Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 29

ảm nhận về vẻ đẹp của nhân vật Phương Định

Truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” là một trong số những tác phẩm đầu tay của
Lê Minh Khuê, viết năm 1971, khi cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra ác liệt.
Truyện cho thấy tâm hồn trong sáng, sự dũng cảm, hồn nhiên và cuộc sống chiến
đấu nhiều gian khổ, hi sinh nhưng vẫn lạc quan của các nhân vật nữ thanh niên
xung phong. Đặc biệt, nhân vật Phương Định đã được tác giả miêu tả chân thực,
sinh động bằng nhiều thủ pháp nghệ thuật độc đáo.

“Những ngôi sao xa xôi” viết về một tổ nữ thanh niên xung phong có nhiệm vụ trinh
sát mặt đường tại một trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn, gồm hai cô gái trẻ
là Phương Định, Nho và tổ trường là Thao. Nhiệm vụ cụ thể của họ là quan sát địch
ném bom, đo khối lượng đất đá phải san lấp, đánh dấu vị trí các trái bom chưa nổ và
phá bom, thậm chí mấy lần trong một ngày.

Cuộc sống giữa chiến trường dù khắc nghiệt và nguy hiểm nhưng họ vẫn có những
niềm vui hồn nhiên của tuổi trẻ, những giây phút thanh thản, mơ mộng và đặc biệt là
rất gắn bó, yêu thương nhau. Phần cuối, truyện tập trung miêu tả hành động và tâm
trạng của các nhân vật, chủ yếu là của Phương Định trong một lần phá bom, Nho bị
thương và sự lo lắng, săn sóc của hai đồng đội.

Vào chiến trường được ba năm, đã quen với những thử thách và nguy hiểm, giáp
mặt hàng ngày với cái chát, nhưng cô vẫn không đánh mất sự hồn nhiên, trong sáng
và những mơ ước về tương lai. Nét cá tính ở nhân vật được thể hiện khá rõ là nhạy
cảm, hay mơ mộng và có sở thích là ưa hát và hát rất hay. Cô là người lạc quan,
yêu đời đến cuồng nhiệt. Dưới cơn mưa đá, cô “vui thích cuống cuồng”, say sưa tận
hưởng cơn mưa hồn nhiên như chưa hề nghe thấy tiếng bom rơi đạn nổ.

Cũng giống như hai người bạn trong tổ trinh sát, Phương Định yêu mến những đồng
đội trong tổ và cả đơn vị của mình. Hơn nữa, cô cũng mến yêu và cảm phục những
người chiến sĩ mà cô gặp hàng đêm trên trọng điểm của con đường vào mặt trận.
Trong phần đầu truyện, Phương Định nhạy cảm và quan tâm đến hình thức của
mình. Hai bím tóc dày, tương đối mềm, một cái cổ cao, kiêu hãnh như đài hoa loa
kèn. Các anh lái xe thường khen: “Cô có cái nhìn sao mà xa xăm”. Cô biết mình
được nhiều người, nhất là các anh lính để ý và có thiện cảm. Điều đó làm cô thấy
vui và tự hào, nhưng chưa dành riêng tình cảm cho một ai.

Nhạy cảm, nhưng cô lại khá kín đáo, không hay biểu lộ tình cảm của mình, thường
giữ khoảng cách giữa đám đông, dường như là kiêu kì. Cô cũng là người có tinh
thần trách nhiệm với công việc, hết sức dũng cảm, gan dạ, bình tĩnh, tự tin và rất tự
trọng. Khi thực hiện nhiệm vụ phá bom, ban đầu cô cũng thấy căng thẳng, hồi hộp,
nhưng cảm thấy có ánh mắt của các chiến sĩ đang dõi theo động viên, khích lệ, lòng
tự trọng trong cô đã thắng cả bom đạn

Ở đoạn hồi tưởng của nhân vật về tuổi học trò, tác giá làm nổi rõ nét tính cách hồn
nhiên; vô tư với một chút tinh nghịch và mơ mộng của một thiếu nữ. Chẳng hạn, chỉ
một trận mưa đá vụt qua cũng đánh thức dậy ở nhân vật này rất nhiều kỉ niệm và nỗi
nhớ về thành phố quê hương, gia đình và tuổi thơ thanh bình của minh.

Tâm lí nhân vật Phương Định trong một lần phá bom được miêu tả rất cụ thể, tinh tế
đến từng cảm giác, ý nghĩ, dù chỉ thoáng qua trong giây lát. Mặc dù đã rất quen với
công việc nguy hiểm này, nhưng mỗi lần vần là một thử thách đối với thần kinh. Ở
bên quả bom, kề sát với cái chết im lìm và bất ngờ, từng cảm giác của con người
như cùng trở nên sắc nhọn hơn. “Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một
tiếng động sắc đến gai người, cửa vào da thịt tôi. Tôi rùng mình và bóng thấy tại sao
mình làm quả chậm. Nhanh lên một tí! Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành “.
Tiếp đó là cảm giác căng thẳng chờ đợi tiếng nổ của quả bom.

Tóm lại, ngòi bút của Lê Minh Khuê đã miêu tả sinh động, chân thực tâm lí nhân vật,
làm hiện lên một thế giới nội tâm phong phú. Cách nhìn và thể hiện con người thiên
về ngợi ca cái tốt đẹp, trong sáng, cao thượng. Qua nhân vật Phương Định và các
cô thanh niên xung phong, Lê Minh Khuê đã có cái nhìn thật đẹp, thật lãng mạn về
cuộc sống chiến tranh, về con người trong chiến tranh. Chiến tranh là đau thương
mất mát song chiến tranh không thể hủy diệt được vẻ đẹp tâm hồn rất tươi xanh của
tuổi trẻ, của con người. Chính từ những nơi gian lao, quyết liệt ta lại thấy ngời sáng
vẻ đẹp của tuổi trẻ, của chủ nghĩa anh hùng Cách mạng Việt Nam.

Ngôn ngữ trần thuật phù hợp với nhân vật kể chuyện – cô gái thanh niên xung
phong người Hà Nội – tạo cho truyện có giọng tự nhiên, thoải mái, trẻ trung và có
chất nữ tính. Lời kể thường dùng những câu ngắt, nhịp nhanh, tạo được không khí
khẩn trương trong hoàn cảnh chiến trường, ở những đoạn hồi tưởng, nhịp kề chậm
lại, gợi nhớ những kỉ niệm tuổi niên thiếu hồn nhiên, nhạy cảm của một cô học sinh
thành phố thích mơ mộng.

Truyện kể theo ngôi thứ nhất đã tạo một điểm nhìn phù hợp dễ dàng tái hiện hiện
thực khốc liệt của chiến tranh, khắc họa thế giới tâm hồn, cảm xúc và suy nghĩ của
nhân vật một cách chân thực giàu sức thuyết phục, làm hiện lên vẻ đẹp của con
người trong chiến tranh.

Truyện viết về chiến tranh, có những chi tiết, sự việc về bom đạn, chiến đấu, hi sinh,
nhưng chủ yếu vẫn hướng vào thế giới nội, tâm, làm hiện lên vẻ đẹp tâm hồn của
con người trong chiến tranh.

Viết về cuộc sống và chiến đấu của những cô gái thanh niên xung phong trên một
cao điểm ở tuyến đường Trường Sơn trong những năm chiến tranh chống Mỹ cứu
nước, Những ngôi sao xa xôi đã làm nổi bật tâm hồn trong sáng, giàu mơ mộng, tinh
thần dũng cảm, cuộc sống, chiến đấu đầy gian khổ, hi sinh nhưng rất hồn nhiên, lạc
quan của họ. Đó chính là hình ảnh đẹp, tiêu biểu vẻ thế hệ trẻ Việt Nam trong thời kì
kháng chiến chống Mĩ.

Phân tích Sang thu ngắn nhất


Mùa thu, mùa của sự lãng mạn. Nó gợi lên cho con người biết bao nhiêu cảm xúc
dâng trào. Chẳng khó có thể lý giải lý do vì sao mà có nhiều bài thơ hay viết về mùa
thu đến vậy. Vẻ đẹp của mùa thu chắc hẳn bất cứ ai cũng có thể nhìn ra. Nhưng cái
khoảnh khắc sang thu có lẽ phải nhờ đến tâm hồn nhạy cảm của một thi sĩ mới có
thể cảm nhận được. Bài thơ Sang thu của nhà thơ Hữu Thỉnh đã chỉ ra cho người
đọc cái nhìn đầy tinh tế về sự chuyển giao giữa mùa hạ sang mùa thu.
Bài thơ được tác giả viết theo thể thơ 5 chữ. Toàn bộ bài cũng chỉ có 3 khổ, ngắn
gọn nhưng súc tích. Bài thơ không chỉ vẽ lên được cảnh đẹp của giây phút chuyển
mùa mà còn thể hiện được tâm trạng và cảm xúc của tác giả trước cảnh đẹp thiên
nhiên.

Chính cái cảm giác mơ hồ và tinh tế này chuyên chở hồn thu theo cái cách của mùa
thu. Nhạy cảm, nhẹ nhàng, mùa thu đến vừa lạ vừa quen, nó đánh thức nơi ta
những gì da diết lắm.

