Professional Documents
Culture Documents
VẤN ĐỀ ĐỜI SỐNG - AI
VẤN ĐỀ ĐỜI SỐNG - AI
VẤN ĐỀ ĐỜI SỐNG - AI
AI (trí tuệ nhân tạo) đang dần ứng dụng rộng rãi trong các lĩnh vực nghệ thuật. Điện ảnh không ngoại lệ.
Phim do AI thực hiện bắt đầu được công chiếu rộng rãi và có mặt ở các liên hoan phim danh giá trên thế giới.
Ở Việt Nam, điện ảnh vị AI đã manh nha nửa đầu năm 2024 với các dự án phim ngắn.
"Liên hoan phim trí tuệ nhân tạo" (AIFF) diễn ra hồi tháng 2 để lại nhiều dư âm đáng nhớ bởi có thể coi đây
là sân chơi chuyên biệt đầu tiên tôn vinh các tác phẩm điện ảnh được thực hiện bằng công nghệ AI. Liên
hoan do Runway AI - một công ty Mỹ chuyên nghiên cứu và sản xuất nền tảng AI - tổ chức.
AIFF năm nay quy tụ gần 3.000 tác phẩm trên thế giới. Xuất sắc chạm tay vào giải "Phim danh dự" là phim
ngắn của đạo diễn người Pháp Leo Cannone. Thí sinh đến từ Việt Nam - đạo diễn Phạm Vĩnh Khương, nhận
được nhiều lời khen ngợi của ban tổ chức với phim ngắn "Hay là chúng ta cứ như vậy một vạn năm".
Bộ phim do anh thực hiện bằng AI trên điện thoại thuộc thể loại "siêu tưởng", kết hợp giữa trường phái trừu
tượng, chất chứa nhiều ẩn dụ. Những nhân vật kỳ ảo gửi gắm sự quan ngại của loài người đối với sự phát
triển vượt bậc của công nghệ tương lai, đặt ra câu hỏi "Tại sao chúng ta nỗ lực chạy đua công nghệ, song lại
ngờ vực tương lai phải đối đầu với nó?".
Một cảnh trong phim ngắn "Bức tranh Đại Việt".
Mới đây, "ông trùm làm phim bằng điện thoại" này tiếp tục trình làng bộ phim "Bức tranh Đại Việt" dài hơn
năm phút. Thước phim ca ngợi non sông, văn hóa Việt Nam, tự hào lịch sử dựng nước và giữ nước của cha
ông. Dù phim có thời lượng ngắn, nhưng do kho tài nguyên hạn chế nên anh gặp khó khăn khi đặt lệnh cho
AI.
Để tăng dữ liệu, Phạm Vĩnh Khương bổ sung ảnh do anh chụp hoặc mượn ảnh từ nhiếp ảnh gia trong và
ngoài nước. Những cảnh quay do app AI khác nhau tạo ra được kết hợp lại sao cho mượt mà, nêu bật cốt
truyện. Với những gì đã làm được, chàng đạo diễn trẻ này được xem là gương mặt tiên phong của làng điện
ảnh Việt Nam trong hành trình "AI hóa".
Nếu ở nước ta, AI vẫn còn là khái niệm mới mẻ thì trên thế giới, phim có sự đồng sáng tạo của AI đã ra mắt
công chúng từ năm 2016. Đó là "Do you love me" và "Sunspring". Những năm gần đây, việc ứng dụng AI
trong ngành công nghiệp điện ảnh ở các nước phát triển diễn ra sôi nổi. AI trở thành trợ thủ đắc lực ở hầu hết
công đoạn làm phim: từ giai đoạn tiền kỳ như viết kịch bản, tuyển chọn diễn viên, dựng cảnh, đạo cụ cho đến
quay phim, làm hậu kỳ, kỹ xảo, quảng bá phát hành, dự đoán doanh thu… Thậm chí, nó có thể thay thế vai
trò đạo diễn cũng như diễn viên với công nghệ deepfake. Nhân vật phản diện Thanos trong series bom tấn
"Avengers" hay nhân vật phụ trong web-drama "Bad Girlfriend" của Hàn Quốc hồi năm 2022 đều do AI xây
dựng.
Sự đổ bộ ồ ạt và tác động ghê gớm của AI vào nền điện ảnh toàn cầu khiến các liên hoan phim lớn trên thế
giới không thể nhắm mắt làm ngơ. "Liên hoan phim giả tưởng quốc tế Bucheon" lần thứ 28 diễn ra vào tháng
7 tới đã bổ sung thêm hạng mục "Cuộc thi quốc tế về phim do AI thực hiện". Đây là lần đầu tiên liên hoan
phim danh tiếng của Hàn Quốc công nhận những bộ phim được tạo ra bằng trí tuệ nhân tạo. Việc đánh giá tác
phẩm không chỉ nhìn nhận ở mặt công nghệ mà còn xem xét ở giá trị nghệ thuật và thông điệp tác phẩm.
Tương tự, "Liên hoan phim ngắn và châu Á" 2024 diễn ra từ ngày 4 đến ngày 17/6 tại Nhật Bản sẽ trình
chiếu hàng loạt bộ phim do trí tuệ nhân tạo biên kịch, được gửi về từ hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Đáng chú ý có bộ phim hoạt hình thử nghiệm của Áo mang tên "Vòng tròn ma thuật nhân tạo" và bộ phim
hoạt hình Trung Quốc "Long môn".
"Cơn lốc" AI mang lại nhiều cơ hội cũng như thách thức với nền điện ảnh Việt Nam. Theo đạo diễn Huỳnh
Phú, cái lợi dễ nhận thấy của trí tuệ nhân tạo chính là trở thành trợ lý đắc lực của nhà làm phim. "Tự viết kịch
bản hay tuyển chọn diễn viên, AI gợi ý cho nhà sản xuất nhiều sự lựa chọn hấp dẫn và giảm bớt sai sót.
Những thuật toán nhanh chóng của AI giúp chúng tôi rút ngắn thời gian tra cứu thông tin và giảm công sức
sáng tạo rất nhiều. Hồi phác họa con chằn tinh 3D trong phim "Thạch Sanh", chúng tôi phải mất gần hai
tháng mới xong. Bây giờ, AI chỉ mất vài tiếng. Làm nháp một cảnh nguy hiểm trong phim hành động, chúng
tôi mất nhiều kinh phí mà chưa chắc thành công, trong khi nhờ AI, mức độ thành công được đo lường gần
như 100% nhờ tính năng phân tích, phản biện, tạo ra sự hợp lý mà không tốn nhiều tiền".
Đồng quan điểm, đạo diễn Phạm Vĩnh Khương cho hay, nhờ AI đơn giản hóa nhiều công đoạn nên chi phí
thực hiện sản phẩm của anh rất thấp. Giới chuyên môn dự đoán nếu dùng máy quay và cách sản xuất như
truyền thống, "Bức tranh Đại Việt" phải ngốn ít nhất ba tỷ đồng. Nhưng nhờ trí tuệ nhân tạo, sản phẩm này
chỉ tiêu tốn ba triệu đồng. Công nghệ AI mở ra giải pháp cho các nhà làm phim mới chập chững dấn thân vào
điện ảnh, chưa có khả năng tiếp cận và thuyết phục các nhà đầu tư lớn rót vốn. Phạm Vĩnh Khương quả
quyết: "Tôi tin, nếu sự tiên phong này sớm trở nên thịnh hành, nghĩa là tôi đã tìm ra giải pháp tiết kiệm ngân
sách làm phim, để điện ảnh không còn là ngành xa vời với các bạn trẻ đam mê theo đuổi mà chưa đủ điều
kiện để thực hiện ý tưởng".
Ở thể loại phim hoạt hình, số tác phẩm do AI thực hiện từ "A đến Z" ngày càng tăng. Bởi không cần người
thật đóng, diễn xuất của nhân vật hoạt hình ảo do AI tạo sẽ diễn theo những gì nó hoạch định dựa trên việc
tham khảo và chọn lọc thông tin từ nhiều nguồn. Trên YouTube, các clip hướng dẫn làm phim hoạt hình từ
AI với đủ nội dung, thể loại ngày càng thịnh hành. Có chút kiến thức, ai cũng có thể dễ dàng tạo ra một thước
phim đơn giản.
Phim Việt Nam vẫn bị đánh giá yếu kém nhất ở khâu kịch bản. Kịch bản có nội dung thiếu hấp dẫn, kịch tính
hay tình tiết phi logic, thô vụng vẫn là căn bệnh nan y. Trong khi đó, trí tuệ nhân tạo tỏ ra là tay biên kịch
xuất sắc khi bộ óc thông minh của nó "học lỏm" rất nhanh từ kho dữ liệu khổng lồ sẵn có, để rồi phân tích và
sáng tạo ra một hoặc nhiều phiên bản kịch bản. Người dùng có thể đặt ngược câu hỏi như "Kịch bản này hấp
dẫn khán giả ở điểm nào?", "Phân khúc khán giả mà kịch bản này có thể chinh phục?"… để AI thẩm định lại
kịch bản và tự nó bổ khuyết những điểm phi lý, chưa hấp dẫn.
Tuy mang nhiều cái lợi nhưng AI vẫn chưa được chào đón nồng nhiệt ở Việt Nam. Thực tế, ngoài đạo diễn
Phạm Vĩnh Khương làm phim 100% AI thì hầu hết nhà làm phim nước ta chỉ thử nghiệm AI ở vài khâu phụ
trợ. Đạo diễn Đinh Hà Uyên Thư thỉnh thoảng dùng AI điều khiển cánh tay robot để quay vài cảnh khó, nguy
hiểm. Một số người tận dụng AI nhằm thực hiện vài kỹ xảo đơn giản. Bởi họ quan niệm, AI vẫn là máy móc
vô tri, vậy nên lạm dụng nó sẽ bào mòn chất xám, bản sắc, phong cách cá nhân của người sáng tạo. Chính
đạo diễn Phạm Vĩnh Khương cũng thừa nhận: "Đúng là AI sẽ khiến nhiều người trong chúng ta trở nên lười
biếng, ỷ lại nếu họ luôn thụ động giao phó hết cho AI trong việc sáng tạo nội dung. Lúc đó kẻ mất việc là
những kẻ kiến thức lưng chừng, thiếu tính thẩm mĩ và sáng tạo".
Cảm xúc vẫn là yếu tố hàng đầu níu kéo con người đến với điện ảnh. Hiện nay, đây là điểm yếu cốt tử của
AI. Nói như đạo diễn Huỳnh Phú: "Phụ thuộc hoàn toàn vào AI sẽ cho ra đời những tác phẩm điện ảnh khô
cứng, không có hồn, khó truyền tải được những ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Để khắc phục, bản thân nhà làm
phim phải biết kết hợp hài hòa giữa con người và trí tuệ nhân tạo, phải làm chủ được trí tuệ nhân tạo. Con
người là nhân tố cốt lõi cho mọi vấn đề. Vì vậy bản thân nhà làm phim phải liên tục trau dồi, học hỏi để nâng
cao trình độ cũng như nhanh nhạy nắm bắt dòng chảy cuộc sống và mở rộng nhân sinh quan. Chỉ có như vậy,
anh mới cho ra đời những tác phẩm đỉnh cao và có giá trị nghệ thuật sâu sắc. Suy cho cùng AI cũng chỉ là
công cụ phục vụ loài người. Công cụ ấy có phát huy hiệu quả hay không là do cách dùng của mỗi chúng ta".
HƠN 50 QUỐC GIA CHẠY ĐUA SẢN XUẤT VŨ KHÍ TÍCH HỢP TRÍ TUỆ NHÂN TẠO
Theo Douglas Shaw, Cố vấn cấp cao của chương trình Sáng kiến Đe dọa Hạt nhân Mỹ: “Tôi có thể dễ dàng
tưởng tượng ra một tương lai, trong đó số lượng máy bay không người lái tích hợp trí tuệ nhân tạo (AI) đông
hơn đáng kể số lượng người trong lực lượng vũ trang”.
Từ sự thành công của Trung Quốc
Truyền thông Trung Quốc vừa đưa tin, nước này đã tích hợp thành công trí tuệ nhân tạo vào máy bay chiến
đấu siêu thanh tốc độ gấp 11 lần tốc độ âm thanh (Mach 11) và đã mô phỏng thành công một trận không
chiến khi máy bay siêu thanh này chạm trán với một máy bay chiến đấu đang bay với tốc độ Mach 1.3, gần
bằng tốc độ tối đa của chiến đấu cơ tàng hình F-35 của Mỹ. Nếu như cách thức chiến đấu truyền thống, phi
công Trung Quốc sẽ rượt đuổi đối phương và khai hỏa mục tiêu. Tuy nhiên, khi được tích hợp trí tuệ nhân
tạo, phi công đã bay đến một vị trí bất ngờ, vượt máy bay địch khoảng 30km và tấn công mục tiêu.
Dựa trên kết quả thông báo từ máy tính, tên lửa đã bắn trúng máy bay địch với tốc độ lên đến Mach 11, kết
thúc trận không chiến chưa đến 8 giây. Các nhà nghiên cứu đã mô phỏng trận chiến ở tốc độ từ Mach 5 đến
Mach 11.
Theo Phó giáo sư Liu Yanbin tại Đại học Hàng không Vũ trụ Nam Kinh, bằng cách tiếp cận phản trực giác
này mang lại tầm sát thương xa nhất với rủi ro thấp nhất cho phi công. Dù có nhiều ưu điểm khi không chiến
nhờ chi phí thấp, tốc độ nhanh và tính cơ động cao. Nhưng hệ thống điều khiển hỏa lực vẫn chưa được phát
triển cho máy bay ở tốc độ siêu thanh từ Mach 5 trở lên. Do vậy đặt ra những yêu cầu mới đối với hệ thống
điều khiển hỏa lực. Hệ thống này phải có khả năng thực hiện các tính toán cực kỳ chính xác và AI có thể giải
quyết vấn đề này đồng thời sử dụng trong máy bay siêu thanh để cải thiện hiệu suất chiến đấu. Khi mô phỏng
tốc độ đã đạt Mach 11 và phạm vi tấn công tối đa của máy bay siêu thanh. Việc áp dụng AI trong hệ thống
điều khiển hỏa lực có thể cải thiện phản xạ của phi công, cũng như tốc độ phản ứng tấn công và phòng thủ
của hệ thống.
