Professional Documents
Culture Documents
ĐẤT NƯỚC
ĐẤT NƯỚC
MB: - Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
- Xuất thân trong một gia đình trí thức có truyền thống yêu nước.
- Thơ của ông thể hiện cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng khi viết về dất nước nhân dân, mang đậm
chất trữ tình chính luận.
- Trong những tác phẩm mà ông đã đóng góp cho nền văn học Việt Nam, phải kể đến bài thơ “Đất
Nước” trích phần đầu chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng”
- Bài thơ là sự cảm nhận của NKĐ về đất nước trên nhiều phương diện: văn học, địa lý, không gian, thời
gian,… để thấy được một đất nước giản dị, gần gũi với mọi người; đồng thời là tư tưởng về đất nước của nhân
dân.
TB:
3. Phân tích chi tiết
3.1. Đất Nước được cảm nhận từ phương diện lịch sử, văn hóa, chiều sâu của không gian, chiều dài của
thời gian (42 câu thơ đầu)
9 câu thơ đầu: Lý giải nguồn gốc của Đất Nước/ Đất Nước có từ bao giờ?
Đất Nước vốn là đề tài quen thuộc trong thơ ca, trở thành nguồn cảm hứng bất tận, khơi gợi cảm xúc cho
biết bao ngòi bút. Ở mỗi thời đại lịch sử, Đất Nước lại được định nghĩa theo những quan niệm khác nhau. Đó là
một Đất Nước thiêng liêng, hào sảng, trang trọng, mang dáng vóc kỳ vĩ khó chạm tới trong thơ Lý Thường
Kiệt:
"Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư"
Nguyễn Trãi trong "Bình Ngô đại cáo" cũng đã khẳng định sự tồn tại lâu đời của đất nước bằng các yếu
tố văn hóa, văn hiến, cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán, sự hiện diện của các triều đại lịch sử và những
anh hùng hào kiệt:
"Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có."
Hay đó là một đất nước tráng lệ, huy hoàng với tầm vóc lớn lao, kì vĩ trong thơ Nguyễn Đình Thi:
"Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa"
Và với nhà thơ Thanh Hải, đất nước lại lung linh, kỳ ảo:
"Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước."
Nhưng khi đến với Đất Nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, ta thấy đất nước mình bình dị và thân quen,
gần gũi đến lạ thường. Không chỉ vậy, nhà thơ còn đưa đến một cảm giác mới mẻ, thấm thía và xúc động về Đất
Nước trong quan hệ với cuộc sống của nhân dân dưới góc độ văn hóa dân gian. "Đất Nước không phải là những
gì trừu tượng, xa lạ, lớn lao mà là những gì rất đỗi gần gũi, quen thuộc, gắn bó với đời sống và tinh thần của con
người. "
Tác giả mở đầu bài thơ bằng giọng điệu nhẹ nhàng, thủ thỉ, tâm tình như đưa ta trở về với cội nguồn của
Đất Nước:
3.2. Tư tưởng Đất Nước của nhân dân - Nhân dân đã hóa thân để làm nên Đất Nước
Tư tưởng Đất Nước của nhân dân trên phương diện địa danh thắng cảnh
Đoạn trích "Đất Nước" của Nguyễn Khoa Điềm đã đưa ta đến với một Đất Nước giản dị mà rất đỗi đời thường,
Đất Nước của nhân dân. Tìm cho mình một lối đi riêng, nhà thơ đã có những phát hiện thật sâu sắc về địa lý,
lịch sử, văn hóa của Đất Nước gắn với vai trò kiến tạo của nhân dân. Đoạn thơ là câu trả lời mang tính thẩm mĩ
cho câu hỏi: ai đã làm nên hình sông thế núi, làm ra hình hài Đất Nước? Từ đó đi đến khẳng định: nhân dân
chính là người làm ra những địa danh thắng cảnh của Đất Nước.
"Những người vợ nhớ chồng góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình cho đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối ống ông cha"
Đầu tiên, tư tưởng "Đất Nước của nhân dân" được thể hiện qua sự biết ơn sâu nặng của nhà thơ đối với
nhân dân - những người đã cống hiến từ điều nhỏ bé nhất cho Đất Nước. Tác giả đã nêu ra những di tích văn
hóa như Đền Hùng, Hòn Vọng Phu, các địa danh như làng Gióng, sông Cửu Long, thắng cảnh như núi Bút, non
Nghiên,... hoặc đơn giản chỉ là ruộng đồng, gò bãi, ao đầm trải dài khắp lãnh thổ từ Bắc vào Nam như phác thảo
một tấm bản đồ văn hóa của Đất Nước.
