1, Ngôi Nhà T Mình Xây Nên

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 7

BÀI 4 GIỮA NGƯỜI VỚI NGƯỜI

1, Ngôi nhà tự mình xây nên


有个老木匠准备退休,他告诉老板,说要离开建筑行业, 回家与妻
子儿女享受天伦之乐。老板舍不得他的好工人走, 问他是否能帮忙再建一
座房子,老木匠说可以。但是大家后来都看得出来,他的心已不在工作上。
他用的是软料,出的是粗活。房子建好的时候,老板把大门的钥匙递给他。
“这是你的房子,”他说,“我送给你的礼物。”老木匠惊得目瞪口呆,羞
愧得无地自容。如果他早知道是在给自己建房子,他怎么会这样呢?现在他
得住在一幢粗制滥造的房子里!
Có một người thợ mộc già sắp nghỉ hưu, ông nói với ông chủ rằng ông
muốn rời bỏ ngành xây dựng và về nhà tận hưởng hạnh phúc gia đình cùng
vợ con, ông chủ không muốn để người thợ giỏi của mình ra đi, hỏi ông có thể
nào giúp ông ta xây một ngôi nhà khác. Người thợ mộc già nói có. Nhưng sau
này mọi người có thể thấy rằng tinh thần anh ta không còn để vào công việc
nữa. Anh ta sử dụng những vật liệu kém chất lượng và làm những công việc
nặng nhọc. Khi ngôi nhà được xây dựng, ông chủ đã trao cho anh ta chìa
khóa. cửa." Anh ấy nói, "Món quà của tôi dành cho ông.” Ông thợ mộc già
sửng sốt và xấu hổ vô cùng. Nếu biết mình đang xây nhà cho mình thì sao có
thể như thế này được? Bây giờ ông phải sống trong một ngôi nhà tồi tàn!
我们又何尝不是这样。我们漫不经心地“建造”自己的生活,不是积
极行动,而是消极应付,凡事不肯精益求精,在关键时刻不能尽最大努力。
等我们惊觉自己的处境,早已深困在自己建造的“房子”里了。
Chúng ta chính là như vậy. Chúng ta không để ý đến "việc xây dựng”
cuộc sống của chính mình, không phải là thực hiện những hành động tích cực
mà là đối phó với nó một cách thụ động, từ chối phấn đấu để đạt được sự
xuất sắc trong mọi việc và không nỗ lực hết mình vào những thời điểm quan
trọng. Đợi đến lúc chúng ta thức tỉnh trước hoàn cảnh của mình, chúng ta đã
bị kẹt sâu trong "ngôi nhà" mà chúng ta đã xây dựng.
把你自己当成那个木匠吧,想想你的房子,每天你敲进一 颗钉,加
上去一块板,或者竖起一面墙,用你的智慧好好建造吧!你的生活是你一生
惟一的创造,不能抹平重建,即使只有 一天可活,那一天也要活得优美、
高贵,墙上的铭牌上写着: “生活是自己创造的。”
Hãy coi mình như người thợ mộc. Hãy nghĩ về ngôi nhà của bạn. Mỗi
ngày bạn đóng 1 cây đinh, đóng thêm một tấm ván hoặc dựng lên một bức
tường. Hãy dùng trí tuệ của mình để xây dựng nó! Cuộc đời của bạn là sự
sáng tạo duy nhất cả đời bạn. Bạn không thể đập đi xây lại. Dù chỉ còn một
ngày để sống, bạn phải sống ngày đó thật đẹp và cao quý. Bảng tên trên
tường ghi: "Cuộc sống là do bạn tạo ra".
(2) Một chuyện vào giữa mùa Thu
去年中秋节,我遇到了让我至今难忘的一件事。那天我正在一家副食
店做室外推销月饼的工作。因为商店路段好,月饼的种类和档次也多,所以
这一天的成绩挺让我骄傲的。只是档次低的那种传统样式的月饼不大好卖。
一天的推销工作接近尾声,月亮刚露脸就很圆了,中秋之夜凉风习习。我紧
了紧外衣,准备收摊回店。这时听见一个声音怯怯地说:“我买月饼。”
Năm ngoái, trong dịp Tết Trung Thu, tôi đã gặp phải một điều mà
tôi sẽ không bao giờ quên. Hôm đó tôi đang tiếp thị ngoài trời món bánh
trung thu cho một cửa hàng thực phẩm. Vì cửa hàng ở đoạn đường đẹp và
có nhiều chủng loại, các hạng bánh trung thu nên tôi khá tự hào về thành
quả của mình trong ngày này. Chỉ là bánh trung thu kiểu truyền thống
loại thường không dễ bán. Công việc bán hàng trong ngày sắp kết thúc,
trăng vừa mới ló dạng đã rất tròn, đêm Trung Thu gió mát hiu hiu. Tôi
thắt chặt áo khoác chuẩn bị đóng cửa hàng. Lúc này, tôi nghe thấy một
giọng nói rụt rè nói: “Tôi muốn mua bánh trung thu.”
