Professional Documents
Culture Documents
Chương 03
Chương 03
_________________________________________________________
Hình 3.1 Hải cẩu đeo vòng (Phoca hispida) sử dụng băng biển Bắc Cực như một nền tảng để
chúng săn mồi - cá ở nước phía dưới. Do Trái Đất nóng dần lên vì biến đổi khí hậu, băng
tan đang là mối đe dọa lớn tới các loài sinh vật sống trên, dưới và xung quanh những tảng
băng nổi.
KHÁI NIỆM 1.2 BỐN TÍNH CHẤT NỔI TRỘI CỦA NƯỚC GÓP PHẦN LÀM
CHO TRÁI ĐẤT THÍCH HỢP CHO SỰ SỐNG
Chúng ta sẽ cùng kiểm chứng bốn tính chất nổi trội của nước góp phần giúp Trái Đất
thích hợp như một môi trường thuận lợi cho sự sống phát triển trên Trái Đất: tạo nên lực
cố kết, khả năng điều tiết nhiệt độ, nở ra khi lạnh, và tính đa tác dụng của một dung môi.
Nhiệt độ và nhiệt
Bất kỳ vật nào chuyển động đều có động năng, năng lượng của sự vận động. Các phân tử
và nguyên tử có động năng vì chúng luôn vận động, không quan trọng là vận động theo
hướng nào. Phân tử chuyển động càng nhanh thì động năng càng lớn. Động năng liên quan
đến sự chuyển động ngẫu nhiên của các nguyên tử hoặc phân tử được gọi là nhiệt. Nhiệt
năng liên quan đến nhiệt, nhưng chúng không phải cùng một thứ. Nhiệt độ là thước đo
cường độ nhiệt cho thấy động năng trung bình của các phân tử, không tính đến thể tích,
trong khi nhiệt của một vật thể xác định là thước đo động năng tổng số của vật chất do sự
vận động của các phân tử của nó, và hơn nữa phụ thuộc vào thể tích của nó. Khi nước
được đun nóng trong máy pha cà phê, tốc độ trung bình của các phân tử tăng lên và nhiệt
kế ghi nhận hiện tượng đó như sự tăng nhiệt độ của chất lỏng. Nhiệt lượng cũng tăng
trong trường hợp này. Tuy nhiên, cần chú ý rằng, ấm pha cà phê có nhiệt độ cao hơn
nhiều, chẳng hạn, so với nước trong bể bơi, bể bơi chứa nhiều nhiệt hơn vì có thể tích lớn
hơn nhiều.
Khi hai vật thể có nhiệt độ khác nhau được đặt cạnh nhau thì nhiệt truyền từ vật nóng
hơn sang vật lạnh hơn cho đến khi chúng có cùng nhiệt độ. Các phân tử ở vật thể lạnh hơn
chuyển động nhanh hơn nhờ tiêu hao động năng của vật thể nóng hơn. Một viên đá lạnh
làm lạnh đồ uống không phải bằng cách thêm độ lạnh vào chất lỏng mà bằng cách hấp thu
nhiệt từ chất lỏng khi nó tự tan ra. Nhiệt năng chuyển từ một vật thể này sang một vật thể
khác được định nghĩa là nhiệt.
Một đơn vị thuận tiện để đo nhiệt được dùng trong cuốn sách này là calorie (cal). Caloria
là lượng nhiệt cần để tăng nhiệt độ của 1 g nước lên 1 °C. Ngược lại, calorie cũng là lượng
nhiệt mà 1 g nước giải phóng ra khi nó hạ đi 1 °C. Kilocalorie (kcal), 1000 cal, là lượng nhiệt
cần để tăng nhiệt độ của 1 kilogram (kg) nước lên 1 °C. (Từ “calories” trên bao bì các gói đồ
ăn thực ra lại là kilocalories). Một đơn vị khác cũng được dùng trong cuốn sách này là joule
(J). Một joule bằng 0,239 cal; một cal bằng 4,184 J.
