VIỆT BẮC- ĐỀ 1,2

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 7

VIỆT BẮC

Đề 1: Phân tích đoạn thơ sau:


- Mình về mình có nhớ ta Mình về, rừng núi nhớ ai
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng? Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình về mình có nhớ không Mình đi, có nhớ những nhà
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn? Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về có nhớ núi non
- Tiếng ai tha thiết bên cồn Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi Mình đi, mình có nhớ mình
Áo chàm đưa buổi phân ly Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
- Ta với mình, mình với ta
- Mình đi có nhớ những ngày Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù Mình đi, mình lại nhớ mình
Mình về, có nhớ chiến khu Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu…
Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai? (Việt Bắc- Tố Hữu)

I. MỞ BÀI
 Tác giả:
- Tố Hữu là nhà thơ chiến sĩ, là lá cờ đầu của thơ ca Cách mạng Việt Nam.
- Thơ Tố Hữu mang phong cách trữ tình chính trị sâu sắc; đậm tính sử thi, cảm hứng lãng
mạn; giọng điệu tâm tình, ngọt ngào, tha thiết và đậm đà tính dân tộc:
 Hoàn cảnh sáng tác:
- Việt Bắc là căn cứ địa vững chắc của cuộc kháng chiến, nơi đã che chở, đùm bọc cho Đảng,
Chính phủ, bộ đội trong suốt những năm kháng chiến chống Pháp gian khổ;
- Sau chiến thắng Điện Biên Phủ; tháng 7 năm 1954, miền Bắc nước ta được giải phóng.
Tháng 10 –1954, các cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc
trở về Hà Nội;
- Trước cuộc chia tay lịch sử này, Tố Hữu sáng tác bài thơ “Việt Bắc”.
 Nội dung: Đoạn thơ là khúc tình ca về cách mạng diễn tả tâm trạng lưu luyến của người
cán bộ kháng chiến khi rời xa Việt Bắc.
II. PHÂN TÍCH:
 Nghệ thuật nổi bật: tính dân tộc.
- Thể thơ lục bát giàu nhạc điệu, du dương, trầm bổng ngân nga, êm ái, tha thiết.
- Nhà thơ vận dụng kết cấu đối đáp trong những khúc hát giao duyên của tình yêu đôi lứa để
bộc lộ tình cảm lớn hơn là tình yêu nguồn cội, tình cảm nhớ thương đối với mảnh đất Việt
Bắc
- Đại từ nhân xưng “mình- ta” thân mật và kín đáo, trang trọng mà không xa vời, ngọt ngào
như đôi lứa tâm tình trong những khúc hát giao duyên → Nhà thơ đã “thơ hóa” những vấn đề
chính trị.
- Sử dụng hình thức đối thoại giữa người đi, kẻ ở nhưng thật ra nhà thơ đã tự phân thân, độc
thoại với chính mình nên nội dung sâu sắc và chân thật hơn.
1. Tâm trạng lưu luyến, nhớ thương của người VB và người cán bộ kháng chiến trong buổi
chia tay
a. Lời nhắn nhủ tâm tình buổi chia tay của người ở lại:
- Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng?
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
- Người ở hỏi trước Mình về mình có nhớ ta vì lo âu, băn khoăn trước những đổi thay cuộc sống
của người ra đi như vừa hỏi, vừa nhắc nhở người ra đi.
- 2 câu hỏi tu từ như những nốt láy ngân lên với âm hưởng da diết như hoài niệm về những ân
tình, những kỷ niệm về một mảnh đất, về những con người đã gắn bó suốt 15 năm.
o “Mười lăm năm ấy” không phải chỉ là thời gian ước lệ mà là thời gian xác định từ 1940 đến
1954, từ lúc thành lập mặt trận Việt Minh kháng Nhật đến kháng Pháp giành thắng lợi.
o Hình ảnh “cây, núi, sông, nguồn” chỉ không gian rất đặc trưng ở Việt Bắc (có cây cối, núi
non, sông suối, nguồn lạch…) nhưng đồng thời khẳng định VB chính là chiếc nôi của cách
mạng, là cội nguồn của kháng chiến.
o Tính từ “thiết tha, mặn nồng” như khắc sâu những ân tình mặn mà, nồng thắm với những kỷ
niệm đáng yêu ở mảnh đất VB này.