Nếu đặt tiêu đề cho khổ một bài thơ thì có thể gọi tên : bước chân của mùa thu đang
ngập ngừng trước cửa.

Bỗng nhận ra hương ổi


Phả vào trong gió se

Nó ngập ngừng “hương ổi” trong cơn gió đầu mùa (gió se). Cái ấm và cái lạnh giao
nhau. Còn gì ấm áp nồng nàn bằng hương, hoa vườn tược, với trái ngọt mùa màng.
Nó đánh thức tuổi thơ. Nó xôn xao hoài niệm. Đột ngột và trẻ trung, câu thơ mang
hai tầng nghĩa : tầng thứ nhất là từ những gì nhận thấy (hướng ngoại), tầng thứ hai
là những gì cảm thấy tự thân (hướng nội). Nhưng một thứ hương ổi hào phóng vô
tư bỗng vì sao chững lại ở ngay câu sau đó “Phả vào trong gió se”? Vì mùa hạ đã
lặn vào quả ngọt, đã dâng hiến hết mình.Cơn gió bây giờ chỉ còn xào xạc, hắt hiu.
Nó se lạnh, hao gầy. Trạng thái phân đôi là tất yếu. Hai câu thơ như một thoáng
chốc bâng khuâng. Sự bối rối tràn cả sang câu dưới, dù không còn “hương ổi”, “gió
se” mà là:

Sương chùng chình qua ngõ

Thấp thoáng một vạt sương thu mờ ảo nhưng không phải thức ngủ chập chờn. Nó
“chùng chình” nửa ở nửa đi, nghĩa là chính nó cũng phân tâm, vô định. “Sương”
đang lưu luyến đợi chờ ai hay nuối tiếc một cái gì. Chính cái mơ hồ ấy có sức khám
phá và gợi khơi một toạ độ thời gian không rõ nét : “Hình như thu đã về”. Thành
công của khổ thơ không phải là tả cảnh, mà chính là sự rung rinh cảm nhận một cái
gì như có như không mà chúng ta đã nói. Ay là những giờ phút đầu tiên của mùa thu
chợt tới, nó chợt tới trong rất nhiều ngơ ngác, bâng khuâng. Cái hay trong cảm nhận
ấy lại kết hợp một cách hồn nhiên với vẻ đẹp làng quê của ngàn năm cổ tích đầy ắp
những hương ổi, hương cau, đường làng ngõ xóm,… thân mật đơn sơ.

Hai khổ còn lại của bài thơ mới đúng là thơ tả cảnh. Nhưng “cảnh” trong thơ hiện đại
không giống với thơ xưa. Cảnh không “tĩnh”, mà rất có hồn. Biện pháp đối lập ở đây
cũng khác:

Sông được lúc dềnh dàng


Chim bắt đầu vội vã

Chất hiện thực hiện ra thật rõ. Cái “dềnh dàng” của sông là sau lúc vượt ghềnh leo
thác nhọc nhằn. Còn giờ đây là thời khắc thơ thới, nghỉ ngơi hiếm có. Tính chất
“thân phận” rất đáng cảm thương của dòng sông đồng cảnh ngộ với cánh chim trời.
Mùa thu chợt đến, nó phải gấp gáp làm tổ, tha mồi chuẩn bị cho mùa đông rét mướt.
Hai tốc độ trái chiều nhau giữa chậm và nhanh là quy luật không đồng đều ở vào
thời điểm giao thoa của muôn loài, muôn vật. Ở đây, ta nhận ra cái nhìn của nhà thơ
không phải dửng dưng của một người ngoài cuộc. Phải gắn bó với cuộc đời, phải
“đổ mồ hôi, sôi nước mắt” cùng những buồn vui nhân thế đến đâu mới viết được
những câu thơ không hời hợt ấy. Chỉ có điều : cả hai câu thơ là đặc trưng cho mùa
thu ở vào cái lúc khởi đầu. Nó không phẳng lặng, trôi xuôi, êm đềm như cách nhìn
trước đây của những bậc tao nhân mặc khách. Cái nhìn vừa đặc trưng vừa hiện đại
ấy phải đến hai câu sau mới thật thần tình:

Có đám mây mùa hạ


Vắt nửa mình sang thu

Mùa hạ, mùa thu là hai đầu bến và đám mây là nhịp cầu Ô Thước vắt qua. Nhịp cầu
thật duyên dáng nối hai bờ thời gian bằng vẻ đẹp mềm mại, trữ tình. Tứ thơ này thật
ra không hoàn toàn mới mẻ. Chẳng hạn trong thơ Nguyễn Khuyến: “Trước đèn nâng
chén rốn ngồi – Một câu thơ vịnh kéo đôi năm liền” (Trừ tịch, Đỗ Ngọc Toại dịch).
Nhưng ở đây, Hữu Thỉnh có một sáng tạo. Ông đã lấy không gian miêu tả thời gian.
Câu thơ do vậy sống động hơn, hình ảnh hơn, cảm xúc thị giác nhiều hơn. Mà phần
nổi của câu thơ vẫn có được phần chìm của nó, ấy là cái sắc độ kiều diễm trữ tình
đầy ắp phù sa nội lực.

Sự thống nhất như một mạch liền xuyên suốt nửa hạ, nửa thu tạo được tâm thế
lửng lơ không chỉ ở khổ hai, mà còn khổ ba như một lời kết:

Vẫn còn bao nhiêu nắng


Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.

Những thi liệu như nắng, sấm, mưa là đặc trưng của mùa hạ. Nhưng với độ giảm
dần để gay gắt chuyển hoá thành dịu êm, thì đó là dấu hiệu của mùa thu. Sự phân
hoá giữa hai mùa có một đường ranh giới rất mong manh. Điều duy nhất có thể xác
định ở đây là nhờ vào độ nhạy cảm khó lường của giác quan mách bảo. Vì làm sao
có thể đong đếm đầy vơi những nhiều ít, mau thưa ? Khác cả với ca dao trong cách
bấm đốt ngón tay “Một ông sao sáng, hai ông sáng sao…". Ở đây là một thứ ước
lượng trong hồn, mà hồn thơ lại chỉ như mây bay, gió thổi. Nó nặng nhẹ không cữ,
không chừng mà thiên nhiên nhiều khi chỉ là một cái cớ rất bâng quơ. Nhưng trong
thơ, cái cớ bâng quơ ấy lại làm nên chuyện, ở bài thơ này, “hàng cây đứng tuổi”
giống như một chứng nhân. Sự bất định đầy trải nghiệm ấy đang quan sát, lắng
nghe. Nó cũng đang thấu hiểu những lặng lẽ, âm thầm, khách quan chuyển động
những gì bên ngoài nó, đồng hành với dòng nhựa tự nó đang hút mật nuôi cây. Chỉ
có điều, hoà điệu đấy mà vẫn cứ so le : hàng cây chớm già mà mùa thu rất trẻ.
Hàng cây ấy là nhà thơ đã hoá thân vào đó chăng nên giọng thơ, lời thơ nhẹ nhàng
mà tình thơ đầy ắp yêu thương, trìu mến? Bởi cuộc sống thật đẹp sao, đẹp ở tầm vĩ
mô đã đành, mà còn đẹp ở những bước đi lặng lẽ thầm thì của nó. Trong những
trường hợp ấy, thơ cần độ rộng, nhưng cũng rất cần độ sâu. Mà ở đây là sự thẳm
sâu tinh tế của hồn người, một thứ dây tơ mà theo Xuân Diệu “Bước đi sẽ đứt, động
hờ sẽ tiêu” (Chiều).

Về nghệ thuật bài thơ, cùng với sự phát sáng bất ngờ từ bao nhiêu giác quan cảm
nhận, Sang thu có một cốt cách riêng : vừa cổ điển, vừa hiện đại. Tính cổ điển của
bài thơ là ở độ hàm súc, gợi khơi, ở thể thơ năm chữ vốn có từ lâu trong văn học
phương Đông. Chỉ cần một thứ hương cây mùa vụ, một cơn gió se se khẽ chạm vào
cây đàn mẫn cảm của hồn thơ là tự nó rung lên thành nhạc thành lời. Nhưng, một
mặt kế thừa thơ ca truyền thống, một mặt thi phẩm đã mở rộng đề tài, thi liệu, đem
đến chất hiện thực mới cho thơ. “Đi suốt cả ngày thu – vẫn chưa về tới ngõ – Dùng
dằng hoa quan họ – Nở tím bên sông Thương” (Chiều sông Thương). Chất hiện
thực trong thơ Hữu Thỉnh kết hợp làm một với chất trữ tình. Đằng sau cái cách kể tả
của ông là nhịp đập của con tim lúc trầm tư, khi rộn rã. Và nhất là những ý tưởng
triết luận bất ngờ với “hàng cây đứng tuổi” trước cuộc sống non tơ. Sự chắt lọc, hàm
súc đến mức hồn hậu làm cho người đọc lúc đầu thì rất đỗi ngạc nhiên, còn sau đó
là thán phục, đồng tình. Sang thu, trong một chừng mực nào đó đã đạt đến cái chân,
cái ảo, những phẩm chất của thơ từ xưa vốn có.