Không nhất thiết phải là hợp chất ion mới hòa tan trong nước; nhiều hợp chất được cấu
tạo từ các phân tử không ion phân cực, như đường trong viên đường đã nhắc đến trước đó,
cũng hòa tan trong nước. Những hợp chất như vậy hòa tan khi các phân tử nước bao lấy
mỗi phân tử chất tan, tạo liên kết hydrogen với chúng. Thậm chí, các phân tử lớn hơn như
protein cũng có thể hòa tan trong nước nếu chúng có những vùng ion và phân cực trên bề
mặt của chúng (Hình 3.9). Nhiều loại hợp chất phân cực hòa tan trong nước (cùng với các
ion) của các chất lỏng sinh học như máu, nhựa cây, và chất lỏng trong các tế bào. Nước là
dung môi của sự sống.
Sự tiến hóa có thể có của sự sống trên các hành tinh khác
Sự tiến hóa Các nhà sinh học tìm kiếm sự sống ở nơi khác trong vũ trụ (được biết đến tên
gọi nhà sinh vật học vũ trụ) đã tập trung nghiên cứu vào các hành tinh mà có thể có sự có
mặt của nước. Hơn 800 hành tinh đã được tìm thấy bên ngoài hệ mặt trời của chúng ta và
một số có bằng chứng cho sự xuất hiện của hơi nước. Trong hệ mặt trời của chúng ta, sao
Hỏa là một trọng tâm của nghiên cứu. Giống như Trái Đất, sao Hỏa có cả hai chỏm băng
cực. Hình ảnh từ tàu vũ trụ gửi tới sao Hỏa cho thấy băng hiện diện ngay dưới bề mặt của
Sao Hỏa và đủ hơi nước tồn tại trong bầu khí quyển để hình thành sương giá. Vào năm
2015, các nhà khoa học tìm thấy bằng chứng có nước chảy trên sao Hỏa (Hình 3.10), và một
nghiên cứu sử dụng radar vào năm 2018 đã kết luận rằng có một hồ lớn chứa nước lỏng
cách bề mặt băng một dặm. Bước tiếp theo trong công cuộc tìm kiếm sự sống trên sao
Hỏa có lẽ là việc khoan bên duwois bề mặt của băng. Nếu tìm thấy bất kỳ dạng sống hoặc
hóa thạch nào, nghiên cứu của họ sẽ làm sáng tỏ về quá trình tiến hóa từ một góc nhìn
hoàn toàn mới.
KHÁI NIỆM 3.3 NHỮNG ĐIỀU KIỆN ACID VÀ BASE TÁC ĐỘNG LÊN CÁC CƠ
THỂ SỐNG
Đôi khi nguyên tử hydrogen đang tham gia vào liên kết hydrogen giữa hai phân tử nước lại
dịch chuyển từ phân tử này sang phân tử khác. Khi điều này xảy ra, nguyên tử hydrogen để
electron lại phía sau và cái thực sự chuyển dịch là ion hydrogen (H+), một proton đơn lẻ với
điện tích 1+. Phân tử nước mất đi một proton thành ion hydroxide (OH-) có điện tích 1-.
Proton gắn kết với phân tử nước khác, làm cho phân tử đó thành ion hydronium (H3O+).
Chúng ta có thể minh họa bằng phản ứng như sau:
Để thuận tiện, H+ (ion hydrogen) được dùng để đại diện cho H3O+ (ion hydronium) và
chúng ta sẽ bám theo các khái niệm này trong xuyên suốt cuốn sách. Tuy nhiên, luôn phải
nhớ rằng, H+ không tồn tại riêng như vậy trong dung dịch nước. Nó luôn liên kết với phân
tử nước khác ở dạng H3O+.
Như được chỉ ra bằng mũi tên kép hai chiều, đây là phản ứng thuận nghịch sẽ đạt trạng
thái cân bằng động khi các phân tử nước phân ly với tốc độ bằng với tốc độ chúng được tái
tạo từ H+ và OH-. Tại điểm cân bằng đó, nồng độ các phân tử nước vượt rất xa nồng độ H+
và OH-. Trong nước tinh khiết, chỉ có duy nhất một phân tử nước trong mỗi 554 triệu phân
tử phân ly; nồng độ mỗi loại ion trong nước tinh khiết là 10-7 M (ở 25°C). Điều đó có nghĩa
rằng, chỉ có một phần mười triệu của một mol ion hydrogen trên một lít nước tinh khiết và
số ion hydroxide cũng như vậy. (Cho dù vậy, đây vẫn là một con số khổng lồ - hơn 60,000
tỉ - của mỗi ion trong một lít nước tinh khiết.)
