, trời xanh
GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 66
-Mặt trời trong lăng rất đỏ: Bác Hồ là lãnh tụ, là mặt trời cách mạng soi tỏ con đường đấu tranh
giải phóng dân tộc. Bác là mặt trời chân lí trong tim mỗi người dân VN.
-Vầng trăng sáng trong dịu hiền: gợi cho người đọc liên tưởng đến đời sống tinh thần thanh cao
của Bác.
-Trời xanh là mãi mãi: khẳng định sự bất tử của Bác: Bác đã hóa thân vào sông núi, đất nước.
Bác sống mãi trong lòng dân tộc và nhân loại.
Hai câu thơ sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hóa và ẩn dụ.
Phân tích: Đọc câu thơ ta như say trong ánh hào quang rực rỡ của hai ánh mặt trời. “Ngày ngày
mặt trời đi qua trên lăng” là mặt trời của đất đai vạn vật. Tưởng nó chỉ đi qua lăng theo qui luật
tự nhiên. Nhưng bằng hai động từ “đi” và “thấy” tg đã nhân hóa mặt trời tự nhiên như một con
người bất tử thấy khi đi qua lăng một con người đã đi vào cõi trường sinh. Hình tượng “Mặt trời
trong lăng rất đỏ” được Viễn Phương liên tưởng thật tuyệt vời, sáng tạo và độc đáo qua nghệ
thuật ẩn dụ. Con người cảm nhận được sự vĩ đại của Bác trong lúc còn sống cho đến lúc mất đi
vẫn rạng ngời thắm sắc. Ý thơ thể hiện được tấm lòng kính yêu đến tôn thờ của nhà thơ đối với
Bác.
Câu 3: Cảm xúc của tác giả trước cảnh đất trời giao mùa hạ ->thu được biểu hiện ntn?
Từ cuối hạ sang đầu thu đất trời có những chuyển biến nhẹ nhàng mà rõ rệt. Những chuyển
biến này được tác giả cảm nhận bằng sự rung động của trái tim thi sĩ và biểu hiện qua những
hình ảnh thơ mộng và giàu sức biểu cảm. Sự cảm nhận mùa thu bắt đầu bằng khướu giác, bằng
thị giác và cảm giác. Và thể hiện tâm trạng bâng khuâng mong chờ mùa thu của thi sĩ. Ở khổ thơ
thứ hai thể hiện tâm trạng bâng khuâng xao xuyến trước những chuyển biến kì diệu của thiên
nhiên lúc giao mùa hạ -thu. Vừa luyến
tiếc mùa hạ nồng nàn, vừa mong ước mùa thu êm dịu. Nhà thơ đã thể hiện cảm xúc của mình rất
thành công bằng những từ ngữ diễn tả cảm giác, trạng thái. Cả bài thơ là một bức tranh thiên
nhiên tuyệt mĩ của đất trời lúc vào thu được tg vẽ nên bằng sự rung động của trái tim nghệ sĩ.
Bằng sự tinh nhạy, bằng ngôn ngữ thơ ca giản dị và hàm súc, nhà thơ đã vẽ nên bức tranh thiên
nhiên mùa thu tuyệt mĩ.
Hai câu thơ: “Sấm cũng bớt bất ngờ -Trên hàng cây đứng tuổi”
Hai câu thơ này có hai tầng nghĩa. Tầng nghĩa thứ nhất tả thực hiện tượng sấm chớp và hình
ảnh hàng cây trong cơn mưa cuối hạ. Tầng nghĩa thứ hai là nghĩa hàm ngôn thông qua hình ảnh
có tính chất ẩn dụ nghệ thuật. Sấm là những vang động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời.
Hàng cây đứng tuổi ngụ ý chỉ con người đã từng trải. Lúc sang thu, tiếng sấm dữ dội và bất ngờ
của những cơn giông mùa hạ đã bớt đi. Hàng cây không còn bị giật mình, run rẩy vì tiếng sấm.
Nhà thơ Hữu Thỉnh muốn gửi gắm suy ngẫm của mình: Khi con người đã từng trải thì bản lĩnh
cũng vững vàng hơn trước những thử thách của cuộc đời.
Câu 4: Nêu nội dung chính của bài thơ con cò: Bài thơ là những cảm nhận, suy ngẫm của tác giả
về tình cảm mẹ con gắn bó thiêng liêng.
Nội dung của hai câu thơ: “Con dù lớn vẫn là con của mẹ - Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con”
Từ sự thấu hiểu tấm lòng người mẹ nhà thơ đã khái quát thành một qui luật tình cảm.