Phân tích Nói với con hay nhất


Y Phương (24/12/1948), tên thật là Hứa Vĩnh Sước, ông là một trong những nhà thơ
dân tộc nổi tiếng của nền văn học Việt Nam hiện đại, sinh ra và lớn lên trong cái nôi
của người dân tộc Tày, thế nên chất thơ của Y Phương rất đỗi trong sáng, đôn hậu,
thật thà, chất phác như tấm lòng của người dân miền núi. Cùng với đó là những
hình ảnh thơ phong phú, độc đáo mang sức liên tưởng mạnh mẽ, gắn liền với đời
sống của nhân dân, tựa như chất liệu thổ cẩm đan xen từng vần thơ, góp phần làm
nên những tác phẩm giàu tính nhân văn. Nói với con là một trong những bài thơ hay
nhất đã làm nên tên tuổi của Y Phương trên thi đàn Việt Nam, với giọng thơ là lời
thủ thỉ tâm tình của người cha dành cho đứa con của mình, từng câu đều thấm đẫm
tình cảm gia đình thiêng liêng, ấm áp, mở rộng ra chính là tình yêu tha thiết với
mảnh đất, với con người quê hương mình của tác giả, vừa thấm thía, vừa chân
thành.

Nói với con là bài thơ mang đầy đủ những đặc điểm của thơ Y Phương, mạch cảm
xúc chủ yếu đó là tình yêu thương sâu sắc của người cha dành cho đứa con, thông
qua những lời tâm sự, hồi tưởng từ quá khứ đến hiện tại. Cũng giống như Khúc hát
ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm hay Con cò của Chế Lan
Viên, Nói với con không chỉ đơn thuần là lời tâm sự mà đó là những lời dạy bảo
chân thành của người cha dành cho con về quê hương xứ sở, về “người đồng mình”
đầy thiết tha và trìu mến. Những đứa trẻ trong các bài thơ kể trên đều chưa lớn, có
đứa còn trong nôi, còn trên lưng mẹ thế nhưng các em rất may mắn khi có những
người cha người mẹ biết yêu thương, và biết cách giáo dục con cái thông qua
những cách thức thông thường như lời ru, lời hát, lời kể, khiến các em dần hình
thành tư tưởng yêu thương từ khi còn thơ bé. Trong Nói với con Y Phương mở đầu
bài thơ bằng những lời kể thật ấm áp, hoài niệm:

“Chân phải bước tới cha


Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười”

Đó hoàn toàn là tiếng lòng hạnh phúc của một người cha khi nhắc về kỷ niệm những
ngày con còn thơ ấu, những bước đi chập chững đầu đời đều để lại trong trái tim
cha, mẹ những dấu chân đầy ắp kỷ niệm. Tiếng nói đầu tiên con gọi “cha”, lần đầu
tiên con cười khiến cha mẹ mừng chảy nước mắt, con chính là món quà tuyệt vời
nhất mà tạo hóa đã ban cho cha mẹ. Y Phương gợi nhắc quá khứ để gieo vào lòng
con về những năm tháng thuở ấu thơ, con có quyền được biết và ghi nhớ chúng
như những ký ức đáng giá nhất cuộc đời, đồng thời người cha cũng muốn gợi mở
cho con những nền tảng đầu tiên về tình cảm gia đình ấm áp, về quá trình sinh ra và
lớn lên của một con người. Không ai có thể tự lớn lên thành người, ai cũng có cha
sinh mẹ đẻ, ai cũng cần người chăm sóc, dạy dỗ, Y Phương muốn nhắn nhủ với con
về công lao và tình yêu thương vô bờ bến của cha mẹ dành cho con cái từ thuở con
sinh ra cho đến khi con lớn khôn thành người, chính bởi tình yêu ấy mà cha chưa
lúc nào quên những bước chân, tiếng nói đầu đời của con. Từ khuôn khổ trong gia
đình tác giả bắt đầu mở rộng ra cộng đồng, làng xóm với những vẻ đẹp giản dị đáng
quý của người dân tộc miền núi.

“Người đồng mình yêu lắm con ơi


Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”

Y Phương dùng một giọng thơ tha thiết, để gợi mở ra những vẻ đẹp của người dân
tộc miền núi bằng câu thơ chứa chan tình cảm “Người đồng mình yêu lắm con ơi”,
chỉ một chữ “yêu” mà chứa đựng biết bao tâm tình, đó là tấm lòng trân trọng, tự hào
về những con người của quê hương xứ xở. Những con người lao động với đôi bàn
tay thô sơ, nhưng khéo léo, thuần thục trong công việc lao động, để mỗi sản phẩm
họ làm ra đều như một tác phẩm nghệ thuật ví như chiếc “lờ” đánh cá cũng phải
được chau chuốt “nan hoa”, đó không đơn thuần là hành động tự phát mà đó là cả
một quá trình sáng tạo, là nét văn hóa đã in sâu vào tâm hồn người dân kể cả trong
công việc lao động thường ngày. Và đặc biệt giữa cuộc sống nhiều khó khăn vất vả
thế nhưng tâm hồn của “người đồng mình” vẫn rất đẹp, rất yêu đời, từng câu hát,
câu ca trong lối sinh hoạt văn hóa của người Tày không chỉ nằm trong trí nhớ mà đã
in sâu vào cả vách nhà, cả quê hương, để mảnh đất này tràn đầy tình yêu thương,
với bản sắc dân tộc đong đầy khắp xứ xở. Rồi từ vẻ đẹp trong tâm hồn của con
người Y Phương lại khéo léo chuyển sang vẻ đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp của quê
hương với hình ảnh “rừng cho hoa” xanh tươi, rực rỡ tràn đầy sức sống, là hình ảnh
đại diện cho phong cảnh miền núi phía Bắc, nơi mà ông và “người đồng mình” đã
cùng nhau sinh sống suốt ngàn năm nay. Ngoài ra “rừng cho hoa” còn gợi ra sự trù
phú, giàu có của thiên nhiên, đã ban tặng cho cuộc sống của con người niềm vui,
cái đẹp, tô điểm thêm cho quê hương. “Con đường cho những tấm lòng” là một hình
ảnh có nhiều sức gợi, Lỗ Tấn từng nói: “Trên mặt đất làm gì có đường, người ta đi
mãi thì thành đường thôi”, con đường trong thơ Y Phương cũng vậy nó là kết quả
của biết bao dấu chân “người đồng mình” tạo thành, đó là tấm lòng gắn bó với mảnh
đất quê hương, là tình cảm kết tinh đẹp đẽ với làng xóm, với đồng bào, với gia đình.
Và con đường đã chứng kiến biết bao nhiêu đổi thay của năm tháng, lớp người này
ra đi, lớp người kia lại lớn lên, tất cả đều đã đặt dấu chân mình trên con đường thân
thuộc có dấu vết của tháng năm, có những giọt mồ hôi và cả nước mắt. Có lẽ nói
không ngoa thì con đường chính là chứng nhân cho những năm tháng đã qua của
cả một cộng đồng dân tộc. Người cha nói với con những điều này với tấm lòng trân
trọng yêu thương, chỉ mong con có thể ghi nhớ và khắc sâu vào lòng những gì thân
thuộc nhất của quê hương, để khiến con nhận thức được ngoài gia đình thì chính
những nét đẹp văn hóa, chính cái nôi của cộng đồng đã nuôi dưỡng con thành
người, cho con tiếng nói, cho con những vẻ đẹp tâm hồn quý giá. Và lần nữa người
cha lại khắc sâu trong lòng con ấn tượng về tình cảm gia đình qua câu thơ “Cha vẫn
nhớ mãi về ngày cưới/Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”, là lời khẳng định hạnh phúc
gia đình, khẳng định thêm về tình cảm gia đình vững chắc là cơ sở để cho con được
một cuộc sống êm ấm, và cũng là cơ sở để gây dựng nên một cộng đồng dân tộc
với những nét đẹp trong văn hóa, phong tục truyền thống.