Mặc dù sự phân ly của nước là thuận nghịch và hiếm xảy ra về mặt thống kê, nhưng nó lại
cực kỳ quan trọng đối với hóa học sự sống. H+ và OH- hoạt động hóa học rất mạnh. Sự thay
đổi nồng độ của chúng tác động nghiêm trọng đến protein của tế bào và các phân tử phức
tạp khác. Như chúng ta đã thấy, nồng độ H+ và OH- bằng nhau ở nước tinh khiết, nhưng
việc thêm vào những loại chất tan nhất định, được gọi là acid và base, sẽ phá vỡ trạng thái
cân bằng đó. Các nhà sinh học dùng cái gọi là thang pH để mô tả mức độ acid hoặc base
Người dịch: Vũ Thu Trang - Sinh 2326
(chất ngược với acid) trong dung dịch. Trong phần còn lại của chương này, bạn sẽ được
học về acid, base, và pH và tại sao sự thay đổi pH có thể ảnh hưởng bất lợi đến cơ thể.
Acid và base
Cái gì làm cho dung dịch nước có nồng độ H+ và OH- không cân bằng? Khi acid hòa tan
vào nước, chúng bổ sung thêm H+ vào dung dịch. Acid là chất làm tăng nồng độ ion
hydrogen của dung dịch. Ví dụ khi các acid hydrochloride (HCl) được thêm vào nước, các
ion hydrogen tách khỏi các ion chloride:
HCl -> H+ + Cl-
Nguồn H+ này (sự phân ly của nước là nguồn khác) tạo nên dung dịch acid - dung dịch có
nhiều H+ hơn OH-.
Chất làm giảm nồng độ ion hydrogen của dung dịch được gọi là base. Một số base làm
giảm nồng độ H+ một cách trực tiếp bằng cách nhận các H+. Ví dụ, ammonia (NH3) hoạt
động như một base khi đôi electron không góp chung ở lớp hóa trị của nitrogen hấp dẫn
ion hydrogen từ dung dịch, tạo nên ion ammonium (NH4+):
NH3 + H+ ⇌ NH4+
Các base khác làm giảm nồng độ H+ một cách gián tiếp bằng cách phân ly để tạo nên các
ion hydroxide rồi các ion này kết hợp với các ion hydrogen tạo thành nước. Một base như
vậy là natri hydroxide (NaOH), chất mà trong nước phân ly thành các ion:
NaOH -> Na+ + OH-
Trong cả hai trường hợp, base đều làm giảm nồng độ H+. Các dung dịch có nồng độ OH-
cao hơn H+ được gọi là dung dịch base. Dung dịch mà trong đó nồng độ H+ và OH- bằng
nhau được gọi là dung dịch trung tính.
Chú ý rằng, chỉ một mũi tên được sử dụng trong các phản ứng của HCl và NaOH. Các hợp
chất đó phân ly hoàn toàn khi hòa vào nước và vì thế acid hydrochloride được gọi là acid
mạnh và natri hydroxide được gọi là base mạnh. Ngược lại, ammonia là một base tương đối
yếu. Mũi tên kép trong phản ứng của ammonia cho thấy rằng, sự gắn kết và giải phóng các
ion hydrogen là các phản ứng thuận nghịch, mặc dù ờ thời điểm cân bằng, tỷ lệ NH4+ so với
NH3 sẽ được cố định.
Cũng có những acid yếu, nhận và giải phóng các ion hydrogen một cách thuận nghịch.
Acid carbonic là một ví dụ:
Ở đây, trạng thái cân bằng nghiêng về phía trái của phản ứng; nghĩa là khi thêm acid
carbonic vào dung dịch thì ở bất kỳ thời điểm nào, chỉ 1% số phân tử phân ly. Tuy vậy, đó
cũng đủ để dịch chuyển sự cân bằng của H+ và OH- khỏi trạng thái trung tính.
