Professional Documents
Culture Documents
Đề cương LSTH
Đề cương LSTH
Đề cương LSTH
Câu 1: Phân tích những tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo Ấn Độ
và ảnh hưởng của nó ở Việt Nam hiện nay.
*Những tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo Ấn Độ (Buddha) :
Tư tưởng triết học của Phật giáo nguyên thủy - tức tư tưởng của Phật Thích
Ca - chủ yếu nói về thế giới quan và nhân sinh quan của Phật Thích Ca, và
được trình bày trong bộ Kinh.
- Thế giới quan: Thế giới quan của Phật giáo nguyên thủy được phản ánh
trong thuyết duyên khởi và được làm sáng tỏ qua phạm trù vô ngã và vô
thường.
+ Duyên khởi là nói tắt câu “Chư pháp do nhân duyên nhi khởi” có nghĩa là
các pháp đều do nhân duyên mà có. Phật giáo cho rằng mọi sự vật, hiện tượng
đều do nhân duyên hòa hợp mà thành. Duyên khởi từ tâm mà ra. Tâm là cội
nguồn của vạn vật. Từ đây, Phật giáo nguyên thủy chủ trương vô tạo giả tức
không có vị thần linh tối cao nào tạo ra thế giới. Quan niệm vô tạo giả gắn liền
với quan niệm vô ngã, vô thường.
+ Vô ngã là không có một thực thể tối thượng tồn tại vĩnh hằng nào cả.
Trong thế giới, vạn vật và con người được cấu tạo từ các yếu tố sắc, tức vật
chất như đất, nước, lửa, gió và danh, tức tinh thần như thụ, tưởng, hành, thức
mà không có đại ngã hay tiểu ngã gì cả.
+ Vô thường là không có cái gì trường tồn và vĩnh cửu cả. Vạn vật luôn nằm
trong chu trình sinh – trụ – dị – diệt; chúng luôn bị cuốn vào dòng biến hóa hư
ảo vô cùng theo luật nhân quả. Nhân nhờ duyên mới sinh ra quả, quả nhờ
duyên mà thành nhân mới, nhân mới lại nhờ duyên mà thành quả mới...; cứ
như thế, vạn vật biến đổi, hợp – tan, tan – hợp mà không có nguyên nhân đầu
tiên và kết quả cuối cùng nào cả.
Như vậy, thế giới quan của Phật giáo nguyên thủy mang tính vô thần, nhị
nguyên luận ngả về phía duy tâm chủ quan và có chứa những tư tưởng biện
chứng chất phác.
* Nhân sinh quan: Nhân sinh quan là nội dung chủ yếu của triết lý Phật
giáo nguyên thủy. Nó thể hiện cô đọng trong câu nói của Phật Thích Ca: Hỡi
chúng sinh, ta chỉ dạy cho các người chỉ có một điều, đó là điều khổ và diệt
khổ; Nếu nước biển có một vị là vị mặn thì học thuyết của ta cũng có một vị
là vị giải thoát. Nhân sinh quan của Phật giáo được trình bày trong thuyết
Tứ diệu đế với bốn bộ phận là: khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế.
+ Khổ đế là lý luận về những nỗi khổ rõ ràng ở thế gian. Theo Phật có 8 nỗi
khổ (bát khổ) trầm luân bất tận mà bất cứ ai cũng phải gánh chịu.
+ Nhân đế là lý luận về những nguyên nhân dẫn đến nỗi khổ nơi cuộc sống
con người. Nhân đế được diễn giải một cách logic và cụ thể trong thuyết Thập
nhị nhân duyên (12 nguyên nhân dẫn đến bể khổ): vô minh, hành, thức, danh –
sắc, lục nhập, xúc, thụ, ái, thủ, hữu, sinh, lão - tử. Trong 12 nguyên nhân ấy thì
vô minh là nguyên nhân thâu tóm tất cả, vì vậy, diệt trừ vô minh là diệt trừ tận
gốc sự đau khổ nhân sinh.