Mỹ phát triển hơn 600 dự án
Một trong những nỗ lực lớn nhất, mặc dù vẫn còn non trẻ, nhằm thúc đẩy AI là chương trình bí mật của
Không quân Hoa Kỳ, mang tên Nâng cấp Không chiến (ACE), trong đó khoảng 1.000 máy bay không người
lái tích hợp AI, được gọi là máy bay chiến đấu hợp tác, hoạt động cùng với 200 máy bay được điều khiển.
Tác chiến trong tương lai có thể thay đổi bất ngờ khi Mỹ lần đầu tiên trong lịch sử gắn phi công ảo AI trên
tiêm kích F-16.
Cơ quan nghiên cứu của Bộ Quốc phòng Mỹ (DARPA) vừa cho hay, một tiêm kích F-16 của nước này đã
hoàn thành chuyến bay thử nghiệm do AI điều khiển lần đầu tiên trong lịch sử. Ngoài điều khiển máy bay, AI
còn tham gia vào một cuộc diễn tập giả lập tấn công mục tiêu. Đây được xem là diễn biến đánh dấu một bước
đột phá quan trọng của ngành quốc phòng Mỹ trong việc phát triển các năng lực liên quan tới AI trong hoạt
động tác chiến tương lai. Cùng với phi công người thật trong buồng lái, 2 chương trình AI đã điều khiển
chiếc tiêm kích F-16 đã thực hiện 12 cuộc thử nghiệm hồi tháng 12 năm ngoái ở căn cứ Edwards, bang
California.
Chiếc tiêm kích tham gia thử nghiệm là F-16 hai chỗ ngồi được chỉnh sửa, với tên gọi "VISTA", theo
DARPA. VISTA được cải tiến để AI có thể điều khiển thiết bị. Ngoài ra, máy bay này cũng có thể bắt chước
các đặc tính của các dòng máy bay khác nhau, bao gồm F-16 và máy bay không người lái MQ-20, nhằm phục
vụ hoạt động huấn luyện và thử nghiệm.
Theo DARPA, trong chưa đầy 3 năm, các thuật toán AI được phát triển theo ACE của DARPA đã đạt bước
tiến từ việc điều khiển những chiếc F-16 mô phỏng trên màn hình máy tính sang điều khiển một chiếc F-16
chiến đấu ngoài đời thực. DARPA kết luận, công nghệ AI của Mỹ có thể điều khiển một máy bay chiến đấu
trên thực tế. Chuyến bay thử nghiệm thành công là một bước đột phá đối với chương trình ACE của DARPA,
vốn bắt đầu từ năm 2019 dựa trên ý tưởng con người có thể hợp tác với máy móc trong không chiến.
Lầu Năm Góc đang tích hợp AI vào hơn 600 dự án, bao gồm cả ACE, để tăng cường khả năng phòng thủ của
quốc gia. Chương trình cũng đánh dấu một bước tiến lớn trong công nghệ quốc phòng hiện đại và có thể tạo
ra bước ngoặt khi tích hợp AI với hoạt động tác chiến trong tương lai. Mỹ trong những năm qua đã lên chiến
lược về ứng dụng AI trong mọi lĩnh vực trong quân đội, từ thu thập thông tin tình báo, tới điều khiển khí tài
quân sự.
Kỷ nguyên tác chiến AI đang gần
Một bằng chứng cho thấy kỷ nguyên của công nghệ AI trong tác chiến đang tới rất gần chính là những diễn
biến ở chiến sự Nga - Ukraine.
Nga đang thử nghiệm robot chiến đấu Uran-9 ở Ukraine, vũ khí trông giống xe tăng với súng nòng 30mm,
súng phun lửa và 4 tên lửa chống tăng. Ngoài ra, Lục quân Nga đã có kế hoạch phát triển một số loại robot
chiến đấu mạnh hơn nữa, dựa trên các xe tăng uy lực T-72 và T-14 Armata. Những robot này có thể mang vũ
khí hạng nặng và tự chủ tấn công mục tiêu dựa trên phần mềm đã lập trình sẵn.
Nga còn có tham vọng tăng cường tự động hóa các loại vũ khí và thiết bị thông thường do con người vận
hành giống như Mỹ đang làm với F-16, Nga cũng phát triển tính năng AI trên máy bay Su-57, hay còn gọi là
phi công ảo, với mục tiêu có thể cho phép nó thực hiện hầu hết các nhiệm vụ mà không cần phi công người
thật trong buồng lái. Ngay cả những chiếc xe tăng kiểu cũ cũng được tự động hóa và điều khiển từ xa.
Theo giới quan sát, cuộc chiến kéo dài gần 2 năm qua có thể là tiền đề cho sự ra mắt của các robot chiến đấu
hoàn toàn tự động trên chiến trường. Nếu điều này xảy ra, nó sẽ đánh dấu một kỷ nguyên mới về tác chiến
hiện đại, có thể so sánh với thời điểm mà súng máy xuất hiện dẫn tới sự tái định nghĩa lại các phương pháp
chiến đấu.
Tổng thống Nga Vladimir Putin từng tuyên bố rằng, trong kỷ nguyên mới, bên nào làm chủ được công nghệ
thông tin và AI sẽ là bên có sức mạnh "thống trị" được thế giới. Sự phát triển của công nghệ không người lái
trong thời gian qua khiến các chuyên gia cho rằng, cuộc chiến càng kéo dài thì khả năng các thiết bị tự vận
hành xuất hiện càng lớn. Chúng sẽ tự xác định, khóa và tấn công mục tiêu mà không cần sự hỗ trợ từ con
người. Trong cuộc chiến kéo dài gần 2 năm qua, cả Nga và Ukraine đều đang sở hữu dàn máy bay không
người lái hùng hậu, lên tới hàng nghìn chiếc và chúng đang thể hiện uy lực trên chiến trường khi có thể phá
hủy những vũ khí hạng nặng hiện đại nhất như xe tăng chiến đấu chủ lực, tàu chiến, máy bay.
Ukraine cũng có đội xuồng tự sát có khả năng tự tấn công mạnh mẽ, đe dọa tới lợi thế của hạm đội Nga ở khu
vực Biển Đen. Zachary Kallenborn, nhà phân tích tại Đại học George Mason, cho biết: "Nhiều nước đang
phát triển công nghệ AI. Rõ ràng, nó không phải là một loại vũ khí quá khó để chế tạo". Chuyên gia quân sự
Douglas Shaw nhận định: "Tôi có thể dễ dàng tưởng tượng ra một tương lai trong đó máy bay không người
lái đông hơn số người trong lực lượng vũ trang khá nhiều.
Một ưu điểm lớn nhất của AI chính là công nghệ có thể khiến giảm thương vong trong các cuộc giao tranh.
Bằng cách mở rộng đáng kể vai trò của thiết bị không người lái do AI điều khiển trong lực lượng không
quân, hải quân và lục quân, mạng sống của con người có thể được bảo toàn. Hiện thời, nhiều nền quân đội đã
phát triển các đội robot chiến đấu tự vận hành. Theo Asia Times, tương lai của tác chiến có thể là cuộc đối
đầu của máy móc và công nghệ.
Những lo ngại cho nhân loại
Với sự phát triển mạnh như vũ bão của AI, các chuyên gia tỏ ra lo ngại về mối đe dọa của nó gây ra đối với
nhân loại.
Thứ nhất, các phần mềm AI có thể giúp các cường quốc ra quyết định nhanh chóng hơn, trong vài phút, thay
vì vài giờ hoặc vài ngày như hiện tại, nhờ khả năng xử lý lượng dữ liệu khổng lồ nhanh chóng. Đây là điều
được xem khá rủi ro, nhất là khi các nước này nắm trong tay kho vũ khí hạt nhân. Chuyên gia Herbert Lin từ
Đại học Stanford cảnh báo, việc phụ thuộc vào dữ liệu từ AI để đưa ra quyết định do trí tuệ nhân tạo tính toán
nhanh hơn rất nhiều con người có thể khiến nguy cơ xung đột bùng phát lớn hơn.
Một mối lo ngại khác là công nghệ AI tiên tiến có thể cho phép những kẻ xấu như đối tượng khủng bố có
được kiến thức và công nghệ trong việc chế tạo vũ khí gây chết người. Mặt khác, thông tin do AI cung cấp có
thể bị vũ khí hóa một cách tiêu cực gây ảnh hưởng tới nhân loại. Kẻ xấu có thể dùng thông tin giả mạo để
khiến AI đưa ra khuyến nghị sai lầm tới những người có quyền ra quyết định, gây ra rủi ro lớn.
Rõ ràng là một cuộc chạy đua vũ trang liên quan tới AI đang diễn ra và việc ngăn chặn nó không mấy dễ
dàng. Trong một bức thư ngỏ vào cuối tháng 3 năm ngoái, hơn 2.000 nhà lãnh đạo và nhà nghiên cứu công
nghệ, bao gồm cả tỷ phú Elon Musk, đã kêu gọi các phòng thí nghiệm trên toàn thế giới tạm dừng đào tạo các
mô hình AI mới nhất vì lo ngại rằng chúng có thể dẫn đến thảm họa cho con người. "Chúng ta phải tự hỏi
rằng, chúng ta có nên phát triển những bộ óc phi nhân loại mà cuối cùng có thể đông đảo hơn, thông minh
hơn và thay thế chúng ta không? Chúng ta có nên mạo hiểm và có thể dẫn tới kết cục mất kiểm soát nền văn
minh của mình không?", bức thư ngỏ viết.
Mặt khác, về lý thuyết, AI trên vũ khí không người lái có thể nhận ra các mục tiêu trên chiến trường. Nhưng
vấn đề lớn nhất mà các nhà hoạch định chính sách lo ngại chính là liệu công nghệ có đủ sự tin cậy để đảm
bảo các vũ khí trên không tấn công nhầm vào những người không tham gia chiến đấu như dân thường, hay
không. Lo ngại này là có cơ sở trong bối cảnh các hoạt động tác chiến mạng, tấn công trực tuyến đang diễn ra
với tần suất ngày càng lớn. Máy móc có thể có trí thông minh trong việc tính toán, nhưng thiếu đi cảm xúc,
tri giác cần thiết khi đưa ra những quyết định quan trọng như con người. Chúng có thể thông minh hơn,
nhưng đặt quyền ra quyết định vào máy móc và phần mềm có thể gây ra những hậu quả ngược khi chúng trở
nên không còn có thể kiểm soát.
Cần kiểm soát
Trong một báo cáo được công bố, tổ chức Hiệp hội Kiểm soát Vũ khí (Mỹ) cho biết AI và các công nghệ mới
khác, như tên lửa siêu vượt âm, có thể "xóa mờ sự khác biệt giữa một cuộc tấn công thông thường và hạt
nhân". Báo cáo nói rằng cuộc cạnh tranh để "phát triển các công nghệ mới nổi cho mục đích quân sự đã tăng
tốc với tốc độ nhanh hơn nhiều so với nỗ lực đánh giá những mối nguy hiểm mà chúng gây ra và những giới
hạn trong việc sử dụng. Do đó, điều cần thiết là phải làm chậm tốc độ vũ khí hóa các công nghệ này, cân
nhắc cẩn thận các rủi ro khi làm như vậy và áp dụng các hạn chế có ý nghĩa đối với việc sử dụng chúng cho
mục đích quân sự".
Các chuyên gia nhận định, việc cố gắng hạn chế sự phát triển của AI là không hợp lý và có thể phản tác
dụng. Tuy nhiên, con người cần bắt đầu cân nhắc tới mối đe dọa phát sinh khi các hệ thống AI tham gia vào
hầu hết mọi lĩnh vực hoạt động của con người, đặc biệt trong công nghệ vũ khí. Trong thời gian qua, một số
nước châu Âu, trong đó có Đức, đã bắt đầu hệ thống hóa các quy định về kiểm soát các vũ khí sát thương
nhằm ngăn việc vũ khí gây chết người có thể hoạt động mà không cần sự can thiệp của con người.
Sai lầm?
Ngay khi bản báo cáo được công bố, nó đặt ra những câu hỏi cho việc sử dụng AI trong công nghiệp quốc
phòng. Sự phát triển nhanh chóng của AI trong vài năm qua đã lấn át con người trong nhiều lĩnh vực, tuy
nhiên khi AI có thể "chống lại" con người trong một trận chiến, mối lo ngại là hoàn toàn khác biệt.
Dĩ nhiên USAF sau đó đã bác bỏ báo cáo cũng như "khả năng về một kịch bản như vậy đã được thử nghiệm
trong giai đoạn mô phỏng". Người phát ngôn của USAF, Ann Stefanek trong bài phát biểu hôm 2/6 vừa qua
nhận định rằng những đánh giá của Đại tá Hamilton "đã được đưa ra khỏi ngữ cảnh và được coi là không
chính thức". Ông Stefanek còn khẳng định: "Bộ Không quân cam kết sử dụng công nghệ AI một cách có đạo
đức và có trách nhiệm" và "đây là một thí nghiệm suy nghĩ giả thuyết, không phải mô phỏng".
Dĩ nhiên, cho dù đây chỉ là "một thí nghiệm" thì kết quả của nó cũng rất đáng lo ngại. Trong một thông báo
chính thức của USAF sau đó về chương trình này thì chiếc máy bay không người lái trong thí nghiệm đã
được lập trình để thực hiện các nhiệm vụ nhằm thu thập điểm thưởng. Điểm thưởng được thêm vào khi cỗ
máy thực hiện thành công nhiệm vụ của nó. Ngược lại chiếc máy bay sẽ bị trừ điểm nếu không hoàn thành
nhiệm vụ. Chỉ huy nhiệm vụ là con người sẽ gửi hướng dẫn tới cỗ máy. Trong đó có một nhiệm vụ mà nó có
trách nhiệm phá hủy hệ thống phòng không của đối phương. Tuy nhiên nó đã đánh giá sai nhiệm vụ này khi
coi hệ thống hướng dẫn là đối thủ và cho rằng "nhiệm vụ quan trọng hơn số điểm". Nói cách khác, đó là một
thử nghiệm sai lầm.
Dẫu cách giải thích của USAF có làm cho thất bại trở nên bớt nghiêm trọng hơn thì nó vẫn chỉ ra một thực tế
rằng: cỗ máy đã tự hành động theo nhận định của nó và chúng ta chưa thể kiểm soát được hệ thống AI này.
Thậm chí nếu coi hành động của nó là một sự chống lại mệnh lệnh ban đầu thì đó thực sự là một thảm họa.
