Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 24

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP


------------------

BÀI TẬP NHÓM


TRIẾT HỌC
MÃ HP:

TÊN ĐỀ TÀI
VẤN ĐỀ GIAI CẤP VÀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP
ĐẤU TRANH GIAI CẤP TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (CNXH) Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

NHÓM 6:
39. Nguyễn Thanh Phong (thư kí)
40. Biện Huỳnh Phúc
41. Nguyễn Hùng Sơn (Nhóm trưởng)
42. Nguyễn Thanh Tú
43. Nguyễn Thanh Tuấn
GVHD: TS. LƯƠNG THANH TÂN

Đồng Tháp, 2023


PHẦN ĐÁNH GIÁ CỦA GIẢNG VIÊN

ĐIỂM SỐ ĐIỂM CHỮ

GIẢNG VIÊN ĐÁNH GIÁ

NGÀY ĐÁNH GIÁ:


MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ........................................................................................................1
NỘI DUNG............................................................................................................2
Chương 1. GIAI CẤP...........................................................................................2
1.1. Khái niệm giai cấp.....................................................................................2
1.2. Nguồn gốc và kết cấu giai cấp...................................................................2
1.2.1. Nguồn gốc giai cấp.................................................................................2
1.2.2. Kết cấu giai cấp......................................................................................3
Chương 2. ĐẤU TRANH GIAI CẤP..................................................................4
2.1. Khái niệm đấu tranh giai cấp......................................................................4
2.2. Bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác – Leenin về vấn đề
đấu tranh giai cấp....................................................................................................5
2.3. Đặc điểm, vai trò của đấu tranh giai cấp....................................................7
Chương 3. ĐẤU TRANH GIAI CẤP TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY..........................................13
3.1. Khái quát về đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam............................................................................................................13
3.2. Nhận thức của Đảng và Nhà nước về đấu tranh giai cấp trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay................................................15
3.3. Nhận thức đúng về đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam hiện nay..................................................................................17
KẾT LUẬN..........................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................21
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị chiếm đoạt lao động của các
giai cấp và tầng lớp bị trị, chiếm đoạt của cải xã hội vào tay mình. Các giai cấp,
tầng lớp bị trị không những bị chiếm đoạt kết quả lao động mà họ còn bị áp bức
về chính trị, xã hội và tinh thần. Không có sự bình đẳng giữa giai cấp thống trị
và giai cấp bị trị, chẳng hạn giữa giai cấp các nhà tư bản với giai cấp những
công nhân làm thuê. Giai cấp bóc lột bao giờ cũng dùng mọi biện pháp và
phương tiện bảo vệ địa vị giai cấp của họ, duy trì củng cố kinh tế xã hội cho
phép họ được hưởng những đặc quyền, đặc lợi giai cấp. Công cụ chủ yếu là
quyền lực nhà nước. Lợi ích cơ bản của giai cấp bị trị đối lập với lợi ích cơ bản
của giai cấp thống trị. Đây là đối kháng về quyền lợi giữa những giai cấp áp bức
bóc lột và những giai cấp, tầng lớp bị áp bức, bị bóc lột.
Gia cấp và đấu tranh giai cấp là một trong những nội dung cơ bản của chủ
nghĩa Mác – Lênin, có vai trò quan trọng trong sự nghiệp cách mạng. Là sợi chỉ
đỏ xuyên suốt của học thuyết Mác – Lênin, là hòn đá tảng để phân biệt những
người Mác xít với những kẻ giả danh Mác xít, với chủ nghĩa cơ hội, xét lại trong
phong trào cộng sản công nhân quốc tế. Trong khi khẳng định vai trò của đấu
tranh giai cấp trong thời kì quá độ lên CNXH, chủ nghĩa Mác – Lênin không
tuyệt đối hóa vấn đề giai cấp, đấu tranh giai cấp mà trái lại luôn đòi hỏi phải đặt
nó trong những điều kiện hoàn cảnh cụ thể và quan hệ với các nhân tố khác.
Thời gian vừa qua đã xuất hiện những quan điểm lệch lạc, sai trái và cả
những quan điểm của thế lực thù địch nhằm xuyên tạc, phủ nhận quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin về đấu tranh giai cấp. Trong đó, nổi lên là quan điểm cho
rằng: “trong điều kiện hiện nay, nói tới đấu tranh giai cấp là bảo thủ, lạc hậu, là
gây nên sự chia rẽ, phân hoá nội bộ,… làm phá vỡ khối đại đoàn kết dân
tộc” hay: “hiện nay, nói đến đấu tranh giai cấp ở Việt Nam là đi ngược lại xu thế
của thời đại, là lạc hậu, không thức thời, không phù hợp với thực tiễn Việt Nam
hiện nay”. Do vậy, có thể nói, việc nâng cao nhận thức khoa học về đấu tranh
giai cấp sẽ góp phần đấu tranh phòng chống những quan điểm sai trái, thù địch,

1
bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, bảo vệ nền tảng, tư tưởng của Đảng trong tình
hình hiện nay là một vấn đề khoa học, có ý nghĩa thiết thực.

NỘI DUNG
Chương 1. GIAI CẤP
1.1. Khái niệm giai cấp
Chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ ra rằng, các giai cấp xã hội hình thành một
cách khách quan gắn liền với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của
sản xuất. Trong tác phẩm “Sáng kiến vĩ đại”, Lê Nin đã đưa ra định nghĩa về
giai cấp như sau: Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những
người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định
trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này được
pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của
họ trong những tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức
hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp
là những tập đoàn người mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập
đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế
xã hội nhất định.