Con dù lớn ……….theo con
Câu thơ trên là khẳng định, câu thơ dưới là nhấn mạnh tình mẹ bao la không bao giờ vơi cạn. Từ
cảm xúc chân thành, tác giả mở rộng nâng cao ý nghĩa của hình tượng thơ và khái quát thành
triết lí. Đó là những điểm thường thấy và cũng là ưu thế của thơ Chế Lan Viên
Câu 5: Mượn lời nói với con, nhà thơ Y Phương muốn gửi gắm điều gì?
Mượn lời nói với con nhà thơ đã bày tỏ niềm tự hào của nhà thơ về DT Tày của mình, về quê
hương Cao Bằng của mình nói riêng và của các DT miền núi nói chung là có cơ sở và rất đáng
trân trọng. Tg muốn truyền lại cho thế hệ trẻ bây giờ niềm tự hào đó và cũng gửi gắm vào họ cả
niềm tin và khát vọng. Con em DT ít người ở miền núi sẽ có ý chí vươn lên trong cuộc sống,
xứng đáng với truyền thống của ông cha. Cách bày tỏ được diễn tả rất độc đáo, giọng điệu tha
GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 67
thiết, trìu mến, diễn tả theo cách nói của người miền núi, một cách nói giàu hình ảnh, cụ thể, mộc
mạc mà có tính khái quát cao.
Câu 6: Thông điệp của truyện ngắn bến quê: hãy trân trọng những vẻ đẹp, những giá trị bình dị,
gần gũi của cuộc sống quê hương.
Câu 7: Tầm quan trọng của việc đọc sách là gì?
Sách đã ghi chép cô đúc và lưu truyền mọi tri thức, mọi thành tựu mà loài người tìm tòi, tích
lũy được qua từng thời đại.. Do đó đọc sách là một con đường tích lũy nâng cao vốn tri thức. Đối
với mỗi con người đọc sách chính là sự chuẩn bị để có thể làm cuộc trường chinh vạn dặm trên
con đường học vấn, đi phát hiện thế giới mới. Không thể thu được các thành tựu mới trên con
đường phát triển học thuật nếu nhu không biết kế thừa thành tựu của các thời đã qua.
Câu 8: Nội dung chính của truyện “Những ….xôi”: Cuộc sống gian khổ, tâm hồn trong sáng,
mộng mơ và tinh thần dũng cảm của những cô gái TNXP trong những năm chống Mĩ.
Câu 9: Những điểm mạnh, điểm yếu của con người VN:
- Thông minh, nhạy bén với cái mới nhưng thiếu kiến thức cơ bản, kém khả năng thực hành
- Cần cù, sáng tạo nhưng thiếu đức tính tỉ mỉ, không coi trọng nghiêm ngặt quy trình công nghệ,
chưa quen với cường độ khẩn trương.
-Có tinh thần đoàn kết, đùm bọc, nhất là trong công cuộc chiến đấu chống ngoại xâm nhưng lại
thường đố kị nhau trong làm ăn và trong cuộc sống thường ngày.
-Bản tính thích ứng nhanh nhưng lại có nhiều hạn chế trong thói quen và nếp nghĩ, kì thị kinh
doanh, quen với thói bao cấp, thói sùng ngoại hoặc bài ngoại quá mức, thói “khôn vặt”, ít giữ
chữ tín.
Câu 10: Tại sao con người cần tiếng nói của văn nghệ:
Văn nghệ giúp ta được sống đầy đủ hơn, phong phú hơn với cuộc đời và với chính mình. “Mỗi
tác phẩm lớn như rọi vào bên trong chúng ta một thứ ánh sáng riêng, không bao giờ nhòa đi, ánh
sáng ấy biến thành của ta và chiếu tỏa lên mọi việc chúng ta sống, mọi người ta gặp, làm cho
thay đổi hẳn mắt ta nhìn, óc ta nghĩ”.Trong những trường hợp con người bị ngăn cách với cuộc
sống, tiếng nói văn nghệ càng là sợi dây buộc chặt họ với cuộc đời thường bên ngoài, với tất cả
sự sống, hoạt động, những vui buồn gần gũi. Văn nghệ góp phần làm tươi mát sinh hoạt khắc
khổ hằng ngày, giữ cho “đời cứ tươi”. Tác phẩm văn nghệ hay giúp cho con người vui lên, biết
rung cảm và ước mơ trong cuộc đời còn lắm vất vả cực nhọc.

GV: Bùi Thị Lan –Trường THCS Đinh Tiên Hoàng Trang 68

You might also like