“Người đồng mình thương lắm con ơi


Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục”

Vẻ đẹp của “người đồng mình” không chỉ dừng lại ở sự khéo léo sáng tạo trong lao
động hay lòng yêu cuộc sống, với những nét đẹp tập quán mà còn thể hiện ở ý chí
và sức mạnh trong tâm hồn. Y Phương viết “Người đồng mình thương lắm con ơi”
vừa thể hiện được tấm lòng yêu thương gắn bó tha thiết với dân tộc mình, vừa thể
hiện nỗi niềm cảm thông, thấu hiểu trước những vất vả mà “người đồng mình” phải
gánh chịu. “Cao” và “xa” là hai lượng từ bình thường nhưng trong thơ Y Phương lại
mang nhiều sức gợi đặc biệt, nó khiến độc giả liên tưởng đến một vùng đất núi non
trùng điệp, ở xa tít tận địa đầu phía Bắc, cả thời tiết và địa hình đều khắc nghiệt vô
cùng. Thế nhưng những con người nơi đây chưa một lần lấy đó làm nản chí, mà
ngược lại chính những khó khăn đó đã nuôi dưỡng trong tâm hồn họ sự kiên cường
và mộng ước “chí lớn” vững mạnh. Chính vì bản thân dân tộc từ bao đời nay đã có
những đức tính đẹp như vậy, nên cha cũng muốn con kế thừa và phát huy truyền
thống vượt khó ấy “Sống trên đá không chê đá gập ghềnh/Sống trong thung không
chê thung nghèo đói”. Là “người đồng mình” con phải học được các thích nghi với
cuộc sống, linh hoạt và mềm dẻo như dòng sông, con suối, dù là thác hay ghềnh
đều không khiến con phải nản chí, chùn bước. Lời thơ của tác giả có chút ngậm
ngùi xót thương cho những con người miền núi, thế nhưng phần hơn vẫn là niềm tự
hào sâu sắc với bản lĩnh và ý chí kiên cường của dân tộc, họ đã sống và xây dựng
quê hương ngày càng trở nên tươi đẹp như thế. Tuy rằng nghèo khó, chỉ với đôi bàn
tay thô sơ cầm cái cuốc, con dao, khuôn mặt sạm đi vì gió núi, nhưng “người đồng
mình” chẳng mấy ai nhỏ bé, bởi họ mang trong mình một tâm hồn lớn lao, lao đẹp,
một ước mơ tuyệt vời, chỉ riêng điều ấy đã đẩy con người lên một tầm vóc mới. Họ
dùng trí tuệ và sức mạnh của đôi bàn tay cần cù mà ra sức kiến thiết “tự đục đá kê
cao quê hương”, xây dựng làng bản, tạo ra của cải vật chất, và các giá trị tinh thần,
làm thay đổi bộ mặt của vùng núi phía Bắc, đóng góp một phần rất lớn vào việc xây
dựng đất nước. Mà theo quan niệm của Nguyễn Khoa Điềm, nhân dân làm ra Đất
Nước, tạo nên quê hương, và nhiều lớp người như thế đã tạo nên một dòng chảy
văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc kéo dài suốt mấy ngàn năm lịch sử, điều ấy hoàn
toàn phù hợp với ý thơ “Còn quê hương thì làm phong tục” của Y Phương. Có thể
nói rằng con người và quê hương là hai nhân tố không thể tách rời, có ý nghĩa
tương hỗ, kết hợp thành một thực thể thống nhất với những giá trị to lớn vừa bao
gồm cả vật chất và tinh thần để tạo nên một cộng đồng đoàn kết, gắn bó chặt chẽ
với nhau.

Kết bài thơ là lời dặn dò thấm thía và đầy thương yêu của người cha dành cho đứa
con của mình sau những lời tâm tình, giảng giải về vẻ đẹp của quê hương và “người
đồng mình”.
“Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.”

Cha mong rằng là thế hệ sinh sau đẻ muộn thì con hãy lấy người đi trước làm tấm
gương sáng để noi theo, luôn mang trong mình tình cảm yêu thương gia đình, yêu
thương con người và mảnh đất của quê hương để phấn đấu nỗ lực lấy cái tâm hồn
mạnh mẽ, kiên cường, ý chí vượt khó lớn lao để góp phần xây dựng đất nước.

Nói với con là bài thơ hay với những vần thơ tự do, phóng khoáng tựa tâm hồn của
người miền núi, đã thể hiện sâu sắc tình cảm yêu thương của người cha đối với con
thông qua cách giáo dục mềm mỏng, thủ thỉ, thấm đẫm ân tình. Đồng thời cũng thể
hiện niềm tự hào, niềm yêu thương của tác giả đối với mảnh đất quê hương và
những con người chất phác, tuy nhỏ bé về sức vóc nhưng lại mang trong mình
những vẻ đẹp tâm hồn lớn lao, đáng ngưỡng mộ.

4. Cảm nhận khổ 1, 2 bài Tiểu đội xe không kính


Những năm tháng chống Mĩ hào hùng của dân tộc đã để lại biết bao hồi ức và dấu
ấn khó phai mờ. Hình ảnh những cô gái thanh niên xung phong, những anh bộ đội
cụ Hồ là những hình ảnh đẹp nhất, lãng mạn và anh hùng nhất trong kháng chiến.
Bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật là một trong những
minh chứng tiêu biểu cho nét tinh nghịch cũng như tinh thần bất khuất, hào hùng
của người chiến sĩ. Hai khổ đầu bài thơ, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã khắc họa thật
ấn tượng tư thế ung dung, hiên ngang của người lính lái xe trên tuyến đường
Trường Sơn đầy khói lửa.

Không có kính không phải vì xe không có kính


Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái

“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của PTD được sáng tác năm 1969 trong thời kì
cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra rất gay go, ác liệt. Từ khắp các giảng
đường đại học, hàng ngàn sinh viên đã gác bút nghiên để lên đường đánh giặc, và
điểm nóng lúc đó là tuyến đường Trường Sơn – con đường huyết mạch nối liền hậu
phương với tiền tuyến. Phạm Tiến Duật đã ghi lại những hình ảnh tiêu biểu của nơi
khói lửa Trường Sơn. Có thể nói, hiện thực đã đi thẳng vào trang thơ của tác giả và
mang nguyên vẹn hơi thở của cuộc chiến.

Ra đời trong hoàn cảnh ấy, bài thơ đã thực sự trở thành hồi kèn xung trận, trở thành
tiếng hát quyết thắng của tuổi trẻ Việt Nam thời kì chống Mĩ. Cảm hứng từ những
chiếc xe không kính đã làm nền để nhà thơ chiến sĩ khắc họa thành công chân dung
người chiến sĩ lái xe: ung dung tự tại, lạc quan sôi nổi, bất chấp mọi khó khăn gian
khổ , tình đồng chí đồng đội gắn bó, tình yêu đất nước thiết tha… Trong dó, hai khổ
đầu bài thơ đã đã khắc họa thật ấn tượng tư thế ung dung, hiên ngang của người
lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn đầy khói lửa.

Hai câu thơ đầu bài thơ, nhà thơ gây ấn tượng mạnh cho người đọc bởi hình ảnh
những chiếc xe không kính bị bom đạn tàn phá nặng nề.

Không có kính không phải vì xe không có kính


Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi

Với ngôn ngữ thơ giản dị, giọng điệu thản nhiên pha chút ngang tàng, chắc khỏe
như tác phong người lính; tác giả đã lí giải nguyên nhân những chiếc xe không có
kính. Tác giả dùng từ ngữ phủ định “không” điệp lại ba lần, chuyển sang ý khẳng
định: những chiếc xe không kính vốn không phải là một chủng loại riêng, không phải
là thiết kế của những nhà sản xuất mà bởi: “Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”.

Biện pháp tu từ liệt kê kết hợp với các động từ mạnh “giật”, “rung” làm hiện lên hình
ảnh những chiếc xe mang trên mình đầy thương tích của bom đạn chiến tranh.
Hai câu thơ đầu cho thấy sự ác liệt của chiến trường những năm chống Mỹ.

Nhưng không ngờ, thiếu những phương tiện vật chất tối thiểu lại là hoàn cảnh để
người lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp:

Ung dung buồng lái ta ngồi


Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng

Với giọng thơ bình thản, nhẹ nhàng, kết hợp từ láy tượng hình “ung dung” được đảo
lên đầu câu thơ có tác dụng nhấn mạnh, gợi tư thế đàng hoàng, bình thản, chủ động
của người lính lái xe. Ngồi trên ca bin những chiếc xe không kính là họ đã tự chọn
làm mục tiêu nguy hiểm nhất, sẵn sàng dính bom đạn kẻ thù, vậy mà họ vẫn “ung
dung”, nghĩa là không lo, không sợ, không run.

Điệp từ “nhìn”, kết hợp phép liệt kê đã miêu tả sự quan sát thật cẩn thận, bình tĩnh
của một tay lái làm chủ tuyến đường, làm chủ tình huống. Người lính lái xe “nhìn
đất” để quan sát đường đi đầy gập ghềnh hiểm trở, “nhìn trời” để quan sát máy bay
địch”, “nhìn thẳng” về phía trước gợi tư thế chủ động thẳng tiến ra chiến trường đầy
gian khổ, hi sinh nhưng không hề run sợ mà vững vàng, tự tin.

Trong tư thế ung dung ấy, người lính lái xe có những cảm nhận rất riêng khi được
tiếp xúc trực tiếp với thiên nhiên bên ngoài:

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng


Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.

Nhịp thơ nhanh dồn dập như gợi ra những bước tiến ào ào băng mình của đoàn xe
vận tải.

Sau tay lái của chiếc xe không có kính chắn gió nên các yếu tố về thiên nhiên,
chướng ngại vật rơi rụng, quăng ném, va đập vào trong buồng lái. Điệp ngữ “ nhìn
thấy”, nghệ thuật nhân hóa “ gió xoa mắt đắng”, từ láy “ đột ngột” và nghệ thuật so
sánh đã diễn tả sự cảm nhận thế giới bên ngoài một cách chân thực, sinh động của
người lính do những chiếc xe không kính đem lại.
Có rất nhiều cảm giác thú vị đến với người lính trên những chiếc xe không có kính.
Đó là các anh có được cảm giác như bay lên, hòa mình với thiên nhiên rồi được tự
do giao cảm, chiêm ngưỡng thế giới bên ngoài.