1.2. Nguồn gốc và kết cấu giai cấp


1.2.1. Nguồn gốc giai cấp
Trong xã hội có nhiều nhóm người, tập đoàn người được phân biệt bằng
những đặc trưng khác nhau: tuổi tác, giới tính, dân tộc, chưng tộc, quốc gia,
nghề nghiệp,… Trong những sự khác nhau đó, có một số là do nguyên nhân tự
nhiên, một số khác là do nguyên nhân xã hội. Những sự khác biệt đó tự nó
không sản sinh ra sự đối lập về xã hội. Chỉ trong những điều kiện xã hội nhất
định mới dẫn đến sự phân chia xã hội thành những giai cấp khác nhau.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định sự phân chia xã hội thành giai cấp
là do nguyên nhân kinh tế.

2
Sản xuất xã hội dần dần phát triển, việc sử dụng công cụ bằng kim loại
làm cho năng suất lao động tăng lên đã dẫn tới sự phân công lại lao động trong
xã hội: chăn nuôi tách khỏi trồng trọt, sản xuất thủ công cũng dần dần trở thành
một ngành tương đối độc lập với nông nghiệp, lao động trí óc tách khỏi lao động
chân tay. Với lực lượng sản xuất mới, chế độ làm chung, ăn chung nguyên thủy
không còn thích hợp nữa, sản xuất gia đình cá thể trở thành hình thức sản xuất
có hiệu quả hơn.
Tư liệu sản xuất và sản phẩm làm ra trở thành tài sản riêng của từng gia
đình. Sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất xuất hiện và dần dần thay thế sở hữu
cộng đồng nguyên thuỷ. Chế độ tư hữu ra đời dẫn tới sự bất bình đẳng về tài sản
trong nội bộ công xã. Xã hội phân hoá thành những giai cấp khác nhau, giai cấp
bóc lột thống trị và giai cấp bị bóc lột, bị thống trị. Như vậy, sự phân chia xã hội
thành giai cấp là kết quả tất nhiên của chế độ kinh tế dựa trên sự chiếm hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất.
Sự hình thành giai cấp diễn ra theo hai con đường:
- Thứ nhất, sự phân hoá bên trong nội bộ công xã thành kẻ bóc lột và
người bị bóc lột.
- Thứ hai, những tù binh bị bắt trong chiến tranh giữa các bộ lạc không bị
giết như trước mà bị biến thành nô lệ.
Chế độ có giai cấp đầu tiên trong lịch sử xã hội loài người là chế độ chiếm
hữu nô lệ, tiếp theo là chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa là bước phát
triển cuối cùng và cao nhất của xã hội có giai cấp.

1.2.2. Kết cấu giai cấp


Trong xã hội có giai cấp, mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều có một kết cấu
giai cấp nhất định. Khi hình thái kinh tế - xã hội này thay thế hình thái kinh tế -
xã hội khác, kết cấu giai cấp cũng thay đổi.
Mỗi kết cấu giai cấp trong xã hội có giai cấp đều có các giai cấp cơ bản và
không cơ bản. Những giai cấp cơ bản là những giai cấp xuất hiện và tồn tại gắn
liền với phương thức sản xuất thống trị của xã hội. Sự đối kháng và cuộc đấu
3
tranh của các giai cấp đó biểu hiện mâu thẫun cơ bản của phương thức sản xuất
đã sinh ra chúng.
Bên cạnh những giai cấp cơ bản, trong kết cấu giai cấp còn có giai cấp
không cơ bản. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, đó là những nông trị do có ít ruộng
đất. Trong xã hội phong kiến, đó có thể là giai cấp nô lệ và chủ nô với tư cách
tàn dư của xã hội củ; là giai cấp tư sản ra đời trong lòng xã hội phong kiến.
Trong xã hội tư bản, những giai cấp không cơ bản là giai cấp địa chủ với tư cách
là tàn dư, giai cấp nông dân.
Cùng với sự phát triển sản xuất, mỗi giai cấp trong một kết cấu giai cấp -
xã hội cũng có những biến đổi nhất định. Những sự biến đổi ấy dẫn đến sự thay
đổi địa vị của các giai cấp đó trong hệ thống sản xuất xã hội.
Trong kết cấu của xã hội có giai cấp, ngoài các giai cấp đối kháng còn có
tầng lớp trí thức làm công việc chủ yếu bằng trí óc. Tầng lớp trí thức không phải
là một giai cấp. Nó được hình thành từ những giai cấp khác nhau và cũng phục
vụ những giai cấp khác nhau.
Phân tích kết cấu giai cấp và sự biến đổi của nó giúp ta hiểu địa vị, vai trò
và thái độ chính trị của mỗi giai cấp đối với mỗi cuộc vận động lịch sử, đặc biệt
là trong cuộc đấu tranh của thời đại ngày nay.

Chương 2. ĐẤU TRANH GIAI CẤP


2.1. Khái niệm đấu tranh giai cấp
Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực thúc đẩy sự vận động và
phát triển của xã hội có sự phân chia giai cấp. Đấu tranh giai cấp thực chất là
cuộc đấu tranh giữa những giai cấp mà lợi ích căn bản đối lập nhau.
Đấu tranh giai cấp là một trong lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội có
giai cấp đối kháng. Điều đo được thể hiện trước hết ở chỗ: thông qua đấu tranh
giai cấp sự xung đột giữa lực lượng sản xuất mới và quan hệ sản xuất già cỗi
được giải quyết, bước quá độ từ một chế độ xã hội lỗi thời sàng một chế độ mới
cao hơn được thực hiên.

