Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 3

Có thể phân loại ngữ cố định theo 3 hình thức đó là dựa vào tính cố định và mức

độ hoà hợp nghĩa, hình thức thứ 2 là phân loại dựa theo cấu tạo ngữ pháp và
cuối cùng là dựa vào nguồn gốc của các ngữ cố định. Trước tiên, chúng ta cùng
tìm hiểu hình thức thứ nhất, phân loại ngữ cố định dựa vào tính cố định và mức
độ hoà hợp nghĩa. Có thể thấy, dựa vào tính cố định và mức độ hoà hợp nghĩa
của các từ trong cụm từ, nhà ngôn ngữ học Pháp Chalers Bally đã chia ngữ cố
định trong tiếng Pháp ra làm ba loại là ngữ cố định thông dụng, ngữ cố định tổ
hợp và ngữ cố định tổng hợp. Về sau, viện sĩ Liên Xô Vinogradov đã theo cách
ấy để chia ngữ cố định tiếng Nga ra làm ba loại mà ta có thể áp dụng chung cho
các ngôn ngữ biến hình, gồm có ngữ vị dung, ngữ vị tổng hợp và ngữ vị tổ hợp.
Vậy ngữ vị dung hợp là gì? Đó là các ngữ cố định có độ gắn bó về nghĩa cao
nhất, không thể giải thích nghĩa của cụm từ dựa vào nghĩa đen của các thành tố.
Như vậy có nghĩa là gì ạ? Nghĩa là nếu như chúng ta dựa vào việc giải thích
nghĩa của từng từ trong 1 ngữ cố định, sau đó tổng hợp chúng lại để tìm ra ý
nghĩa hoàn chỉnh của ngữ cố định đó thì sẽ không thể nào hiểu được ý nghĩa
thực sự của ngữ đó. Ở đây mình có 1 ví dụ, đây là 1 ngữ cố định khá phổ biến
trong tiếng Anh, có lẽ rất nhiều bạn ở đây đã từ sử dụng cụm này. A piece of
cake, có nghĩa là dễ dàng. Các bạn có thể thấy đây là 1 ngữ vị dung hợp, bởi nếu
tách nghĩa của từng từ trong cụm thì ý nghĩa của nó sẽ là 1 phần của chiếc bánh,
hoàn toàn không liên quan gì đến ý nghĩa dễ dàng của nó. Hay là cụm “under the
weather” nếu hiểu đúng thì ý nghĩa của nó là không khoẻ, hoặc là cảm thấy
không tốt. Nếu dịch nghĩa của từng từ thì sẽ là dưới thời tiết, hoàn toàn vô
nghĩa. Sang đến ngữ vị tổng hợp, trước khi tìm hiểu khái niệm, mình sẽ đưa ra 1
số ví dụ để các bạn có thể phân biệt được ngữ vị tổng hợp và ngữ vị dung hợp.
Bite the bullet trong tiếng Anh có nghĩa là chịu đựng một điều gì đó khó khăn,
nếu phân tách nghĩa của từng từ 1 thì ngữ cố định này có nghĩa là cắn vào viên
đạn, giống như hình ảnh của sự dũng cảm và kiên nhẫn khi cố gắng chịu đựng
sự đau đớn của viên đạn, giống như việc cố gắng chịu đựng một điều gì đó khó
khăn. Đối với cụm break the ice, nếu phân tích nghĩa của từng từ thì nó có nghĩa
là phá vỡ lớp băng, còn hiểu theo nghĩa tổng hợp của nó là phá vỡ bầu không
khí lạnh lùng, cả hai đều có điểm tương đồng. Chính vì vậy, từ 2 ví dụ này có
thể hiểu ngữ vị tổng hợp là các ngữ cố định có mức độ gắn bó ý nghĩa thấp hơn
ngữ vị dung hợp và nghĩa cơ bản dựa trên sự hợp nghĩa của các thành tố. Loại
cuối cùng là ngữ vị tổ hợp, đó là các ngữ cố định có mức độ gắn bó về nghĩa
thấp nhất, nghĩa của nó có thể dễ dàng suy ra từ nghĩa của thành tố, chỉ có 1 bộ
phận nhỏ được dùng ở nghĩa bóng. Ví dụ như là cụm in other words (nói cách
khác), hay quite a few (nhiều). Và cũng dựa vào cách phân loại này, các tác giả
Việt Nam đã chia ngữ cố định tiếng Việt ra làm ba loại là thành ngữ, quán ngữ,