“你好,喜欢哪个品种?”我抬头看见买月饼的竟是个中年男乞丐。穿着
不合身的衣服,衣领成了破布条,背上的破袋子里有空矿泉水瓶。
“Xin chào, bạn thích loại bánh nào?” Tôi ngước lên và thấy người
mua bánh trung thu thực chất là một người đàn ông ăn xin. Anh ta mặc
một bộ quần áo không vừa vặn, cổ áo rách rưới, trên lưng có một chai
nước khoáng rỗng trong chiếc túi rách nát.
我不相信会是他买。“你要买?”
Tôi không tin chính anh ta sẽ mua nó. "Bạn muốn mua?"
“是。”他说。
“Đúng vậy.” Ông ấy nói.
我给他挑出不好卖的那种。
Tôi chọn ra những chiếc bánh khó bán cho ông ấy.
“不,要枣泥馅的。”他说。
“Không, tôi muốn nhân mứt táo.” Ông ấy nói
顾客就是上帝,我把已收拾好的枣泥月饼拿出来。
Khách hàng là thượng đế, tôi lấy bánh trung thu nhân mứt táo được
đóng gói đẹp đẽ ra
“要四块。”他说。
“Lấy tôi bốn cái.” Ông ấy nói
“你一个人吃四块?还是省点儿钱吧。”我同情地说。
“Một mình ông ăn hết 4 cái à? Thà tiết kiệm ít tiền còn hơn.” Tôi đồng
cảm nói.
“不,孩子爱吃,给他买俩。我们家也过节。”
“Không, con tôi thích ăn, mua cho nó 2 cái. Gia đình tôi cũng ăn lễ.”
我按最低价包好了四块月饼。收他钱时我有点儿不好意思。这时路灯
已经亮了,我也要回住处了。其实,我倒不急于回家,因为我所谓的家里就
只我一个人,我已习惯了一个人早出晚归的生活。只是今天中秋节,总觉得
心里空落落的。
Tôi gói bốn chiếc bánh trung thu với giá thấp nhất. Tôi cảm thấy hơi
xấu hổ khi lấy tiền của anh ấy. Lúc này đèn đường đã bật sáng và tôi cũng
cần quay về chỗ ở của mình. Thực ra tôi cũng không vội về nhà, bởi vì tôi
là người duy nhất trong cái gọi là nhà của mình, và tôi đã quen với cuộc
sống đi sớm về muộn. Chỉ là hôm nay là Trung thu, trong lòng tôi luôn
cảm thấy trống trải.
拐过一个弯是一片空地。我看见刚才那个男乞丐,旁边坐着女乞丐,
还有一个小乞丐坐在女乞丐的腿上,大约是这两个乞丐生的孩子,那孩子
正用手指着天上的一轮月亮。月亮出奇地圆!想必那就是他们一家在团聚
了。平日里他们肯定是单独去要饭的,今天算难得一聚。穷人有穷人的穷
开心,看着他们其乐融融的样子,我很感动。
Rẽ qua là một không gian rộng mở. Tôi nhìn thấy người đàn ông ăn xin
vừa nãy, người đàn bà ăn xin ngồi bên cạnh, còn có một bé ăn xin ngồi trên
chân người đàn bà ăn xin, có lẽ đứa trẻ là con của hai người ăn xin này, đứa bé
đó đang chỉ vào mặt trăng trên bầu trời. Trăng tròn đến bất ngờ! Chắc hẳn đó là
ngày đoàn tụ của gia đình họ. Vào các ngày trong tuần, họ phải đi một mình để
xin ăn. Hôm nay là một cuộc tụ tập hiếm hoi. Nhìn người nghèo cũng vui vẻ
như người nghèo mà tôi rất cảm động.
(3) Tôi là ăn trộm
遇到阿尼尔时,我还是一个小偷。虽然那时我才十五岁, 但干这一行
却已经是老手了。
Lúc tôi gặp Anil, tôi vẫn là một tên trộm. Mặc dù lúc đó tôi mới 15 tuổi
những tôi đã là một người kỳ cựu trong ngành này.
我是在看摔跤比赛时认识阿尼尔的。他人很随和善良,是我信手可得
的对象。我跟他聊了几句后,他要离开摔跤场。我跟在他后面,边走边说想
帮他做点儿事。他问我会不会做饭,我撇谎说会,他把我领到他家。那天晚
上我做的饭一定很糟糕,因为后来他把饭倒给了一条狗。
Tôi gặp Anil khi đang xem trận đấu vật. Anh ấy rất dễ gần và tốt
bụng, khiến anh ấy trở thành một nửa hoàn hảo đối với tôi. Sau khi tôi trò
chuyện với anh ấy vài lời, anh ấy rời sàn đấu vật. Tôi đi theo anh ấy, vừa
đi vừa nói rằng tôi muốn làm điều gì đó cho anh ấy. Anh ấy hỏi tôi có biết
nấu ăn không, tôi nói dối là biết và anh ấy đưa tôi về nhà anh ấy. Đêm đó
tôi nấu ăn chắc tệ lắm vì sau đó anh ấy đã cho một con chó ăn.