Nếu những nhà thơ, nhà văn khác ngắm nhìn giang sơn gấm vóc, thiên nhiên như những kiệt tác của tạo
hóa, những sản phẩm tuyệt vời trong kiến tạo của thiên nhiên thì Nguyễn Khoa Điềm lại gắn liền nó với đời
sống của nhân dân, với tâm hồn của dân tộc. "Chính nhân dân là những người đã hóa thân vào từng hình sông,
dáng núi để làm nên vóc dáng, hình hài, cơ thể của Đất Nước, làm nên linh hồn của các danh lam thắng cảnh,
làm nên trầm tích văn hóa của mỗi địa danh. Từng mảnh đất dòng sông, ngọn núi đều gắn liền với tính cách,
tâm hồn con người Việt Nam."
Bao thế hệ con người Việt nam đã đóng góp cho danh lam thắng cảnh của đất nước một sự hóa thân,
một ý nghĩa phủ nhuộm đậm đà cả tâm hồn dân tộc. Núi Vọng Phu ở Lạng Sơn, Thanh Hóa, Bình Định gắn liền
với sự tích nàng Tô Thị bồng con chờ chồng hóa đá, hòn Trống Mái cũng là câu chuyện gắn bó nghĩa tình vợ
chồng nghĩa nặng tình sâu. Những vẻ đẹp ấy hòa quyện với nhau bởi sự thủy chung son sắt trong tâm hồn người
Việt Nam nói chung và người phụ nữ Việt Nam nói riêng. "Những người vợ nhớ chồng" còn gợi ta nhớ về nàng
Vũ Nương trong "Chuyện người con gái Nam Xương", hình ảnh người phụ nữ sắt son chờ chồng đã in sâu vào
nguồn cội nước non, từ thuở sơ khai đến khi đất nước chiến tranh, người vợ vẫn sắt son một dạ đợi chồng. Tất
cả họ đã "góp cho Đất Nước" không chỉ là hòn Vọng Phu hay hòn Trống Mái nữa, danh lam thắng cảnh ấy
không đơn thuần là hai hòn đá chụm vào nhau nữa mà là một câu chuyện đời làm nên hình hài ấy.
Vẻ đẹp trong tâm hồn người Việt còn là tình yêu nước nồng nàn, nó đã góp phần làm nên những di tích
lịch sử, những mảnh đất thiêng liêng mà oanh liệt. Gót ngựa của Thánh Gióng đã để lại cho Đất Nước trăm ao
đầm ở vùng Sóc Sơn ngày nay như hiện thân cho khí phách kiên cường, bất khuất của người dân Việt Nam, mãi
đi vào cõi bất tử, đẹp đẽ ngời sáng. Hay hình ảnh chín mươi chín con voi ở Phong Châu đã quần tụ để "góp
mình" dựng đất tổ Hùng Vương là minh chứng cho lòng dân cùng đồng thuận hướng về một quốc gia thống
nhất.
Bên cạnh Sông Hồng "đỏ nặng phù sa" hay sông Mã "bờm ngựa phi thác trắng", Đất Nước còn có Cửu
Long giang thơ mộng, kiêu sa gắn với một huyền thoại đẫm màu sắc cổ tích. Những con rồng nằm in từ bao đời
nay để cho Nam Bộ một "dòng sông xanh thắm", dòng sông chín rồng (Cửu Long) mềm mại chuyển mình qua
những bờ bãi, xóm làng mang phù sa tỏa khắp muôn nơi.
Và nếu không có những người học trò nghèo thì Đất Nước mình cũng sẽ có núi Bút, non Nghiên gợi lên
hình ảnh Đất Nước nghìn năm văn hiến với truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo "Lưng đeo gươm tay mềm
mại bút hoa". Ngay cả con cóc con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh, thành di sản thiên
nhiên thế giới, góp phần đưa vẻ đẹp Đất Nước đến bốn biển năm châu. Rồi những tên đất tên làng cũng được
tạo nên từ tên của những người bình dị như ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm.
Đoạn thơ liên tiếp lặp lại những cụm từ "góp cho Đất Nước", "góp nên", "góp mình", "góp dòng sông",
"góp cho Hạ Long",... Và chủ thể của những đóng góp ấy là những người vợ nhớ chồng, những cặp yêu nhau, là
người học trò nghèo, là những người dân,... Tất cả điều vô danh đó chính là nhân dân qua bao năm tháng đã
lặng lẽ kiến tạo xây dựng nên Đất Nước, in dấu sâu đậm trên dáng hình của quê hương xứ sở.