→ Hai câu hỏi tu từ đặt ra rất khéo và cô đọng, hàm súc vì chỉ qua 2 cụm từ “mười lăm năm ấy”
chỉ thời gian; “nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn” chỉ không gian tác giả đã vực dậy
một nỗi nhớ da diết về những năm tháng đã qua của một thời cách mạng gian khổ mà hào hùng và
một vùng đất gắn bó sâu nặng nghĩa tình.
→ Âm điệu tha thiết trong những câu hỏi tu từ của người VB vừa bộc lộ tâm trạng băn khoăn vừa
như đúc kết thành một lời nhắn nhủ: đừng quên cội nguồn, đừng quên quê hương cách mạng nghĩa
tình.
b. Tâm trạng lưu luyến của người ra đi:
- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
- Cũng cùng tâm trạng bâng khuâng, lưu luyến, bồi hồi nhớ thương nhưng người đi im lặng,
không trả lời vì:
o để lắng nghe mạch ngầm tri âm từ lời đồng vọng của người ở lại vì người ở nhắc nhở
“thiết tha mặn nồng”, người đi nghe “tha thiết bên cồn”
o đó là một cách trả lời bằng sự im lặng, là một sự đồng tình, đồng ý…
o đó là sự kìm nén cảm xúc cứ chực trào ra.
- Cụm từ “Bâng khuâng trong dạ” và từ láy “Bâng khuâng” làm câu thơ trở nên da diết, thiết
tha diễn tả sự trộn lẫn nhiều cảm xúc vui, buồn, tiếc nuối, nhung nhớ, xao xuyến…trong tâm
trạng người đi.
- Cụm từ “Bồn chồn bước đi” và từ láy “bồn chồn” diễn tả bước chân ngập ngừng, lưỡng lự,
ra đi không đành.
→ Câu thơ với 2 vế đối khéo léo diễn tả tâm trạng băn khoăn, bịn rịn, lưu luyến của tác giả khi rời
xa VB.
- Hình ảnh hoán dụ “áo chàm” vừa khắc hoạ màu áo đặc trưng của người dân Việt Bắc bình dị
mộc mạc mà sâu nặng nghĩa tình vừa như một lời thú nhận: VB luôn có trong tâm trí, trong
niềm thương nỗi nhớ của người ra đi.
- Cụm từ “cầm tay nhau biết nói gì hôm nay” diễn tả tâm trạng thật độc đáo:
o Cầm tay là một cử chỉ thân mật, không muốn rời xa, bịn rịn.
o Biết nói gì hôm nay là giã từ trong im lặng, ngôn ngữ dường như bất lực, không biết nói
điều gì trước chứ không phải không có gì để nói- thể hiện tất cả cảm xúc trào dâng.
- Dấu chấm lửng ở cuối câu là khoảng lặng của cảm xúc trong giờ phút chia tay- nghẹn ngào,
xúc động (dường như muốn nói với nhau bao điều nhưng không thể thốt nên lời)
- Nhịp thơ 3/3 và 3/3/2 biến đổi, ngập ngừng, câu thơ như bỏ lửng, bồi hồi, mênh mang.
→ Tâm trạng nhớ nhung là một cách bộc lộ tình cảm gắn bó của người chiến sĩ với vùng đất CM,
với thời gian kháng chiến tạo nên không khí buổi chia tay bịn rịn, lưu luyến, vời vợi nhớ thương.
 NHẬN XÉT:
- Đoạn thơ tràn đầy nỗi nhớ về VB trong lời đáp, trong sự hô ứng, đồng vọng tình cảm giữa
người đi, kẻ ở. Nỗi nhớ cứ trở đi trở lại, cồn cào, da diết bộc lộ tình cảm gắn bó của người
chiến sĩ với vùng đất cách mạng, với thời gian kháng chiến.
- Âm hưởng của thể thơ lục bát da diết, du dương, trầm bổng như ngân nga mãi bản tình ca về
cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến.
- Đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu: khuynh hướng trữ tình chính trị, giọng thơ
tâm tình ngọt ngào, đậm tính dân tộc - thể hiện tình quân dân thắm thiết.
2. Nhớ những kỷ niệm mặn nồng với Việt Bắc:
 Nghệ thuật nổi bật:
- Đoạn thơ với thể lục bát mang âm điệu êm đềm như những lời hát ru truyền cảm, phù hợp với
tình cảm tha thiết, tình nghĩa sâu đậm của người dân VB đối với người CM khi chia tay.
- Nhà thơ vận dụng lối điệp ngữ liên hoàn dạng câu hỏi tu từ “mình đi…có nhớ”, “mình về…có
nhớ” và điệp từ “mình”, điệp từ “nhớ” lặp lại nhiều lần tạo một nhạc điệu du dương diễn tả
tiếng nhạc lòng đằm thắm, ân tình gắn bó sâu nặng giữa người VB và người CM.
a. Nhớ những kỷ niệm gian khổ với Việt Bắc:
- Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai?
- Bằng hàng loạt hình ảnh liệt kê “mưa ngàn”, “suôí lũ”, “mây mù” và lối tách từ
“Những….cùng…” → TH tái hiện một thiên nhiên khắc nghiệt mà đẹp thơ mộng, mờ ảo,
mang vẻ đẹp riêng của núi rừng VB
- Từ đó, nhà thơ mượn lời người VB nhắn nhủ người ra đi đừng quên những năm tháng kháng
chiến gian khổ mà đậm đà nghĩa tình. Câu thơ “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai” với
lối tiểu đối cân xứng ở 2 vế, với hình ảnh giản dị, gần gũi đã làm sáng lên vẻ đẹp của tình
quân dân trong những ngày kháng chiến gian khổ- vừa đồng cam cộng khổ để chống kẻ thù
vừa biểu hiện ý chí kiên cường, quyết tâm chiến đấu.
b. Nhớ người Việt Bắc tình nghĩa đậm đà với người kháng chiến:
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
- Nhà thơ dùng cách viết nhân hóa “rừng núi nhớ ai” chính là nói đến nỗi nhớ tha thiết của VB
với người cán bộ kháng chiến
- Đồng thời, nhà thơ đã lấy cảnh ngụ tình “Trám bùi để rụng, măng mai để già”, lấy cái thừa
để nói cái thiếu- thiếu vắng người cách mạng để diễn tả tâm trạng, nỗi nhớ thương trong lòng
người VB.
- Câu thơ “Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son” với hình thức đối lập giữa vẻ tàn tạ, u buồn, xơ
xác của những mái nhà tranh của người dân VB: Hắt hiu >< đậm đà, lau xám >< lòng son
biểu hiện chân thật cuộc sống lam lũ, nghèo khổ của người VB với tấm lòng thủy chung, son
sắt với cách mạng, với kháng chiến.
→ Qua đó, nhà thơ ngợi ca phẩm chất đôn hậu nghĩa tình của người dân VB vượt lên trên mọi khó
khăn của kháng chiến để dành những tình cảm tốt nhất cho cách mạng.
c. Nhớ những kỷ niệm chiến đấu qua những địa danh lịch sử ở VB:
Mình về có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?
- Nhà thơ còn liệt kê những sự kiện, những địa danh lịch sử ở “núi non” 1 cách cụ thể gắn liền
với các thời điểm cách mạng khi “kháng Nhật thuở còn Việt Minh”- từ khởi nghĩa Bắc Sơn
1940 đến Cách mạng tháng Tám thành công nhằm thể hiện tình cảm gắn bó, tự hào của người
cán bộ cách mạng.
- Từ “khi”, “thuở còn” khéo léo gợi lên cả một quá trình từ khi cách mạng còn non trẻ đến khi
trưởng thành và vùng đất VB này là nơi chứng kiến, nơi nuôi dưỡng, nơi cưu mang kháng
chiến, là cội nguồn của kháng chiến.