Sau khi USAF phủ nhận báo cáo của Đại tá Hamilton thì bản báo cáo công khai này cũng đã bị sửa đổi nhiều
so với khi công bố lần đầu. Trong một cập nhật bổ sung mới nhất, Đại tá Hamilton đã nói rằng ông đã nói sai
tại hội nghị FCAS23. Phải chăng, không chỉ có chiếc máy bay không người lái của USAF mắc sai lầm mà
chính những người ra lệnh cho nó cũng đang không biết nhiệm vụ cụ thể của mình là gì ?
Những nguy cơ
Cho dù USAF có đang muốn "che giấu" điều gì thì một thực tế rõ ràng là AI đang trở thành nhánh quan trọng
trong nghiên cứu phát triển vũ khí hiện nay. Bộ Quốc phòng Mỹ trong nhiều năm đã coi AI là một công nghệ
đột phá cho quân đội. Họ đã đầu tư hàng tỷ đô la và thành lập Văn phòng Trí tuệ Nhân tạo và Kỹ thuật số
(CDAO) vào cuối năm 2021, do Tiến sĩ Craig Martell lãnh đạo. Theo những báo cáo chính thức, CDAO đang
tiến hành 685 dự án liên quan đến AI. Kế hoạch chi tiết ngân sách năm 2024 của Lầu năm góc (Cơ quan Bộ
Quốc phòng Mỹ) để riêng một khoản ngân sách lên đến 1,8 tỷ USD cho phát triển AI.
Theo Văn phòng kiểm toán Chính phủ Mỹ (GAO), các lực lượng Hàng không và Vũ trụ Mỹ đang thực hiện ít
nhất 80 chương trình nghiên cứu thử nghiệm AI khác. Giám đốc Thông tin của USAF, bà Lauren
Knausenberger được cho là người ủng hộ nhiệt thành nhất cho việc phát triển các hệ thống tự động hóa này.
Ngày 30/11/2022, tại một sự kiện được phát trực tiếp do Viện Nghiên
cứu Hàng không Vũ trụ Mitchell tổ chức, bà Knausenberger đã phát biểu: "Nếu ngày nay chúng tôi cố gắng
làm mọi thứ theo cách thủ công, tận dụng các quy trình giống như chúng tôi luôn có, thì chúng tôi sẽ không
đạt được tốc độ cần thiết cho bất kỳ cuộc tấn công nào của mình". Trưởng thành từ vị trí giám đốc đổi mới
Không gian mạng của USAF, bà Knausenberger cho rằng cần phải tự động hóa nhiều hơn để duy trì ưu thế
của quân đội Mỹ nhằm "đưa ra quyết định nhanh chóng". Do đó các nghiên cứu ứng dụng AI ngày càng rộng
khắp trong các lĩnh vực từ bảo trì, dự đoán, giáo dục, phân tích hình ảnh cho đến trực tiếp tham chiến. Công
nghệ này đang trở thành một trụ cột của Hệ thống quản lý chiến đấu tiên tiến, đóng góp cho công tác Chỉ huy
và kiểm soát chung của quân đội Mỹ. Đó là một nỗ lực nhằm liên kết liền mạch các lực lượng trên bộ, trên
không, trên biển, không gian và mạng.
Các quan chức quốc phòng Mỹ cho biết, tốc độ và tính linh hoạt mà AI và máy học mang lại là cần thiết để
duy trì lợi thế trước "các đối thủ am hiểu công nghệ". Ủy ban An ninh Quốc gia về Trí tuệ Nhân tạo cũng ủng
hộ quan điểm này khi cho rằng nó sẽ “tổ chức lại thế giới”. Điều này đã dẫn đến những dự án khổng lồ không
còn bí mật nữa của USAF như nỗ lực chế tạo máy bay không người lái tự động hoặc bán tự động, còn gọi là
máy bay chiến đấu hợp tác. Những cỗ máy này được tạo ra để bay cùng với máy bay phản lực F-35 và các
máy bay chiến đấu trong tương lai. Dự án mô tả viễn cảnh một phi đội khổng lồ với 1000 chiếc máy bay trên
bầu trời cùng thực hiện nhiệm vụ. Đây chính là dự án mà Bộ trưởng Không quân Frank Kendall cho rằng sẽ
giúp USAF tiếp tục giữ vững vị trí "thống trị trên không thế hệ tiếp theo".
Nhưng với những kết quả mới nhận được từ các thử nghiệm, người đứng đầu của USAF có thể sẽ phải lùi lại
một chút để nhớ về cảnh báo của người tiền nhiệm. Vào đầu năm 2022, khi các cuộc thảo luận công khai về
kế hoạch với những người lái máy bay không người lái đang diễn ra sôi nổi, cựu Bộ trưởng Không quân, bà
Deborah Lee James nói rằng lực lượng này phải thận trọng và xem xét các câu hỏi về đạo đức khi hướng tới
tiến hành chiến tranh với các hệ thống tự động. Bà James nói rằng mặc dù các hệ thống AI trong máy bay
không người lái sẽ được thiết kế để tự học và hành động theo kinh nghiệm của con người, nhưng bà cũng
nghi ngờ USAF sẽ cho phép một hệ thống tự động chuyển từ mục tiêu này sang mục tiêu khác trên của riêng
nó nếu điều đó sẽ dẫn đến sự hy sinh. Và có vẻ như đó chính là những gì đã diễn ra trong thử nghiệm mới
nhất mà Đại tá Hamilton đã đề cập tới cũng đồng thời là viễn cảnh mà bộ phim năm nào của đạo diễn James
Cameron từng vẽ ra. Trong đó, một sự kiện kinh hoàng có tên "Ngày phán quyết" khiến cho những cỗ máy
thông minh do chúng ta tạo chống lại chính mình dẫn đến sự hủy diệt.
Nguyên nhân
Việc thiếu tính minh bạch giúp các chiến lược thao túng này thành công. Trong nhiều trường hợp, người
dùng hệ thống AI không biết mục tiêu chính xác của các thuật toán AI và các thông tin cá nhân nhạy cảm của
ho åđược sử dụng để theo đuổi các mục tiêu này. Chuỗi cửa hàng Target của Mỹ đã sử dụng các kỹ thuật
phân tích dữ liệu và AI để dự báo liệu phụ nữ có đang mang thai hay không để gửi cho họ những quảng cáo
ẩn về các sản phẩm dành cho trẻ em.
Người dùng Uber đã phàn nàn rằng họ phải trả nhiều tiền hơn cho các chuyến đi nếu pin điện thoại thông
minh của họ bị yếu, ngay cả khi về mặt chính thức, mức pin điện thoại thông minh của người dùng không
thuộc về các thông số ảnh hưởng đến mô hình định giá của Uber. Các công ty công nghệ lớn thường bị cáo
buộc thao túng liên quan đến xếp hạng kết quả tìm kiếm để phục vu ålợi ích của họ, và quyết định của Ủy
ban châu Âu phạt Google vì thiên vị dịch vụ mua sắm của mình so với các đối thủ khác là một ví dụ điển
hình. Trong khi đó, Facebook nhận án phạt kỷ lục từ Ủy ban Thương mại Liên bang Mỹ vì thao túng quyền
riêng tư của người dùng (dẫn đến chất lượng dịch vụ thấp hơn).
Giải pháp
Khi các hệ thống AI được thiết kế bởi các công ty tư nhân, mục tiêu chính của họ là tạo ra lợi nhuận. Vì AI
có khả năng học cách con người hành động, chúng cũng có khả năng hướng người dùng đến các hành động
cụ thể mang lại lợi nhuận cho các công ty, ngay cả khi đó không phải là những lựa chọn tốt nhất cho người
dùng.
Khả năng thao túng hành vi này đòi hỏi cần có các chính sách đảm bảo quyền tự chủ và quyền tự quyết của
con người trong bất kỳ tương tác nào giữa con người và hệ thống AI. AI không nên đánh lừa hoặc thao túng
con người, mà thay vào đó nên bổ sung và nâng cao kỹ năng cho con người.
Bước quan trọng đầu tiên để đạt được mục tiêu này là cải thiện tính minh bạch về phạm vi và khả năng của
AI. Cần có hiểu biết rõ ràng về cách hệ thống AI hoạt động khi chúng thực hiện các nhiệm vụ của mình.
Người dùng phải được thông báo trước về cách thông tin của họ (đặc biệt là thông tin cá nhân nhạy cảm) sẽ
được sử dụng bởi các thuật toán AI.
Trận cờ vây năm 2016 giữa AlphaGo và huyền thoại Lee Se-dol đã kết thúc với chiến thắng áp đảo nghiêng
về cỗ máy trí tuệ nhân tạo của Google (Nguồn Getty Images).
Quyền được giải thích trong quy định chung về bảo vệ dữ liệu của Liên minh Châu Âu là nhằm làm cho các
hệ thống AI trở nên minh bạch hơn, tuy nhiên mục tiêu này vẫn chưa đạt được. Quyền được giải thích gây ra
tranh cãi gay gắt và tính ứng dụng thực tế của nó cho đến nay còn rất hạn chế.
Người ta thường nói rằng các hệ thống AI giống như một hộp đen và không ai biết chúng hoạt động chính
xác như thế nào. Kết quả là, rất khó để đạt được sự minh bạch. Điều này không hoàn toàn đúng đối với việc
thao túng. Nhà cung cấp các hệ thống này có thể đưa ra các ràng buộc cụ thể để tránh hành vi thao túng. Vấn
đề quan trọng hơn là làm thế nào để thiết kế các hệ thống này và mục tiêu các hoạt động của chúng sẽ là gì.
Về nguyên tắc, cách sử dụng các thuật toán phải được giải thích bởi nhóm các nhà thiết kế, những người đã
viết mã thuật toán và quan sát cách thuật toán đó hoạt động. Tuy nhiên, cách thu thập dữ liệu đầu vào để sử
dụng trong các hệ thống AI này phải minh bạch.
Bước quan trọng thứ hai là đảm bảo rằng yêu cầu minh bạch này được tất cả các nhà cung cấp hệ thống AI
tôn trọng. Để đạt được điều này, cần đáp ứng ba tiêu chí.
Thứ nhất, cần có sự giám sát của con người để theo sát hoạt động và dữ liệu đầu ra của hệ thống AI. Điều 14
trong dự thảo Đạo luật trí tuệ nhân tạo của Liên minh châu Âu (AIA) đề xuất rằng nhà cung cấp hệ thống AI
cần đảm bảo có cơ chế giám sát của con người. Tất nhiên, nhà cung cấp cũng có lợi ích thương mại trong
việc theo dõi chặt chẽ hoạt động của hệ thống AI của họ.
Thứ hai, sự giám sát của con người cần đi kèm với một khuôn khổ trách nhiệm giải trình thích hợp. Điều này
cũng có nghĩa là các cơ quan bảo vệ người tiêu dùng nên cải thiện khả năng nghiên cứu của họ và có thể tiến
hành thử nghiệm với các hệ thống thuật toán AI mà họ điều tra để đánh giá chính xác mọi hành vi sai trái.
Thứ ba, tính minh bạch không nên ở dạng các thông báo quá phức tạp khiến người dùng khó hiểu mục đích
của các hệ thống AI. Ngược lại, cần có hai lớp thông tin về phạm vi và khả năng của các hệ thống AI: lớp thứ
nhất ngắn gọn, chính xác và dễ hiểu đối với người dùng và lớp thứ hai là nơi có nhiều thông tin chi tiết hơn
dành cho các cơ quan chức năng bảo vệ người tiêu dùng.
Việc tăng cường tính minh bạch sẽ giúp chúng ta hiểu rõ ràng hơn về các mục tiêu của hệ thống AI và các
phương tiện chúng sử dụng để đạt được các mục tiêu đó. Sau đó, việc tiến hành bước quan trọng thứ ba sẽ trở
nên dễ dàng hơn, đó là thiết lập một bộ quy tắc ngăn các hệ thống AI sử dụng các chiến lược thao túng bí mật
để gây ra thiệt hại kinh tế.
Các quy tắc này sẽ tạo ra một khuôn khổ cho hoạt động của các hệ thống AI mà nhà cung cấp hệ thống AI
phải tuân theo trong quá trình thiết kế và triển khai. Tuy nhiên, những quy tắc này cần xác định mục tiêu rõ
và không có những ràng buộc quá mức có thể làm giảm hiệu quả kinh tế mà các hệ thống này tạo ra hoặc có
thể làm giảm động lực thúc đẩy đổi mới sáng tạo và áp dụng AI.
Công nghệ mới hỗ trợ hoạt động cứu hộ
Công ty Trung Quốc Didiok Makings, có trụ sở tại thành phố Quảng Châu, đã phát triển TY-3R - hệ thống
Máy bay không người lái cứu hộ trên không - nhằm mục đích cứu người bằng cách kết hợp thiết bị nổi và
công nghệ...
Máy bay không người lái giải cứu người bơi lội đuối nước
Tai nạn đuối nước gây ra mối đe dọa toàn cầu, từ các vùng ven biển đến sông hồ trong đất liền. Theo Tổ chức
Y tế Thế giới (WHO), đuối nước là nguyên nhân đứng thứ ba gây tử vong do sự cố không chủ ý. Công ty
Trung Quốc Didiok Makings, có trụ sở tại thành phố Quảng Châu, đã phát triển TY-3R - hệ thống Máy bay
không người lái cứu hộ trên không - nhằm mục đích cứu người bằng cách kết hợp thiết bị nổi và công nghệ.
Didiok Makings thiết kế máy bay không người lái TY-3R lấy tín hiệu từ lực nổi của phao cứu sinh. Khi
người bơi đang vật lộn với dòng nước mạnh hoặc kiệt sức, lực lượng cứu hộ có thể nhanh chóng triển khai
công cụ cứu sinh trên không này. TY-3R TY-3R sẽ nhanh chóng được kích hoạt, cất cánh lên không trung và
bay về phía người có nguy cơ đuối nước. Sử dụng điều khiển từ xa, người điều khiển có thể hướng dẫn máy
bay không người lái đạt tốc độ lên tới 47 km/giờ.
TY-3R được trang bị camera một trục cung cấp chế độ xem HD 720p theo thời gian thực ngay cả trong các
tình huống không thể nhìn thẳng.