"Tâm hồn tôi khi tổ quốc soi vào
Thấy nghìn núi, trăm sông diễm lệ"
(Chế Lan Viên - "Chim lượn trăm vòng")
Bốn câu thơ cuối của đoạn thơ là sự khái quát sâu sắc được rút ra từ sự liệt kê các hiện tượng cụ thể ở
trên theo cấu trúc quy nạp. Nguyễn Khoa Điềm đã đi đến một chân lý trong đời sống mang tính triết luận hiển
nhiên, sâu sắc.
"Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta"
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta."
Những câu thơ trên có sự hòa quyện giữa chất trữ tình đằm thắm, thiết tha và chất chính luận trí tuệ sắc
sảo. Điều đó đã mang lại cái nhìn mới mẻ, độc đáo về những không gian địa lý của Đất Nước, đồng thời đánh
thức tình yêu quê hương Tổ quốc, lòng biết ơn với những thế hệ đi trước đã xây dựng núi sông, bờ cõi.
Ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi, ở bất cứ nơi nào trên đất nước Việt Nam đều phảng phất "một dáng
hình, một ao ước, một lối sống ông cha". Hình ảnh núi sông, rừng biển, những tên bản, tên làng cũng chính là
điệu hồn, là phong cách, là ước mơ, hoài bão của cha ông qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước.
Nếu bốn nghìn năm là dòng thời gian lịch sử đằng đẵng vô thủy vô chung thì cụm từ "đi đâu ta cũng thấy" lại là
hình ảnh của một Đất Nước mênh mông, rộng lớn với rừng vàng, biển bạc. Trong dòng chảy bất tận của thời
gian, trong cái mênh mông rộng lớn của không gian là "Những cuộc đời đã hóa núi sông ta". Từ "hóa" không
chỉ là sự đóng góp lớn lao bởi mồ hôi xương máu của Nhân Dân mà còn là sự hóa thân kì diệu của những con
người vô danh thầm lặng đã làm nên non sông đất nước. Mỗi ngọn núi, dòng sông hay gò bãi, ruộng đồng đều
có một phần máu thịt tâm huyết của người xưa. Họ đã khai phá đất đai bằng đôi bàn tay cần cù, gửi gắm linh
hồn mình vào núi sông để truyền lại cho thế hệ mai sau. Bởi vậy mỗi danh lam thắng cảnh, mỗi di tích văn hóa
trên đất Việt đều là bức tượng đài bất tử về vẻ đẹp tâm hồn con người Việt Nam. Ca ngợi núi sông diễm lệ cũng
là ca ngợi, tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn nhân dân.
Tư tưởng "Đất Nước của nhân dân" trước hết được thể hiện ở bình diện không gian, nó được tạo nên bởi
những vẻ đẹp tâm hồn, và những tình nghĩa ấy đã làm nên gương mặt của Đất Nước thật đẹp đẽ và ngời sáng,
tạo nên núi sông hùng vĩ, giang sơn gấm vóc tươi đẹp muôn đời.
Nhân dân góp phần làm nên giá trị văn hóa, vật chất tinh thần
Nhân dân không chỉ là những người làm ra không gian địa lý, xây dựng nên giang sơn, gấm vóc, làm
nên lịch sử Đất Nước mà còn là những người viết nên truyền thống vẻ vang, lưu giữ và truyền lại những giá trị
vật chất tinh thần. Mọi vẻ đẹp văn hóa truyền thống đều do nhân dân tạo ra và giữ truyền:
"Họ giữ và truyền cho ta hạt giống ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than con cúi
Họ truyền giọng điệu cho con mình tập nói
Họ gánh theo tên xã làng trong mỗi chuyến di dân"
Từ "họ" được nêu lên như một điệp khúc, như nhấn mạnh vai trò, công lao to lớn của nhân dân với Đất
Nước. Bên cạnh đó là cặp từ "giữ - truyền" được nhắc lại như khẳng định sứ mệnh thiêng liêng của mỗi con
người, mỗi thế hệ trong công cuộc xây dựng đất nước "gánh vác phần người đi trước để lại", "dặn dò con cháu
chuyện mai sau" để đưa "Đất Nước đến những tháng ngày mơ mộng."
Nhân dân là những người đã giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng để Việt Nam bốn nghìn năm gắn liền
với hình ảnh cây lúa và nền văn minh lúa nước. Hạt lúa được làm ra từ "một nắng hai sương" như là tinh hoa
của đất trời, kết tinh mồ hôi, công sức của người nông dân trên đồng. Hạt lúa trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp
tần tảo của người nông dân lao động, biểu tượng cho một cuộc sống thanh bình, ấm no.