后来,他拍了拍我的肩膀说,没关系,他将教我做饭,还说要教我
写句子和数数。我很感激。
Sau đó, anh ấy vỗ nhẹ vào vai tôi và nói, không sao đâu, anh ấy sẽ
dạy tôi nấu ăn. Anh ấy còn nói sẽ dạy tôi viết câu và đếm. Tôi rât cảm kich.
为阿尼尔干活是非常愉快的。做完早点后,我就去采购一天的食品。
一般说来,我每天都要捞个把卢比。他好像是知道,但看上去却并不在意。
Tôi rất vui khi được làm việc cho Anil. Sau khi làm xong bữa sáng,
tôi đi mua đồ ăn cho cả ngày. Nói chung, tôi kiếm được vài rupee mỗi
ngày. Anh ta dường như biết, nhưng anh ta dường như không quan tâm.
阿尼尔的钱是靠他的小聪明和机会得来的。他常常是这个星期借钱,
下个星期再转手贷给别人。但当支票一到,他就要出去庆祝一番。他好像
是在为一些杂志撰稿:一种古怪的谋生方法。
Anil kiếm được tiền nhờ sự thông minh và cơ hội của mình. Anh ta
thường vay tiền tuần này và mượn tiền người khác vào tuần sau. Nhưng
khi tờ séc đến, anh ấy liền đi ăn mừng một phen. Có vẻ như anh ấy đang
viết cho 1 số tạp chí: Một cách kiếm sống kỳ lạ.
一天晚上,他带回一小沓钞票。说是刚把一本书稿卖给一个出版商。
夜里,我看到他把钱塞在了床垫下面。
Một đêm nọ, anh mang về một xấp tiền giấy. Anh ấy nói rằng anh ấy
vừa bán một bản thảo sách cho một nhà xuất bản. Đến tối tôi thấy anh ta
nhét tiền dưới đệm.
我为阿尼尔干了大约个把月的活。除了买东西时做点儿小弊,我没
有再去干我的老本行。其实我有很多得手的机会。阿尼尔给了我一把房门
钥匙,我可以随意进出。他是我所遇到的最信任别人的人。这倒使我很难
对他下手。偷一个贪心的人容易,但偷一个粗心的人却很困难——有时,
他甚至不知道自己已经被盗,这对于干我这行的来说就没多少意思了。
Tôi đã làm việc cho Anil được khoảng một tháng. Ngoại trừ một số
gian lận nhỏ khi mua đồ, tôi không còn làm công việc cũ nữa. Thực tế, tôi
có rất nhiều cơ hội để thành công. Anil đưa cho tôi chìa khóa nhà và tôi có
thể ra vào tùy thích. Anh ấy là người tin tưởng người khác nhất mà tôi
từng gặp. Điều này khiến tôi khó tấn công anh ta. Ăn trộm của một người
tham lam thì rất dễ, nhưng lấy trộm của một người hờ hững thì rất khó.
Đôi khi, anh ta thậm chí còn không biết rằng mình đã bị đánh cắp, điều
này chẳng mấy thú vị trong công việc của tôi.
是动真格的时候了,我对自己说;长时间不干,手都生了。如果我
不把钱拿走,他将把它全部花在他的朋友身上,反正他是不会支付我工钱
的。
Đã đến lúc phải nghiêm túc rồi, tôi tự nhủ; nếu không làm việc trong
thời gian dài, ngượng tay ngượng chân quá. Nếu tôi không lấy tiền, anh ấy
sẽ tiêu hết cho bạn bè và anh ấy cũng sẽ không trả tiền cho tôi.
阿尼尔睡着了。我悄悄地爬到他的床前。我把手伸进床垫下去,摸
到钞票,我轻轻地将其抽出。阿尼尔在梦中叹了一ロ气,并把身子转向我。
我不由大吃一惊,赶紧爬出房子。
Anil đã ngủ rồi. Tôi lặng lẽ bò đến trước giường anh. Tôi thò tay
xuống dưới đệm, sờ tờ séc rồi nhẹ nhàng kéo nó ra. Anil thở dài trong giấc
mơ và quay về phía tôi. Tôi không khỏi bị sốc và nhanh chóng bò ra khỏi
nhà.