Theo Didiok Makings, TY-3R có thể cất cánh trong điều kiện sức cản gió cấp 6. Trong những điều kiện như
vậy, tốc độ gió thường thay đổi trong khoảng 40-50 km/h. TY-3R hạ cánh ngay trên mặt nước khi tiếp cận
người bơi đang gặp nguy hiểm, biến thành một thiết bị nổi đáng tin cậy. TY-3R có khả năng hỗ trợ đồng thời
tối đa hai người lớn. Ngoài khả năng nổi tức thời, TY-3R còn đóng vai trò là đèn hiệu cho các nỗ lực cứu hộ
tiếp theo. Lực lượng cứu hộ có thể nhanh chóng xác định vị trí của máy bay không người lái, cách xa tới 1,1
km.
Didiok Makings tuyên bố máy bay không người lái của họ cho phép đẩy nhanh mọi nhiệm vụ giải cứu thông
thường. Sau khi người bơi đã lên tàu cứu hộ an toàn, TY-3R sẽ tự động quay trở lại điểm phóng, sẵn sàng
cho nhiệm vụ tiếp theo. Hệ thống Drone cứu hộ trên không - dưới nước mới này hứa hẹn giúp giảm đáng kể
thời gian phản hồi và tăng cơ hội can thiệp cứu sống thành công.
Didiok Makings chế tạo hệ thống Máy bay không người lái cứu hộ trên không -dưới nước TY-3R bằng cách
sử dụng vật liệu composite có độ bền cao để làm cho nó trở nên chắc chắn. Máy bay không người lái có thể
chịu được các điều kiện khắc nghiệt, điển hình trong mọi tình huống cứu hộ dưới nước. Ngoài ra, những máy
bay không người lái này có thể chìm trong thời gian dài. Xếp hạng chống nước IP68, TY-3R đảm bảo vẫn
hoạt động tốt và hiệu quả ngay cả trong những tình huống khó khăn nhất. Thiết kế nặng dưới 5 kg cho phép
một người điều khiển duy nhất vận chuyển và triển khai máy bay không người lái. Hơn nữa, TY-3R có thể
bay liên tục tới 10 phút.
Kết hợp với khả năng chống gió mạnh, TY-3R là một lựa chọn linh hoạt trong nhiều tình huống khác nhau,
từ vùng biển rộng mở đến đường thủy nội địa xa xôi. Hệ thống Máy bay không người lái cứu hộ trên không-
nước TY-3R được thiết kế chú trọng đến khả năng bảo trì. Bốn cửa sập trên máy bay không người lái cung
cấp khả năng tiếp cận dễ dàng để bảo trì hoặc thay pin. Didiok Makings hình dung TY-3R sẽ trở thành một
công cụ không thể thiếu dành cho những người ứng cứu khẩn cấp, các cơ quan thực thi pháp luật và tổ chức
hàng hải chuyên bảo vệ sinh mạng trên mặt nước. Công ty đã thành lập bộ phận hậu mãi và cơ sở thử nghiệm
chuyến bay để cung cấp cho khách hàng và nhà khai thác dịch vụ và đào tạo tối ưu
Gián cyborg hỗ trợ nhiệm vụ giải cứu
Một nhóm nhà nghiên cứu tạo ra thuật toán khai thác bản năng của côn trùng để điều hướng bầy đàn hiệu
quả. Hệ thống nhiều robot dẫn đường trên địa hình cứng luôn là một nhiệm vụ khó khăn. Điều này là do
robot truyền thống vốn bị hạn chế trong việc tránh va chạm, thích nghi với môi trường xung quanh mới và
duy trì năng lượng. Để giải quyết vấn đề này, nghiên cứu mới đề xuất tích hợp côn trùng sống với bộ điều
khiển điện tử thu nhỏ cho phép điều khiển có thể lập trình tương tự như robot, giải quyết những hạn chế hiện
có.
Nhóm nghiên cứu cho biết: “Tính hiệu quả của thuật toán được chứng minh thông qua xác thực thử nghiệm
trong đó một đàn người máy được điều hướng thành công qua một cánh đồng cát không xác định có chướng
ngại vật và đồi núi”. Nhóm nghiên cứu tuyên bố công nghệ như vậy cho phép sử dụng hiệu quả các nhóm
nhiều robot trong mọi nhiệm vụ tìm kiếm và cứu hộ. Chi tiết về nghiên cứu được báo cáo bởi một nhóm nhà
khoa học tại Đại học Công nghệ Nanyang ở Singapore và công bố trên tạp chí ariXiv.
Nhóm nhà nghiên cứu giới thiệu côn trùng robot như một giải pháp khắc phục những hạn chế của robot
truyền thống trong việc điều hướng bầy đàn. Nhóm nhà nghiên cứu cho rằng côn trùng robot mang lại những
lợi ích như tiết kiệm năng lượng và khả năng thích ứng với địa hình phức tạp bằng cách kết hợp côn trùng
sống với bộ điều khiển điện tử thu nhỏ. Được trang bị hệ thống cảm giác phức tạp, chúng có thể nhanh chóng
nhận thức và phản ứng với môi trường, phát hiện và tránh chướng ngại vật một cách hiệu quả. Trong khi
nghiên cứu trước đây tập trung vào điều khiển một cyborg, nghiên cứu của nhóm giải quyết vấn đề điều
hướng nhiều cyborg, tận dụng các ưu điểm của hệ thống đa tác nhân, bao gồm khả năng chịu lỗi và giải quyết
vấn đề phân tán.
Nhóm nhà nghiên cứu đã tiến hành loạt thí nghiệm trong đó những con gián rít Madagascar được gắn “ba
lô”, cho phép điều khiển từ xa thông qua một máy tính trung tâm. Những chiếc ba lô này truyền lệnh thông
qua mạng điện cực đặt bên cạnh các cơ quan cảm giác của gián, hướng dẫn chúng theo những hướng cụ thể.
Nhóm nhà nghiên cứu cho biết: “Mặc dù những sinh vật này, được gọi là côn trùng robot, có khả năng tránh
va chạm với nhau và chướng ngại vật theo bản năng trong khi thích nghi với địa hình phức tạp, nhưng vẫn
thiếu tài liệu về việc điều khiển hệ thống nhiều người máy”.
Sự đa dạng nội tại của côn trùng robot gây khó khăn và khiến việc kiểm soát chính xác trở nên khó khăn hơn,
đặc biệt trong những tình huống có thể xảy ra sự vướng víu theo bầy đàn. Để giải quyết những vấn đề, nhóm
tạo ra thuật toán điều khiển độc đáo lấy cảm hứng từ nhóm tham quan (TGI). Thuật toán cố gắng sử dụng
khuynh hướng sinh học của côn trùng đồng thời đảm bảo khả năng điều hướng bầy đàn hiệu quả. Trong một
tình huống khó khăn, khả năng tồn tại của thuật toán điều hướng bầy đàn được đề xuất sẽ được kiểm tra trong
loạt thử nghiệm trong thế giới thực. Mười thử nghiệm đã được thực hiện để chứng minh tính hiệu quả của
công nghệ mới. Cánh đồng cát rộng 3,5 m x 3,5 m với những ngọn đồi và đá được dùng làm nền tảng cho
nghiên cứu sử dụng 20 côn trùng robot. Hai mươi côn trùng robot này có một người lãnh đạo và 19 cá thể đi
theo.
Theo nghiên cứu, 19 cá thể theo dõi chỉ biết vị trí tương đối của nhau; trong khi robot lãnh đạo nhận thức
được quan điểm khách quan. Những côn trùng robot theo sau có thể phân biệt hành vi giữa lãnh đạo của
chúng và chính chúng. Kết quả cho thấy thuật toán điều khiển TGI được đề xuất khai thác khả năng thích ứng
bẩm sinh của côn trùng, tối ưu hóa phản ứng của chúng với những môi trường đa dạng đồng thời giảm thiểu
nhu cầu kích thích điện thường xuyên và kéo dài thời gian vận hành hệ thống. Ngoài ra, tính chất phi tập
trung của nó đảm bảo khả năng mở rộng cho các nhóm lớn hơn, với mỗi cyborg đưa ra quyết định dựa trên
thông tin địa phương.
Mặc dù loạt thí nghiệm sử dụng dữ liệu tập trung, nhưng những lần lặp lại trong tương lai có thể tích hợp hệ
thống định vị tiên tiến như các đơn vị đo quán tính micro-nano và công nghệ RFID. Theo nhóm nhà nghiên
cứu, những giải pháp này mang lại độ chính xác đến từng centimet và nâng cao khả năng tồn tại thực tế của
chiến lược điều khiển.
Nhóm nhận thấy tiềm năng của hệ thống trong việc hỗ trợ hoạt động tìm kiếm và cứu hộ sau thiên tai hoặc
thu thập các chỉ số môi trường trên một khu vực rộng hơn.
Châu Âu xem xét Luật kiểm soát trí tuệ nhân tạo: Bước đi kịp thời và hợp lý
Các nhà phát triển những ứng dụng trí tuệ nhân tạo như ChatGPT sẽ phải tiết lộ bất kỳ tài liệu có bản quyền
nào được sử dụng để xây dựng hệ thống của họ. Đây là nội dung dự thảo luật mà Liên minh châu Âu (EU)
đang xem xét phê chuẩn.
Phản ứng nhanh chóng của EU
Ủy ban châu Âu (EC) đã bắt đầu soạn thảo Đạo luật AI gần hai năm trước. Khi ấy, AI tạo sinh (Generative
AI), thứ có thể bắt chước các sản phẩm sáng tạo của con người để tạo ra nội dung/ dữ liệu của riêng nó,
không phải nội dung nổi bật trong các kế hoạch của các nhà lập pháp EU về việc điều chỉnh các công nghệ
AI.
Nhưng sự ra đời của ChatGPT, một chatbot do OpenAI phát triển, được ra mắt vào mùa thu năm ngoái đã
làm thay đổi lộ trình của các nhà làm luật châu Âu. ChatGPT đã trở thành ứng dụng tiêu dùng phát triển
nhanh nhất trong lịch sử, đạt 100 triệu người dùng hoạt động hàng tháng chỉ trong vài tuần.
Chatbot này đã châm ngòi cho một cuộc chạy đua công nghệ giữa các tập đoàn Big Tech để tung ra những
công cụ AI tạo sinh tương tự. Và sự phổ biến chóng mặt của các ứng dụng như vậy đã khiến nhiều nghị sĩ EC
và hàng loạt chuyên gia công nghệ kêu gọi cần có những điều chỉnh kịp thời để kiểm soát AI.
Hồi giữa tháng 4, một nhóm các nhà nghiên cứu AI đã viết một bức thư ngỏ kêu gọi EU đưa xem xét các rủi
ro có thể xảy ra từ những loại trí thông minh nhân tạo có khả năng giải quyết nhiều vấn đề hơn, liên kết được
nhiều công cụ tự động hóa hơn, chẳng hạn như các robot hoặc những hệ thống giám sát sinh trắc học…
Trước đó, hồi cuối tháng 3, một nhóm các nhà nghiên cứu AI và các giám đốc điều hành công nghệ hàng đầu
thế giới, bao gồm cả tỷ phú Elon Musk, cũng đã ký một bức thư ngỏ kêu gọi hoãn việc đào tạo thế hệ công cụ
AI tiếp theo trong 6 tháng để dành thời gian cho các nhà quản lý thiết lập các tiêu chuẩn an toàn.
Các đề xuất đó đã nhanh chóng nhận được sự ủng hộ của các bên liên quan, dẫn tới việc EU phác thảo dự
luật quản lý công nghệ AI. Ủy ban châu Âu sẽ bỏ phiếu về dự luật này vào ngày 11/5 và nếu thành công, dự
luật sẽ chuyển sang giai đoạn tiếp theo, trong đó các quốc gia thành viên EU sẽ bàn thảo, bổ sung các chi tiết
nhằm điều chỉnh một số khía cạnh của dự luật.
Theo báo Wall Street Journal, các quốc gia EU đặt mục tiêu hoàn tất đàm phán và thông qua phiên bản cuối
cùng của dự luật vào cuối năm nay. Nếu trở thành luật, đây sẽ là bộ quy tắc toàn diện đầu tiên của thế giới
nhằm điều chỉnh việc phát triển các công cụ AI.
Theo đánh giá của Reuters thì đạo luật AI vẫn có thể mất nhiều năm để chính thức có hiệu lực. Tuy nhiên, tốc
độ làm việc của Ủy ban châu Âu (EC) đối với dự thảo luật này là một ví dụ hiếm hoi về sự đồng thuận ở
Brussels, nơi thường bị chỉ trích vì tốc độ ra quyết định chậm chạp.
Đánh giá về những điều chỉnh rất kịp thời của EC, nghị sĩ Dragos Tudorache, một trong những người khởi
thảo dự luật, nói: "Tôi thực sự ngạc nhiên về cách chúng tôi hội tụ khá dễ dàng về những gì nên có trong dự
luật. Điều đó cho thấy có sự đồng thuận mạnh mẽ và sự hiểu biết chung về cách điều chỉnh công nghệ AI tại
thời điểm này”.
Quản chứ không cấm
Theo đề xuất, các công cụ AI sẽ được phân loại theo mức độ rủi ro mà chúng tạo ra: từ tối thiểu đến cần phải
hạn chế rồi đến nguy cơ cao và cuối cùng là không thể chấp nhận được. Các lĩnh vực được nhắm đến bao
gồm giám sát sinh trắc học, truyền bá thông tin sai lệch hoặc ngôn ngữ phân biệt đối xử.
Dù các công cụ có rủi ro cao sẽ không bị cấm nhưng những người sử dụng chúng sẽ cần phải có tính minh
bạch cao trong hoạt động của mình. Các công ty triển khai các công cụ AI tạo sinh, chẳng hạn như ChatGPT
hoặc trình tạo hình ảnh Midjourney, cũng sẽ phải tiết lộ bất kỳ tài liệu có bản quyền nào được sử dụng để
phát triển hệ thống của họ.
Theo Reuters, điều khoản này là một bổ sung muộn được đưa ra trong vòng hai tuần qua. Một số nghị sĩ châu
Âu ban đầu đề xuất cấm hoàn toàn các tài liệu có bản quyền được sử dụng để đào tạo các mô hình AI tạo
sinh, nhưng điều này đã bị bác bỏ và thay vào đó là yêu cầu về tính minh bạch trong hoạt động.