Các anh không chỉ “thấy gió vào xoa mắt đắng” mà còn “thấy con đường chạy thẳng
vào tim”. Đó vừa là hình ảnh thực gợi tốc độ lao nhanh của đoàn xe trên đường đèo
dốc đá núi, vừa mang ý nghĩa ẩn dụ biểu tượng cho con đường của lí tưởng, con
đường của lòng yêu nước của những người lính lái xe Trường Sơn.

Và cái cảm giác thú vị khi xe chạy vào ban đêm, được “thấy sao trời” và khi đi qua
những đoạn đường cua dốc thì những cánh chim như đột ngột “ùa vào buồng lái”.
Thiên nhiên, vạn vật dường như cũng bay theo ra chiến trường. Tất cả điều này đã
giúp người đọc cảm nhận được ở các anh nét hào hoa, kiêu bạc, lãng mạn và yêu
đời của những người trẻ tuổi. Tất cảlà hiện thực nhưng qua cảm nhận của nhà thơ
đã trở thành những hình ảnh lãng mạn.

Có thể nói, hiện thực chiến trường trong khổ thơ trên chính xác đến từng chi tiết. Và
đằng sau hiện thực đó là một tâm trạng, một tư thế, một bản lĩnh chiến đấu ung
dung, vững vàng của người lính trước những khó khăn, thử thách khốc liệt của
chiến tranh.

Như vậy, bằng các biện pháp tu từ điệp ngữ, so sánh và các từ ngữ, hình ảnh chọn
lọc, hai khổ thơ đầu của bài thơ đã giúp người đọc cảm nhận được trọn vẹn sự khốc
liệt của chiến tranh thông qua hình ảnh những chiếc xe không kính và tư thế ung
dung, hiên ngang, bản lĩnh vững vàng của người lính lái xe trên tuyến đường
Trường Sơn lịch sử. Đọc lời thơ, ta nhận ra ở nhà thơ Phạm Tiến Duật là sự cảm
phục, trân trọng dành cho những người lính bộ đội cụ Hồ. Tình cảm ấy thật đáng
trân trọng.

Với hai khổ thơ đầu nói riêng và bài thơ nói chung, Phạm Tiến Duật đã sáng tạo
được một hình ảnh thơ độc đáo, qua đó làm nổi bật chân dung người lính lái xe
Trường Sơn năm xưa với tư thế hiên ngang, dũng cảm. Toát ra từ bức chân dung
ấy là vẻ đẹp tinh thần của người chiến sĩ Việt Nam, là ý chí sức mạnh của dân tộc ta
trong sự nghiệp cứu nước.
Phân tích 3 khổ thơ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không
kính - Mẫu 1
Phạm Tiến Duật là nhà thơ thuộc thế hệ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ
cứu nước. Các tác phẩm của ông đa phần đều viết về hình tượng của người lính và
những người con gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn máu
lửa. Bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính của ông là một trong những tác phẩm
để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc, đặc biệt là ba khổ cuối của bài thơ.

Thi phẩm "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" được nhà thơ Phạm Tiến Duật sáng
tác năm 1969 nằm trong tập Vầng trăng quầng lửa của ông. Với giọng điệu sôi nổi,
tươi trẻ cùng hình tượng độc đáo, bài thơ đã khắc họa sống động hình ảnh của
những người lính lái xe trên đường Trường Sơn trong những năm tháng kháng
chiến chống Mỹ. Họ là những chàng thanh niên trẻ tràn trề nhựa sống, luôn hiên
ngang, lạc quan, dũng cảm, bất chấp mọi khó khăn, hướng một lòng về miền Nam
yêu quý. Ba khổ thơ cuối của bài thơ đã khắc họa rất thành công hình ảnh của
những người lính lái xe với tình đồng chí đồng đội thắm thiết cùng tình thần, ý chí
quyết tâm vì miền Nam ruột thịt.

Sau những chặng đường đầy gian khổ với những trận mưa bom, bão đạn, bụi đất,
mưa tuôn "xối như ngoài trời", những người lính lái xe được trở về trong phút giây
bình yên hiếm hoi giữa nơi chiến trường khói lửa này. Và trong những giây phút đó,
tinh thần đồng chí đồng đội của họ hiện lên rạng ngời hơn bao giờ hết:

"Những chiếc xe từ trong bom rơi


Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm"
Hình ảnh "những chiếc xe từ trong bom rơi" đã gợi lên cho chúng ta thấy không chỉ
là sự khốc liệt của chiến tranh mà còn là sự gan góc, kiên cường của những người
lính lái xe. Trải qua quãng đường dài với những "bom giật bom rung", những chiếc
xe của những người lính lái xe giờ đây quây quần bên nhau thành một "tiểu đội".
Những cái "bắt tay" vội vã "qua cửa kính vỡ rồi" đã thể hiện được tình đồng đội,
đồng chí thắm thiết, gần gũi. Cái bắt tay không chỉ là lời chào hỏi mà còn là sự sẻ
chia, lời động viên lẫn nhau của những người lính.

Không chỉ sẻ chia những khó khăn trong công việc, những người lính lái xe còn
cùng nhau những khó khăn, ngọt bùi trong cuộc sống sinh hoạt:

"Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời


Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm"

Bếp Hoàng Cầm là loại dã chiến được sử dụng trong hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mĩ. Bếp Hoàng Cầm xuất hiện trong khổ thơ không chỉ gợi liên
tưởng đến những giờ giải lao hiếm hoi, những bữa ăn chớp nhoáng của người lính
lái xe mà còn là "phương tiện" gắn kết tình cảm đồng đội, đồng chí giữa những
người lính. Họ quây quần bên nhau, cùng chung bát đũa, thân thiết giống như
những người thân trong gia đình. Chính tình cảm chân thành của tình đồng chí đồng
đội, tinh thần yêu nước đã trở thành nguồn động lực, sức mạnh to lớn để những
người lính vượt qua những khó khăn của bom đạn và chiến thắng trước kẻ thù.

Sau những giờ nghỉ ngơi ít ỏi, cùng giấc ngủ chớp nhoáng trên những chiếc võng
"mắc chông chênh trên đường xe chạy", những người lính lại tiếp tục cuộc hành
trình chi viện cho miền Nam ruột thịt:

"Lại đi, lại đi trời xanh thêm"

"Lại đi, lại đi" gợi liên tưởng đến những chiếc xe không biết mệt mỏi, xuyên rừng,
xuyên núi, vượt mưa bom bão đạn để về với miền Nam, cùng với đó là tinh thần
mạnh mẽ, kiên cường, không chịu khuất phục trước hoàn cảnh của những người
lính lái xe. Hình ảnh "trời xanh" là một nét vẽ, một ẩn dụ vô cùng đẹp đẽ của nhà thơ
Phạm Tiến Duật. Bầu trời xanh ấy không chỉ tượng trưng cho sự sống mà còn là
màu của tự do, hoà bình và độc lập. Những người lính lái xe dành hết mọi sức lực
để tiến về phía "trời xanh" ấy, họ chiến đấu để giành lại bầu "trời xanh" hoà bình cho
dân tộc Việt Nam.

Hai khổ thơ 5 và 6 đã cho chúng ta thấy được tình cảm đồng chí đồng đội hết sức
gắn bó, chân thành của những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Họ
chỉ là những con người xa lạ, gặp nhau, bắt tay nhau trong tiếng cười qua ô cửa
kính xe đã vỡ nhưng chỉ từng đó cũng đủ để tạo cho họ một tình cảm sâu sắc,
thiêng liêng mà không phải ai cũng có được!

Trong khổ thơ cuối cùng, hình ảnh những chiếc xe không kính lại một lần nữa xuất
hiện. Nếu như ở khổ thơ đầu tiên, nhà thơ chỉ nêu ra hình ảnh của những chiếc xe
thiếu kính vì "bom giật bom rung", thì ở khổ cuối này, sự thiếu thốn ấy lại càng gia
tăng gấp bội:

"Không có kính rồi xe không có đèn


Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim"

Những chiếc xe vốn đã méo mó, thiếu thốn nay càng trở nên biến dạng hơn dưới
sức hủy diệt của bom đạn kẻ thù. Xe không kính, không đèn, không mui, thùng xe có
xước gợi ra cái ác liệt của cuộc chiến tranh, qua đó còn làm nổi bật lên tinh thần
hiên ngang, dũng cảm của những người lính lái xe. Dẫu xe có bị tàn phá đến biến
dạng, hoạt động lái xe cũng gặp muôn vàn những khó khăn, thế nhưng những
người lính vẫn giữ vững một niềm tin "Chỉ cần trong xe có một trái tim". Hai từ "chỉ
cần" ở đầu câu thơ cho thấy một thái độ ngang tàng, hiên ngang của những người
lính. Những chiếc xe kia có biến dạng ra sao thì chỉ cần một người lính với trái tim
nhiệt huyết thì nó vẫn sẽ tiến lên, hướng về miền Nam thân yêu. Nhịp thơ ở đây đột
nhiên dồn dập, gấp gáp lạ thường, bởi vì nó chứa đựng sự sôi sục, ý chí của nhà
thơ Phạm Tiến Duật. Có lẽ đây là câu thơ hay nhất của cả bài thơ. Nó đã làm nổi bật
lên hình tượng, ý chí và lòng quyết tâm chiến đấu của những người lính lái xe
Trường Sơn trong những năm tháng ấy.