4
2.2. Bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác -
Lênin về vấn đề đấu tranh giai cấp
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã bàn nhiều về đấu tranh
giai cấp và chỉ rõ những cái mới trong lý luận về vấn đề này. Điều đáng nói là
do nhu cầu của thực tiễn lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã tập trung nhấn mạnh
đấu tranh giai cấp, coi đó là động lực trực tiếp của lịch sử. Nhưng các ông không
bao giờ xem đấu tranh giai cấp là mục đích, là công cụ vạn năng, duy nhất để
giải quyết mâu thuẫn xã hội, mà đó chỉ là phương tiện để giải phóng giai cấp,
giải phóng con người. Quan điểm đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin
mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc.
Theo V.I.Lênin “Đấu tranh giai cấp là đấu tranh của một bộ phân nhân
dân này chống một bộ phân khác, cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết
quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền đặc lợi, bọn áp bức và
bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những
người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản”.
Đấu tranh giai cấp là một quá trình phức tạp trong sự vận động của lịch sử
- xã hội, một xu thế tất yếu, khách quan của xã hội có giai cấp. Trong “Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản” (năm 1848), C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết: “Lịch sử
tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp”.
Trong nhiều tác phẩm, các ông đã trình bày rõ quan điểm của mình cho
rằng, đấu tranh giai cấp không phải là những cuộc bạo loạn, khủng bố, lật đổ,
chỉ có ý nghĩa phá hoại gây chia rẽ, bè phái, gây rối loạn, làm thiệt hại cho xã
hội, mà là một quá trình tất yếu, khách quan của xã hội có áp bức giai cấp, là
những cuộc đấu tranh rộng khắp của quần chúng nhân dân lao động chống lại
giai cấp thống trị bảo thủ. Đấu tranh giai cấp có nguyên nhân khách quan từ sự
phát triển mang tính xã hội hóa ngày càng sâu rộng của lực lượng sản xuất mâu
thuẫn với quan hệ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Biểu hiện của mâu
thuẫn này về phương diện xã hội: mâu thuẫn giữa một bên là giai cấp cách
mạng, tiến bộ đại diện cho phương thức sản xuất mới một bên là giai cấp thống
5
trị, bóc lột, đại diện cho những lợi ích gắn với quan hệ sản xuất lỡi thời, lạc hậu.
Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tự nó không giải quyết
được, mà phải thông qua cuộc đấu tranh của giai cấp bị trị lật đỗ giai cấp thống
trị, sau đó mới xóa bỏ được quan hệ sản xuất cũ xây dựng quan hệ sản xuất mới
cho phù hợp với trình độ sản xuất mới của lực lượng sản xuất. Với ý nghĩa ấy
đấu tranh giai cấp được coi là động lực trực tiếp của sự phát triển lịch sử chứ
không phải là sự gây rối, phá hoại. Trong xã hội có giai cấp đối kháng về mặt lợi
ích thì tất yếu có đấu tranh giai cấp. Điều đó hoàn toàn không phụ thuộc vào
việc người ta có nói về nó hay không, hoặc nói như thế nào về nó. Không phải
cứ cố tình không nói đến đấu tranh giai cấp thì trên thực tế, đấu tranh giai cấp sẽ
mất đi hoặc mức độ xung đột sẽ dịu đi.
Đấu tranh giai cấp là quy luật chung của mọi xã hội có giai cấp. Nhưng
trong quy luật ấy có những biểu hiện đặc thù trong từng xã hội cụ thể. Điều đó
do kết cấu giai cấp của mỗi xã hội và do địa vị lịch sử của mỗi giai cấp cách
mạng trong từng phương thức sản xuất quyết định.
Đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là cuộc đấu trạnh khác
về chất so với các cuộc đấu tranh trước đó trong lịch sử. Bởi mục tiêu là thay đổi
về căn bản sở hữu tư nhân bằng sở hữu xã hội. Do vậy, đây là cuộc đấu tranh
gay go và phức tạp nhất trong lịch sử. Cuộc đấu tranh này tất yếu dẫn đến
chuyên chính vô sản. Nhưng, chuyên chính vô sản không phải là mục đích cuối
cùng của cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản. Nó chỉ là bước quá độ để tiến tới
thủ tiêu mọi giai cấp, tiến tới xã hội không có giai cấp. Giai cấp vô sản cần phải
sử dụng nền chuyên chính của mình để tiếp tục cuộc đấu tranh trong điều kiện
mới. Như vậy, ngay từ khi giai cấp vô sản ra đời thì cuộc đấu tranh của nó với
giai cấp tư sản và các giai cấp bóc lột khác cũng xuất hiện. Cuộc đấu tranh đó
diễn ra thường xuyên, liên tục cả khi giai cấp vô sản chưa giành được chính
quyền từ tay giai cấp thống trị cũ, lẫn khi đã thiết lập được chính quyền cách
mạng của mình và sử dụng chính quyền ấy như một công cụ để xây dựng xã hội
mới.

6
Trước khi giành được chính quyền, nội dung của đấu tranh giai cấp giữa
giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là đấu tranh kinh tế, đấu tranh tư tưởng, đấu
tranh chính trị. Sau khi giành được chính quyền, thiết lập nền chuyên chính của
giai cấp vô sản, mục tiêu và hình thức đấu tranh giai cấp cũng thay đổi.
V.I.Lênin viết: “Trong điều kiện chuyên chính vô sản, những hình thức đấu
tranh giai cấp của giai cấp vô sản không thể giống như trước được”.