+ Diệt đế là lý luận về khả năng tiêu diệt được nỗi khổ nơi cuộc sống thế
gian để đạt tới niết bàn. Diệt đế bộc lộ tinh thần lạc quan của Phật giáo ở chỗ
nó vạch ra cho mọi người thấy cái hiện tại đen tối, xấu xa của mình, để cải đổi,
kiến tạo lại nó thành một cuộc sống xán lạn, tốt đẹp hơn. Phật giáo thể hiện
khát vọng nhân bản, muốn hướng con người đến cõi hạnh phúc "tuyệt đối",
muốn hướng khát vọng chân chính của con người tới chân – thiện - mỹ.
+ Đạo đế là lý luận về con đường diệt khổ, giải thoát. Nội dung cơ bản của
nó thể hiện trong thuyết Bát chính đạo (tám con đường đúng đắn) đưa chúng
sinh đến niết bàn. Chung quy, bát chính đạo là suy nghĩ, nói năng, hành động
đúng đắn… ; nhưng về thực chất, thực hành bát chính đạo là khắc phục tam
độc bằng cách thực hiện tam học (giới, định, tuệ).
Ngoài ra, Phật giáo còn khuyên chúng sinh thực hành Ngũ giới (không sát
sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không ẩm tửu); rèn luyện
Tứ đẳng (từ, bi, hỉ, xả)… Phật giáo phản đối chế độ đẳng cấp, tố cáo xã hội bất
công, đòi bình đẳng công bằng xã hội, khuyên chúng sinh luôn suy nghĩ về
điều thiện và làm điều thiện…
Như vậy, dù nhân sinh quan của Phật giáo nguyên thủy mang tính nhân bản
sâu sắc; nhưng, nó cũng chứa đầy tính chất duy tâm chủ quan thể hiện qua các
quan niệm bi quan yếm thế, không tưởng về đời sống xã hội, và thần bí về đời
sống con người.
+ Đều là triết học phương đông. Triết học phương Đông nhấn mạnh sự thống
nhất trong mối quan hệ giữa con người và vũ trụ với công thức thiên địa
nhân là một nguyên tắc “thiên nhân hợp nhất”. Ở Phương Đông người ta
đặt trọng tâm nghiên cứu mối quan hệ người với người và đời sống tâm
linh, ít quan tâm đến mặt sinh vật của con người, chỉ nghiên cứu mặt đạo
đức thiện hay ác theo lập trường của giai cấp thống trị cho nên nghiên cứu
con người không phải là để giải phóng con người mà là để cai trị con
người, không thấy quan hệ giữa người với người trong lao động sản xuất.
+ Ở phương Đông những tư tưởng triết học ít khi tồn tại dưới dạng thuần tuý
mà thường đan xen với các hình thái ý thức xã hội khác. Cái nọ lấy cái kia
làm chỗ dựa và điều kiện để tồn tại và phát triển cho nên ít có những triết
gia với những tác phẩm triết học độc lập. Và có những thời kỳ người ta đã
lầm tưởng triết học là khoa học của khoa học như triết học Trung hoa đan
xen với chính trị lý luận, còn triết học Ấn độ lại đan xen tôn giáo với nghệ
thuật.
+ Lịch sử triết học phương Đông ít thấy có những bước nhảy vọt về chất có
tính vạch ra ở các thời điểm, mà chỉ là sự phát triển cục bộ, kế tiếp xen kẽ.
Ở Ấn độ, cũng như Trung quốc các trường phái có từ thời cổ đại vẫn giữ
nguyên tên gọi cho tới ngày nay (từ thế kỷ VIII – V trước công nguyên
đến thế kỷ 19). Nội dung có phát triển nhưng chỉ là sự phát triển cục bộ,
thêm bớt hay đi sâu vào từng chi tiết.
+ Sự phân chia trường phái triết học cũng khác: Ở phương Đông đan xen các
trường phái, yếu tố duy vật, duy tâm biện chứng, siêu hình không rõ nét.
Sự phân chia chỉ xét về đại thể, còn đi sâu vào những nội dung cụ thể
thường là có mặt duy tâm có mặt duy vật, sơ kỳ là duy vật, hậu kỳ là nhị
nguyên hay duy tâm, thể hiện rõ thế giới quan thiếu nhất quán, thiếu triệt
để của triết học vì phân kỳ lịch sử trong các xã hội phương Đông cũng
không mạch lạc như phương Tây.