Với chất liệu hiện thực cùng một giọng thơ tươi vui, tự nhiên, khoẻ khoắn, bài thơ đã
khắc hoạ vô cùng thành công hình ảnh của những người lính lái xe ngàng tàng mà
trẻ trung, lạc quan, yêu đời. Nhịp thơ biến hoá linh hoạt, lúc nhanh, dồn dập, khi lại
chậm rãi, yên bình, phù hợp với nhịp tiến hành quân của đoàn xe "không kính".
Những hình ảnh ẩn dụ, hoán dụ cũng góp phần khắc hoạ thành công hình tượng
của những người lái xe Trường Sơn năm xưa.

Cảm nhận vẻ đẹp của Vũ Nương (mẫu 3)

Nguyễn Dữ là nhà văn xuất sắc trong nền văn học trung đại Việt Nam.
Ông học rộng tài cao, nhưng chỉ làm quan một năm rồi lui về ở ẩn vì bất
lực trước thời đại suy yếu của phong kiến. Có thể nói “truyền kỳ mạn lục”
của Nguyễn Dữ là một tác phẩm tiêu biểu cho thể loại truyền kỳ ở Việt
Nam, trong đó “người con gái Nam Xương” dựa trên tích truyện dân gian
nhưng với tài năng sự sáng tạo tuyệt vời và lòng yêu con người tha thiết,
Nguyễn Dữ đã làm bao bạn đọc phải rơi lệ xót thương cho cuộc đời và số
phận của Vũ Nương - một người phụ nữ đức hạnh nhưng có số phận bất
hạnh.

Mở đầu trang truyện, tác giả Nguyễn Dữ đã giới thiệu Vũ Nương là một
người con gái: “thùy mị, nết na, tư dung tốt đẹp”. Mặc dù con nhà nghèo
lấy chồng giàu lại có tính đa nghi ít học nhưng do hiền lành nết na lại
thông minh, khéo cư xử nên nàng đã san bằng được khoảng cách “môn
đăng hộ đối” - một quan điểm nặng nề của lễ giáo phong kiến và giữ được
không khí trong gia đình yên ấm, hạnh phúc “chưa từng xảy ra thất hòa”.
Có thể nói cuộc đời nàng tuy ngắn ngủi nhưng nàng đã làm tròn bổn phận
của một người vợ hiền, một người dâu thảo, người mẹ hết mực yêu con.
Trước hết, Vũ Nương là người vợ hết lòng yêu thương và thủy chung son
sắt với chồng. Sống dưới thời loạn lạc vì không có học nên tên Trương
Sinh phải ghi vào sổ lính loại đầu. Trong buổi tiễn đưa chồng ra trận, nàng
rót chén rượu đầy tiễn chồng bằng lời lẽ dịu dàng, tha thiết “chàng đi
chuyến này thiếp chả dám mong đeo được ấn phong hầu mặc áo gấm trở
về quê cũ chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên thế là đủ rồi”. Đọc
đến đây, người đọc xúc động trước khao khát, ước mơ bình dị của Vũ
Nương. Đằng sau niềm khao khát ước mơ ấy là cả một tấm lòng yêu
thương chân thành, đằm thắm vượt ra ngoài cám dỗ vật chất tầm thường
“vinh hoa phú quý”. Yêu thương chồng, nàng mong mỏi ngày chàng bình
yên trở về bởi hơn hết trong lòng nàng cái khát khao lớn nhất là được
hưởng thú vui “nghi gia nghi thất” vợ chồng sum họp, con cái đầy đàn,
nàng được làm trọn và hưởng hạnh phúc làm mẹ, làm vợ, Khi Trương
Sinh ở ngoài mặt trận, tình cảm của nàng luôn hướng về Trương Sinh.
Hình ảnh “bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi” là hình ảnh thiên nhiên
hữu tình gợi sự trôi chảy của thời gian đã khiến cho “nỗi buồn góc bể
chân trời không thể nào ngăn được”. Tác giả đã diễn tả thật tinh tế chân
thực nỗi niềm nhớ nhung, mong mỏi kín đáo, âm thầm mà da diết của Vũ
Nương. Vào mỗi buổi tối, nàng thường trở bóng mình trên vách để bảo là
cha Đản, việc làm ấy của nàng đâu chỉ là đơn thuần chỉ để chơi đùa nói
với con mà còn là lời nói với mình lòng mình để tự an ủi mình, nàng
tưởng tượng ra trong căn nhà nhỏ bé của hai mẹ con lúc nào cũng có
hình bóng của Trương Sinh, ý nghĩ ấy là làm vơi đi nỗi cô đơn trống trải
trong lòng nàng. Suốt ba năm Trương Sinh đi vắng, nàng đã giữ gìn một
tiết. Tô son điểm phấn đã từng nguôi lòng ngõ liễu tường hoa chưa hề
bén góc vẫn một lòng một dạ với chồng Trương Sinh.
Không chỉ vậy, Vũ Nương còn là một người con dâu hiếu thảo. Trong lúc
chồng đi vắng, nàng gánh vác mọi công việc, vượt cạn một mình, thay
chồng phụng dưỡng mẹ già, nuôi dạy con thơ mà không một lời kêu than
phàn nàn. Khi mẹ chồng ốm, nàng hết lòng thương xót lo ma chay chu
đáo như mẹ đẻ của mình. Lời của mẹ chồng trước lúc lâm chung “sau
này trời xét lòng lành ban cho phúc đức giống dòng tươi tố con cháu đông
đàn xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ” đã
minh chứng cho tấm lòng yêu thương chân thành của người con có hiếu.
Nàng là người mẹ hết lòng yêu thương, chăm sóc dạy dỗ con, vào mỗi
buổi tối nàng thường chỉ cái bóng trên vách và bảo là cha Đản không chỉ
để nô đùa cùng con mà còn mong con luôn nhớ tới hình bóng của người
ba, nàng còn là người phụ nữ trọng nhân phẩm. Khi bị vu oan, Vũ Nương
đã hết lời tha thiết, thanh minh thề non nguyện biển nhưng không được,
nhân phẩm trong trắng bị xúc phạm nặng nề bởi nỗi nhơ thất tiết, nàng đã
phải chọn cái chết để minh chứng cho tấm lòng trong sáng, thủy chung
của mình. Mặc dù khát khao được sống được hàn gắn hạnh phúc gia
đình nhưng nàng cũng quyết đổi mạng sống của mình để bảo vệ nhân
phẩm - cái mà nàng quý hơn tất cả, yếu tố kỳ ảo được dùng đã làm hoàn
thiện hơn vẻ đẹp của Vũ Nương, ta hiểu thêm nàng là người nhân hậu,
bao dung, ở dưới thủy cung được sống đầy đủ sung sướng quan hệ giữa
người với người tốt đẹp nhưng lúc nào nàng cũng đau đáu nhớ về gia
đình, chồng con, Câu nói của nàng với Phan Lang khiến người đọc rưng
rưng nước mắt “… ngựa hồ gầm gió bắc, chim Việt đậu cành nam, tôi tất
phải tìm về có ngày”. Lẽ ra nàng có quyền căm thù nơi trần thế đã đẩy
nàng vào cái chết oan khuất nhưng trái tim nàng không một chút oán hờn,
vẫn nhân hậu vị tha, bao dung. Qua đây, người đọc cảm nhận được Vũ
Nương là một người phụ nữ có phẩm chất đức hạnh.
Nhưng hỡi ơi! Thương thay cho số phận oan nghiệt của Vũ Nương, một
người phụ nữ cả đời hy sinh để mong muốn được hạnh phúc như Vũ
Nương lại phải chết một cách oan khuất, không được hưởng những gì
mình đã hi sinh. Nàng phải gặp tình duyên ngang trái khi nàng vẫn còn
xuân. Nguyễn Dữ đã cảm thương cho Vũ Nương, người phụ nữ nhan sắc
đức hạnh lại phải lấy Trương Sinh - một kẻ vô học, hồ đồ, vũ phu.
Thương tâm hơn khi người chồng đó còn có tính đa nghi đối với vợ lúc
nào cũng “phòng ngừa quá sức”, lấy chồng chưa được bao lâu, nàng đã
phải tiễn biệt chồng lên đường đánh giặc. Trương sinh đi lính để lại gánh
nặng cho người vợ trẻ, Vũ Nương thay chồng nuôi mẹ và con. Sau khi mẹ
chồng mất, chỉ còn hai mẹ con Vũ Nương trong căn nhà trống vắng cô
đơn. Đọc đến đây, người đọc không khỏi chạnh lòng xót thương cho cho
cảnh người vợ trẻ chỉ biết san sẻ buồn vui với đứa con thơ dại. Việc quân
kết thúc, Trương Sinh từ miền xa chinh chiến trở về nhưng Vũ Nương
không được hưởng hạnh phúc trong cảnh vợ chồng sum họp chỉ vì
chuyện “chiếc bóng” qua miệng đứa con thơ mới tập nói mà Trương Sinh
đã “đinh ninh” là vợ hư liền mắng nhiếc, đuổi Vũ Nương đi. Trương Sinh
bỏ ngoài tai mọi lời bày tỏ van xin đến rướm máu, lời biện bạch của họ
hàng, làng xóm. Nàng đã bị chồng đẩy vào bi kịch bị ghép ngay vào tội
không chung thủy, một trong những tội bị người đời phỉ nhổ, nguyền rủa
nhất của người phụ nữ phong kiến thời xưa. Nhân phẩm mà nàng coi
trọng nhất, quý giá nhất và ra sức giữ gìn thì nay lại bị xúc phạm nặng nề,
có thể khẳng định nỗi đau mà nàng phải gánh chịu là quá lớn, nàng đã bị
đẩy vào bước đường cùng vào vực thẳm của cuộc đời, nàng phải chọn
cái chết trong khi nàng vẫn khao khát được hưởng hạnh phúc gia đình.