一上路,我便开始跑起来。我用腰带把钞票束在腰间。跑了一阵后,
我放慢了步子。边走边数着票栗子,50 卢比一张,共 600 卢比。真是发
了大财!这下我可以像一个阿拉伯石油富翁一样,过上一两星期好日子啦。
Khi đang trên đường, tôi bắt đầu chạy. Tôi quấn tiền quanh eo bằng
một thắt lưng. Chạy được một lúc thì tôi chạy chậm lại. Vừa đi tôi vừa
đếm tấm séc, mỗi tờ 50 rupee, tổng cộng là 600 rupee. Thật là một điều
may mắn! Bây giờ tôi có thể sống như một ông trùm dầu mỏ Ả Rập, trải
qua một hai tuần thật thoải mái thôi.
来到车站,正好有一列开往另一个城市的火车马上就要发车。可我
自己也说不清为什么我没有逃走。我失去了逃走的机会。当火车离去,我
发现自己站在空无一人的站台上。
Khi chúng tôi đến ga, tình cờ có một chuyến tàu đi đến một thành
phố khác sắp khởi hành. Nhưng tôi không thể giải thích tại sao tôi không
bỏ chạy. Tôi đã mất cơ hội trốn thoát. Khi tàu rời đi, tôi thấy mình đang
đứng trên một sân ga trống rỗng không một bóng người.
我不知道该去哪里度过这漫长的夜晚。我没有真正的朋友,我认识
的惟一的朋友是被我偷了钱的人。凉风夹着暴雨,无情地抽打着我的面颊。
我摸了摸腰间,钞票都被雨水打湿了。
Tôi không biết phải trải qua đêm dài này ở đâu. Tôi không có người
bạn thực sự nào, người bạn duy nhất tôi biết là người đã bị tôi trộm tiền.
Gió mát hòa cùng bão tố, táp vào má tôi không thương tiếc. Tôi sờ vào thắt
lưng, những tờ séc đều ướt đẫm vì mưa.
啊,阿尼尔的钱!如果我不离开他的话,早上他很可能给我两三个
卢比,让我去看电影。但我现在把他的钱全部拿走了,再也不用做饭,不
用跑集市,不用学写句子了。
A, tiền của Anil! Nếu tôi không bỏ anh ấy, có lẽ anh ấy đã cho tôi hai
hoặc ba rupee vào buổi sáng để đi xem phim. Nhưng bây giờ tôi đã lấy hết
tiền của anh rồi, tôi không còn phải nấu nướng, đi chợ hay học viết câu
nữa.
学习!偷盗成功的激动,早已使我忘记了学习的事。我知道,学习
总有一天会给我带来比几百卢比更大的好处。但偷盗简直是太容易了,有
时就像被别人捉住一样容易。可是,要做一个真正的人,一个聪明能干的
人,一个受人尊敬的人,则是另一回事。我应该回到阿尼尔身边,我对自
己说,即使只是为了学习。
Học đi! Sự phấn khích khi ăn trộm thành công đã khiến tôi quên
mất việc học. Tôi biết rằng việc học một ngày nào đó sẽ mang lại cho tôi
nhiều lợi ích hơn vài trăm rupee. Nhưng ăn trộm thì dễ lắm, có khi dễ như
bị bắt vậy. Tuy nhiên, làm người chân chính, thông minh, có năng lực và
được kính trọng lại là chuyện khác. Mình nên quay lại Anil, tôi tự nhủ, dù
chỉ để học.
我急忙向阿尼尔的房子走去,心情异常紧张,因为把财物送回而不
被发现,比偷盗更难。我轻轻地推开门,阿尼尔仍在熟睡。我悄悄地爬到
他的床前,将钱塞进垫子下面。
Tôi chạy vội về phía nhà Anil, cảm thấy vô cùng lo lắng, vì trả lại tài
sản mà không bị phát hiện còn khó hơn là lấy trộm. Tôi nhẹ nhàng mở
cửa, Anil vẫn đang ngủ say. Tôi lặng lẽ bò đến giường anh nhét tiền dưới
đệm.
第二天早上,阿尼尔把手伸向我,手指间夹着一张 50 卢比的票子。
他说:“你将定期得到工钱。”我精神振奋。但当我接过钱时,票子还是
湿的。
Sáng hôm sau, Anil chìa tay ra cho tôi tờ tiền 50 rupee đang kẹp
trong những ngón tay. “Anh sẽ được trả lương thường xuyên,” anh nói.
Tinh thần tôi phấn chấn trở lại. Nhưng khi tôi lấy tiền thì tờ tiền vẫn còn
ướt.
“今天我们开始学写句子。”他说。看来他对我所干的事是知道的,
但他什么也没表露出来。
“Hôm nay chúng ta bắt đầu học viết câu. ” anh nói. Có vẻ như anh
ấy biết tôi đang làm gì nhưng anh ấy không tỏ ra gì cả.

You might also like