- Sự khác biệt giữa triết học Ấn Độ và Trung Quốc thời cổ trung đại:
Ấn Độ Trung Quốc
+ +
Triết học Ấn Độ hầu như là Triết học Trung Quốc nhấn
nghiên cứu về tôn giáo. Còn mạnh sự thống nhất trong mối
triết học Trung Quốc nghiên quan hệ giữa con người và vũ
cứu không chỉ là tôn giáo mà trụ với công thức thiên địa nhân
còn rất nhiều lĩnh vực, chuyên là một nguyên tắc “thiên nhân
+ ngành của triết học. + hợp nhất”.
Nếu như triết học Ấn Độ cổ Từ thế giới quan triết học
nhấn mạnh vào các học thuyết “thiên nhân hợp nhất” là cơ sở
của trường phái hay các kinh quyết định nhiều đặc điểm khác
sách cổ, thay vì nhấn mạnh vào của Triết học Trung Quốc như:
cá nhân các triết gia, đa số họ lấy con người làm đối tượng
khuyết danh hoặc tên tuổi nghiên cứu chủ yếu – tính chất
không được lưu truyền lại thì ở hướng nội; hay như nghiên cứu
Trung Quốc, Triết học gắn với thế giới cũng là để làm rõ con
những hiền triết - nhà tôn giáo, người và vấn đề bản thể luận
+ nhà giáo dục đạo đức, chính trị- + trong Triết học Trung Quốc bị
xã hội. mờ nhạt.
Nền triết học ấn Độ biểu hiện ra Ở Trung Quốc những tư tưởng
là một nền triết học chịu ảnh Triết học ít khi tồn tại dưới
hưởng lớn của những tư tưởng dạng thuần tuý mà thường đan
tôn giáo. Trừ trường phái xen với các hình thái ý thức xã
Lokayata, các trường phái còn hội khác. Cái nọ lấy cái kia làm
lại đều có sự thống nhất giữa tư chỗ dựa và điều kiện để tồn tại
tưởng triết học và những tư và phát triển cho nên ít có
tưởng tôn giáo. những Triết gia với những tác
phẩm Triết học độc lập. Và có
những thời kỳ người ta đã lầm
tưởng triết học là khoa học của
khoa học, Triết học đan xen với
chính trị lý luận. Nói chung thì
Triết học thường ẩn dấu đằng
sau các khoa học.
Câu 3: Phân tích tư tưởng Triết học cơ bản trong học thuyết Âm dương
- Ngũ hành. Ý nghĩa của nó trong lịch sử triết học.
-Nguyên lý Âm dương giải thích quá trình biến dịch từ cái duy nhất thành đa
dạng của vạn vật trong vũ trụ theo logic đơn giản sau đây:
Thái cực → Lưỡng nghi → Tứ tượng → Bát quái → Trùng quái → Vạn vật.
[
- Lý luận Ngũ hành
Từ thực tế cuộc sống, người Trung Quốc cổ đại khái quát cho rằng, bản thân
vũ trụ cũng như vạn vật trong nó được tạo thành từ 5 yếu tố luôn vận động (Ngũ
hành) là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Nội dung cơ bản của lý luận Ngũ hành thể
hiện trong quy luật Ngũ hành tương sinh – tương khắc.
Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ là phạm trù phản ánh những sự vật, hiện tượng hay
thuộc tính, quan hệ như:
Mộc: gỗ, mùa xuân, phương đông, màu xanh, vị chua…
Kim: kim khí, mùa thu, phương tây, màu trắng, vị cay…
- Sự sinh hoá cho nhau và chế ước lẫn nhau của Ngũ hành xảy ra theo trình
tự:
+ Một là, tương sinh: thổ sinh kim, kim sinh thuỷ, thủy sinh mộc, mộc sinh
hỏa, hỏa sinh thổ.
+ Hai là, tương khắc: thổ khắc thủy, thủy khắc hỏa, hỏa khắc kim, kim khắc
mộc, mộc khắc thổ.
Có thể diễn đạt sự tương tác sinh - khắc trên bằng biểu tượng đường tròn
ngoại tiếp hình ngôi sao năm cánh với các đỉnh lần lượt theo chiều kim đồng hồ
là thổ, kim, thuỷ, mộc, hỏa. Theo chiều kim đồng hồ trên đường tròn thể hiện
quá trình tương sinh. Còn theo các cạnh hình ngôi sao (cũng tiến theo chiều kim
đồng hồ) thể hiện quá trình tương khắc.