2.3. Đặc điểm, vai trò của đấu tranh giai cấp
Xét đến cùng, nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội loài người là
hoạt động sản xuất ra của cải vật chất. Song sự phát triển của sản xuất chỉ diễn
ra khi quan hệ sản xuất còn phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất. Khi quan hệ sản xuất đã lỗi thời thì mâu thuẫn với lực lượng sản xuất, mâu
thuẫn này biểu hiện về mặt xã hội thành mâu thuẫn giữa giai cấp cách mạng đại
biểu cho phương thức sản xuất mới, với giai cấp bóc lột, thống trị - đại biểu cho
những lợi ích gắn liền với quan hệ sản xuất lỗi thời. Mẫu thuẫn đó chỉ có thể
được giải quyết bằng cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp cách mạng và quần
chúng bị bóc lột, mà đỉnh cao của nó là cách mạng xã hội, thay thế quan hệ xã
hội cũ bằng quan hệ sản xuất mới, mở ra địa bàn mới cho sản xuất xã hội phát
triển. Sản xuất xã hội phát triển, đương nhiên kéo theo sự phát triển của toàn bộ
đời sống xã hội.
Từ khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa xuất hiện trên vũ đài lịch
sử, việc xã hội nắm lấy quyền sở hữu toàn bộ tư liệu sản xuất đã luôn luôn là
một lý tưởng tương lai mà nhiều cá nhân cũng như nhiều môn phái trọn vẹn đã
từng phảng phất nhìn thấy ít nhiều lờ mờ ở trước mắt. Nhưng việc chiếm hữu đó
chỉ có thể trở thành một khả năng, trở thành một tất yếu lịch sử, một khi mà các
điều kiện vật chất để thực hiện việc đó đã có sẵn rồi. Cũng như mọi sự tiến bộ
khác của xã hội, việc đó mà có thể thực hiện được, thì không phải là do ở chỗ
người ta đã hiểu rằng sự tồn tại của giai cấp là trái với chính nghĩa, trái với bình
đẳng,… không phải là do ở chỗ chỉ đơn thuần có ý muốn tiêu diệt các giai cấp
ấy, mà là do những điều kiện kinh tế mới nhất định. Tình trạng xã hội phân chia

7
thành một giai cấp bóc lột và một giai cấp bị bóc lột, thành một giai cấp thống
trị và một giai cấp bị áp bức là một hậu quả tất nhiên của tình trạng phát triển
thấp kém của nền sản xuất trước kia. Chừng nào tổng số sản phẩm do lao động
của xã hội làm ra chỉ mới cung cấp được một số gọi là vượt chút ít cái số thật
cần thiết để vừa đủ để đảm bảo sự sinh sống của mọi người mà thôi, chừng nào
mà lao động vẫn choán hết hay hầu hết thời giờ của đại đa số thành viên trong
xã hội, thì tất nhiên xã hội đó phải chia thành gia cấp là điều tất yếu xảy ra. Khi
giai cấp thống trị này, hay một giai cấp thồng trị khác trở thành một sự lỗi thời,
một trạng thái cổ hủ thì cần phải có một giai cấp mới tiến bộ hơn, phát triển hơn
phù hợp với quan hệ sản xuất mới và diễn ra cuộc đấu tranh giữa những giai cấp
này, giai cấp tiến bộ tất yếu sẽ giành thắng lợi và cứ như thế thúc đẩy xã hội
phát triển đi lên.
C.Mác và Ph.Ăngghen chứng minh rằng, sản xuất vật chất để đáp ứng nhu
cầu tồn tại và phát triển của con người và xã hội loài người là hành động lịch sử
đầu tiên của con người. Tác động biện chứng giữa cải tiến sản xuất với nhu cầu
không ngừng tăng lên là động lực phát triển cơ bản, thường xuyên của tất cả xã
hội. Sản xuất vật chất bao giờ cũng phát triển trong một quan hệ sản xuất nhất
định. Khi quan hệ sản xuất không còn phù hợp với lực lượng sản xuất, thì nó trở
thành xiềng xích của lực lượng sản xuất, dẫn đến những cuộc khủng hoảng phá
hoại lực lượng sản xuất,… Trong các xã hội có đối kháng giai cấp, những quan
hệ sản xuất lỗi thời không tự động nhường chỗ cho quan hệ sản xuất mới. Chúng
được giai cấp thống trị bảo vệ bằng tất cả sức mạnh chính trị, kinh tế và tư
tưởng, đặc biệt là bằng bạo lực có tổ chức. Muốn thay đổi quan hệ sản xuất để
giải phóng sức sản xuất phải gạt bỏ lực cản lớn lao ấy. Điều đó chỉ có thể thực
hiện được qua đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội. Xuất phát từ quan điểm
xem sự vận động nội tại của phương thức sản xuất quyết định sự phát triển của
toàn bộ lịch sử xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xem đấu tranh giai cấp mà đỉnh
cao là thời kỳ cách mạng, như đòn bẩy để thay đổi hình thái kinh tế - xã hội do
đó đấu tranh giai cấp là động lực trực tiếp của lịch sử các xã hội có giai cấp.

8
Trong xã hội có áp bức giai cấp, đấu tranh giai cấp chẳng những cải tạo
xã hội mà còn có tác dụng cải tạo bản thân các giai cấp cách mạng và quần
chúng lao động. Chỉ qua đấu tranh cho tự do, không cam chịu số phận nô lệ, các
giai cấp bị áp bức mới gột sửa được tinh thần nô lệ và những tập quán xấu do
chế độ người áp bức người sản sinh ra.
Lịch sử nhân loại đã chứng minh vai trò to lớn của đấu tranh giai cấp
chống áp bức bóc lột. Thời cổ đại nếu không có các cuộc đấu tranh ngày càng
mạnh mẽ của hàng chục vạn nô lệ và tầng lớp bình dân chống giai cấp chủ nô thì
chế độ nô lệ dù đã thối nát cũng không thể sụp đổ. Cuối xã hội phong kiến các
phong trào đấu tranh của nông dân, thợ thủ công, thương nhân, trí thức,… do
giai cấp tư sản lãnh đạo đã dẫn đến các cuộc cách mạng tư sản trong các thế kỷ
XVI, XVII, XVIII làm sụp đổ chế độ phong kiến, đưa xã hội chuyển sang thời
đại tư sản.
Cuộc đấu tranh giai cấp do giai cấp công nhân tiến hành là cuộc đấu tranh
giai cấp cuối cùng trong lịch sử loài người. Nó là pưhơng tiện tất yếu để giải
phóng chia giai cấp do giai cấp công nhân tiến hành là cuộc đấu tranh giai cấp
cuối cùng trong lịch sử loài người. Nó là phương tiện tất yếu để giải phóng toàn
xã hội khỏi ách áp bức, bóc lột, khỏi sử phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Vì vậy đây là một quá trình đấu tranh rất lâu dài và vô cùng phức tạp. Cuộc đấu
tranh giai cấp phát triển tất yếu dẫn đến cách mạng vô sản. Cuộc cách mạng này
thắng lợi trước hết ở những khâu yếu nhất của chủ nghĩa tư bản, nơi giai cấp
công nhân và các lực lượng cách mạng có nhữgn điều kiện khách quan và chủ
quan để giành chính quyền.
Sau khi giai cấp công nhân dân lao động giành được chính quyền, đấu
tranh giai cấp chưa biến mất mà tiếp tục diễn ra gay go phức tạp trong điều kiện
mới.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội mục tiêu đấu tranh trực tiếp của
gai cấp công nhân đã thay đổi: từ mục tiêu giành chính quyền chuyển sang mục
tiêu cơ bản và chủ yếu là củng cố chính quyền của nhân dân lao động xây dựng