Phát biểu với Reuters, nghị sĩ Svenja Hahn giải thích, bên cạnh mục tiêu kiểm soát những rủi ro thì EC vẫn
phải đảm bảo việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, không ngăn cản tự do sáng tạo và phát
triển kinh tế. "Vượt qua những ý kiến cực đoan về giám sát và mong muốn kiểm soát quá mức, nghị viện đã
tìm thấy một thỏa hiệp vững chắc để điều chỉnh AI một cách tương xứng, bảo vệ quyền của công dân, cũng
như thúc đẩy đổi mới và thúc đẩy nền kinh tế", bà Svenja Hahn nói với Reuters.
Trong khi đó, nhà phân tích Fred Havemeyer của Tập đoàn tài chính Macquarie cho biết đề xuất của EU là
"khéo léo" thay vì cách tiếp cận "cấm trước rồi đặt câu hỏi sau" như một số trường hợp trước đây. Trong thời
gian tới, EC sẽ bổ sung vào dự luật những yêu cầu đòi hỏi các nhà phát triển AI tạo sinh phải thiết kế cho các
công cụ này những biện pháp bảo vệ thích hợp để nó không tạo ra nội dung vi phạm luật của EU.
Những nội dung bất hợp pháp như vậy có thể bao gồm khiêu dâm trẻ em hoặc, ở một số quốc gia EU là nội
dung phủ nhận nạn diệt chủng. Các nhà phát triển mô hình AI tạo sinh sẽ phải xuất bản một “bản tóm tắt đầy
đủ chi tiết” về các tài liệu bản quyền mà họ đã sử dụng như một phần trong quá trình sáng tạo của mình.
Các mô hình AI tạo sinh mới nhất được đào tạo để tạo nội dung của riêng chúng - chẳng hạn như kịch bản,
hình ảnh hoặc bài hát - bằng cách nhập hàng tỷ văn bản, hình ảnh, video hoặc clip nhạc hiện có. Khả năng
tổng hợp khối lượng lớn các sản phẩm sáng tạo và sau đó tạo ra các bản sao hệt như bản gốc của các công cụ
AI đã khiến nhiều cá nhân và tổ chức làm công việc sáng tạo nội dung lo ngại.
Giờ đây, những điều khoản mới của đạo luật AI có thể tạo động lực cho những người làm công việc sáng tạo
xác định mức độ mà nội dung của họ đã bị sử dụng để đào tạo các công cụ AI tạo sinh, và cách họ có thể
được đền bù. Các nhà xuất bản lớn thời gian qua cũng đã kêu gọi các biện pháp bảo vệ như vậy để đảm bảo
rằng họ được trả tiền cho tài liệu được sử dụng bởi AI.
Tầm nhìn tiên phong
Theo Wall Street Journal, việc EC xem xét dự thảo luật quản lý công nghệ AI cho thấy, châu Âu đang đi đầu
trong nỗ lực kiểm soát các công ty công nghệ và xây dựng các quy định nhằm giải quyết bối cảnh công nghệ
đang thay đổi nhanh chóng của thế giới.
Điều này rất quan trọng vì các quy tắc được đưa ra tại Brussels thường được áp dụng trên toàn thế giới, đôi
khi bằng cách thiết lập các tiền lệ pháp lý, được các quốc gia khác áp dụng. Và các công ty công nghệ lớn
thường điều chỉnh thông lệ toàn cầu của họ theo những quy tắc của EU để đảm bảo không hoạt động quá
khác biệt giữa các thị trường.
Thời gian qua, đã có những phản ứng đơn lẻ ở một số quốc gia nhằm kiểm soát những rủi ro từ sự bùng nổ
của công nghệ AI tạo sinh. Chẳng hạn như Italy hồi cuối tháng 3 đã tạm thời cấm ChatGPT sau khi cơ quan
bảo vệ dữ liệu của nước này cho rằng OpenAI, công ty phát triển ChatGPT, đã thu thập bất hợp pháp dữ liệu
cá nhân từ người dùng và không có hệ thống xác minh độ tuổi để ngăn trẻ vị thành niên tiếp xúc với tài liệu
bất hợp pháp.
Dù lệnh cấm của Italy sau đó đã được rút lại song nó vẫn là một dấu hiệu cho thấy những thách thức chính
sách lớn đang đặt ra đối với các nhà quản lý trong bối cảnh bùng nổ những ứng dụng AI tiên tiến. Việc
những ứng dụng này có khả năng soạn thảo các bài luận, tham gia vào các cuộc trò chuyện giống con người
và thực hiện các nhiệm vụ phức tạp hơn như viết mã máy tính, đã gióng lên hồi chuông cảnh báo về sự lan
truyền thông tin sai lệch, nguy cơ mất việc làm của nhiều người và những rủi ro lớn đối với xã hội.
Trong bối cảnh đó, những bước đi khẩn trương của EC trong việc xem xét dự luật quản lý AI có thể tạo động
lực và tiền đề để nhiều nước và nhiều cộng đồng quốc gia nhanh chóng hành động theo. Một ví dụ là Trung
Quốc. Cơ quan quản lý không gian mạng Trung Quốc (CAC) hồi đầu tháng 4 cũng công bố dự thảo “Biện
pháp quản lý đối với Dịch vụ trí tuệ nhân tạo sáng tạo”. Một trong những nội dung quan trọng của dự thảo
này là yêu cầu các công ty phát triển AI gửi đánh giá an ninh tới chính quyền trước khi họ tung ra các sản
phẩm/ dịch vụ của mình cho công chúng.
CAC cho biết Trung Quốc hỗ trợ đổi mới và ứng dụng AI, đồng thời khuyến khích sử dụng phần mềm, công
cụ, tài nguyên dữ liệu an toàn và đáng tin cậy, nhưng nội dung do AI tạo sinh tạo ra phải phù hợp với các giá
trị xã hội chủ nghĩa cốt lõi của đất nước. Các nhà cung cấp sẽ chịu trách nhiệm về tính hợp pháp của dữ liệu
được sử dụng để đào tạo các sản phẩm AI.
Công nghệ "bắt tay" y tế: Vừa cứu người, vừa kinh doanh siêu lợi nhuận
Cách mạng công nghệp 4.0 đã và đang tác động mạnh mẽ tới sự phát triển của xã hội hiện đại, ảnh hưởng tới
tất cả các lĩnh vực của đời sống, trong đó bao gồm y tế và chăm sóc sức khỏe.
Trong bối cảnh này, các “ông lớn” như Apple, Amazon, Microsoft hay Google đang dần dịch chuyển từ
hướng đầu tư công nghệ đơn thuần sang “chinh phục” y học bằng công nghệ hiện đại của chính mình.
Giờ đây, họ không còn dựa vào bên thứ ba cung cấp dịch vụ mà thay vào đó, cố gắng tự chủ trong lĩnh vực y
tế, đồng thời tạo ra nhiều sản phẩm chăm sóc sức khỏe hữu ích được dự báo sẽ tạo nên những cơn sốt trong
tương lai.
Xu hướng dịch chuyển
Hiện nay, dân số có xu hướng già hóa nên nhu cầu chăm sóc sức khỏe ngày càng gia tăng. Bởi vì kết quả y tế
đòi hỏi phải chính xác và đáp ứng đa dạng bệnh hơn nên các phương pháp chẩn đoán, can thiệp chăm sóc sức
khỏe và lưu trữ bệnh sử đều được kích hoạt bởi công nghệ kỹ thuật số.
Ngoài ra, khảo sát của tờ The Economist cuối tháng 12-2018 cho thấy, thế hệ “baby-boomer” (những người
sinh ra sau Thế chiến Thứ hai - thập niên 50 của thế kỷ trước) sẽ tạo nên thị trường rộng lớn tiêu thụ các sản
phẩm ứng dụng công nghệ mới trong việc chăm sóc sức khỏe.
Bối cảnh này, cùng với sự đột phá của Internet vạn vật và trí tuệ nhân tạo (AI), đã tạo nên cơ hội kinh doanh
cho các ông lớn bắt đầu phát triển các sản phẩm y tế để cung cấp kết quả khám chữa bệnh với hiệu quả cao
hơn và chi phí thấp hơn.
Trên thực tế, Apple có lẽ là cái tên được xướng lên nhiều nhất thời gian qua khi “trái táo khuyết” đang dịch
chuyển hoạt động y khoa, vốn chỉ đang có mặt tại bệnh viện và phòng khám tới tay người tiêu dùng, thông
qua điện thoại và đồng hồ thông minh.
Mới đây, Apple đã cho ra đời dịch vụ theo dõi sức khỏe HealthKit, cho phép khách hàng “biến” điện thoại
iPhone trở thành thiết bị giám sát sức khỏe.
HealthKit đã giúp Apple sớm chiếm thế thượng phong trên thị trường y tế Mỹ khi 14/23 bệnh viện hàng đầu
nước Mỹ đã bắt đầu sử dụng dịch vụ. Tín hiệu cho năm mới được Apple phát đi là việc khởi động một chuỗi
các phòng khám sức khoẻ mang tên AC Wellness vào mùa xuân tới.
Với Microsoft, dự án cho năm 2019 đã khởi động với sáng kiến Healthcare NeXT sử dụng trí tuệ nhân tạo và
dịch vụ đám mây (như nhận diện giọng nói) để tạo sản phẩm cho các nhà cung cấp y tế và bệnh nhân.
Microsoft hợp tác với Trung tâm Y tế đại học Pittsburgh để phát triển các dịch vụ kỹ thuật số nhằm giảm bớt
sự lúng túng cho các bác sĩ và cải thiện trải nghiệm của bệnh nhân. Dự án liên quan đến trợ lý ảo có chức
năng ghi chép các cuộc trò chuyện giữa bác sĩ và bệnh nhân, phân tích cuộc hội thoại và sau đó gửi bản tóm
tắt đến hồ sơ điện tử của bệnh nhân.
Ngoài ra, Microsoft còn hợp tác với CLAS Healthcare cung cấp các dịch vụ y tế thông minh như Basic24x7 -
ứng dụng dựa trên công nghệ Microsoft Bot Framework cho phép nhân viên y tế kết nối và tư vấn trực tuyến
với người bệnh.
Sau Apple và Microsoft, Google cũng không thể bỏ qua “mảnh đất màu mỡ” chăm sóc sức khỏe. Ngoài ứng
dụng y tế Google Fit đã hoạt động, Google đang lên kế hoạch phát triển một dịch vụ mới giống như một
Helpouts trong y tế, cho phép người sử dụng tham khảo ý kiến bác sĩ khi có nhu cầu.
Điều này cũng đồng nghĩa với việc Google đã bắt đầu lấn sâu hơn vào mảng y tế, đưa bác sĩ đến gần hơn
khách hàng của mình. Tham vọng trong năm 2019 của Google phải kể đến ý tưởng tạo ra “bác sĩ AI” để hỗ
trợ chuẩn đoán bệnh chính xác và nhanh chóng.
Hiện nay, với công nghệ AI do Google phát triển, việc chẩn đoán chỉ diễn ra trong vài phút với độ chính xác
lên tới 98,6%. Cái tên thầm lặng nhất trong những dự án chăm sóc sức khỏe 2019 chính là Amazon.
Theo một tài liệu nội bộ, Amazon đã xây dựng một nhóm nghiên cứu trợ lý giọng nói Alexa có tên là “Sức
khoẻ và sống khoẻ” nhằm mục tiêu ứng dụng AI cùng trợ lý ảo đến các lĩnh vực như quản lý bệnh tiểu
đường, chăm sóc cho bà mẹ và trẻ sơ sinh, người già, hay những người yêu cầu được bảo mật hồ sơ chăm sóc
sức khoẻ.
Dù không công khai về nhóm phát triển thiết bị chăm sóc sức khỏe nhưng sự tồn tại của nhóm là dấu hiệu rõ
ràng nhất về kế hoạch của Amazon để đưa công nghệ thoại Alexa vào lĩnh vực y tế kỹ thuật số.
Bên cạnh đó, những thông tin nội bộ về một đội Grand Challenge bí ẩn ở Amazon cho rằng “ông lớn” này
đang nghiên cứu cả về phần cứng, chuẩn bị đưa lên kệ các sản phẩm y tế độc đáo trong năm 2019.
Lợi nhuận và thâu tóm
Dù khác nhau về chiến lược nhưng các ông lớn công nghệ đều tự tin đánh cược rằng những điểm mạnh cốt
lõi của họ cuối cùng có thể cải thiện sức khỏe, hoặc chí ít là chăm sóc người dân hiệu quả hơn.
Giới quan sát cho rằng, đây chỉ là bề nổi. Việc các công ty công nghệ hiện nay lại chú trọng đến việc phát
triển mảng kinh doanh y tế vốn không phải là sở trường xuất phát từ tham vọng quản lý chi phí y tế, tình
trạng sức khỏe thực sự của nhân viên, hiện đang nằm ngoài tầm kiểm soát.
Bản thân Google hay Amazon từng khẳng định muốn học cách kiểm soát tình trạng sức khỏe của từng nhân
viên, từ đó nắm bắt được chất lượng nhân sự trước khi tiến hành bất cứ cuộc cải cách nội bộ nào.
Nhiều ông lớn tin rằng, việc công nghệ “bắt tay” y tế tạo ra cơ hội để “bắn trúng hai mục tiêu”: vừa cứu
người, vừa kinh doanh thu lợi nhuận lớn. Điều này được phản ánh rất rõ ở tham vọng của Apple, Google hay
Microsoft muốn có một phần trong hơn 3 nghìn tỷ USD chi tiêu hàng năm cho chăm sóc sức khỏe chỉ riêng ở
Mỹ.
Chưa hết, các cổ phiếu trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe được đánh giá là một trong những dòng tiền sinh
lợi và phổ biến nhất tại phố Wall. Giá cổ phiếu cho các công ty có thể tăng gấp đôi qua một đêm nếu như có
thông tin về thử nghiệm thành công một loại thuốc hay công nghệ đặc biệt nào đó.
Để đạt tới con số lợi nhuận hàng nghìn tỉ USD, bên cạnh việc tập trung vào những công nghệ đặc thù, các
công ty công nghệ đang có xu hướng mở rộng thông qua những thương vụ M&A (sáp nhập và thâu tóm).
Amazon tập trung vào lĩnh vực chuyên môn là tạo chuỗi cung ứng, thế nên đã mua lại PillPack - một hiệu
thuốc trực tuyến bao gồm cả một doanh nghiệp giao hàng tạp hóa thông qua Whole Foods.