- Hình ảnh “mái đình, cây đa” thường gắn với những khung cảnh giao duyên “hôm qua tát nước
đầu đình…”, “Cây đa cũ bến đò xưa…” thường có mặt trong những khúc hát giao duyên giờ
đây lại xuất hiện trong đoạn thơ không thể không làm người đọc xao xuyến vì nó đưa người
đọc trở về làng quê dân dã, về với hồn xưa đất nước, về với những khúc hát đắm say. Thế
nhưng tác giả còn đẩy cảm xúc đi xa hơn, dưới gốc đa, mái đình cổ kính ấy không chỉ là đậm
sâu tình yêu nam nữ, tình yêu quê hương đất nước mà còn là tình cảm cách mạng:
+ Dưới “gốc đa Tân Trào” ấy, Quân đội nhân dân Việt Nam (tháng 12.1944) làm lễ xuất
quân.
+ Dưới “mái đình Hồng Thái” rêu phong ấy quân ta phát động cuộc Tổng khởi nghĩa trong
cả nước (tháng 8.1945)
→ Những vấn đề chính trị, những sự kiện lớn của đất nước được tác giả thơ hoá bằng con đường
tình yêu như thế, nên nó đi vào lòng người thật mềm mại, nhẹ nhàng.
- Đặc biệt câu hỏi cuối cùng “Mình đi mình có nhớ mình” với đại từ “Mình” được lặp lại 3 lần
rất sáng tạo: vừa chỉ về người đi và người ở nhằm nhắc nhở người chiến sĩ ra đi đừng quên
người dân Việt Bắc ở lại và sâu xa hơn là lời người VB nhắn nhủ người ra đi đừng quên giữ
gìn phẩm chất cách mạng của chính mình.
d. Niềm trân trọng, biết ơn và tình cảm thuỷ chung son sắt của người cán bộ kháng chiến với
nhân dân Việt Bắc
- Các đại từ “mình- ta” được láy đi láy lại trong câu thơ “ta với mình, mình với ta” bộc lộ tình
cảm gắn bó, quấn quýt, nhớ thương của người kháng chiến với VB như đôi lứa yêu nhau.
- Các từ láy “mặn mà”, “đinh ninh” vừa chỉ mức độ tình cảm sâu đậm, vừa khẳng định tình
cảm thủy chung, bền chặt của tình quân dân.
- Đặc biệt câu trả lời của người cán bộ kháng chiến Mình đi mình lại nhớ mình trở thành lời
hô ứng nhịp nhàng khẳng định tình nghĩa sâu nặng giữa người ra đi và người ở lại.
- Cách viết so sánh “bao nhiêu…bấy nhiêu” như trong ca dao khẳng định lòng biết ơn sâu nặng
của người kháng chiến đối với VB.
3. Nghệ thuật: đậm tính dân tộc
- Sử dụng thể thơ lục bát du dương, trầm bổng, ngọt ngào như những lời ru
- Vận dụng linh hoạt đại từ dân gian “mình-ta” và kết cấu đối đáp giao duyên của đôi lứa yêu
nhau thể hiện tình quân dân thắm thiết
- Các hình ảnh bình dị, gần gũi có sức gợi cảm như “áo chàm”, “trám bùi”, “măng mai”, “hắt
hiu lau xám”, “mái đình”… gợi hình ảnh quê hương và con người Việt Bắc.
- Giọng điệu tâm tình ngọt ngào, tha thiết, giàu tình nghĩa trong các điệp từ, điệp ngữ, các câu
hỏi lặp đi lặp lại, lối tiểu đối nhịp nhàng cùng cách ngắt nhịp chẵn… tạo nên nhạc điệu du
dương nói lên tình cảm tha thiết của người dân VB hướng về CM.
III. KẾT LUẬN:
- Đoạn thơ là bản tình ca về cách mạng, về cuộc sống kháng chiến và con người kháng chiến
thể hiện những tình cảm lớn mang ý nghĩa thời đại. Đó là tình đoàn kết, nghĩa thủy chung giữa
người dân VB với cách mạng.