9
thành công chủ nghĩa xã hội, trọng tâm là xây dựng kinh tế. Giai cấp tư sản đã bị
lật đổ, tiến hành cuộc đấu tranh chống cách mạng xã hội chủ nghĩa nhằm phục
hồi chủ nghĩa tư bản.
Điều kiện đấu tranh thay đổi, mục tiêu trực tiếp của các giai cấp thay đổi
thì hình thức đấu tranh giai cấp cũng thay đổi. Lênin dã nói: “Trong điều kiện
chuyên chính vô sản, những hình thức đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản
không thể giống như trước”. Cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội diễn ra trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh
tế, xã hội văn hoá, tư tưởng. V.I.Lênin cho rằng chủ nghĩa xã hội chỉ giành được
thắng lợi triệt để khai giai cấp công nhân lãnh đạo đông đảo quần chúng nhân
dân xây dựng thành công phương thức sản xuất mới, bảo đảm chủ nghĩa xã hội
tạo ra được năng suất lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản. Mục tiêu này chưa
được thực hiện thì khả năng phục hồi chủ nghĩa tư bản vẫn còn rất lớn. Các thế
lực tư bản quốc tế ra sức ngăn cản giai cấp công nhân đã nắm chính quyền xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội bằng nhiều phương tiện và thủ đoạn từ bao
vây, cấm vận, can thiệp quân sự đến “diễn biến hoà bình”. Để xây dựng chủ
nghĩa xã hội, giai cấp công nhân và nhân dân lao động phải làm thất bại các thủ
đoạn nói trên.
Trong điều kiện đã nắm được chính quyền, giai cấp công nhân phải sử
dụng tổng hợp, linh hoạt các hình thức đấu tranh mới, trong đó có đấu tranh
bằng bạo lực và bằng hoà bình, bằng giáo dục thuyết phục và bằng hành chính,
pháp chế, bằng chính trị, quân sự và bằng kinh tế, bằng cải tạo các quan hệ cũ đã
lỗi thời và xây dựng các quan hệ mới đúng quy luật; bằng liên minh giữa giai
cấp công nhân với các giai cấp, tầng lớp lao động và các tầng lớp trung gian
khác; bằng “sử dụng” giai cấp tư sản để xây dựng chủ nghĩa xã hội,... Cuộc đấu
tranh vì chủ nghĩa xã hội lâu dài, gay go phức tạp như thế nào tuỳ theho điều
kiện lịch sử cụ thể. ở Liên Xô cũ và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cũ, các
lực lượng chống chủ nghĩa xã hội đã lợi dụng tình hình khủng hoảng của chủ
nghĩa xã hội, nhất là lợi dụng những sai lầm nghiêm trọng của các đảng cộng

10
sản cầm quyền để đảo ngược tình thế, lập lại trật tự tư sản. Hai loại sai lầm
nghiêm trọng dễ mắc phải là:
- Chủ quan duy ý chí, coi nhẹ quy luật kinh tế khách quan, trong khi đó lại
tuyệt đối hoá đấu tranh giai cấ, nhất là tuyệt đối hoá một trong những hình thức
của đấu tranh giai cấp;
- Cơ hội hữu khuynh, mơ hồ về đấu tranh giai cấp, mất cảnh giác trước
âm mưu diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội.
Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, xã hội vẫn tồn tại
lâu dài các giai cấp, các mâu thuẫn giai cấp. Đấu tranh giai cấp là thực tế khách
quan không thể tránh danh từ đấu tranh giai cấp, mà là nhận thức cho đúng tính
chất, nội dung, hình thức của cuộc đấu tranh, xử lý đúng đắn các quan hệ xã hội
- giai cấp.
Để thực hiện mục tiêu cách mạng là dâu giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng văn minh, điều cơ bản là phải phát triển mạnh mẽ nền kinh tế nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa; thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Xây
dựng chủ nghĩa xã hội phải đi đôi với bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chính quyền nhân
dân và pháp chế xã hội chủ nghĩa. Toàn bộ sự nghiệp trên đây là lợi ích căn bản
của dân tộc và nhân dân lao động. Tuyệt đại đa số trong cộng đồng dân tộc Việt
Nam bao gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức, các tầng
lớp lao động khác, tầng lớp tư sản dân tộc, các nhân sĩ yêu nước,... tán thành
mục tiêu nói trên. Tuy nhiên một bộ phận nhỏ trong xã họi vì quyền lợi ích kỷ,
vì hận thù giai cấp, đã và đang liên kết với các thế lực phản động quốc tế chống
lại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Vì vậy, đấu tranh giai cấp trong thời
kỳ quá độ ở nước ta trước hết là cuộc đấu tranh dưới nhiều hình thức giữa một
bên là quần chúng nhân dân lao động, các lực lượng xã hội đi theo con đường
dẫn đến mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng van minh, đoàn kết
trong mặt trận thống nhất dân tộc do Đảng lãnh đạo, với một bên là các thế lực,