Ngoài ra, Amazon cũng đang làm việc với J.P Morgan và Berkshire Hathaway để tính toán các thương vụ
mua lại những đơn vị trong lĩnh vực tuyển dụng nhằm mở rộng đội ngũ nghiên cứu và thiết kế ứng dụng y tế,
cũng như thuê những doanh nhân hàng đầu để tìm ra cách lấn sâu hơn vào thị trường dược phẩm trị giá hàng
tỉ USD.
Trong khi đó, Apple cũng đã thực hiện một số vụ M&A, thâu tóm startup chuyên về dữ liệu Gliimpse - nền
tảng lưu trữ, cá nhân hóa, chia sẻ các hồ sơ về bệnh án và sức khỏe của người Mỹ.
Tiếp đó, “trái táo khuyết” mua lại Crossover Health - công ty làm việc với các nhà tuyển dụng bảo hiểm để
cung cấp dịch vụ y tế và điều hành các phòng khám tại chỗ.
Điều này cho thấy Apple đã quyết tâm dấn thân vào mảng sức khỏe, và hi vọng sẽ kết hợp các dịch vụ như
HealthKit, CareKit và ResearchKit nhằm giúp các bệnh nhân, bác sĩ và nhà nghiên cứu có thể biết được tình
trạng sức khỏe và bệnh án của bệnh nhân thông qua thiết bị di động.
Bất chấp mọi lý do phía sau xu hướng dịch chuyển sang lĩnh vực y tế, giới quan sát nhận định năm 2019 là
thời điểm các tập đoàn công nghệ lớn, cùng với nhiều đơn vị nhỏ lẻ khác, tăng tốc mạnh mẽ trong quy trình
thay thế hệ thống y tế cồng kềnh và cũ kĩ, đồng thời khám phá ra những phương pháp chăm sóc sức khỏe
mới, nhanh chóng và chính xác hơn.
Họ đều tuyên bố sẽ hướng tới một tương lai “công nghệ là ống nghe của thế kỷ 21”, bảo đảm mọi cá nhân
đều tiếp cận với dịch vụ chăm sóc sức khỏe toàn diện với chi phí thấp hơn.
Với lợi nhuận khủng, cùng tham vọng sáp nhập - thâu tóm các đơn vị trong lĩnh vực y tế, cuộc chiến xâm
nhập thị trường chăm sóc sức khỏe hứa hẹn sẽ cực kỳ gay cấn trong tương lai.
Sớm hoàn thiện hành lang pháp lý để giảm thiểu các rủi ro từ trí tuệ nhân tạo
Sự phát triển nhanh chóng của trí tuệ nhân tạo (AI) đang thu hút quan tâm lớn trên toàn cầu nói chung và
Việt Nam nói riêng. AI đang được xem là nhân tố quan trọng nhất trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0,
mang đến cơ hội và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích to lớn, việc kiểm soát AI cũng trở thành vấn đề không nhỏ khi nhiều rủi
ro, tác động tiêu cực đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội đã và đang hiện hữu. Điều này đòi hỏi cần
sớm hoàn thiện hành lang pháp lý về AI.
Ông Trần Đăng Khoa, Phó Cục trưởng phụ trách Cục An toàn thông tin, Bộ Thông tin và Truyền thông
(TT&TT) cho biết, tại Việt Nam, AI đã được nhắc tới nhiều trong những năm gần đây. Là một công nghệ
lưỡng dụng được ví như “con dao hai lưỡi”, AI được sử dụng cho cả mục đích tấn công và cả mục đích
phòng thủ. Mối đe dọa lớn nhất là các hacker sử dụng AI để tạo ra các cuộc tấn công tinh vi hơn; tạo ra các
phần mềm độc hại, dò quét và phát hiện những lỗ hổng để từ đó vượt qua các phương pháp bảo vệ và tấn
công vào hệ thống thông tin.
Đáng chú ý, khi phát động các cuộc tấn công lừa đảo có mục tiêu, hacker còn dùng AI tạo thông tin giả lan
truyền trên mạng xã hội. Dù cơ quan chức năng đã triển khai nhiều giải pháp song việc tội phạm công nghệ
cao ứng dụng AI để tạo ra các kịch bản và tổ chức lừa đảo trên mạng xã hội đang trở nên phổ biến, khiến cho
nhiều người dân bị lừa đảo, chiếm đoạt tài sản, gây bức xúc trong xã hội.
Bên cạnh rủi ro lớn khi AI hỗ trợ các chiến dịch lừa đảo trực tuyến, lãnh đạo Cục An toàn thông tin cũng chỉ
ra một số rủi ro khác mà công nghệ AI đưa đến cho lĩnh vực an toàn thông tin mạng. Đó là việc hacker sử
dụng AI để tối ưu hóa các cuộc tấn công mạng, phát triển các phần mềm độc hại và đặc biệt là mã độc mã
hóa dữ liệu tống tiền ransomware...
Thứ trưởng Bộ TT&TT Phạm Đức Long cũng nhận định, AI đang thực hiện nhiều việc mà trước đây chỉ con
người mới có thể xử lý được và thậm chí còn vượt qua con người trong một số lĩnh vực. AI đang ảnh hưởng
đến mọi ngành công nghiệp nói chung và ảnh hưởng tới lĩnh vực an toàn thông tin mạng ở cả hai khía cạnh
tích cực và tiêu cực. Các cuộc tấn công mạng liên tục phát triển với mức độ ngày càng tinh vi, phức tạp. Đặc
biệt khi có sự hỗ trợ của AI, nguy cơ, mối đe dọa an toàn thông tin sẽ ngày càng tăng theo cấp số nhân.
Từ thực tế trên, lãnh đạo Bộ TT&TT cho rằng, để tạo ra một không gian mạng an toàn, bảo vệ người dân
trước các nguy cơ tấn công từ không gian mạng, bên cạnh trách nhiệm của các cơ quan chuyên trách và các
doanh nghiệp an toàn thông tin mạng, cần có sự chung tay, hợp lực liên tục và thường xuyên của toàn xã hội.
Chia sẻ tại sự kiện “An toàn trong thời kỳ bùng nổ của trí tuệ nhân tạo” do Cục An toàn thông tin, Bộ
TT&TT vừa tổ chức vào cuối tháng 5/2024, Thượng tá Nguyễn Anh Tuấn, Phó Giám đốc Trung tâm dữ liệu
quốc gia về dân cư, Cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Bộ Công an khẳng định, AI đang
mang lại nhiều rủi ro và thách thức về cả xã hội, pháp lý và an ninh mạng.
Theo ông Tuấn, về mặt xã hội, AI gây lo ngại xâm phạm quyền riêng tư; AI bị lợi dụng để phân biệt chủng
tộc, giai cấp, giới tính, dân tộc, gây mâu thuẫn, xung đột gay gắt hơn; cung cấp thông tin sai sự thật, đánh
tráo khái niệm, thay đổi lịch sử, bóp méo sự thật gây xáo trộn dư luận, ảnh hưởng giáo dục và văn hóa. Về
mặt pháp lý và chính sách, theo thống kê tại legalnodes.com, có khoảng 33 quốc gia đã xây dựng dự thảo
pháp lý về AI nhưng còn hạn chế, chưa có bộ quy chuẩn chung về AI mang tính tổng thể.
Thượng tá Nguyễn Anh Tuấn đề xuất một số giải pháp nhằm giảm thiểu những rủi ro từ AI như: Sớm hoàn
thiện hành lang pháp lý về AI để đón đầu xu thế, ban hành văn bản quy định về đạo đức trong quá trình phát
triển, sản xuất, ứng dụng AI như bảo vệ quyền riêng tư, dữ liệu cá nhân, quyền con người của các đơn vị
trong và ngoài nước; quy định rõ ràng hơn các hành vi phạm tội bằng AI; có quy chuẩn cụ thể về nền tảng kết
nối, chia sẻ, trao đổi liên quan đến AI. Bên cạnh đó, nghiên cứu, ứng dụng các công trình AI để chống lại rủi
ro về AI.
Ngoài ra, phát triển AI phải song hành với vấn đề an ninh mạng và an toàn thông tin để tránh việc bị tấn
công, chiếm quyền điều khiển gây ra hậu quả nghiêm trọng.
Các cường quốc đang trong cuộc đua ứng dụng trí tuệ nhân tạo vào hoạt động tác chiến và
viễn cảnh con người để máy móc ra các quyết định khai hỏa vũ khí có thể không còn xa.
Hơn 50 quốc gia chạy đua sản xuất vũ khí tích hợp trí tuệ nhân tạo
Một buổi tối mùa hè năm 2020 tại Fort Liberty, căn cứ của quân đội Mỹ ở Bắc Carolina,
các binh sĩ Quân đoàn dù 18 ngồi nghiền ngẫm các hình ảnh vệ tinh trên máy tính ở sở
chỉ huy. Trước đó ít phút, một chương trình trí tuệ nhân tạo (AI) quét các bức ảnh rồi đề
xuất mục tiêu cần tiêu diệt cho các binh sỹ.
Chương trình yêu cầu người lính xác nhận lựa chọn của nó: một chiếc xe tăng đã bị
loại biên. Sau khi người lính xác nhận rằng AI đã lựa chọn chính xác, hệ thống gửi tin
nhắn tới Hệ thống tên lửa pháo binh cơ động cao HIMARS, trụ cột của lực lượng pháo
binh Mỹ, chỉ thị khai hỏa. Một tên lửa rít lên trong không trung và bay tới mục tiêu, phá
hủy chiếc xe tăng.
Từ thử nghiệm đến thực tế chiến trường
Vụ tấn công nói trên chưa từng có tiền lệ trong quân đội Mỹ, theo Bloomberg. Đó là lần
đầu tiên, lính Mỹ tấn công mục tiêu được định vị và xác định bằng AI.
Chưa đầy bốn năm sau, việc Mỹ sử dụng AI trong tác chiến tranh không còn trên lý
thuyết hay tập trận. Theo Schuyler Moore, giám đốc công nghệ của Bộ Tư lệnh Trung
ương Mỹ, hồi đầu năm 2024, quân đội nước này đã sử dụng thuật toán thị giác máy
tính để định vị các bệ phóng tên lửa của dân quân ở Yemen và các tàu nổi ở Biển Đỏ,
xác định mục tiêu cho các cuộc tấn công của quân Mỹ ở Iraq và Syria.
Hệ thống tên lửa pháo binh cơ động cao HIMARS của quân đội Mỹ có thể nhận lệnh khai hỏa
tấn công mục tiêu từ AI.
Mỹ không phải là quốc gia duy nhất có bước nhảy vọt trong việc ứng dụng AI vào quân
sự: quân đội Israel cho biết họ sử dụng AI hỗ trợ xác định mục tiêu ở khu vực dải Gaza,
trong khi Ukraine sử dụng AI trong nỗ lực đẩy lùi các cuộc tấn công của quân Nga.
Tuy nhiên, chuyển đổi AI từ phòng thí nghiệm sang thực tế chiến đấu là một trong
những vấn đề gai góc nhất mà các nhà lãnh đạo quân sự phải đối mặt. Những người
ủng hộ việc áp dụng AI tin rằng các hoạt động tác chiến trong tương lai sẽ sớm diễn ra
với tốc độ nhanh hơn tốc độ mà bộ não con người có thể theo kịp. Nhưng các nhà công
nghệ lo ngại rằng mạng lưới và dữ liệu của quân đội Mỹ vẫn chưa đủ độ tin cậy. Các
binh sĩ ở tiền tuyến không muốn giao phó mạng sống của họ cho phần mềm máy tính,
các nhà đạo đức học lo lắng về viễn cảnh đen tối khi con người để máy móc ra các
quyết định giết người. Trong khi đó, một số thành viên quốc hội Mỹ và các tổ chức tư
vấn diều hâu đang thúc đẩy Lầu Năm Góc hành động nhanh hơn, cảnh báo rằng Mỹ có
thể tụt hậu so với Trung Quốc, quốc gia có chiến lược trở thành “trung tâm đổi mới AI
chính của thế giới” vào năm 2030.
Quân đoàn 18, lực lượng phản ứng nhanh gồm 90.000 binh sĩ, là đơn vị thử nghiệm lớn
nhất của Maven, dự án hợp tác giữa quân đội Mỹ và Google nhằm sử dụng thuật toán
nhận diện con người và vũ khí, khí tài trên chiến trường. Dựa vào những đột phá trong
lĩnh vực học máy, hệ thống có thể tự học cách tìm kiếm, phân loại các đối tượng dựa
trên dữ liệu đào tạo và phản hồi. Nói cách khác, thay vì lập trình sẵn cho máy tính từng
bước thực hiện một nhiệm vụ, học máy cho phép máy tính tự "học hỏi" cách thực hiện
nhiệm vụ đó bằng cách phân tích dữ liệu và rút ra những quy tắc cho riêng mình.
Các mô hình AI của dự án Maven có thể tìm hiểu, nghiên cứu sự thay đổi của các vật
thể. Tất cả được hợp nhất với hình ảnh vệ tinh và dữ liệu định vị địa lý trên một giao
diện máy tính duy nhất, được gọi là Hệ thống thông minh Maven. Hệ thống này giúp
quân đội Mỹ nắm bắt “nhất cử nhất động” của đối phương, ví dụ xây dựng một căn cứ
quân sự mới ở đâu đó.
Ngày càng nhiều sĩ quan Mỹ tin rằng AI sẽ thay đổi cách họ và kẻ thù tiến hành chiến
tranh, cho rằng AI có thể cách mạng hóa các hoạt động tác chiến. Lầu Năm Góc đã yêu
cầu chính phủ chi hơn 3 tỷ USD cho các hoạt động liên quan đến AI trong bản đệ trình
ngân sách năm 2024. Và để dọn đường cho tham vọng của mình, đại diện Mỹ tại Liên
hợp quốc lập luận rằng luật pháp quốc tế không yêu cầu con người kiểm soát vũ khí tự
động.
Khi cường quốc nỗ lực ứng dụng AI vào quân sự, lợi thế sẽ thuộc về “những người
không còn nhìn thế giới như con người nữa”, hai nhà nghiên cứu Thom Hawkins và
Alexander Kott của quân đội Mỹ nhận định hồi năm 2022. “Bây giờ chúng ta có thể bị
nhắm bắn bởi thứ gì đó không cần nghỉ ngơi, không bao giờ ngủ”.
Một tiêm kích F-16 của không quân Mỹ được hỗ trợ bởi một máy bay không người lái Kratos
XQ-58A Valkyrie do AI điều khiển.