Tại sao Vũ Nương lại phải chết một cách oan khuất như vậy? phải chăng
là lời nói ngây ngô, vô tình của con trẻ “Ô hay thế ra ông cũng là cha tôi
ư? ông lại biết nói chứ không như cha tôi, trước khi chỉ nín thin thít… đêm
nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi” đã làm thổi
bùng lên ngọn lửa sẵn có trong lòng Trương Sinh, không đâu khác, chính
là do chồng nàng – Trương Sinh, một kẻ hồ đồ phũ vu lại ghen tuông, độc
đoán, chỉ vì lời nói ngây thơ của con trẻ mà đã đinh ninh là vợ hư, bỏ mặc
ngoài tai những lời thanh minh biện bạch của vợ, lời bênh vực của họ
hàng, làng xóm, để rồi đẩy Vũ Nương vào cái chết oan nghiệt. Đằng sau
trang văn, truyện còn nói lên do lễ giáo phong kiến “trọng nam khinh nữ”
và sự bất bình đẳng của kẻ giàu và người nghèo. Đồng thời, còn do chiến
tranh phong kiến phi nghĩa đã gây lên cảnh sinh ly, Trương Sinh phải đi
lính, Vũ Nương phải chịu nỗi oan, để rồi Vũ Nương phải tìm đến cái chết
thê thảm, oan khuất. Tất cả những nguyên nhân trên đã đẩy Vũ Nương
đến bước đường cùng phải chọn cái chết để bảo vệ nhân phẩm của
mình, cái chết của Vũ Nương chính là tấm bi kịch đau thương, cái chết
oan khuất tức tưởi của nàng là một lời tố cáo đanh thép xã hội phong kiến
bất công, vô lý, đã cướp đi quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc
của con người.

Như vậy, “Chuyện người con gái Nam Xương” đã vượt lên tư cách một
bản lề của truyện cổ tích, “Vợ chồng Trương” bởi sự tái tạo đầy tính nghệ
thuật của Nguyễn Dữ, tác giả đã xây dựng được tình huống truyện bất
ngờ, tạo nên kịch tính cho câu chuyện với lời nói ngây thơ của bé Đản
dẫn đến sự hiểu lầm của Trương Sinh, thành công của truyện hơn tất cả
là tác giả đã sử dụng yếu tố hoang đường góp phần tăng thêm tính hiện
thực và ý nghĩa nhân văn của tác phẩm, hoàn thiện hơn vẻ đẹp của Vũ
Nương - một người phụ nữ điển hình trong văn học Việt Nam thế kỷ XVI.
Đó là một phụ nữ hoàn hảo nhưng lại có số phận éo le, bi đát. Cũng giống
như Vũ Nương trong xã hội phong kiến xưa còn có biết bao thân phận
của người phụ nữ phải sống trong cảnh đời như vậy như hình ảnh của
người phụ nữ trong bài thơ “bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương.

Thân em vừa trắng lại vừa tròn


Bảy nổi ba chìm với nước non

Hay trong “truyện Kiều” của Nguyễn Du có viết:

Đau đớn thay phận đàn bà


Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung

Tóm lại, “chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ là một áng
văn hay - tiêu biểu cho thể loại truyền kỳ và được người đời đánh giá là
“thiên cổ kỳ bút”. Truyện vừa thể hiện số phận bi đát của người phụ nữ
trong xã hội phong kiến vừa có ý nghĩa cơ ngợi vẻ đẹp của lòng vị tha -
tiêu biển là hình ảnh Vũ Nương, qua câu chuyện người đọc càng cảm
thấy giá trị cuộc sống của người phụ nữ trong xã hội ngày nay. Họ đang
phấn đấu vươn lên làm chủ cuộc đời, chủ số phận và họ - những người
phụ nữ hiện đại phải được sống bình đẳng, được mọi người tôn trọng
như nam giới.

Cảm nhận vẻ đẹp của Thúy Kiều - Mẫu 1


Nguyễn Du là một nhà thơ tài năng, một bậc thầy của nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ.
Tác phẩm nổi tiếng nhất mà ông để lại cho hậu thế là kiệt tác "Truyện Kiều". Tác
phẩm là câu chuyện về cuộc đời của nàng Kiều tài năng và xinh đẹp nhưng lại chịu
số phận 15 năm lưu lạc, lênh đênh giữa cuộc đời. Vẻ đẹp và tài năng của nàng Kiều
được Nguyễn Du thể hiện rõ thông qua đoạn trích "Chị em Thuý Kiều".

Đoạn trích "Chị em Thuý Kiều" nằm ở phần đầu "Gặp gỡ và đính ước" của tác phẩm
"Truyện Kiều". Đây là phần mà tác giả Nguyễn Du tập trung giới thiệu về gia đình
của Kiều. Đoạn trích "Chị em Thuý Kiều" miêu tả chi tiết về vẻ đẹp cũng như tài
năng của hai chị em Thuý Kiều, Thuý Vân, đặc biệt là vẻ đẹp của Thuý Kiều.

Nếu như đoạn trích có 24 câu thơ thì Nguyễn Du dành tới 12 câu thơ để miêu tả vẻ
đẹp của Kiều, điều đó chứng tỏ sự ưu ái của ông dành cho nàng. Không chỉ vậy,
mặc dù Kiều là chị gái của Thuý Vân, nhưng ông lại dồn tâm, dồn lực để miêu tả vẻ
đẹp của Thuý Vân trước khi miêu tả vẻ đẹp của Kiều. Để rồi khi bước sang miêu tả
vẻ đẹp của Kiều, Nguyễn Du đã nhấn mạnh rằng:

"Kiều càng sắc sảo, mặn mà


So bề tài sắc lại là phần hơn"

Đây chính là nghệ thuật đòn bẩy, khơi gợi trong lòng người đọc một sự chờ đợi
trong mong mỏi được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nàng Kiều. Và Nguyễn Du đã vẽ
nên bức chân dung nhan sắc của Kiều đẹp tuyệt vời như sau:

Làn thu thủy, nét xuân sơn,


Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai."

Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật ước lệ, lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để làm thước
đo cho vẻ đẹp của con người. Những hình ảnh như thu thuỷ, xuân sơn, hoa, liễu, ...
được ông sử dụng để thể hiện vẻ đẹp của một giai nhân tuyệt sắc. Nếu như ở Thuý
Vân, Nguyễn Du chú trọng miêu tả từng chi tiết trên khuôn mặt, lông mày, màu da,
nước tóc,... thì ở Thuý Kiều, ông lại chỉ tập trung miêu tả đôi mắt của nàng. Bởi đối
với một con người, đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn, chứa đựng tất cả tâm tư, tình
cảm của người đó. Với Kiều, đôi mắt ấy như một "làn thu thuỷ", còn đôi lông mày
của nàng lại như một "nét xuân sơn". Một đôi mắt trong biếc như làn nước của mùa
thu cùng với đôi lông mày thanh tú tựa như dáng núi mùa xuân, một vẻ đẹp mà
không có bút nào tả xiết! Đây là bút pháp điểm nhãn được Nguyễn Du sử dụng, chỉ
một nét chấm phá mà gợi ra cả nhan sắc của một con người. Nguyễn Du chỉ vẽ
Kiều thông qua đôi mắt vậy mà ta cũng đã cảm nhận được vẻ đẹp thanh tú tuyệt vời
của nàng. Vậy mới biết, ngòi bút của Nguyễn Du quả thật vô cùng xuất sắc! Không
chỉ vậy, Nguyễn Du còn so sánh vẻ đẹp của Kiều với "hoa", với "liễu", những vẻ đẹp
yểu điệu, dịu dàng của thiên nhiên đã được người ta công nhân. Người xưa thường
ví mỹ nhân như hoa, như ngọc. Vậy mà vẻ đẹp của nàng Kiều lại vượt qua cả vẻ
đẹp của tạo hoá, vượt ra khỏi mọi khuôn khổ của vẻ đẹp tự nhiên, khiến cho "Hoa
ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh", thậm chí là "nghiêng nước nghiêng thành".
Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật nhân hoá "hoa ghen", "liễu hờn" cùng thành ngữ
"nghiêng nước nghiêng thành" chỉ để miêu tả vẻ đẹp của Kiều. Vẻ đẹp ấy của nàng
quả là tuyệt mỹ, khiến cho tạo hoá cũng phải hơn thua mà ghen tị. Thế nhưng khi
miêu tả vẻ đẹp của nàng, Nguyễn Du dường như đã dự cảm về số phận của Kiều,
về cuộc đời trôi nổi của nàng sau này. Bởi vẻ đẹp của nàng đã vượt mọi khuôn khổ,
gợi lên những mâu thuẫn, bất hoà với tạo hóa, vậy thì chắc hẳn cuộc đời của nàng
cũng sẽ đầy những truân chuyên và quả đúng là như vậy!