- Thể thơ lục bát, kiểu kết cấu đối đáp, ngôn ngữ đậm chất dân gian- giàu tính dân tộc. Tất cả
đã góp phần khắc sâu lời nhắn nhủ của Tố Hữu: Hãy nhớ mãi và phát huy truyền thống quý
báu anh hùng, bất khuất, ân nghĩa thủy chung của cách mạng, của con người Việt Nam.
Việt Bắc

Đề 2. Phân tích đoạn thơ sau:


Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Nhớ từng bản khói cùng sương Ðịu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về. Nhớ sao lớp học i tờ
Nhớ từng rừng nứa bờ tre Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Ngòi Thia, sông Ðáy, suối Lê vơi đầy Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Ta đi, ta nhớ những ngày Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi... Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Thương nhau, chia củ sắn lùi Chày đêm nện cối đều đều suối xa...
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng. (Việt Bắc- Tố Hữu)

I. MỞ BÀI:
Marcell Proust từng quan niệm: “Thế giới được tạo lập không phải một lần, mà mỗi lần
người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập”. Nếu bằng hoài niệm, nhà
thơ Quang Dũng đã tạo lập một thế giới thơ ở Tây Bắc với thiên nhiên dữ dội, hùng vĩ, mĩ lệ và
những người lính hào hùng, hào hoa “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” thì Tố Hữu cũng thế.
Bằng tất cả ân tình, Tố Hữu cũng tạo lập nên một thế giới thơ thật đẹp ở Việt Bắc. Đó là bản tình
ca về thiên nhiên, về cuộc sống và về con người kháng chiến. Tiêu biểu là đoạn thơ sau:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
..........
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa...
II. THÂN BÀI:
1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm (Đề 1)
2. Phân tích
- Đoạn thơ là câu trả lời, khẳng định nỗi nhớ tha thiết, dạt dào của người ra đi đối với Việt Bắc.
- Điệp từ “nhớ” ở đầu câu, xuất hiện ở mức độ dày đặc, 18 câu đã có 9 từ “nhớ” nhấn mạnh nỗi
nhớ sâu đậm, da diết.
- Nỗi nhớ Việt Bắc trải ra trong thời gian, không gian dài và rộng từ đầu núi, nương rẫy đến suối
xa, từ sáng đến chiều, tối với một sắc thái thiết tha.
- So sánh nỗi nhớ VB như “nhớ người yêu” để bộc lộ nỗi nhớ tha thiết, cồn cào, khắc khoải.
2.1. Vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Bắc trong nỗi nhớ của người ra đi:
a. Đó là một thiên nhiên đẹp thi vị, hữu tình mang những nét rất riêng của núi rừng VB:
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
→ Phép tiểu đối cân xứng tạo nên hình ảnh thật đẹp và gợi cảm: Tác giả nhớ ánh trăng mơ màng,
huyền ảo tỏa ánh sáng bàng bạc soi rõ cả một vùng núi thoáng đãng, trong sáng; nhớ ánh hoàng
hôn bảng lảng, ngập ngừng nơi nương rẫy như quyến luyến, bịn rịn không muốn chia tay với một
ngày → cảnh đẹp mơ màng như trong câu thơ của Thế Lữ: Mây hồng ngừng lại lưng đèo/ Mình
cây nắng nhuộm bóng chiều không đi
b. Đó là bức tranh huyền ảo của bản làng chìm trong sương khói lãng đãng với hình ảnh
con người thấp thoáng Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
c. Đó là cảnh sắc quen thuộc:
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy
- Những địa danh thân quen được tác giả gọi tên, liệt kê cụ thể: ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê
thể hiện sự gắn bó sâu nặng của người cán bộ cách mạng với vùng đất kháng chiến.
- Từ “vơi đầy” nhằm diễn tả lượng nước “vơi đầy” khi “mưa nguồn suối lũ” ở VB hay cũng
chính là sự khẳng định tình cảm không bao giờ cạn của người VB đối với cách mạng.
→ Như vậy, chỉ bằng sự liệt kê những hình ảnh, những địa danh thôi nhưng nhà thơ đã làm sống
dậy những hoài niệm ngọt ngào gợi xúc động sâu xa trong lòng người đọc.