và ngữ cố định định danh. Nói về thành ngữ, về cơn bản, thành ngữ tương tự với
ngữ vị dung hợp mà mình đã nói ở trên, đều là những ngữ cố định có mức độ
gắn bó nghĩa cao nhất và không thể giải thích nghĩa đơn thuần theo nghĩa của
từng thành tố. Ví dụ như là ăn cá bỏ lờ (bội bạc) hay vắt chanh bỏ vỏ (dùng
người, bòn rút hết sức lực, trí tuệ đến khả năng, thì ruồng bỏ, phế truất không
thương tiếc, ví như quả chanh vắt hết nước thì vứt bỏ vỏ đi). Quán ngữ (Nói tóm
lại; Nói cách khác; Trước hết; Sau đó). Ngữ cố định định danh: được cấu tạo để
định danh sự vật ( Anh hùng rơm; chân mày lá liễu; mắt lá răm; tóc rễ tre;…).
b, Dựa vào cấu tạo ngữ pháp của ngữ cố định
- Ngữ cố định có kết cấu cụm từ:
+ Loại có quan hệ song song: một dạng quan hệ mà hai hoặc nhiều thành phần
ngôn ngữ xuất hiện cùng nhau trong một cấu trúc cố định mà không ảnh hưởng
đến ý nghĩa hoặc cấu trúc của câu. các thành phần này thường kết hợp với nhau
để tạo ra một ý nghĩa hoặc hình ảnh cụ thể mà không thể hiểu qua ý nghĩa của
từng từ một.
quan hệ giữa các thành tố không phụ thuộc vào nhau, trong đó chức năng cú
pháp của các thành tố chỉ được xác định khi đặt tổ hợp do chúng tạo nên vào
một kết cấu lớn hơn.
Tiếng Việt: Lên xe xuống ngựa; đỏ mặt tía tai; màn trời chiếu đất: xe – ngựa,
mặt – tai, trời – đất là quan hệ song song
Tiếng Anh: The ins and outs (những chố ngoằn ngoèo);
Stocks and stones (những người khô khan không có tình cảm)
ins – outs, stocks – stones: quan hệ song song
+ Loại có quan hệ chính phụ: quan hệ phụ thuộc một chiều giữa một thành tố
chính với một thành tố phụ, trong đó chức năng cú pháp của thành tố chính chỉ
được xác định khi đặt toàn bộ tổ hợp chính - phụ do chúng tạo nên vào một kết
cấu lớn hơn, còn chức năng cú pháp của thành tố phụ có thể xác định mà không
cần điều kiện đó.
Tiếng Việt: Anh hùng rơm; gửi trứng cho ác; rán sành ra mỡ: anh hùng – rơm,
trứng – ác, sành – mỡ là các quan hệ chính phụ
Tiếng Anh: To make mountains out of molehill (bé xé ra to): mountains –
molehill là quan hệ chính phụ
- Ngữ cố định có kết cấu câu (có thể câu đơn hoặc câu phức): có chủ ngữ, vị ngữ
Tiếng Việt: Cá lớn nuốt cá bé; trứng treo đầu gậy.
Tiếng Anh: One’s heart is in the right place (có ý đồ tốt);
Enough is as good as a feast (ít mà tinh)
c, Dựa vào nguồn gốc
- Ngữ cố định thuần: hình thành từ chính ngôn ngữ dân tốc và trong quá trình
phát triển của dân tộc
Tiếng Việt: Nợ như chúa Chổm; mẹ tròn con vuông; đi guốc trong bụng
Tiếng Anh: The blue devils: sự bi ai (nghĩa đen: những con quỷ xanh);
Out of the blue: hoàn toàn bất ngờ
- Ngữ cố định vay mượn: xuất hiện bằng con đường vay mượn hoặc dịch từ
tiếng nước ngoài do sự giao lưu giữa các dân tộc
Tiếng Anh: April fool (cá tháng tư) vay mượn “poisson d’avril” của tiếng Pháp.
Tiếng Việt: Hòn đá thử vàng vay mượn “vivre comme chien et chat” của Pháp;
Lá ngọc cành vàng, cưỡi ngựa xem hoa vay mượn từ “kim chí ngọc
diệp”, “tẩu mã khán hoa” của Trung quốc

You might also like