Nàng Thuý Kiều xinh đẹp không chỉ có nhan sắc "chim sa cá lặn", nàng còn là một
người con gái với tài năng cầm, kỳ, thi, hoạ vô cùng tuyệt vời: "Sắc đành đòi một, tài
đành hoạ hai". Ở Thuý Vân, Nguyễn Du chỉ tập trung miêu tả nhan sắc của nàng,
nhưng với Thuý Kiều, ông lại chỉ dành một phần tả nhan sắc của nàng, còn lại, ông
dồn hết tâm sức để miêu tả tài năng của nàng, rằng:

"Thông minh vốn sẵn tính trời,


Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên Bạc mệnh, lại càng não nhân."

Thuý Kiều, nàng không chỉ là hiện thân của vẻ đẹp mà còn là hiện thân của tài năng.
Trời phú cho nàng sự "thông minh" thiên bẩm, lại còn phú cho nàng cả đủ cả "thi
hoạ" và "ca ngâm". Tất cả tài năng của nàng đều đạt tới mức tinh thông, lí tưởng,
đặc biệt là tài năng đàn cầm. Phụ nữ xưa chỉ cần biết cầm, kì, thi, hoạ, mỗi thứ một
chút ít đã là bậc tài nữ trong thiên hạ, vậy mà Thuý Kiều lại có thể "làu bậc ngũ âm"
cũng như đánh được loại đàn "Hồ cầm" - loại đàn của người Hồ vô cùng khó học.
Không chỉ giỏi đánh đàn, nàng còn có thể sáng tác ra những tuyệt khúc mà nổi bật
là thiên "Bạc mệnh". Tiếng đàn khúc "Bạc mệnh" của nàng vang lên đều khiến cho
người nghe phải xúc động, đau khổ, sầu nào. Điều đó đã chứng minh cho tài năng
thi ca vô cùng tuyệt vời của Kiều, nhưng đó cũng là biểu hiện, là dấu hiệu về số
phận "bạc mệnh" của nàng. Bởi bài hát, khúc ca mang theo tâm tư của người viết
nhạc, một khúc nhạc não nề, buồn thương như thế chứng minh cho một trái tim đa
sầu đa cảm, cũng là dự báo về một cuộc đời "hồng nhan" éo le, đầy bất hạnh.

Có thể nói rằng Nguyễn Du đã vô cùng thành công khi miêu tả vẻ đẹp của Thuý
Kiều. Nghệ thuật ước lệ tượng trưng, đòn bẩy được ông sử dụng vô cùng tinh tế để
làm nổi bật vẻ đẹp của Thuý Kiều so với người em Thuý Vân. Cùng với đó là nghệ
thuật lấy điểm tả diện, nghệ thuật nhân hoá,... đều được Nguyễn Du sử dụng hết
sức khéo léo khi miêu tả nhan sắc và tài năng của Kiều. Không chỉ vậy, những ngôn
từ miêu tả hết sức độc đáo, những hình ảnh thiên nhiên so sánh có sức gợi cao đã
giúp chúng ta hình dung ra vẻ đẹp và tài năng tuyệt vời của người con gái mang tên
Vương Thuý Kiều.

Chỉ bằng những câu thơ của mình, Nguyễn Du đã vẽ lên bức chân dung vô cùng
tuyệt mỹ của Thuý Kiều không chỉ về nhan sắc mà còn là tài năng của nàng. Nhưng
qua những lời thơ miêu tả đầy ngợi ca ấy, ông cũng nói lên dự cảm của mình về
cuộc đời đầy trắc trở của nàng Kiều. Từ đó, ta có thể thấy được một trong những
cảm hứng nhân đạo mà Nguyễn Du gửi gắm là trân trọng vẻ đẹp, tài năng của
những con người, đặc biệt là những phụ nữ trong xã hội xưa.

1. Phân tích tám câu thơ cuối trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
(mẫu 1)

Nguyễn Du chính là ngọn cờ đầu đưa nền văn học chữ Nôm của dân tộc ta phát
triển tới đỉnh cao với kiệt tác truyện Kiều. Người ta đọc truyện và ấn tượng với nó
không chỉ bởi tài năng của Nguyễn Du mà có lẽ bởi tấm lòng nhân đạo của ông
dành cho người phụ nữ tài hoa nhưng bạc mệnh. Với tám câu thơ cuối đoạn trích
Kiều ở lầu Ngưng Bích chính là bức tranh tâm trạng đầy xúc động của Thúy Kiều
qua cách nhìn cảnh vật.

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích nằm ở phần Gia biến và lưu lạc khi gia đình gặp
cơn loạn lạc, Kiều đã quyết định bán mình để chuộc cha. Trải qua bao gian khổ Kiều
đã bị Tú Bà đưa ra sống ở lầu Ngưng Bích. Trong tâm trạng của một con người xa
quê và nhớ nhà trước khung cảnh của lầu Ngưng Bích một nỗi buồn mênh mang đã
khiến cho Kiều có những cảm xúc:

Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa

Hai câu thơ tả cảnh biển khơi mênh mông dưới ánh chiều tà, thời điểm buổi chiều
luôn là thời điểm gọi buồn gợi nhớ đặc biệt là đối với những kẻ tha hương xa xứ.
Hình ảnh biển bao la nhưng chỉ có một con thuyền thấp thoáng xa xa, lúc ẩn lúc hiện
như có như không. Chính sự lẻ loi, cô đơn của chiếc thuyền đã là hình ảnh ẩn dụ
cho thân phận bơ vơ, lẻ loi của Kiều.

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu

Hình ảnh thuyền trôi vô định nhưng đến cánh hoa cũng vô định cũng chẳng biết về
đâu. Cánh hoa rơi nơi sóng nước Kiều lại liên tưởng đến thân phận của mình, cuộc
đời nàng cũng giống như một đóa hoa phù dung sớm nở tối tàn, bị gió dập sóng dồi.
Xa cha mẹ là cuộc đời Kiều giống như cánh chim lạc bầy trong giông tố, không tự
quyết định được phương hướng và tương lai của mình. Kiều nhắm mắt mặc dòng
đời xô đẩy

Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Màu cỏ ở đây không còn là cỏ non xanh tận chân trời giống như ngày tiết Thanh
minh mà là nội cỏ rầu rầu, chính là một màu vàng úa, héo hắt, thê lương. Màu xanh
xanh nhưng lại nhàn nhạt tạo cho cỏ cây không còn nét tươi mà thêm vẻ ủ rũ tạo
nên một sắc buồn tẻ nhạt. Tuổi thanh xuân của Kiều với tài năng trời phú và nét đẹp
của mình nhưng Kiều đã phải chôn vùi tuổi thanh xuân ấy ở lầu Ngưng Bích.

Buồn trông gió cuốn mặt dềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Hình ảnh biển khơi đang êm ả không có một chút âm thanh nhưng cuối khổ thơ lại
là tiếng sóng ầm ầm, tiếng sóng bốn phía như muốn cuốn hết đi thân phận nhỏ bé
của Kiều, như chỉ trực chờ đẩy con người xuống vực thẳm. Sóng gió biển khơi hay
thực chất là sóng gió cuộc đời đang chờ đón Kiều. Đó chính là những âm thanh báo
hiệu một tương lai đầy bất chấp để sau đó Kiều liên tiếp gặp những khổ cực trong
cuộc đời mình.

Với ngòi bút tài hoa và tinh tế của Nguyễn Du cảnh và tình uốn lượn song song.
Cảnh vật thay đổi tạo thành một bộ bức tranh tứ bình về tâm trạng của Kiều với các
câu hỏi tu từ, một loạt các từ láy đã gợi hình ảnh gợi cảm góp phần khơi dậy những
cơn sóng trong lòng của Kiều. Với đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích đã cho ta thấy
rõ những nét tâm trạng của Kiều, giúp ta có những sự cảm đau đớn về tương lai của
Kiều ở phía trước. Đồng thời thể hiện được cái tài, cái tâm của Nguyễn Du.

Với 8 câu thơ ngắn gọn nhưng đã thể hiện được cái tài của Nguyễn Du trong bút
pháp tả cảnh ngụ tình với tấm lòng nhân đạo của ông người đọc như cảm thông với
số phận của nàng Kiều. Đồng thời lên án xã hội phong kiến đã đẩy những con người
tài hoa nhưng không được xã hội coi trọng.

You might also like