Người dịch: Vũ Thu Trang - Sinh 2326
Thang pH
Trong bất kỳ dung dịch nước nào ở 25*C, sản phẩm là nồng độ H+ và OH- cũng ổn định là
10-14. Có thể viết (Móc vuông chỉ nồng độ mol). Như đã nhắc đến trước
đó, ở dung dịch trung tính, tại nhiệt độ phòng (25*C), [H+] = 10-7 và [OH-]= 10-7. Vì thế, tích
của [H+] và [OH-] trong dung dịch trung tính ở 25*C sẽ là 10-14. Nếu thêm đủ lượng acid vào
dung dịch để tăng [H+] đến 10-5 M thì [OH-] sẽ giảm một lượng tương ứng xuống 10-9 M
(chú ý là 10-5 x 10-9 = 10-14). Mối tương quan hằng số đó thể hiện tính hoạt động của acid và
base trong dung dịch nước. Acid không chỉ bổ sung ion hydrogen cho dung dịch mà còn
loại bỏ các ion hydroxide do xu thế các H+ kết hợp với OH-, tạo nước. Base có hiệu ứng
ngược lại, làm tăng nồng độ OH-, nhưng cũng làm giảm nồng độ H+ do hình thành nước.
Nếu bổ sung đủ lượng base để tăng nồng độ OH- đến 10-4 M thì nó sẽ làm cho nồng độ H+
giảm xuống còn 10-10 M. Bất cứ khi nào chúng ta biết nồng độ của H+ hoặc OH- trong dung
dịch nước, chúng ta có thể suy ra nồng độ của các ion kia.
Thang pH (Hình 3.11) là một cách đơn giản để biểu diễn nồng độ H+. Nồng độ H+ của các
dung dịch có thể thay đổi bằng một phần trăm tỷ hoặc hơn. Thay vì sử dụng mol trên lít,
thang pH biểu diễn sự thay đổi nồng độ H+ bằng logarit. pH của dung dịch được xác định
bằng logarit âm (cơ số 10) của nồng độ ion hydrogen:
pH = -log [H+]
Ví dụ, dung dịch nước trung tính, [H+] là 10-7 M, cho ta
-log 10-7 = -(-7) = 7
Chú ý rằng pH giảm khi nồng độ H+ tăng. Cũng chú ý rằng, mặc dù thang pH được xây
dựng dựa trên nồng độ H+, nó cũng nói đến nồng độ OH-. Dung dịch có pH 10 có nồng độ
ion hydrogen là 10-10 M và ion hydroxide là 10-4 M.
pH của dung dịch nước trung tính ở 25*C là 7, điểm giữa của thang. Giá trị pH nhỏ hơn 7
chỉ dung dịch acid; số càng nhỏ, tính acid của dung dịch càng cao. Với các dung dịch base,
pH lớn hơn 7. Phần lớn các chất lỏng sinh học có pH 6-8. Tuy nhiên, có một vài ngoại lệ,
bao gồm dịch tiêu hóa ở dạ dày người có tính acid mạnh, pH khoảng 2.
Cần nhớ rằng, đơn vị pH thể hiện sự sai khác gấp mười lần về nồng độ H+ và OH-. Đặc
trưng toán học đó giúp thu gọn thang pH. Dung dịch có pH 3 không phải là có tính acid
gấp đôi dung dịch có pH 6 mà có tính acid gấp ngàn lần. Khi pH của dung dịch thay đổi
nhẹ thì nồng độ thực của H+ và OH- trong dung dịch thay đổi đáng kể.
Trạng thái cân bằng hóa học giữa các acid carbonic và bicarbonate hoạt động như chất
điều hòa độ pH; phản ứng theo hướng sang phải hoặc sang trái khi các chất khác trong
dung dịch bổ sung thêm hoặc lấy đi các ion hydrogen. Nếu nồng độ H+ trong máu bắt đầu
giảm (nghĩa là, nếu pH tăng) thì phản ứng diễn ra theo hướng sang phải, và có nhiều acid
carbonic phân ly hơn, bổ sung thêm ion hydrogen. Nhưng khi nồng độ H+ trong máu bắt
đầu tăng (khi pH giảm) thì phản ứng diễn ra theo hướng sang trái, và HCO3- (base) lấy đi
các ion hydrogen từ dung dịch và tạo ra H2CO3. Như vậy, hệ dung dịch đệm acid carbonic -
bicarbonate gồm một acid và một base ở trạng thái cân bằng với nhau. Hầu hết các dung
dịch đệm khác cũng là các cặp acid - base.