11
các tổ chức, các phần tử chống độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chống Đảng,
Nhà nước và pháp luật, phá hoại trật tự xã hội va an ninh quốc gia.
Các thế lực phản động trong nước và quốc tế chống độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội chủ yếu thông qua “diễn biến hoà bình” nhằm thủ tiêu sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản, làm tan rã về hệ tư tưởng tiến tới lật độ chính quyền
nhân dân bằng hình thức này hay hình thức khác.
Cuộc “đấu tranh giữa hai con đường”, con đường xã hội chủ nghĩa và con
đường tư bản chủ nghĩa cũng là biểu hiện của đấu tranh giai cấp trong thời kỳ
quá độ ở nước ta. Đây là cuộc đấu tranh giữa các nhân tố thúc đẩy đất nước phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa với các nhân tố thúc đẩy đất nước dịch
chuyển theo định hướng tư bản chủ nghĩa. Các nhân tố tự phát tư bản chủ nghĩa
này được những thế lực chống độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội lợi dụng phục
vụ mục tiêu của chúng. Cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng phát triển trên
đây diễn ra hàng ngày hàng giờ trên tất cả các lĩnh vực, trước hết là lĩnh vực
kinh tế, lĩnh vực tư tưởng và lĩnh vực trật tự xã hội.
Trong cơ cấu giai cấp - xã hội ở nước ta hiện nay, ngoài công nhân, nông
dân, trí thức và các tầng lớp tư sản, tầng lớop này có điều kiện phát triển trong
nền kinh tế thị trường. Đương nhiên có mâu thuẫn về lợi ích giữa những người
lao động làm thuê với tầng lớp tư sản và có mâu thuẫn giữa sự phát triển theo
con đường xã hội chủ nghĩa với khuynh hướng tự phát của thành phần kinh tế tư
bản tư nhân. Đây là nhân dân lao động với tầng lớp tư sản. Mâu thuẫn giữa giai
cấp công nhân, nhân dân lao động với tầng lớp tư sản, tuy mang tính chất mâu
thuẫn giữa lao động vdà bóc lột lao động, song trong điều kiện thời kỳ quá độ
nước ta lại là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân. Kinh tế nhiều thành phần và
tầng lớp tư sản có vai trò tích cực trong sự nghiệp phát triển kinh tế, có khả năng
tham gia tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong
xã hội ta hiện nay, lợi ích hợp pháp của các nhà tư sản căn bản thống nhất với
lợi ích chung của cộng đồng. Đây là mặt thống nhất giữa giai cấp công nhân,
nhân dân lao động với tầng lớp tư sản. Quan hệ giữa giai cấp công nhân, nhân

12
dân lao động với tầng lớp tư sản là quan hệ vừa hợp tác vừa đấu tranh; đấu tranh
với những khuynh hướng tiêu cực của tầng lớp tư sản cũng để thực hiện hợp tác,
đoàn kết xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng văn minh.
Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa phải
nắm vững quan điểm giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là quan điểm cách
mạng và khoa học. Sự tuyệt đối hoá đấu tranh giai cấp, sự cường điệu đấu tranh
giai cấp cũng như sự mơ hồ về đấu tranh giai cấp đều trái với quan điểm giai cấp
Mác - Lênin, đều gây tổn hại cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Chương 3. ĐẤU TRANH GIAI CẤP TRONG THỜI KỲ QUÁ


ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Khái quát về quá trình đấu tranh giai cấp trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Nhân dân Việt Nam đã trải qua một quá trình đấu tranh cách mạng lâu
dài, khó khăn, đầy gian khổ hy sinh để chống lại ách đô hộ và sự xâm lược của
thực dân, đế quốc để bảo vệ nền độc lập dân tộc và chủ quyền thiêng liêng của
đất nước, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân với tinh thần “Không có gì quý hơn
độc lập tự do”. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ
bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản
tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú của
mình kết hợp với lý luận cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ
Chí Minh đã đưa ra kết luận sâu sắc rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể
đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho
các dân tộc.
Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng định: chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý
tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu
cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Năm 1930,
trong Cương lĩnh chính trị của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ
13
trương: “Tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân
lãnh đạo, tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa”.
Vào những năm cuối thế kỷ XX, mặc dù trên thế giới chủ nghĩa xã hội
hiện thực đã bị đổ vỡ một mảng lớn, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa không
còn, phong trào xã hội chủ nghĩa lâm vào giai đoạn khủng hoảng, thoái trào, gặp
rất nhiều khó khăn, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định: “Đảng và
nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ
nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và
nghiên cứu lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước nhận thức ngày càng
đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội; từng bước khắc phục một số quan niệm đơn giản trước đây như:
đồng nhất mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ của giai đoạn
trước mắt; nhấn mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế độ phân phối bình quân,
không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ,
không thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế; đồng nhất kinh tế thị
trường với chủ nghĩa tư bản; đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư
sản,...
Cho đến nay, mặc dù vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên
cứu, nhưng chúng ta đã hình thành nhận thức tổng quát: Xã hội xã hội chủ nghĩa
mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát
triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù
hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong
cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát
triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các
nước trên thế giới.

14
Để thực hiện được mục tiêu đó, chúng ta phải: Đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; Phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội; Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc
gia, trật tự an toàn xã hội; Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa
phương hoá, đa dạng hoá, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế; Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý
chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; Xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện.