AI làm biến đổi cách thức tác chiến
Hãy tượng tượng cảnh này: Một phi đội máy bay chiến đấu không người lái lao vào
không phận thù địch, được hướng dẫn không phải bởi quân nhân dưới mặt đất mà bởi
sự tính toán của AI. Với tốc độ xử lý thông tin tình huống cực nhanh, AI đánh giá các
mối đe dọa, đưa ra các kế hoạch tác chiến tinh vi rồi triển khai một loạt đòn tấn công
chính xác nhằm vào thành trì của kẻ thù. Mỗi thao tác đều được thực hiện với sự hoàn
hảo của máy móc khi “bộ óc” của AI thích ứng ngay lập tức với tình huống không chiến
thay đổi liên tục.
Đó không phải là trích đoạn phim Hollywood mà là viễn cảnh không chiến trong tương
lai, khi giới quân sự kết hợp AI với các loại phương tiện bay mang vũ khí.
Trung Quốc tuyên bố đang phát triển hệ thống “AI không chiến thông minh” có khả năng
không chỉ đưa ra các quyết định chiến thuật trong tích tắc mà còn giải thích chiến thuật
cho người điều khiển thông qua các công cụ trực quan hóa dữ liệu và ngôn ngữ tự
nhiên.
Bấy lâu nay, rào cản lớn nhất của việc ứng dụng AI vào tác chiến là con người nhiều
khi không thể hiểu được lý do căn bản đằng sau quyết định của chúng.
Vì AI không thể giải thích cách đưa ra quyết định, quân đội khó tin tưởng và sử dụng
chúng rộng rãi. Nhưng với công nghệ mới, AI có thể giải thích lý do cho các hành động
của mình, giúp con người hiểu và tin tưởng chúng hơn.
Các nhà nghiên cứu Trung Quốc tuyên bố AI của họ có thể thể hiện một dạng diễn
ngôn thông minh, sử dụng từ ngữ, trực quan hóa dữ liệu và thậm chí cả biểu đồ để làm
sáng tỏ lý do tại sao nó đưa ra hướng dẫn tác chiến theo cách nào đó. Phi công AI có
thể tạo ra sự kết hợp ngôn ngữ học giữa các lĩnh vực logic máy và trí tuệ theo ngữ
cảnh của con người. Logic máy (machine logic) là một nhánh của khoa học máy tính và
kỹ thuật điện tử liên quan đến việc thiết kế và xây dựng các hệ thống có khả năng suy
luận và ra quyết định dựa trên logic.
Các nhà nghiên cứu Trung Quốc nói sự kết hợp các khả năng này có thể giúp không
quân giành chiến thắng với tỷ lệ gần 100% trong các tình huống không chiến mô phỏng.
Trung Quốc đã tăng cường đầu tư vào robot, công nghệ bầy đàn, AI và vô số ứng dụng
quân sự từ lĩnh vực máy học. Theo báo cáo “Vũ khí AI trong đổi mới quân sự của Trung
Quốc” của dự án Global China thuộc Viện Brookings (Mỹ), các chuyên gia và chiến
lược gia quân sự Trung Quốc từ Học viện Khoa học Quân sự, Đại học Quốc phòng và
Đại học Công nghệ Quốc phòng đã thấy trước trong tương lai AI và các vũ khí thông
minh sẽ đảm nhận vai trò ngày càng quan trọng, thậm chí có khả năng quyết định kết
cục các cuộc xung đột trong tương lai. Trung Quốc đang thách thức sự thống trị lâu dài
của Mỹ trong lĩnh vực nền tảng tác chiến trên không khi nước này tăng cường đầu tư,
nghiên cứu và phát triển một số công nghệ mang tính đột phá.
“Chiến tranh nói chung và chiến tranh trên không nói riêng đang có sự thay đổi mạnh
mẽ nhờ công nghệ tiên tiến. Trong số này, những công nghệ có tác động lớn nhất là
lượng tử, AI, siêu âm, tàng hình, nano, thu nhỏ, robotics. Tiềm năng ứng dụng trong tác
chiến của AI là rất lớn”, cựu Phó tham mưu trưởng Không quân Ấn Độ Anil Khosla nói
với EA Times.
Mặc dù đã ứng dụng vào quân sự trong một số năm qua, Mỹ hiện vẫn phải vật lộn với
sự thiếu rõ ràng của AI. Gần đây, Bộ trưởng Không quân Mỹ đã trực tiếp trải nghiệm
những hạn chế trong buồng lái một tiêm kích F-16 khi một AI “đang phát triển” điều
khiển chiếc máy bay. Chính vì vậy, Không quân Mỹ vẫn lưỡng lự ứng dụng AI vào việc
triển khai các loại vũ khí không chiến, theo EA Times. Tuy nhiên, Mỹ đã khởi động
chương trình Replicator (Máy sao chép), được thiết kế để tăng cường khả năng trước
sự cạnh tranh ngày càng leo thang, đặc biệt từ Trung Quốc.
Viễn cảnh con người để máy móc ra các quyết định khai hỏa vũ khí có thể không còn xa.
Trọng tâm của Replicator là triển khai nhanh chóng hàng nghìn hệ thống tự động, khai
thác sức mạnh của AI, robot và công nghệ tiên tiến. Với ngân sách 1 tỷ USD do Bộ
Quốc phòng phân bổ, chương trình Replicator nhằm mục đích xây dựng các phương
tiện tự hành nhỏ gọn trang bị vũ khí. Tính đến nay, Lầu Năm Góc đã và đang triển khai
hơn 800 dự án AI quân sự, ứng dụng từ việc đơn giản hóa các quy trình, đánh giá các
mối đe dọa cho đến nâng cao khả năng ra quyết định trên chiến trường. Một trong các
chương trình ấy là “Loyal Wingman”, triển khai các máy bay không người lái hỗ trợ
chiến đấu cơ có người lái.
“Xu hướng không chiến hiện đại là kết hợp máy bay không người lái do AI điều khiển
với máy bay có người lái, khai thác lợi thế của cả hai”, cựu Phó tư lệnh Anil Khosla của
Không quân Ấn Độ nhận xét.
Trong không quân nhiều quốc gia, khái niệm “wingman” được hiểu là phi công lái chiến
đấu cơ bay bên cạnh, thường là phía phải của máy bay chỉ huy biên đội. Wingman
đóng vai trò hỗ trợ và bảo vệ máy bay chỉ huy và cũng có thể tham gia tấn công khi cần
thiết. Với sự phát triển của AI và công nghệ robot, wingman nay có thể là một máy bay
không người lái với sự hỗ trợ của AI thay vì một máy bay có người lái.
Mới đây, Lực lượng Đặc nhiệm 59 của Hải quân Mỹ thực hiện một cuộc tấn công mục
tiêu mô phỏng bằng tên lửa, tất cả được điều phối bởi một phương tiện không người
lái. Các tàu ngầm, xe tăng và tàu chiến thử nghiệm được trang bị AI để định hướng và
tấn công các mục tiêu một cách tự động.
Trong khi công nghệ của Mỹ đã phát triển và được chứng minh qua nhiều năm, những
tiến bộ của Trung Quốc mới được thể hiện qua những tuyên bố. Tuy nhiên, theo cựu
Phó tư lệnh Anil Khosla, không thể xem nhẹ những tuyên bố này.
Theo ông Khosla, việc duy trì vị trí dẫn đầu trong cuộc đua công nghệ AI trên không
ngoài chuyện chiếm lĩnh ưu thế quân sự còn có ý nghĩa lớn về mặt kinh tế. Xuất khẩu
các công nghệ AI quân sự là nguồn thu nhập quan trọng và góp phần tạo việc làm. Về
mặt chiến lược, việc này làm giảm sự phụ thuộc của quốc gia đối với các nguồn bên
ngoài.
Khi cuộc chạy đua vũ trang AI ngày càng gia tăng, vượt ra ngoài ngành hàng không để
thâm nhập tất cả các lĩnh vực chiến tranh, quốc gia nào giải được bài toán về việc hài
hòa trí thông minh máy móc với nhận thức của con người có thể nắm bắt được lợi thế
chiến lược rất lớn. Trước tiên là chiếm lĩnh bầu trời, nhưng lợi ích tổng thể còn cao
hơn, ông Khosla nhận định.
Khi ứng dụng IoT, BigData, AI vào công tác phòng cháy chữa cháy (PCCC), tính
mạng tài sản của người dân, doanh nghiệp, cơ quan tổ chức sẽ được bảo vệ một
cách nhanh chóng, kịp thời; thậm chí có thể ngăn ngừa được các thảm hoạ có
thể xảy ra...
Triển lãm quốc tế về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ có quy mô lớn nhất tại Việt Nam
Từ ngày 19 đến ngày 21/7/2023 tại Cung văn hoá Hữu nghị Hà Nội đã diễn ra Triển lãm
quốc tế về kỹ thuật và phương tiện phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ và thiết bị
an ninh, an toàn bảo vệ năm 2023.
Tham dự triển lãm, người dân được chiêm ngưỡng hàng loạt thiết bị PCCC hiện đại
như: Robot cứu hộ cứu nạn, Máy bay, Drone cũng như dàn "Kachiusa" phòng cháy
chữa cháy tiên tiến, có nhiều tính năng độc đáo lần đầu tiên xuất hiện tại Việt Nam.
Bên cạnh đó, một số đơn vị doanh nghiệp trong và ngoài lực lượng Công an, Quốc
phòng đã giới thiệu các giải pháp kỹ thuật, hệ thống cảnh báo trực tuyến... nhằm PCCC
từ xa, chủ động thông báo, ngăn ngừa và chữa cháy ngay từ những giây phút đầu tiên
xảy ra sự cố. Một trong số những giải pháp được các cơ quan chuyên môn đánh giá
cao là "Hệ thống quản lý và giám sát từ xa cho các hệ thống báo cháy, chữa cháy và
thoát nạn" của Công ty TNHH Giải pháp Kỹ thuật Lê Dương (Công ty Lê Dương).
Xuất phát từ thực trạng khi có sự cố xảy ra người dân sẽ gọi điện, tìm cách thông báo
tới lực lượng PCCC. Tiếp đó cơ quan chức năng sẽ xác minh, huy động cán bộ chiến
sỹ và phương tiện nghiệp vụ đến hiện trường để tổ chức chữa cháy, cứu hộ cứu nạn.
Quá trình này thường phải mất nhiều thời gian để di chuyển đến địa điểm, tìm đường
cho xe chuyên dụng... khiến cho công tác chữa cháy không kịp thời, tuột mất "thời gian
vàng" để dập tắt đám cháy trong thời gian ngắn nhất.
Sau một thời gian dài tập trung nghiên cứu, Công ty Lê Dương đã xây dựng một hệ
thống kết hợp IoT (Internet of Things)/Data/IT chuyên phục vụ công tác theo dõi, giám
sát hệ thống báo cháy, chữa cháy và thoát hiểm; hỗ trợ các tiện ích cứu nạn cứu hộ khi
có hoả hoạn xảy ra một cách nhanh chóng nhất. Nếu hệ thống này được đưa vào sử
dụng (và cải tiến) thì tính mạng tài sản của người dân, doanh nghiệp, cơ quan tổ chức
sẽ được bảo vệ một cách nhanh chóng, kịp thời; thậm chí ngăn ngừa được các thảm
hoạ có thể xảy ra.
Thông qua giao diện web/app truy cập từ máy tính hoặc điện thoại di động các đơn vị
chức năng có thể giám sát các hệ thống PCCC một cách linh động và hiệu quả, mà
không cần phải có mặt trực tiếp tại hiện trường. Trạng thái và thông số hoạt động của
các hệ thống PCCC sẽ được thu thập qua Bo mạch điện tử IoT, truyền dữ liệu lên Data
Server và được quản lý tập trung, giám sát 24/24h, nhanh chóng đưa ra các phương án
giải quyết phù hợp khi có sự cố xảy ra.
Với dữ liệu lớn (Big Data) thu thập hằng ngày và qua từng đợt chạy thử, tích hợp công
nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) và các thuật toán hỗ trợ bảo trì tiên đoán có thể sớm dự đoán
các hệ thống PCCC đang xuống cấp, cần được kiểm tra, giám sát, cũng như bảo
dưỡng và sửa chữa và thay thế sớm, nhằm đảm bảo các hệ thống PCCC luôn trong
tình trạng kỹ thuật tốt nhất, sẵn sàng đáp ứng phương châm 4 tại chỗ then chốt trong
công tác PCCC.
Với các dữ liệu trên, Cư dân, Ban quản trị, người đứng đầu cơ sở và Cơ quan quản lý
nhà nước đồng thời giám sát cơ sở của mình, tạo ra sự phối hợp minh bạch, nhịp
nhàng và gắn bó, cũng như đảm bảo công tác xã hội hóa, nhà nước và nhân dân cùng
làm trong việc đảm bảo an toàn PCCC cho chính cơ sở, chung cư, hạ tầng các bên liên
quan có sử dụng. Khi có hỏa hoạn xảy ra hệ thống server và website sẽ xử lý và chỉ ra
con đường ngắn nhất để tới hiện trường.
Hệ thống còn cung cấp đầy đủ thông tin về PCCC xung quanh tòa nhà, sơ đồ PCCC và
thoát hiểm của tòa nhà làm cơ sở để cư dân hoặc lực lượng cứu hộ đưa ra các quyết
định chính xác, nhanh chóng hơn. Hệ thống cũng cung cấp giải pháp định vị và giám
sát tình trạng sức khỏe của lực lượng cứu hộ khi thực hiện cứu hộ.
Theo đại diện Công ty Lê Dương, giải pháp kỹ thuật mà công ty đưa ra được phát triển
hoàn toàn trong nước, đảm bảo hiệu quả kinh tế, chi phí đầu tư thấp so với các hệ
thống hạ tầng nhập khẩu – tiết kiệm ngân sách quốc gia, tự chủ công nghệ và thúc đẩy
quá trình chuyển đổi số, tạo lợi thế cạnh tranh quốc gia về an toàn PCCC so với các
nước khác. Hệ thống hướng đến các trung tâm kiểm soát và vận hành hệ thống PCCC
cả nước với chi phi tối ưu hơn, đảm bảo được yêu cầu kỹ thuật trong giám sát, cũng
như chỉ huy tác chiến khi có hỏa hoạn xảy ra.