2.2 Trong nỗi nhớ người ra đi, vẻ đẹp con người Việt Bắc hiện lên thật xúc động:
a. Đó là những con người gần gũi, thân thiết là “người yêu”, người thương”, “mình-ta”,
“người mẹ”. Cách xưng hô ngọt ngào, trìu mến, thân thương như trong gia đình
b. Đó còn là những người gắn bó sâu nặng, nghĩa tình với kháng chiến:
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
- Cặp từ hô ứng “đây – đó” với 2 đại từ “mình-ta” mang âm hưởng ca dao ngọt ngào cùng phép
đối “đắng cay - ngọt bùi” đã diễn tả mối quan hệ gắn bó thủy chung, đồng cam cộng khổ giữa
những người cán bộ và nhân dân VB.
- Các động từ “chia, sẻ nửa, đắp cùng” cùng với các hình ảnh liệt kê “củ sắn lùi”, “bát cơm”,
chăn sui” đã diễn tả thật xúc động tình đoàn kết quân dân.
→ Một “củ sắn lùi”, một “bát cơm chấm muối” ngày đói; một vỏ cây sui đập dập làm mền đắp
trong những đêm giá lạnh có thấm tháp gì đâu để đẩy lùi cơn đó, cơn rét… Thế mà, họ đã cùng
nhau san sẻ bằng tất cả yêu thương.
→ Qua nỗi nhớ, đoạn thơ đã tái hiện vẻ đẹp của tình quan dân bình dị mà thắm thiết, nghĩa tình,
thủy chung.
c. Đó là người mẹ VB tảo tần, cần cù trong lao động:
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô
- Câu thơ phá vỡ nhịp chẵn nhịp nhàng cân đối ở những câu trên để thay bằng nhịp 3/ 3 làm cảm
xúc như òa vỡ, xúc động của tác giả khi phát hiện tấm lưng cháy nắng của người mẹ Việt Bắc:
Nhớ người mẹ /nắng cháy lưng
- Cụm từ “nắng cháy lưng”
o khắc họa cuộc sống lam lũ, tần tảo, vất vả “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” của những
người mẹ VB. Đồng thời cùng diễn tả thiên nhiên khắc nghiệt, mặt trời như đổ lửa trên những
vùng núi cao làm cháy cả lưng mẹ.
o 2 vần trắc đi liền nhau “nắng cháy” như niềm yêu thương, cảm phục và cả nỗi xót xa của nhà
thơ bật lên khi nhận ra tấm lòng hy sinh của người mẹ VB- vừa nuôi con, vừa cưu mang
kháng chiến.
o Câu thơ “Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô” như vừa kể về công việc người mẹ VB, vừa bộc
lộ cảm xúc yêu thương. Nhịp thơ chậm 2/2/2/2 Địu con/ lên rẫy/ bẻ từng/ bắp ngô với những
thanh Trắc- Bằng trầm bổng đan xen nhịp nhàng làm người đọc cảm nhận được nhịp điệu lao
động cần mẫn của những người mẹ VB, những tấm lưng nhấp nhô ẩn hiện bên nương sắn,
nương ngô.
- Từ “từng” trong “bẻ từng bắp ngô” có sức gợi tả khéo léo công việc cần mẫn ấy.
→ 3 hình ảnh đi liền với nhau chiếc lưng “nắng cháy”, chiếc địu “địu con” trĩu xuống qua
thanh nặng “địu” và đôi bàn tay “bẻ bắp ngô” không ngơi nghỉ của bà mẹ VB có sức gợi
cảm thật lớn. Qua đó, nhà muốn ngợi ca và thể hiện ân tình đối với những bà mẹ VB - nghèo
khổ, tần tảo nhưng nhân hậu cao cả, giàu đức hy sinh.
→ Hình ảnh bà mẹ VB cùng bà mẹ Tà Ôi trong “Khúc hát những em bé lớn trên lưng mẹ”
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi,
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ.
Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội,
Nhịp chày nghiêng, giấc ngủ em nghiêng.
tạo nên 1 hình tượng thật đẹp, thật xúc động về những người mẹ miền núi trong văn học Việt Nam
giai đoạn 1945-1975.