Không chỉ giữ lại hạt lúa cho ta trồng, nhân dân còn truyền "lửa qua mỗi nhà" từ hòn than qua con cúi.
Ngọn lửa là hình ảnh của sự sống, của sự quây quần, đầm ấm của ánh sáng và khát vọng, của một cuộc sống
thịnh vượng, sum vầy. Thuở xa xưa hình ảnh những người Việt chuyền lửa cho nhau trong không gian thấm
đượm tình làng nghĩa xóm những khi tắt lửa tối đèn đã gợi lên biết bao yêu thương. Từ những bếp lửa "ấp iu
nồng đượm" trong gia đình, ngọn lửa đã bước vào cuộc chiến tranh máu lửa "hỏa mai đánh bằng rơm con cúi
cũng đốt xong nhà dạy đạo kia" để "Đất Nước rũ bùn đứng dậy sáng lòa". Ngọn lửa còn là hiện thân của lòng
yêu nước, ý chí kiên cường đánh giặc ngoại xâm.
Một trong những nét đẹp văn hóa của Đất Nước là ngôn ngữ, giọng điệu. Và nhân dân đã "truyền lại
giọng điệu cho con mình tập nói", giữ gìn ngôn ngữ tiếng Việt như giữ lấy linh hồn của dân tộc. Trải qua bao
thăng trầm của lịch sử, bao biến đổi của thời cuộc nhưng giọng điệu và tiếng nói của dân tộc không bao giờ thay
đổi. Điều đó đã khẳng định ý thức và tinh thần dân tộc của nhân dân khi họ nhận ra một chân lí hiển nhiên, còn
tiếng nói Đất Nước quê hương là giữ lại được bản sắc văn hóa của một dân tộc.
Đồng thời, nhân dân còn lưu giữ lại những địa danh, những tên xã tên làng như lưu giữ lại những kí ức
của lịch sử qua mỗi chuyến di dân. Họ đã mang theo những tên xã tên làng thân quen để đặt tên cho những vùng
đất mới mà họ đi qua, những cái tên nặng trĩu tình yêu thương và nỗi nhớ về cội nguồn, về đất tổ quê cha, về
những truyền thống văn hóa thấm đượm tình yêu thương. Nhân dân còn xây dựng nền tảng vững chắc cho con
cháu đời sau an cư lạc nghiệp, "đắp đập be bờ cho đời sau trồng cây hái trái". Những thế hệ đi trước đã vất vả
làm lụng, kiên nhẫn bền bỉ để người đời sau có những thành quả ngọt ngào.
Và cũng chính nhân dân viết lên truyền thống bất khuất trước mọi kẻ thù, lưu giữ vẻ đẹp văn hóa ấy qua
bao thế hệ
"Có giặc ngoại xâm thì đánh giặc ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại"
Giọng thơ rắn ròi, đanh thép đã thể hiện tinh thần tự giác, ý thức trách nhiệm cao độ của nhân dân. Chính họ đã
xông pha trận mạc để đánh đuổi ngoại xâm, sẵn sàng hi sinh để bảo vệ sự bình yên của Đất Nước, cũng là bảo
vệ những giá trị vật chất và tinh thần quý giá của dân tộc.
4. Tổng kết
4.1. Nội dung
Đất Nước được cảm nhận ở nhiều phương diện, từ địa lý, lịch sử, văn hóa của đất nước. Đồng thời tác
giả cũng nêu lên trách nhiệm của thế hệ trẻ, đặc biệt là thế hệ với nước nhà.
Cái nhìn mới mẻ về đất nước với tư tưởng cốt lõi là tư tưởng đất nước của nhân dân. Đất Nước là sự hội tụ, kết
tinh của vẻ đẹp tâm hồn, với bao công sức và cả khát vọng của nhân dân. Đồng thời nhà thơ khẳng định nhân
dân chính là người làm nên Đất Nước.
5. Chất trữ tình - chính luận trong "Đất Nước" của Nguyễn Khoa Điềm
5.1. Chất chính luận
Chất chính luận được thể hiện ở tư tưởng của tác giả
- Thức tỉnh tinh thần dân tộc của thế hệ trẻ miền Nam, dứt khoát lựa chọn đứng về phía nhân dân và Cách
mạng.
- Trong kết cấu: trường ca được xây dựng theo cách lập luận để trả lời cho câu hỏi: Đất Nước có từ bao giờ?
Đất Nước là gì? Ai là người làm nên Đất Nước