*Ý nghĩa của học thuyết Âm dương - Ngũ hành trong lịch sử Triết học:
- Lý luận Âm dương phản ánh quan niệm duy vật chất phác về tự nhiên, thể
hiện tư tưởng biện chứng sơ khai của người Trung Hoa về cội nguồn và
quá trình biến hóa xảy ra trong tự nhiên, trong đời sống xã hội và con
người.
- Bằng lý luận Âm dương và lý luận Ngũ hành, Âm dương gia đã đứng trên
quan điểm duy vật chất phác để giải thích một cách máy móc sự phát triển
của thế giới. Chúng có tác dụng chống lại chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo và
mục đích luận trong quan niệm về tự nhiên, xã hội và con người. Ngoài
ra, chúng còn góp phần tạo nên cơ sở lý luận dẫn tới những phát minh về
thiên văn, lịch pháp, y học...trong lịch sử Trung Hoa cổ trung đại. Tuy
nhiên, khi vận dụng nó vào các vấn đề lịch sử xã hội thì các nhà Triết học
đã làm mất đi tính duy vật, làm nghèo nàn đi tính biện chứng ban đầu của
nó.
Câu 4: Phân tích bối cảnh ra đời và đặc điểm của triết học Hy Lạp cổ
đại? Nêu nội dung tư tưởng triết học của một số đại biểu tiêu biểu ở thời
kỳ này.
*Bối cảnh ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại:
- Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội:
+ Là một trong những cái nôi của văn minh nhân loại. Tư tưởng Hy Lạp ra
đời rất sớm khoảng thế kỷ VII – đầu thế kỷ VI TCN.
+ Hy Lạp cổ đại là vùng lãnh thổ rộng lớn, gồm nhiều thành bang ở phía nam
bán đảo Ban Căng, nhiều đảo trên biển Egiê và vùng Tiểu Á. Thiên nhiên
ưu đãi cho Hy Lạp: khí hậu, đất đai, biển cả và cả lòng nhiệt thành của
con người => Những tài vật vô giá để tư duy phát triển, kinh tế giao
thương buôn bán phát triển. (cũng tiếp thu được nhiều các dòng văn hóa
khác nhau).
+ Thế kỷ XV – IX TCN, Hy Lạp cổ đại đã chuyển dần sang chế độ CHNL
(chiếm hữu nô lệ). Khoảng thế kỷ VII TCN, đồ sắt phát triển đã thúc đẩy
các ngành kinh tế phát triển, hình thành các trung tâm văn hóa lớn:
Athène; Sparte, Thebefs...
- Điều kiện chính trị - xã hội:
+ Do sự phát triển của kinh tế đã dẫn đến sự phân hóa giai cấp sâu sắc. Với 2
giai cấp chủ yếu: chủ nô và nô lệ (chủ nô sau này có phân thành chủ nô
tiến bộ và chủ nô quý tộc bảo thủ, thậm chí phản động). Đặc biệt chủ nô
không phải lao động chân tay, nên có điều kiện học tập => điều này hình
thành nên tầng lớp tri thức – góp phần hình thành, phát triển tư tưởng ở
Hy Lạp cổ đại.
+ Cuộc đấu tranh của nô lệ chống lại chủ nô là điều kiện chính trị xã hội
quan trọng dẫn đến cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng thời kỳ này, đặc
biệt là lĩnh vực triết học (đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm).
+ Hy Lạp cổ đại là đất nước của thần thoại, sử thi, tác phẩm văn học nổi
tiếng..: Iliát và Ôđixê.
+ Hy Lạp cổ đại còn là quê hương của toán học (Pythagoras; Thales;
Arimedes...) của phong trào Olympic.
=> Đây là yếu tố quan trọng thúc đẩy khoa học, tư tưởng phát triển.
Nhìn chung, chính sự phát triển về kinh tế - chính trị - xã hội đã tạo điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển tư tưởng ở Hy Lạp cổ đại.
*Có thể thấy, những điều kiện kinh tế, chính trị xã hội Tây Âu thời kỳ trung
cổ là cơ sở tiền đề dẫn đến sự hình thành, phát triển tư tưởng triết học, tôn
giáo....