2.3 Hiện lên trong nỗi nhớ của người ra đi là những sinh hoạt kháng chiến và những thanh
âm rất riêng của núi rừng VB:
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
- Tiếng giảng bài, đọc chữ ê a trong những lớp bình dân học vụ…, ánh đuốc , tiếng cười
những đêm liên hoan đã xua đi màn đêm dày đặc, xua đi không khí tịch mịch của chốn đồng
không mông quạnh ở núi rừng VB.
- Những “tiếng hát làm át tiếng bom” qua nghệ thuật tương phản “gian nan- ca vang” cho
thấy tinh thần lạc quan, yêu đời của quân dân ta trong vất vả, thiếu thốn. Những tiếng hát ấy
làm núi đèo VB rộn rã sức sống.
→ Chính những sinh hoạt kháng chiến đã làm mất đi vẻ thâm u, thầm lặng của núi rừng mà thay
vào đó là 1 không khí ấm áp, tươi vui… Bức tranh thiên nhiên VB, vì thế mà ấm ran sự sống.
- Đó còn là những thanh âm rất riêng của núi rừng VB
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa
- Ở đây tác giả không miêu tả hình ảnh những chú mục đồng vắt vẻo thổi sáo trên lưng trâu
cùng với âm thanh êm đềm của sáo trúc, sáo tre mà miêu tả âm thanh trầm đục của những
chiếc mõ làm bằng gỗ hay bằng tre buộc nơi cổ trâu va đập vào nhau khi mỗi chiều chúng
trở về bản làng.
- Ở VB còn có tiếng chày giã gạo của những chiếc cối đặt bên suối hoạt động nhờ sức nước.
Âm thanh “thình thịch” trầm ấm dội vào lòng người ấm áp, bình yên. Đâu đó còn là tiếng
suối xa trong đêm yên tĩnh vọng lại trong trẻo, ngân nga như “tiếng hát xa”.
→ Tất cả làm nên 1 hòa âm tuyệt vời của núi rừng …gợi nên bức tranh sinh hoạt thanh bình, hiền
hòa. Tất nhiên, làm sao người ra đi có thể dễ dàng nguôi quên những âm thanh ấy nên câu hỏi tu
từ “nhớ sao” bật lên nghe khắc khoải, da diết niềm nhớ thương.
3. Nghệ thuật
- Thể thơ lục bát phù hợp với việc thể hiện nỗi nhớ và những tình cảm ngọt ngào, da diết.
- Sử dụng đại từ dân gian “mình-ta” thân mật mà kín đáo, trang trọng mà không xa vời…
- Kết cấu theo lối đối đáp của những khúc hát giao duyên khiến cho những tình cảm lớn mang
màu sắc chính trị trở nên sâu lắng, dễ đi vào lòng người.
- Ngôn ngữ, hình ảnh thơ giản dị, gần gũi, quen thuộc, đậm màu sắc dân tộc như “củ sắn lùi
”, “bát cơm sẻ nửa”, “chăn sui”, chiếc lưng nắng cháy của người mẹ VB,....
- Giọng điệu tâm tình ngọt ngào, tha thiết, giàu tình nghĩa trong điệp từ “nhớ” với nhiều sắc
thái khác nhau.
→ Tiếng nhạc lòng của người CM đối với VB.
III. KẾT LUẬN:
- Qua những hoài niệm ngọt ngào của người ra đi, thiên nhiên VB hiện ra hữu tình, thi vị, con
người VB tuy nghèo khổ nhưng cần cù, chịu thương, chịu khó, đồng cam cộng khổ, chia bùi
sẻ ngọt với người cách mạng.
- Đoạn thơ mang đến cho người đọc ấn tượng mới mẻ về VB đây không phải là chốn núi rừng
ảm đạm, hiu hắt mà tràn đấy sức sống, ấm áp tình người.
- Với đoạn thơ này nói riêng và cả bài thơ “Việt Bắc” nói chung, Tố Hữu đã góp vào bảo tàng
chiến khu cách mạng một bức tranh quê hương đất nước đậm đà hồn dân tộc.
- Đoạn thơ mang đậm tính dân tộc, tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu.

You might also like