3.2. Nhận thức của Đảng và Nhà nước về đấu tranh giai cấp
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
Đảng ta nhận thức rằng, hiện nay Việt Nam đang trong quá trình xây
dựng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ quá độ, các nhân tố xã hội chủ
nghĩa được hình thành, xác lập và phát triển đan xen, cạnh tranh với các nhân tố
phi xã hội chủ nghĩa, gồm cả các nhân tố tư bản chủ nghĩa trên một số lĩnh vực.
Sự đan xen, cạnh tranh này càng phức tạp và quyết liệt trong điều kiện cơ chế thị
trường và mở cửa, hội nhập quốc tế.
Bên cạnh các mặt thành tựu, tích cực, sẽ luôn có những mặt tiêu cực,
thách thức cần được xem xét một cách tỉnh táo và xử lý một cách kịp thời, hiệu
quả. Đó là cuộc đấu tranh rất gay go, gian khổ, đòi hỏi phải có tầm nhìn mới,
bản lĩnh mới và sức sáng tạo mới. Đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa là
một quá trình không ngừng củng cố, tăng cường, phát huy các nhân tố xã hội
chủ nghĩa để các nhân tố đó ngày càng chi phối, áp đảo và chiến thắng. Thành
công hay thất bại là phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh
chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Hiện nay, chúng ta đang tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng,
cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng chú trọng hơn chất lượng và tăng tính bền
15
vững với các khâu đột phá là: Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là
thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển
nguồn nhân lực, trước hết là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng kết cấu
hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội (Văn kiện Đại hội XIII, tập 2,
trang 337 - 338).
Về xã hội, chúng ta tiếp tục đẩy mạnh công tác giảm nghèo bền vững,
nâng cao chất lượng y tế, giáo dục và các dịch vụ công ích khác, nâng cao hơn
nữa đời sống văn hoá cho nhân dân. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đang ra
sức học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với quyết
tâm ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý
các cấp, thực hiện tốt hơn nữa các nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng, nhằm làm
cho tổ chức đảng và bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, giữ
vững bản chất cách mạng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng.
Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến
tạo một kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Đây là
cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự
giác, liên tục, hướng đích lâu dài, không thể nóng vội. Vì vậy, bên cạnh việc xác
định chủ trương, đường lối đúng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, phải phát
huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân dân.
Nhân dân tiếp nhận, ủng hộ và nhiệt tình tham gia thực hiện đường lối của Đảng
vì thấy đường lối đó đáp ứng đúng yêu cầu, nguyện vọng của mình. Sức mạnh
nhân dân là cội nguồn sâu xa của thắng lợi, của phát triển.
Mặt khác, Đảng lãnh đạo và cầm quyền, trong khi xác định phương
hướng chính trị và đề ra quyết sách, không thể chỉ xuất phát từ thực tiễn của đất
nước và dân tộc mình, mà còn phải nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm từ thực
tiễn của thế giới và thời đại. Trong thế giới toàn cầu hoá như hiện nay, sự phát
triển của mỗi quốc gia - dân tộc không thể biệt lập, đứng bên ngoài những tác

16
động của thế giới và thời đại, của thời cuộc và cục diện của nó. Chính vì vậy,
chúng ta phải chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển, đa phương hoá, đa dạng
hoá các quan hệ quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi.
Và điều hết sức quan trọng là phải luôn luôn kiên định và vững vàng trên
nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin - học thuyết khoa học và
cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Tính khoa học và
cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những
giá trị bền vững, đã và đang được những người cách mạng theo đuổi và thực
hiện. Nó sẽ còn tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực tiễn cách mạng
cũng như trong thực tiễn phát triển của khoa học. Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung
một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới
nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn
tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại,
không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống.

3.3. Nhận thức đúng về đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
Ở Việt Nam, đấu tranh trong giai đoạn quá độ là tất yếu. Bởi lẽ, ở nước ta
hiện nay còn có những lực lượng đi ngược lại lợi ích của dân tộc, của nhân dân,
của cách mạng, của Đảng. Chúng ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội trong đó có cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, cái cách mạng, tiến bộ và
cái bảo thủ, trì trệ,…nên đấu tranh giai cấp là tất yếu.
Đại hội IX của Đảng đã xác định rõ thực chất “mối quan hệ giữa các giai
cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân,
đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự
lãnh đạo của Đảng”; Nội dung chủ yếu cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện
nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển, thực hiện công
17
bằng xã hội, chống áp bức, bất công, đấu tranh ngăn chặn, khắc phục những tư
tưởng và hành động tiêu cực, sai trái, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và
hành động chống phá các thế lực thù địch; bảo vệ nền độc lập dân tộc, xây dựng
nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.
Những nội dung của cuộc đấu tranh giai cấp trên đây là rất lớn lao và
phức tạp. Để thực hiện được nhiệm vụ đó, chúng ta phải sử dụng nhiều hình
thức đấu tranh khác nhau, vừa mềm dẻo, vừa kiên quyết, bao gồm cả đấu tranh
trực diện bằng bạo lực, trấn áp đối với thế lực thù địch trong nước và trên thế
giới luôn tìm cách ngăn cản, phá hoại cuộc cách mạng của nhân dân ta, đấu
tranh bằng giáo dục, tuyên truyền, vận động, cả hành chính và đấu tranh chống
khuynh hướng bảo thủ, tiêu cực của tầng lớp tư sản nói riêng.
Đấu tranh ở đây không có nghĩa là phá hoại sự ổn định xã hội mà chính là
thông qua đấu tranh để ngăn chặn, loại trừ những phần tử bảo thủ, thoái hóa,
biến chất và chống đối nhằm củng cố, tăng cường và phát huy vai trò của sự
đoàn kết thống nhất trong Đảng và trong nhân dân.
Tại Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 01/2011) trong Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát
triển năm 2011), chúng ta một lần nữa khẳng định: "Đi lên chủ nghĩa xã hội là
khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt
Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử". Tuy
nhiên, chủ nghĩa xã hội là gì và đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào? Đó là
điều mà chúng ta luôn luôn trăn trở, suy nghĩ, tìm tòi, lựa chọn để từng bước
hoàn thiện đường lối, quan điểm và tổ chức thực hiện, làm sao để vừa theo đúng
quy luật chung, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Hiện nay, cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta vẫn đang tiếp tục diễn ra một
cách khá gay gắt và phức tạp. Sự nghiệp xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
đang đứng trước nhiều thách thức, khó khăn mới. Các thế lực thù địch chưa từ
bỏ ý đồ phá hoại, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chúng đang ra sức
đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hoà bình”, kết hợp gây bạo loạn lật đổ, với