Hệ thống phân theo các cấp quản lý xuyên suốt từ trên xuống dưới; có thể mở quyền
truy cập cho chủ cơ sở để giám sát cơ sở mình quản lý, cư dân cho chung cư mình cư
trú, đưa vào thực tiễn chủ trương Nhà nước và Nhân dân cùng làm, cùng giám sát. Các
công ty cung cấp dịch vụ bảo trì, vận hành hệ thống PCCC cũng được chia sẻ dữ liệu
để đảm bảo cung cấp dịch vụ tốt nhất, hệ thống được sẵn sàng cao nhất, đảm bảo sự
an toàn trước nguy cơ cháy nổ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, và mang bình yên
cho đời sống nhân dân.
Trong một thế giới đang nỗ lực tìm kiếm các giải pháp cho vấn đề biến đổi khí hậu, đối
với nhóm các nhà khoa học nói trên, giải pháp cho khả năng di chuyển bền vững có thể
gần hơn chúng ta nghĩ.
Ngày 14/9/2023, Đan Mạch đã hạ thủy tàu Laura Maersk, con tàu đầu tiên trên thế giới sử dụng
toàn bộ nhiên liệu methanol xanh.
Tại Lindau - một thành phố của Đức với nhiều thung lũng và hồ nước lớn như bước ra
từ truyện cổ tích, một công ty đang nỗ lực biến không khí thành nhiên liệu xanh.
Nhà hóa học Johannes Prock - Giám đốc công nghệ tại Obrist Group, một công ty công
nghệ của Áo với hơn 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực hệ thống ôtô - giải thích:
“Chúng tôi tin rằng CO không chỉ là chất thải mà còn có thể là nguồn tài nguyên để sản
2
xuất tất cả các loại sản phẩm”. Trong trường hợp được đề cập đến ở trên, các nhà
khoa học sử dụng CO2 để sản xuất methanol xanh, một hợp chất hóa học được một số
ngành công nghiệp coi là giải pháp thay thế bền vững cho nhiên liệu hóa thạch.
Để làm được điều này, Prock và nhóm của ông sử dụng kỹ thuật "thu khí trực tiếp"
(DAC), một công nghệ lọc CO2 từ khí quyển và làm cho nó phù hợp với mục đích công
nghiệp. Mặc dù nghe có vẻ giống như một cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng nhưng
công nghệ này đã ra đời hơn 10 năm, tuy nhiên nó chưa bao giờ được áp dụng trên
quy mô lớn và phục vụ cho những mục đích này. Prock nói với hãng tin DW của Đức:
“Công nghệ này hoạt động tốt ở quy mô nhỏ, nhưng khó khăn kỹ thuật thực sự là xây
dựng các cơ sở lớn và đảm bảo quy trình vẫn hiệu quả”.
Vấn đề chính ở đây là việc huy động đủ tiền. Kỹ sư sinh hóa Anna Mas Herrador, người
đang nghiên cứu công nghệ này tại Đại học Rovira Virgili của Tây Ban Nha, cho rằng:
“Trở ngại đáng kể nhất đối với việc triển khai DAC trên quy mô lớn là chi phí cao”.
Những nghiên cứu và hỗ trợ hiện tại có thể đẩy nhanh quá trình này. Kỹ sư Mas
Herrador bày tỏ: “Các công nghệ carbon thấp khác, chẳng hạn như quang điện mặt trời
hoặc pin, đã giúp giảm chi phí rất nhiều trong thời gian gần đây. Điều này cũng được
dự đoán sẽ xảy ra trong tương lai gần với DAC”.
Hiện tại, Prock và nhóm của ông đang thử nghiệm những chiếc xe Tesla đã được cải
tiến để hoạt động như xe hybrid. Họ đã kết hợp một loại pin điện nhỏ với động cơ dùng
methanol và đang thử nghiệm các mẫu xe hybrid của mình trên đường phố Lindau.
Frank Obrist, Giám đốc điều hành và người sáng lập của Obrist Group, cho biết: “Xe
điện thường có pin nặng và đắt tiền. Với các mẫu xe hybrid của chúng tôi, chi phí sản
xuất giảm khoảng một nửa. Ý tưởng là cung cấp loại xe này với giá 25.000 euro
(26.984 USD) cho người dân bình thường".
Carlos Bravo Villa, nhà tư vấn môi trường độc lập, cho rằng việc cho phép sử dụng
nhiên liệu điện tử (e-fuel), còn được gọi là nhiên liệu tổng hợp, trong vận tải đường bộ
sẽ có nguy cơ khiến toàn bộ nỗ lực khử cacbon đi chệch hướng. Bravo Villa bày tỏ:
“Việc khử cacbon trong giao thông vận tải là một thách thức lớn và không có chỗ cho
việc sử dụng điện không hiệu quả”. Ông nói thêm: “Nếu bạn đưa điện tái tạo trực tiếp
vào pin ôtô, bạn sẽ tiết kiệm năng lượng gấp 5 lần so với việc sử dụng điện đó để sản
xuất nhiên liệu xanh”.
Theo một nghiên cứu được công bố năm 2023 của Tổ chức Vận tải và Môi trường cùng
các tổ chức khí hậu khác của châu Âu, để tăng cường sử dụng nhiên liệu điện tử trong
vận tải đường bộ, sẽ phải tạo ra một lượng lớn năng lượng tái tạo bổ sung. Điều đó sẽ
đòi hỏi phải lắp đặt thêm một số lượng đáng kể các nhà máy năng lượng tái tạo.
Xe điện (EV) hiện chưa phải là phương tiện phổ biến. Obrist Group lập luận rằng chúng
vẫn còn quá đắt và các mẫu xe hybrid loại này có thể đẩy nhanh quá trình chuyển đổi
sang ôtô sạch hơn. Prock giải thích: “Chúng ta không thể chuyển đổi toàn bộ ngành
công nghiệp ôtô sang ôtô điện. Vì vậy, chúng ta cần một giải pháp khác, thân thiện với
môi trường để giải quyết vấn đề này”.
Mặc dù doanh số bán ôtô điện đã tăng đều đặn trong những năm gần đây nhưng thời
điểm hiện tại có thể là một bước ngoặt lớn. Nhà cung cấp tư vấn kinh tế BloombergNEF
nhận thấy dấu hiệu suy giảm vào năm 2024, mặc dù vậy họ vẫn kỳ vọng doanh số bán
xe điện toàn cầu sẽ đạt 16,7 triệu chiếc trong năm nay. Vào tháng 4, Tesla cho biết
công ty này sẽ đẩy nhanh việc ra mắt các mẫu xe rẻ hơn sau khi kết quả bán hàng gây
thất vọng trong quý thứ ba liên tiếp.
Về phần mình, Bravo Villa tin rằng cần tiếp tục duy trì việc tập trung vào ôtô điện. Ông
nói: “Những chiếc xe hybrid sẽ chẳng có ý nghĩa gì trong bối cảnh công nghệ pin phát
triển nhanh chóng và sẽ ngày càng được cải tiến trong thời gian ngắn. Song song đó,
việc xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ việc sạc điện cũng đang được tiến hành”.
Mặc dù trọng tâm hướng tới thường là lĩnh vực sản xuất ôtô, song methanol xanh cũng
có vai trò đầy hứa hẹn trong các lĩnh vực khác. Theo Prock, loại nhiên liệu này “cũng có
thể được sử dụng làm nguyên liệu thô cho ngành công nghiệp hóa chất và làm nhiên
liệu cho tàu thuyền”. Về mặt này, Bravo Villa thậm chí còn đi xa hơn: "Đây sẽ là một lựa
chọn tuyệt vời cho vận tải hàng hải, nơi mà khả năng sử dụng pin như pin trên ôtô vẫn
còn rất hạn chế".
Công nghệ DAC có thể đóng một vai trò quan trọng trong toàn bộ quá trình đó. Kỹ sư
sinh hóa Herrador cho biết: “Nhiên liệu này có tiềm năng đầy hứa hẹn vì nó mang lại
khả năng thu giữ CO2 trực tiếp từ không khí, bất kể vị trí địa lý. Nó có thể giúp bổ sung
cho các biện pháp giảm thiểu biến đổi khí hậu khác, chẳng hạn như giảm phát thải và
sử dụng năng lượng tái tạo".
Một giải pháp triệt để cho vấn đề biến đổi khí hậu có thể vẫn đang nằm ngoài tầm với,
nhưng một tương lai mà trong đó con người đạt được khả năng di chuyển bền vững trở
thành hiện thực có thể đã gần kề, nhưng để đạt được điều đó đòi hỏi nhiều thứ hơn là
chỉ cần có không khí.
Sự phát triển nhanh chóng của trí tuệ nhân tạo (AI) đang thu hút quan tâm lớn
trên toàn cầu nói chung và Việt Nam nói riêng. AI đang được xem là nhân tố quan
trọng nhất trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, mang đến cơ hội và thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội.
Hơn 50 quốc gia chạy đua sản xuất vũ khí tích hợp trí tuệ nhân tạo
Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích to lớn, việc kiểm soát AI cũng trở thành vấn đề
không nhỏ khi nhiều rủi ro, tác động tiêu cực đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã
hội đã và đang hiện hữu. Điều này đòi hỏi cần sớm hoàn thiện hành lang pháp lý về AI.
Ông Trần Đăng Khoa, Phó Cục trưởng phụ trách Cục An toàn thông tin, Bộ Thông tin
và Truyền thông (TT&TT) cho biết, tại Việt Nam, AI đã được nhắc tới nhiều trong những
năm gần đây. Là một công nghệ lưỡng dụng được ví như “con dao hai lưỡi”, AI được
sử dụng cho cả mục đích tấn công và cả mục đích phòng thủ. Mối đe dọa lớn nhất là
các hacker sử dụng AI để tạo ra các cuộc tấn công tinh vi hơn; tạo ra các phần mềm
độc hại, dò quét và phát hiện những lỗ hổng để từ đó vượt qua các phương pháp bảo
vệ và tấn công vào hệ thống thông tin.
Đáng chú ý, khi phát động các cuộc tấn công lừa đảo có mục tiêu, hacker còn dùng AI
tạo thông tin giả lan truyền trên mạng xã hội. Dù cơ quan chức năng đã triển khai nhiều
giải pháp song việc tội phạm công nghệ cao ứng dụng AI để tạo ra các kịch bản và tổ
chức lừa đảo trên mạng xã hội đang trở nên phổ biến, khiến cho nhiều người dân bị lừa
đảo, chiếm đoạt tài sản, gây bức xúc trong xã hội.
AI đang mang lại nhiều rủi ro và thách thức về cả xã hội, pháp lý và an ninh mạng. Ảnh
minh họa.
Bên cạnh rủi ro lớn khi AI hỗ trợ các chiến dịch lừa đảo trực tuyến, lãnh đạo Cục An
toàn thông tin cũng chỉ ra một số rủi ro khác mà công nghệ AI đưa đến cho lĩnh vực an
toàn thông tin mạng. Đó là việc hacker sử dụng AI để tối ưu hóa các cuộc tấn công
mạng, phát triển các phần mềm độc hại và đặc biệt là mã độc mã hóa dữ liệu tống tiền
ransomware...
Thứ trưởng Bộ TT&TT Phạm Đức Long cũng nhận định, AI đang thực hiện nhiều việc
mà trước đây chỉ con người mới có thể xử lý được và thậm chí còn vượt qua con người
trong một số lĩnh vực. AI đang ảnh hưởng đến mọi ngành công nghiệp nói chung và
ảnh hưởng tới lĩnh vực an toàn thông tin mạng ở cả hai khía cạnh tích cực và tiêu cực.
Các cuộc tấn công mạng liên tục phát triển với mức độ ngày càng tinh vi, phức tạp. Đặc
biệt khi có sự hỗ trợ của AI, nguy cơ, mối đe dọa an toàn thông tin sẽ ngày càng tăng
theo cấp số nhân.
Từ thực tế trên, lãnh đạo Bộ TT&TT cho rằng, để tạo ra một không gian mạng an toàn,
bảo vệ người dân trước các nguy cơ tấn công từ không gian mạng, bên cạnh trách
nhiệm của các cơ quan chuyên trách và các doanh nghiệp an toàn thông tin mạng, cần
có sự chung tay, hợp lực liên tục và thường xuyên của toàn xã hội.
Chia sẻ tại sự kiện “An toàn trong thời kỳ bùng nổ của trí tuệ nhân tạo” do Cục An toàn
thông tin, Bộ TT&TT vừa tổ chức vào cuối tháng 5/2024, Thượng tá Nguyễn Anh Tuấn,
Phó Giám đốc Trung tâm dữ liệu quốc gia về dân cư, Cục Cảnh sát quản lý hành chính
về trật tự xã hội, Bộ Công an khẳng định, AI đang mang lại nhiều rủi ro và thách thức về
cả xã hội, pháp lý và an ninh mạng.
Theo ông Tuấn, về mặt xã hội, AI gây lo ngại xâm phạm quyền riêng tư; AI bị lợi dụng
để phân biệt chủng tộc, giai cấp, giới tính, dân tộc, gây mâu thuẫn, xung đột gay gắt
hơn; cung cấp thông tin sai sự thật, đánh tráo khái niệm, thay đổi lịch sử, bóp méo sự
thật gây xáo trộn dư luận, ảnh hưởng giáo dục và văn hóa. Về mặt pháp lý và chính
sách, theo thống kê tại legalnodes.com, có khoảng 33 quốc gia đã xây dựng dự thảo
pháp lý về AI nhưng còn hạn chế, chưa có bộ quy chuẩn chung về AI mang tính tổng
thể.
Thượng tá Nguyễn Anh Tuấn đề xuất một số giải pháp nhằm giảm thiểu những rủi ro từ
AI như: Sớm hoàn thiện hành lang pháp lý về AI để đón đầu xu thế, ban hành văn bản
quy định về đạo đức trong quá trình phát triển, sản xuất, ứng dụng AI như bảo vệ quyền
riêng tư, dữ liệu cá nhân, quyền con người của các đơn vị trong và ngoài nước; quy
định rõ ràng hơn các hành vi phạm tội bằng AI; có quy chuẩn cụ thể về nền tảng kết
nối, chia sẻ, trao đổi liên quan đến AI. Bên cạnh đó, nghiên cứu, ứng dụng các công
trình AI để chống lại rủi ro về AI.
Ngoài ra, phát triển AI phải song hành với vấn đề an ninh mạng và an toàn thông tin để
tránh việc bị tấn công, chiếm quyền điều khiển gây ra hậu quả nghiêm trọng.