18
những âm mưu, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Đặc biệt, chúng đang ra
sức lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền và những yếu kém,
sự suy thoái, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên để phá hoại khối đại
đoàn kết dân tộc; xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta;
chia rẽ các tầng lớp nhân dân nhằm tạo ra mâu thuẫn, xung đột trong xã hội để
làm suy yếu và lật đổ chế độ ta. Vì vậy, hơn bao giờ hết, chúng ta cần tăng
cường khối đại đoàn kết dân tộc đồng thời tiếp tục nghiên cứu để thấy rõ đặc
điểm, nội dung, hình thức của cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta trên tất cả các
lĩnh vực trong điều kiện mới.
Đều kiện mới của đấu tranh giai cấp hiện nay đó là lợi ích cơ bản, lâu dài
của các giai cấp trong cộng đồng Việt Nam thống nhất với lợi ích dân tộc; cuộc
đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai con đường vẫn còn nhưng gắn liền với sự
nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc, chống nghèo nàn lạc hậu, khắc phục tình trạng
nước nghèo, chậm phát triển. Đấu tranh trong điều kiện phát triển kinh tế nhiều
thành phần, mở cửa, hội nhập kinh tế thế giới, trong cơ cấu giai cấp - xã hội của
nước ta hiện nay, ngoài giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức và các
tầng lớp nhân dân lao động khác, còn có tầng lớp tư sản. Với kết cấu giai cấp đó,
tất yếu nảy sinh mâu thuẫn giữa lợi ích của những người lao động làm thuê với
tầng lớp tư sản và mâu thuẫn giữa sự phát triển tự giác theo con đường xã hội
chủ nghĩa với khuynh hướng tự phát đi lên chủ nghĩa tư bản. Đây là mặt mâu
thuẫn trong quan hệ giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao động với tầng lớp
tư sản. Mâu thuẫn đó biểu hiện rất rõ trong các doanh nghiệp tư bản, nhất là các
doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, chúng ta có Nhà nước
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong điều kiện như vậy,
mâu thuẫn giữa công nhân và tầng lớp tư sản là mâu thuẫn trong nội bộ nhân
dân.
Ở nước ta, tầng lớp tư sản không có công cụ để thực hiện sự thống trị về
chính trị và kinh tế của nó. Giai cấp công nhân, dù làm việc trong các doanh
nghiệp tư nhân, vẫn được Nhà nước ta bảo vệ quyền lợi. Mặt khác, kinh tế tư
bản tư nhân là bộ phận không thể thiếu trong nền kinh tế nhiều thành phần. Tầng
19
lớp tư sản có vai trò nhất định trong sự nghiệp phát triển kinh tế, có khả năng
tham gia tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Lợi ích
hợp pháp của các nhà tư sản thống nhất với lợi ích chung của cả cộng đồng dân
tộc. Đây là mặt thống nhất giữa giai cấp công nhân và tầng lớp tư sản. Như vậy,
quan hệ giữa giai cấp công nhân, nhân dân lao động với tầng lớp tư sản là quan
hệ vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Hợp tác cùng xây dựng đất nước giàu mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh; đấu tranh chống khuynh hướng bảo thủ, tiêu
cực của tầng lớp tư sản.

KẾT LUẬN
Những sự phân tích trên đây cho thấy, ở nước ta hiện nay và trong suốt
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, sự tồn tại của các giai cấp và đấu tranh giai
cấp vẫn là một tất yếu. Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta cần nhận thức rõ tính
chất gay go, phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp. Chúng ta cần nghiên cứu thấu
đáo, cẩn thận, nghiêm túc những tác phẩm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin
và quan điểm của Đảng ta, kết hợp với nghiên cứu thực tiễn một cách cụ thể,
tránh rơi vào hai thái cực sai lầm: Hoặc là quá cường điệu đấu tranh giai cấp,
dẫn đến mất phương hướng trong huy động nguồn lực phát triển đất nước; Hoặc
là xem thường, xóa nhòa đấu tranh giai cấp đi đến mơ hồ, mất cảnh giác, mắc
vào âm mưu diễn biến hòa bình của các lực lượng phản động trên thế giới đang
luôn tìm cách lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa hiện nay./.

20
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. “Giáo trình triết học” Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

[2]. “Triết học Mác – Lênin, toàn tập” Nxb Giáo dục.

[3]. V.I.Lênin, Năm 1979, “Toàn tập, tập 7”, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

[4]. C.Mác, Ph.Ăngghen, Năm 1995, “Toàn tập, tập 20”, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
[5]. C.Mác, Ph.Ăngghen, Năm 1995, “Toàn tập, tập 4”, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
[6]. V.I.Lênin, Năm 1979, “Toàn tập, tập 39”, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr.298.

[7]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Năm 2001, “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[8]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Năm 2011, “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[9]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Năm 2021, “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

21

You might also like